Ngày 30-01-2010
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Đời Sống Tâm Linh #24: Giữa Lòng Hận Thù và Tha Thứ
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
09:01 30/01/2010
Đời Sống Tâm Linh # 24

GIỮA LÒNG HẬN THÙ VÀ THA THỨ

* Chuyện kể: Trong thế chiến thứ hai, Corrie Ten Boom và em gái của bà là Betsie đã bị lính Đức bắt vì tội che dấu những người Do thái. Hai người đã bị đưa đến trại tập trung của Đức quốc xã. Với sự hành hạ dã man, Betsie em bà đã chết thật đau khổ và tàn nhẫn!

Còn bà Corrie sống sót trở về, đến năm 1947 bà chia sẻ đức tin của mình trong nhà thờ ở Munich, bà nói về ơn tha tội lớn lao của Thiên Chúa cho bà và sự mình tha thứ cho người khác. Ngay sau đó, một trong số những người đã nghe bà chia sẻ tìm đến gặp bà, bà kinh hoàng nhận ra đó là một trong những tên lính Đức dã man đã hành hạ bà và người em gái Betsie. Anh ta vội chạy lại thưa với bà: Tôi đã trở thành Kitô hữu, đã nhận biết tội lỗi của mình. Anh ta liền quì xuống dang rộng hai tay xin bà tha thứ cho. Lúc đó bà Corrie phải chiến đấu mãnh liệt với những cảm xúc “giữa lòng hận thù và tha thứ”, giữa những căm phẫn trong lòng và những lời dạy của Lời Chúa, của Kinh Thánh: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5, 44)

Có lẽ trong đời, chưa bao giờ bà phải đối diện với một tình huống khó xử đến thế! Nhưng Corrie nhớ lại Lời Chúa, bà biết mình phải tha thứ, bà lặng lẽ cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin giúp con, không có tình yêu Chúa, con không thể làm nổi sự tha thứ này.” Rồi bà dơ tay đỡ kẻ thù đứng dậy.!

* Một phút suy tư: Tha thứ lỗi lầm cho cho người khác không chỉ là một sự kêu gọi; nhưng còn là một mệnh ! Mệnh lệnh này lại được ràng buộc như một điều kiện, nếu bạn muốn được sự tha thứ của Chúa. Bạn có kẻ thù nào lớn hơn kẻ thù của cô Betsie chăng?

Hãy cầu nguyện bằng tất cả tấm lòng vâng phục, vì khi cầu nguyện được là dấu chắc chắn bạn có lòng tha thứ. Hơn nữa, khi bạn nhịn nhục được là bạn đã có lòng tha thứ đi theo, vì những người hạnh hạ, làm khổ bạn cũng là con cái một Cha trên trời. Do đó, chỉ có tình yêu Chúa thật trong TÂM, mới giúp ta thực hiện điều này.

* Lời Chúa quả quyết: Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa; nhưng hãy chúc phúc. Vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi là để thừa hưởng lời chúc phúc. (I Pr 3, 9)

Phó tế: GB. Maria Nguyễn văn Định
 
Kiên cường để sống
Hoàng Thị Thuỳ Trang, ICM
09:46 30/01/2010
Đời là thế, câu nói trên đầu môi chót lưỡi của nhân loại. Mà cũng đúng thật, hình như không có chuyện gì là không thể xảy ra ở đời. Vui buồn hay đau khổ, thiện ác hay sung sướng, hạnh phúc cũng ở đời. Thật sự thì Thiên Chúa không làm nên sự dữ, Ngài tạo dựng mọi chuyện đều tốt đẹp. Nhưng cũng chính vì con người, con người đã lạm dụng tự do Thiên Chúa ban, sống ích kỉ cho những tham vọng cá nhân, do vậy mà bất hạnh không ngừng diễn ra trong cuộc sống. Cũng chỉ vì con người, hệ tại nhãn quan, lối sống và những dục vọng tồn tại nơi họ, mà ngày ngày có không biết bao nhiêu khổ đau tràn ngập thế giới.

Thật ra, nhân loại cũng không biết họ đang tìm gì, cần gì, Người cho họ sự sống thật thì họ lại từ khước, kẻ đưa họ đến diệt vong thì họ lại tin theo. Làm thế nào, làm thế nào để thế giới có thể tin nhận vào Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài để mà sống thực?

Đã đành đức tin tiên vàn là ân huệ nhưng không Thiên Chúa ban cho con người, nhưng nó còn phụ thuộc vào sự đáp trả đích thực của họ nữa. Ơn cứu độ của Thiên Chúa là phổ quát, không dành riêng cho bất kỳ một ai, thế nhưng tin nhận lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào từng cá vị. Ai nghe và đón nhận Ngài người ấy lãnh nhận sự sống sung mãn không bao giờ mất.

Thế nhưng, cuộc đời thật khó lường, không phải ai cũng có thể tin vào Thiên Chúa, không phải ai cũng có thể đón nhận được Lời Ngài. Đón nhận đã là một lẽ, nhưng có sống theo Lời được đón nhận hay không mới thật quan trọng. Làm thế nào để có thể sống trung thành với những gì Thiên Chúa đòi hỏi?

Thiên Chúa luôn luôn tốt lành, không việc gì Ngài làm mà không vì vinh danh Thiên Chúa và mang ơn cứu độ đến cho con người. Thế nhưng tại sao Ngài vẫn không được chấp nhận, Ngài vẫn bị chê chối, bị ganh ghét và bị tẩy trừ, loại bỏ? Phải chăng Thiên Chúa của chúng ta không tốt? Hay tại vì lòng người quá tàn nhẫn bất công đã huỷ diệt Ngài.

Cũng chỉ vì ích kỉ, cũng chỉ vì tham vọng mà bất hạnh tràn ngập thế giới. Cũng chỉ vì ganh ghét, bất công, hiểu lầm, chống đối mà nhân loại khước từ Thiên Chúa. Con mắt đức tin trần thế bị mây mù của tham vọng che phủ nên không nhìn thấy ánh sáng sự sống Thiên Chúa ban tặng. Họ chối từ cũng chỉ vì không tin nhận quyền năng Ngài, cũng chỉ vì tranh chấp danh vọng, địa vị mà con người từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa.

Đức Giêsu hôm nay bị loại bỏ, từ chối danh phận, chỉ vì họ không tin nhận Ngài. Từ khước Ngài, họ còn muốn huỷ bỏ danh phận của Ngài. Không những chỉ danh phận nhưng mà còn cả đến tính mạng, không còn muốn sự hiện diện thật của Ngài trên đời. Cuộc sống là như vậy đó, khi yêu nhau, người ta dám thí cả tính mạng cho nhau, nhưng khi ganh ghét nhau, người ta không ngần ngại huỷ diệt nhau, bất chấp đúng sai, thật giả. Con người thật đáng sợ là ở chỗ đó, tiếng nói danh vọng cao hơn tiếng nói lương tâm là vậy!

Người ta hơn thua nhau cũng chỉ vì danh vọng, không muốn người khác được coi trọng hơn mình, họ bất chấp đến luân thường đạo lý để giành lấy cơ hội về mình. Thế nên, cũng chỉ vì ganh ghét, muốn loại bỏ người mà họ xem là có nguy cơ phá đổ chiếc ghế danh vọng, địa vị, họ đã loại trừ Thiên Chúa, đã loại trừ Đức Giêsu ra khỏi cuộc đời.

Không tôn trọng nhau, không khám phá ra giá trị của tha nhân, người ta dễ khinh miệt nhau, dễ chê chối, loại trừ nhau. Coi trọng mình hơn kẻ khác, người ta bất chấp tất cả, chỉ muốn giành giựt mọi thứ về cho mình. Cũng chỉ vì ích kỉ, cũng chỉ vì muốn chiếm giữ vị trí ưu việt, muốn mình hơn tha nhân mà ngày ngày nhân loại không ngừng chém giết nhau, đau khổ không biết đến khi nào mới chấm dứt? Ngày nào thế giớ mới bình yên thực sự?

Có phải thế giới ngập tràn bóng tối? Thật không phải như vậy, trong tận cùng vực thẳm tuyệt vọng vẫn còn le lói hy vọng, niềm hy vọng vào ánh sáng, một Ánh sáng sự thiện không bao giờ mất. Ánh sáng đó chính là ơn cứu độ Thiên Chúa mang đến cho con người.

Lạy Chúa, chứng kiến nhân loại đẩy xô Ngài xuống vực thẳm vì oán thù, ganh ghét, con mới hiểu lòng người thật đáng sợ chừng nào. Khả năng yêu thương của con người có thể khiến sự sống phát sinh nhưng lòng ích kỉ tham lam của họ cũng có thể vì nó mà bị nghiền nát. Nếu con người thật đáng sợ như vậy mà Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, trân trọng thì tại sao con không thể vì thế mà cố gắng sống tốt? Dù con có thế nào, dù nhân loại có đối xử thế nào với con thì vẫn còn có Thiên Chúa yêu thương. Ngài luôn gìn giữ, bảo vệ và tha thứ cho con. Nếu đã vậy, cần gì phải khóc, tại sao con lại không thể kiên cường để mà sống?!
 
Học và Sống Năm Thánh Kinh: Bài 15 - Phương Pháp Giải Thích Thánh Kinh Theo Linh Đạo
Phaolô Phạm Xuân Khôi
10:28 30/01/2010
Học Thánh Kinh không phải chỉ để biết về Thánh Kinh như những học giả, hay để khoe khoang. Mục đích của việc học Thánh Kinh là để hiểu biết Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài. Trong bài 5 khi bàn về Lời Chúa trong Đời Sống Kitô hữu, chúng ta đã nói qua về lectio divina. Lection divina là phương pháp đọc Thánh Kinh nhằm mục đich hiệp thông với Thiên Chúa và gia tăng sự hiểu biết về Lời Chúa. Đó là một cách cầu nguyện bằng Thánh Kinh mà trong đó một người phải học, suy đi nghĩ lại, lắng nghe và cầu nguyện bằng Lời Thiên Chúa. Phương pháp này đã được dùng ngay từ đầu thế kỷ thứ 3. Đến thế kỷ thứ 6, nó đã trở thành thông dụng nhờ Thánh Bênêđictô. Mục đích của lectio divina là giúp chúng ta tìm thấy và đối thoại với Thiên Chúa trong Thánh Kinh, và nhờ đó chúng ta cũng tìm thấy Thiên Chúa trong thiên nhiên và tha nhân.

Đại Cương về Phương Pháp Linh Đạo

Khi đi vào phạm vi linh đạo của Thánh Kinh, người ta đi qua nghĩa văn tự của bản văn Thánh Kinh mà đến nghĩa thiêng liêng. Theo tài liệu Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh năm 1994, nghĩa văn tự của Thánh Kinh không phải là nghĩa đen như lối hiểu biết của phái Cơ Bản, nhưng là nghĩa được diễn tả cách trực tiếp bởi các thánh sử, một nghĩa được hiểu theo phương pháp phân tích lịch sử và văn chương của bản văn. Nghĩa thiêng liêng được hiểu là “nghĩa được diễn tả bởi bản văn Thánh Kinh khi đọc dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, trong khung cảnh của Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô và đời sống mới phát sinh từ Mầu Nhiệm ấy” (GTTKTHT II, B.2)

Như thế, có một phạm vi linh đạo trong của các bản văn Thánh Kinh, và người ta có thể tìm thấy ý nghĩa thiêng liêng khi đi vào phạm vi này. Trong khi một người đi vào phạm vi lịch sử qua việc học hỏi và điều nghiên lịch sử, thì người khác có thể đi vào phạm vi linh đạo của Thánh Kinh qua Niềm Tin vào Đức Kitô và mở lòng ra đón nhận ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Phải, nếu có những phương pháp để nghiên cứu Thánh Kinh theo lịch sử, thì cũng có phương pháp đọc Thánh Kinh giúp cho người đọc đi vào ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh. Đương nhiên là phương pháp đưa một người vào vòng ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần và đi sâu vào những cảm nghiệm của đời sống mới trong Đức Kitô phải rất khác các phương pháp đọc Thánh Kinh khác. Phương pháp đọc Thánh Kinh theo linh đạo này được truyền thống Công Giáo gọi là lectio divina.

Từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã không ngừng nhắc nhở chúng ta về việc cầu nguyện bằng Thánh Kinh qua phương pháp lectio divina. Ngày 16 tháng 9, 2005, ĐTC đã nói rằng: “Nếu việc thực hành lectio divina được phổ biến cách hiệu quả, cha xác tín rằng nó sẽ đem đến cho Hội Thánh một Mùa Xuân thiêng liêng”.

Trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa được tổ chức tại Rôma vào thang mười năm 2008, các Nghị Phụ đã nhiều lần nhắc đến tầm quan trọng của việc cầu nguyện theo phương pháp lectio divina. Và các ngài tóm tắt trong sứ điệp gửi toàn thể dân Chúa khi kết thúc Thượng Hội Đồng như sau:

“Cột trụ thứ ba của ngôi nhà thiêng liêng của Hội Thánh, ngôi nhà của Lời Chúa, được tạo thành bởi cầu nguyện, được dệt “bằng Thánh Vịnh và thánh thi và bằng thánh ca được linh hứng” như Thánh Phaolô nhắc nhở (Col 3:16). Điều tự nhiên là chỗ đứng ưu tiên của Phụng Vụ Giờ Kinh (Kinh Nhật Tụng), lời cầu nguyện ưu tú của Hội Thánh nhằm mục đích đem lại nhịp điệu cho những ngày và mùa của năm Kitô giáo, cung cấp thức ăn tinh thần cho các tín hữu, nhất là nhờ việc hát Thánh Vịnh. Bên cạnh lời cầu nguyện này và việc cộng đoàn cử hành Lời Chúa, truyền thống đã đưa ra việc thực hành lectio divina (Đọc Lời Chúa), là một cách vừa đọc Thánh Kinh vừa cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần, một cách có thể mở ra cho các tín hữu kho tàng của Lời Chúa, và cũng tạo ra một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, Lời sống động của Thiên Chúa.” (số 9)

Phương pháp cầu nguyện bằng Thánh Kinh theo lectio divina có 4 giai đoạn:

1. Lectio (Đọc) -- Chậm rãi đọc bản văn với sự chú ý và tâm hồn cùng đầu óc cởi mở. Việc đọc này sẽ gợi lên câu hỏi giúp chúng ta hiểu biết đúng về nội dung thật sự của đoạn văn: Đoạn văn Thánh Kinh này tự nó muốn nói gì?

2. Meditatio (Suy Niệm) -- Suy niện về đoạn Thánh Kinh vừa đọc; tập trung tư tưởng vào đoạn Thánh Kinh ấy; đi vào đoạn Thánh Kinh bằng trí tưởng tượng, tự đặt mình vào biến cố hay sứ điệp trong Thánh Kinh. Rồi sau đó tự hỏi mình những câu hỏi như: Đoạn văn Thánh Kinh này muốn nói gì với tôi?

3. Oratio (Cầu Nguyện) -- Đáp lại lời bạn vừa đọc như là một thông điệp Thiên Chúa gửi đến; hướng tâm hồn về Đấng đang nói với bạn qua đoạn Thánh Kinh; nhập cuộc đối thoại thiêng liêng với Thiên Chúa là Tác Giả đoạn Thánh Kinh này. Lúc này chúng ta có thể tự hỏi mình một câu hỏi khác: Tôi phải thưa gì với Chúa để đáp lại Lời Ngài?

4. Contemplatio (Chiêm Nghiệm) -- Im lặng. Hiện diện. Kính mến. Kết hợp. (Đây là mục đích của việc đọc Thánh Kinh theo phương pháp thiêng liêng, một mục đích mà chúng ta có thể cố gắng đạt đến, vì chúng ta có thể chuẩn bị, nhưng điều tối hậu chúng ta chỉ có thể nhận được là một món quà ân sủng. Trong chiêm niệm chúng ta đón nhận, như hồng ân của Thiên Chúa, một cái nhìn trong việc xét lại thực trạng của mình và tự hỏi: Chúa muốn tôi phải hoán cải trí khôn, tâm hồn và đời sống cách nào?

Tác giả về linh đạo, Á Thánh Columba Marmion, tóm tắt bốn giai đoạn của lectio divina như sau:

Chúng ta đọc (lectio)

Dưới đôi mắt của Thiên Chúa (meditatio)

Cho đến khi Ngài chạm đến tâm hồn chúng ta (oratio)

Và nó bùng cháy lên (contemplatio)


[Trích dẫn từ Thelma Hall trong Too Deep for Words: Rediscovering Lectio Divina, (Paulist, 1988) tr. 44 ]

Sự cần thiết của phương pháp đọc Thánh Kinh theo Linh Đạo

Trong giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo, chỉ học Thánh Kinh qua sách vở hay trường học mà thôi thì không thể hiểu được ý nghĩa của Thánh Kinh, mà phải cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện xin ơn Chúa thì mới hiểu được các câu trong Thánh Kinh. Chúng ta không thể hiểu các bản văn Thánh Kinh này một cách hoàn toàn trong phạm vi lịch sử và văn chương được, vì các bản văn ấy cũng thuộc về phạm vi tinh thần. Cách sách này tuy lúc nào cũng thuộc về thế giới của chúng ta, nhưng phải được đọc như do trời ban xuống, siêu vượt dương gian, như là một sự truyền thông và tự tỏ mình ra của Thiên Chúa. Trong diễn từ trước Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh năm 1974 Đức Thánh Cha Phaolô VI ghi chú sự giới hạn của việc nghiên cứu Thánh Kinh theo kinh viện và sự cần thiết của việc mở tâm trí ra đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa: “Cần phải có một sự mở lòng thật sự tuyệt đối với Mầu Nhiệm của Thiên Chúa Tình Yêu, nếu không nhà chú giải sẽ mãi mãi bị mù mờ trong tối tăm bất kể trình độ thức giả của người ấy.”

Điều đáng ghi chú là năm 1943, Đức Thánh Cha Piô XII đã dùng lời khuyên của Thánh Augustinô để kết luận Tông Thư Divino Afflante Spiritu, một Tông Thư khuyến khích việc dùng phương pháp lịch sử và văn chương để nghiên cứu Thánh Kinh, rằng: “Vậy, các nhà chú giải các Lời Sấm của Thiên Chúa hãy chăm chỉ thi hành công việc thánh này với tất cả tâm hồn của họ. ‘Là họ hãy cầu nguyện để họ có thể hiểu.’"

Sự cần thiết của việc đọc Thánh Kinh theo linh đạo được bén rễ sâu trong sự hiểu biết của Hội Thánh về Thánh Kinh như là phương tiện truyền thông của Thiên Chúa: “Bởi vì trong các sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái Ngài và ngỏ lời với họ. Đó là sức mạnh và quyền năng của Lời Chúa có thể nâng đỡ và tăng cường sinh lực cho Hội Thánh, cùng ban sức mạnh Đức Tin cho con cái Hội Thánh, là lương thực cho linh hồn, mạch sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho họ” (Dei Verbum, số 22)

Giới hạn của phương pháp đọc Thánh Kinh theo Linh Đạo

Giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo về việc giải thích Thánh Kinh thường cảnh giac chúng ta về việc lạm dụng phương pháp giải thích Thánh Kinh theo Linh Đạo mà đi đến các giải thích chủ quan hoặc ước đoán, với đặc tính là đi quá xa chủ đích của tác giả trong mọi chi tiết của các câu Thánh Kinh. Tài liệu Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh cảnh cáo tất cả những giải thích xa lạ với chủ ý đầu tiên của các thánh sử. Người ta có thể tìm thấy ý nghĩa đầy đủ và thâm sâu hơn của các câu Kinh Thánh trong lịch sử cứu độ khi các câu này được thể hiên qua việc Chúa Giêsu xuống thế, nhưng những giải thích theo linh đạo không được tự tách rời khỏi nguồn gốc của nó mà ở đó Lời nguyên thủy của Thiên Chúa được truyền thông trong lịch sử.

Đọc Thánh Kinh theo linh đạo cũng phải tránh các giải thích theo cá nhân. Người ta phải đọc và suy niệm về Thánh Kinh trong Đức Tin của Hội Thánh. Các giải thích theo linh đạo của các Giáo Phụ và các tác giả linh đạo sau này, luôn luôn có giá trị và sáng suốt, mặc dù đôi khi các ngài dùng phép dụ ngôn quá nhiều vì các ngài giải thích Thánh Kinh theo phép loại suy Đức Tin, theo sứ điệp của toàn bộ Thánh Kinh được đọc theo truyền thống quy hướng về Đức Kitô của Hội Thánh.

Kết Luận

Có thể nói được rằng trong tất cả các phương pháp giải thích Thánh Kinh mà chúng ta đã bàn đến, phương pháp giải thích Thánh Kinh theo Linh Đạo, đặc biệt là việc thực hành lectio divina là phương pháp hiệu nghiệm nhất trong việc giúp chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Thực hành phương pháp này cũng không đòi hỏi sự hiểu biết khoa học hay trí thức về Thánh Kinh cho nên dễ dàng áp dụng cho mọi người. Điều kiện cần thiết khi áp dụng phương pháp này là phải ngoan ngoãn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và khiêm nhường nhìn nhận thực trạng của mình trước mặt Thiên Chúa.

Tuy nhiên như đã nói ở trên, chúng ta nên lầm lẫn Phương Pháp Linh Đạo với những giải thích chủ quan về Thánh Kinh phát xuất từ trí tưởng tượng hay phỏng đoán theo lý luận của loài người. Nghĩa thiêng liêng phải dựa trên những sự kiện có thật trong Thánh Kinh, và nội dung của toàn thể Thánh Kinh. Nghĩa thiêng liêng phải quy chiếu về Đức Kitô, phải được đặt căn bản trên các mầu nhiệm cứu độ, đặc biệt là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, cùng giáo huấn của Huấn Quyền. Tài liệu Giải Thích Thánh Kinh theo Hội Thánh kết luận rằng: “Những cách giải thích Thánh Kinh theo Linh Đạo, dù trong cộng đồng hay cá nhân, sẽ chỉ khám phá ra ý nghĩa thiêng liêng thật sự khi được giữ trong những phạm vi này.”

Phaolô Phạm Xuân Khôi
 
Tình Yêu và Trách Nhiệm - Bài 11: Việc Ngừa Thai Phá Hủy Tình Yêu Thế Nào?
Phaolô Phạm Xuân Khôi
10:51 30/01/2010
Tiếp theo bài “Người Nam, Người Nữ và Việc Âu Yếm”

Trong sách Tình Yêu và Trách Nhiệm, Cha Karol Wojtyla – sau này là ĐTC Gioan Phaolô II - giải thích rằng tại sao việc dùng thuốc ngừa thai không những chỉ là điều vô luân mà còn có thể hủy hoại tình yêu giữa hai vợ chồng trong hôn nhân. Ở đây chúng ta sẽ đề cập đến bốn điểm chính được trích ra từ suy tư của ngài về đề tài này.

Chấp Nhận Trách Nhiệm Làm Cha Mẹ

Trước hết, ĐTC nhấn mạnh rằng muốn biến những quan hệ tính dục thành sự kết hợp chân chính giữa hai vợ chồng, chúng phải được đi kèm bằng việc sẵn lòng chấp nhận có thể làm cha mẹ trong tâm trí và ý chí. Chỉ sự kết hợp về tính dục mà thôi chưa tự động đem lại sự kết hợp thật về tình yêu. Một cặp vợ chồng có thể có sự mật thiết về thể lý mà không có sự mật thiết sâu xa cá nhân dựa trên tình yêu, lòng tin tưởng và quyết tâm hoàn toàn hy sinh cho nhau. Một trong những yếu tố chính cần thiết để biến việc kết hợp thể xác giữa hai vợ chồng thành một phương tiện xây dựng một sự kết hợp sâu xa cá nhân của tình yêu là lòng sẵn sàng chấp nhận việc có thể xảy ra qua những hành vi tính dục là “tôi có thể trở thành một người cha” hay “tôi có thể trở thành một người mẹ” (t. 228).

Bằng cách này, chúng ta có thể thấy rằng việc sẵn sàng đón nhận sự sống thực sự gia tăng tình yêu giữa hai vợ chồng, và còn có thể tượng trưng cho những mức độ vị tha cao quý nhất trong hôn nhân. Khi hai vợ chồng cùng nhau chấp nhận việc có thể trở thành cha mẹ, họ không còn chỉ đứng đối diện say mê nhìn nhau và nhìn sự tốt đẹp của liên hệ giữa họ, nhưng họ còn đứng ngang hàng với nhau và cùng nhau nhìn ra ngoài, về phía đời sống mới có thể phát sinh từ tình yêu của họ. Và họ đứng cạnh nhau, không những chỉ dấn thân cho những gì tốt cho nhau, mà còn cùng nhau làm việc để phục vụ đời sống mới trong tương lai. Ở đây chúng ta thấy rằng “sự quan hệ giữa hai vợ chồng không giới hạn nơi họ, nhưng cần phải kéo dài đến con người mới mà sự kết hợp của họ có thể tạo ra” (t. 227).

Chối Từ Việc Làm Cha Mẹ cũng là Chối Từ Người Phối Ngẫu của Mình

Thứ đến ĐTC cho chúng ta thấy rằng ngừa thai trong tính dục không những chỉ là chối từ khả năng trở thành cha mẹ, mà còn một cách nào đó là khước từ người bạn trăm năm của mình. Nó làm cho việc kết hợp thể xác trong giao hợp vợ chồng khó được thăng hoa thành một sự kết hợp tình yêu cá nhân (t. 228). Chung quy là bất cứ quan hệ tính dục nào chối từ việc có thể trở thành cha mẹ đều dựa trên những giá trị về phái tính của người kia – những bình diện của người ấy làm cho tôi sung sướng về thể lý hay tình cảm – mà không dựa trên giá trị thật của con người ấy.

Đó là tổn thương lớn nhất mà tính dục ngừa thai gây ra cho hôn nhân. Theo ĐTC thì khi hai vợ chồng cố tình chối từ việc có thể trở thành cha mẹ qua những phương tiện ngừa thai nhân tạo, thì đặc tính căn bản của liên hệ phái tính của họ thay đổi một cách bi thảm. Thay vì là một sự kết hợp trong tình yêu mà trong đó hai người sẵn sàng mở rộng tình yêu của họ bằng việc cùng nhau trở thành cha mẹ, tính dục ngừa thai chuyển hướng những quan hệ vợ chồng về phía trở thành một quan hệ thuần xác thịt giữa hai người, không nhằm một mục đích nào khác hơn là dùng quan hệ này như phương tiện để hưởng lạc thú (t. 228). Thay vì được coi là người hợp tác trong việc tạo dựng qua tình yêu, người phối ngẫu bây giờ chỉ được coi là người hợp tác trong một cảm nghiệm vui thú mà thôi.

Chẳng hạn khi một người đàn ông từ chối việc có thể cùng với vợ trở thành cha mẹ trong một hành vi hôn nhân, thì trọng tâm của kinh nghiệm của ông trong việc giao hoan trở thành đặt trọng tâm vào thú vui xác thịt. Khi người phụ nữ càng ngày càng thuần túy trở thành phương tiện cho thú vui xác dục thay vì là một người hợp tác trong việc trở thành cha mẹ tương lại thì giá trị của một người phụ nữ như một con người và cơ hội để mối liên hệ vợ chồng thêm sâu đậm phải rút lui vào hậu trường. Điều đó chẳng khác người chồng bảo vợ, “Tôi chỉ muốn thú vui giác quan từ những việc này, nhưng tôi không muốn có thể thành cha mẹ với cô."

Khi một người nam và người nữ cùng ăn nằm với một quyết định ngăn ngừa việc có thể trở thành cha hay mẹ, ý định của họ như thế đã không còn nhắm đến con người, mà chỉ nhắm đến thú vui: "con người là người đồng sáng tạo tình yêu" biến mất và và chỉ còn lại “người chung phần trong kinh nghiệm xác thịt.” Không có gì ngược lại việc làm của tình yêu bằng điều này (t 234).

Đó là lý do tại sao sẵn sàng đón nhận sự sống trong những hành động phái tính là “một điều kiện không thể thiếu được của tình yêu" (t 236). Như ĐTC Gioan Phaolô II giải thích, “Khi ý nghĩ là ‘tôi có thể trở thành một người cha’, hay ‘tôi có thể trở thành một người mẹ’ hoàn toàn bị loại ra ngoài trí khôn và ý chí của hai vợ chồng, thì có thể nói cách khách quan rằng liên hệ vợ chồng chẳng còn gì ngoài thú vui xác thịt. Một người trở thành một vật dụng cho người khác dùng” (t 239).

Tiết Dục Định Kỳ

Thứ ba, trong khi cặp vợ chồng không bao giờ được phép loại trừ việc có thể trở thành cha mẹ trong việc làm tình, ĐTC Gioan Phaolô II dạy rằng họ không cần phải “muốn có con trong mọi dịp mà họ có liên hệ vợ chồng” (t. 233). Liên hệ tính dục cần thiết cho sự tốt lành của việc đào sâu liên hệ vợ chồng, chứ không phải chỉ việc sinh con.

Vì thế, như một mục tử khôn ngoan, ĐTC giải thích rằng làm sao mà một cặp vợ chồng phải sẵn sàng đón nhận việc có thể có con trong những liên hệ vợ chồng, nhưng rằng họ không cần phải ăn nằm với ý định đặc biệt là có con mỗi lần. Ngài nói chỉ cần một cặp vợ chồng bảo nhau rằng “trong việc thực thi hành động này chúng ta biết rằng chúng ta có thể trở thành cha mẹ và chúng ta sẵn sàng chấp nhận nếu điều đó xảy ra” (t. 234).

Hơn nữa, các cặp vợ chồng có thể phải đương đầu với một số hoàn cảnh mà trong đó họ muốn tránh có thai. Ở những trường hợp này, họ có thể chọn tiết dục, nhất là trong những thời kỳ mà người phụ nữ có thể có thai. ĐTC gọi thời kỳ này là "tiết dục định kỳ." (Ngày nay, nhiều người Công Giáo thực hành tiết dục định kỳ bằng cách dùng phương pháp Kế Họach Gia Đình Tự Nhiên). Bằng cách tránh hành vi tính dục trong những thời kỳ người phụ nữ có thể thụ thai, một cặp vợ chồng có thể tránh được việc có thai mà không bóp méo ý nghĩa căn bản của liên hệ vợ chồng. Như ĐTC giải thích, "một người nam hay nữ được thúc đẩy bởi một quan tâm thật sự đối với điều tốt đẹp cho gia đình họ và một ý thức trách nhiệm trưởng thành đối với việc sinh sản, nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái, có thể giới hạn việc ăn nằm, và kiêng cữ việc ấy trong những thời kỳ mà có thể đưa đến việc thụ thai ngoài ý muốn trong những hoàn cảnh đặc biệt của đời sống hôn nhân và gia đình của họ" (t. 243).

Vẫn Sẵn Sàng Đón Nhận Sự Sống

Cuối cùng, trong khi những cặp vợ chồng Kitô hữu có thể chọn lựa việc tiết dục định kỳ, ĐTC giải thich rằng điều này “chỉ được phép với một số điều kiện” (t. 240).

Thứ nhất, ngài nói rằng điểm quan trọng nhất mà chúng ta phải quan tâm có liên hệ đến thái độ của cặp vợ chồng đối với việc sinh sản con cái. Tiết dục định kỳ có thể giúp điều hòa việc thụ thai, nhưng không được dùng nó để tránh có một gia đình. “Cho nên chúng ta không thể nói đến tiết dục như một nhân đức khi mà các vợ chồng chỉ lợi dụng những thời kỳ có thể thụ thai tự nhiên hoàn toàn để tránh việc làm cha mẹ” (t. 242).

Thứ nhì, ĐTC vạch ra rằng ích lợi của gia đình phải được thận trọng cân nhắc trước khi thực thi việc tiết dục định kỳ. Ngài ghi nhận rằng việc cho con cái có anh chị em có thể góp phần quan trọng vào việc giáo dục đứa trẻ, vì anh chị em tạo thành một cộng đồng tự nhiên giúp cho việc hình thành đứa bé. Thực ra, trong một câu nói thú vị, ĐTC Gioan Phaolô II xem ra muốn ám chỉ rằng số con lý tưởng trong một gia đình phải ít nhất là ba.

Điều rất quan trọng là con người này (đứa bé) không thể sống một mình, mà phải được một cộng đồng tự nhiên bao bọc. Người ta đôi khi bảo chúng ta rằng dạy dỗ vài đứa con chung với nhau thì dễ hơn là chỉ dạy một đứa con, và hai đứa bé không phải là một cộng đoàn mà chỉ là hai đứa bé. Định hướng việc giáo dục con cái là vai trò của cha mẹ, nhưng dưới sự hướng dẫn của cha mẹ, các em phải tự giáo dục mình, vì các em phát triển trong khung cảnh của một cộng đồng trẻ em, một tập thể anh chị em. (t. 242–243).

ĐTC chắc chắn không nói rằng những cha mẹ chỉ có một hoặc hai đứa con không thể nuôi nấng dạy dỗ con cái cách hoàn chỉnh được. Nhưng ngài dường như đề ra rằng có ít ra là ba đứa con tạo thành một môi trường lý tưởng hơn để nuôi nấng và dạy dỗ con cái trong một gia đình. Tại sao ngài lại nói như thế?

Thoáng nhìn, con số có vẻ độc đoán, và ngài không giải thích nhiều về điểm này. Tuy nhiên, theo những gì ngài đã nói ở những nơi khác về tình yêu, ngài có thể một phần nào dựa trên đề tài về “mối dây liên hệ giữa công ích” làm sao để cho tình yêu có nghĩa là liên kết hai người chung quanh một mục đích có ích chung mà họ cùng nhau cố gắng đạt tới [để đưa ra con số này] (x tt. 28–9). Đây rõ ràng là trường hợp trong hôn nhân, ở đó hai vợ chồng được liên kết chung quanh một lợi ích chung là đào sâu sự kết hợp và phục vụ con cái mà họ có thể có. Nhưng nó cũng là trường hợp của chính con cái khi các em có dịp cùng nhau cố gắng hướng về công ích bằng cách phục vụ những anh chị em khác trong gia đình.

Thí dụ, khi vợ tôi và tôi có cháu thứ hai, chúng tôi say mê ngắm nhìn cháu đầu lòng, Mai Liên, lớn lên trong tình yêu đứa em trai nhỏ của cháu là Phúc. Cháu muốn làm cho em cười. Cháu muốn cho em ăn. Cháu muốn phục vụ em. Và khi Phúc lớn hơn, thật là niềm vui cho chúng tôi khi chứng kiến tình yêu của cháu dành cho Mai Liên phát triển và ngắm hai cháu chơi với nhau. Trong khi giống như hầu hết các trẻ em khác, các cháu chắc chắn rằng có nhiều “giây phút không được tốt lắm” trong liên hệ với nhau, tuy vậy, Phúc và Mai Liên lớn lên cách đều đặn trong liên hệ yêu thương cá nhân giữa chị em.

Tuy nhiên, có một điều gì thay đổi quan trọng trong liên hệ của hai cháu khi chúng tôi có cháu thứ ba. Đột nhiên, ngày tháng của Mai Liên và Phúc không còn chỉ là thích thú chơi với nhau. Giờ đây các cháu cùng nhau mê mẩn với em bé mới trong nhà. Như chị và anh, Mai Liên và Phúc bắt đầu không còn chú ý đến mình nữa, nhưng hai cháu cùng nhau chú ý đến em các cháu là Trinh. Các cháu cùng nhau hát cho em. Các cháu cùng nhau cho em ăn. Các cháu cùng nhau làm cho em cười. Mai Liên và Phúc không những học để thành bạn chơi và vui vẻ với nhau mà còn cộng tác trong việc phục vụ đời sống mới ngoài hai cháu – đó là đứa em gái mới của các cháu. Đó có thể là lý do tại sao ĐTC Gioan Phaolô II nói rằng ba đứa con là số con tối thiểu lý tưởng trong một gia đình: Với ít nhất là ba đứacon, hai em có thể cùng làm việc với nhau để phục vụ người khác, và do đó đào sâu hơn những dịp cho các em lớn lên trong tình yêu, tình bằng hữu, và nhân đức như một cộng đoàn.

Tóm lại, ĐTC nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta nghĩ đến việc sử dụng phương pháp tiết dục định kỳ, chúng ta phải đắn đo, không nên chỉ lấy việc bảo đảm tài chánh hay sự thoải mái và cách sống mà chúng ta làm tiêu chuẩn khi muốn điều hòa sinh sản. Chúng ta phải thận trọng cân nhắc những ân phúc mà việc có thêm anh chị em mang đến cho hạnh phúc của chính con cái chúng ta, cho đời sống gia đình chúng ta nói riêng, và ngay cả cho toàn thể xã hội nói chung. ĐTC cảnh cáo những cha mẹ quyết định giới hạn số con trong gia đình, mà không đếm xỉa gì đến những lợi ích rộng rãi hơn ngoài chính mình, rằng quyết định của họ có thể sẽ gây ra những thiệt hại trầm trọng cho gia đình và xã hội.

Chính cha mẹ phải thận trọng khi họ giới hạn việc thụ thai, làm sao để đừng phương hại đến gia đình của mình hoặc xã hội nói chung, là những cơ cấu được ích lợi nhờ việc gia đình có một số con hữu hiệu nhất. Một quyết định có càng ít con càng tốt của người chồng hay ngưởi vợ, để làm cho đời sống của mình được dễ dàng, chắc chắn sẽ làm tổn thương về luân lý đến gia đình nói riêng và xã hội nói chung (t. 243).

Một lần nữa, chắc chắn có thể có những hoàn cảnh khi cách điều hòa sinh sản qua việc tiết dục định kỳ là điều cần thiết và là nhiệm vụ của cha mẹ (t. 243). Nhưng trong khi giới hạn số con, vợ chồng không bao giờ được có ý định chối từ chính nhiệm vụ làm cha mẹ. “Tiết dục định kỳ như một phương pháp điểu hoà sinh sản chỉ được phép bao lâu nó không chống lại một khuynh hướng chân thành về việc sinh sản con cái" (t. 243).

Cho nên, trong việc tiết dục định kỳ, các vợ chồng không được tìm cách “tránh có thai bằng mọi giá” (t. 243). Chúng ta cần phải nhớ hai điều. Một đàng, những cặp vợ chồng chỉ có ăn nằm trong thời gian mà ngưởi phụ nữ không thể thụ thai vẫn có thể hành động với lòng sẵn sàng chấp nhận việc có thể trở thành một người cha hay một người mẹ, ngay cả khi họ không muốn có thai và thực hành việc tiết dục để tránh có thai. Đằng khác, thêm vào việc giữ cho những hành vi phái tính của họ cởi mở đối với sự sống, họ phải có “một đầu óc sẵn sàng chấp nhận” đối với việc trở thành cha mẹ trong phạm vi lớn hơn của hôn nhân của họ nói chung, vì anh chị em có lợi cho trẻ em, cho gia đình, và cho toàn thể xã hội (t. 243).

Phaolô Phạm Xuân Khôi

Viết theo How Contraception Destroys Love by Edward P. Sri, từ số bào Jul/Aug 2006 của Lay Witness Magazine.
 
Mẹ ươm linh mục
LM Anthony Đào quang Chính
13:49 30/01/2010
Không quá lời để nói rằng các bà mẹ đều thương con. Thỉnh thoảng báo chí có đăng tin bà này sinh xong bỏ con ngay bãi rác, khiến kiến cắn cháu bé gần chết; bà khác mê nhẩy đầm với bạn trai mới đến độ để con ở nhà qua đêm lạnh cóng, hàng xóm trông thấy nhẫn tâm không đành, gọi cảnh sát, nhưng những trường hợp đó chỉ là họa hoằn. Tuyệt đại đa số các bà mẹ đều thương con và thương con tuyệt đối.

Mẹ mong con hạnh phúc. Như một hồng ân tự nhiên, các bà mong con hạnh phúc. Nếu chẳng hơn thì ít ra cũng bằng mình. Không cần đi tìm đâu xa. Bà mẹ Việt Nam chúng ta đó. Nhịn ăn, nhịn mặc, tần tảo sớm hôm, miễn sao con khi còn bé mạnh khỏe, học hành tiến bộ là vui lắm rồi. Dưới tiểu học, con lãnh bằng ban khen từ nhà trường gửi về thì trân trọng lắm, dán ngay vào nơi “nhĩ mục quan chiêm,” mọi người cùng chiêm ngưỡng. Nếu chẳng may con bị nóng đầu, sổ mũi, thì lo lắng, tìm cách cho con đi bác sĩ ngay. Con thích ăn món gì, cố gắng tìm ra cho bằng được. Nhìn con ăn ngon còn thấy hơn chính mình ăn. Con muốn uống nước ư? Chỉ cần nói “Mẹ ơi, con khát” là đang lái xe cũng cố gắng tìm chỗ mua nước ngọt, chọn đúng hiệu, đúng sở thích của con. Còn mình ư? Đi đường xa có khát khô cổ, ráng chờ thêm chút nữa, về nhà uống loong nước lấy từ chai lớn, chỉ để tiết kiệm vài mươi xu.

Lên trung học, mong sao con đừng bị bắt nạt và thua chị, kém anh. Người bản xứ sao họ lớn thế. Con mình cùng tuổi mà đứng cạnh bé tí. Không biết con mình có bị “đứa” khác “lấy thịt, đè người không?” Rồi còn tiếng Anh, tiếng u nữa. Mình dù sinh ra ở đây vẫn là ngoại quốc, cách diễn đạt sao bằng dân bản xứ. Con mình có được đối xử công bằng và đồng đều như người khác không? Thầy cô giáo có kỳ thị? Báo chí hằng ngày đăng đầy tin tức kỳ thị đấy. Bị kỳ thị như vậy, học hành cuối năm ra sao? Có ra trường xứng đáng với sự cố gắng hay không? Đấy là chưa kể các cơn cám dỗ từ bạn bè. Cứ nghe hai chữ băng đảng, cần sa, ma túy, chích choác là mẹ cứ thấy nhức cả đầu, và mong ước con ơi, đừng bao giờ, đừng bao giờ vướng vào chúng, con ơi.

Dù con có lớn khôn chừng nào, có khi hơn cả mẹ, thì trong đôi mắt mẹ, con luôn luôn là đứa con nhỏ của mẹ!

Mẹ không chỉ mong con hạnh phúc, mà còn cùng đồng hành với con trên đường đi tìm hạnh phúc. Cho nên không lấy làm lạ khi mẹ ước ao các con, đứa làm bác sĩ, đứa làm luật sư, nghĩa là những nghề nghiệp mà mẹ nghĩ con sẽ vừa được kính trọng, vừa “ăn trên, ngồi trốc,” và hạnh phúc. Trong các “nghề,” mà theo kinh nghiệm đường đời, mẹ thấy chức linh mục có giá trị hơn cả: không phải lo lắng của cải, vật chất, nhận “mọi sự” kính trọng đời này, cứu nhân độ thế. Đã vậy, đời sau lại hưởng phúc lộc cao cả trên thiên đàng. Cho nên không ngạc nhiên gì khi mẹ khuyên nhủ:

- “Đi tu đi, con ơi, ở ngoài đời khổ lắm con ạ. Nào là phải bon chen mới có miếng ăn, nào phải tranh dành mới sống.” Sau đó là một vài thí dụ cụ thể “Đấy con xem, bố sáng sớm đã phải dậy đi làm, tối mịt mới về nhà. May mà có mẹ lo lắng cho, chứ không thì giống như bác A, bác B, bác C; bác gái mới mất đấy. Cả cha lẫn con trông thật nhếch nhác. Ngoài đời khổ lắm con ơi!” Hoặc:

- “Con xem, bao nhiêu người kính trọng cha xứ. Ai cũng gọi ngài bằng cha. Của ngon vật lạ đem vào biếu cha. Tuy chỉ hy sinh không có gia đình, nhưng bù vào đấy, khối người kính trọng, yêu mến. Đi tu sướng lắm con ơi!

Con cái không dám “thắc mắc” vì thắc mắc đồng nghĩa với cãi, và thế nào cũng thành lớn chuyện: “Nhà rõ vô phúc, không có “máu” đi tu. “Nhà” đây nghĩa là đứa con không chịu đi tu, nhưng mà mẹ lại không tính mẹ vào chung với nhà. Hoặc “lười biếng, không chịu đi tu..” Đứa con “vô phúc”nào mà dám cả gan trêu ngươi “thế bố mẹ không đi tu, vậy thì có vừa lười, vừa vô phúc không?” thì chắc chắn đại chiến thế nào cũng bùng nổ. Từ chuyện đi tu sẽ chuyển sang chuyện lười biếng không đi làm; nếu đi làm thì sẽ bị coi là dốt nát vì lâu không lên lương như người khác; nếu vừa lên lương thì sẽ bị hạch hỏi là tiêu pha như phá, không biết hiếu thảo là gì. Còn nếu con không nói gì mà đánh bài “dĩ đào vi thượng sách” thì ít nhất thế nào cũng có màn thở vắn, than dài, làm mọi người trong “nhà” mất vui. Không dám hỏi, nhưng con cứ thắc mắc, tại sao bác A, bác B, bác C không có vợ thì trông nhếch nhác, còn cha không có vợ, thì không nhếch nhác và mọi người kính trọng!

Để yên lòng, mẹ muốn con đi tu ngay. Đi ngay thì hài lòng; không đi thì buồn phiền, cho rằng đó là lỗi của riêng mẹ hoặc tại nhà mình không có phúc. Đấy là chưa kể mẹ muốn con đi tu ngay vì:

- “Con ạ! Thôi đi tu đi con ơi. Khờ khạo như mày ở nhà chỉ tổ cho vợ con nó bắt nạt.” Và lại điệp khúc “Ở ngoài đời khổ lắm con ơi”

Con phân vân: “Không biết các cha đi tu, có vì sợ bà vợ và mấy đứa con tương lai bắt nạt không nhỉ?” Lại thắc mắc! Cứ thắc mắc mà chẳng bao giờ dám nói. Đấy là chưa kể đến câu “Thế bố có bị mẹ bắt nạt không?” thì chắc chắn chỉ dám tự hỏi, rồi cười thầm.

Mẹ và có khi cả bố, mong muốn như vậy, cho nên ngày xưa nghe kể rằng, có người trốn nhà đi tu, bây giờ thì có người trốn nhà để khỏi đi tu, hoặc đi tu rồi không dám về, sợ bị mẹ hay bố đánh; đành đi tỵ nạn họ hàng, chờ bao giờ “tình hình chiến sự” yên ổn mới dám quay về. Đấy, chuyện tỵ nạn “chiến tranh” đã xẩy ra từ lâu chứ có phải mới đâu.

Đã thế, nhiều gia đình tưởng con tu xuất là cả một bầu trời tương lai cho con và cho gia đình xụp đổ. Mang tiếng tu xuất, ăn hại cơm nhà Đức Chúa Giời. Lậy Chúa tôi! Mai mốt có lấy vợ, lấy chồng cũng khó khăn. Ai mà chịu lấy mấy người tu xuất? Gàn dở lại ương ương. Hỡi ơi, câu truyện ông bà cố của thánh nữ Catarina đều thuộc hội “ta ru,” nghĩa là tu ra, sinh hạ 24 người con, trong đó có nữ thánh tiến sĩ, thì hình như không mấy ai nhắc nhở và ca tụng. Có lẽ sợ theo gương chăng? Nhưng không tu thì vẫn còn bao nhiêu cơ hội phục vụ Chúa và tha nhân cơ mà.

Theo thời gian, xem ra những lời khuyên như “Đi tu sướng lắm con ơi!” và “Ở ngoài đời khổ lắm con ơi” không còn hiệu nghiệm. Bên Mỹ cũng như Việt Nam bây giờ đều thấy.. khác. Mẹ cũng thấy khác, cho nên lại đi vào một cực đoan: “Thôi, nó muốn làm gì thì làm.” Vào thời điểm mà “tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái lọng che thân, là cán cân công lý” và cũng vào lúc một vài nghiên cứu cho biết, sống độc thân rất dễ bị bệnh mất thăng bằng thần kinh!!! thì từ đó, mẹ đâm ra sợ, không nhắc nhở đến truyện tu trì nữa. Cho nên, chẳng ai lấy làm lạ khi các cuộc thăm dò cho biết, chỉ có khoảng 14% tân linh mục tại Hoa kỳ nói, các ngài đi tu nhờ gia đình khuyến khích. Chẳng bù cho 60 năm về trước, con số lên đến 52%. Thực ra, không có gì sai lầm với cuộc thăm dò. Đây là chuyện trà dư tửu hậu và loại “xưa rồi, Diễm ơi,” mà ai cũng đã biết; nhưng vào thời điểm này, đôi khi trở nên nóng bỏng. Thăm dò thì đúng, nhưng áp dụng cho đối tượng thì sai. Cuộc nghiên cứu dựa trên các ông bà độc thân, mà đa số đều là độc thân tại chỗ, bất đắc dĩ; còn mấy người đi tu là vì lý tưởng, thì làm sao giống nhau? Chẳng khác gì đem râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vấn đề nên lưu ý là nếu đi tu mà chỉ còn 14% do gia đình khuyến khích, thì còn nên nói gia đình là vườn ươm trồng ơn gọi nữa chăng? Hay gia đình vô tình trở thành đất có nhiều gai mà cây lúa không mọc lên trong dụ ngôn người gieo giống?

Đọc lại Thánh-Kinh, câu truyện Đức Mẹ và thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu trong hội đường, nhiều khi được nhắc nhở như câu truyện đẹp cha mẹ dành cho con, nhưng nhiều người quên rằng để có câu truyện ấy, Đức Mẹ và thánh Giuse trong vai trò cha mẹ phải chuẩn bị thế nào. Chuyện gì xẩy ra nếu hai vị trở lại thành Giêrusalem và không tìm ra trẻ Giêsu nữa? Hoặc may mắn hơn nếu thấy Chúa Giêsu đang bắn chim hoặc đang bắn bi với các bé khác? Chuyện này có thể xẩy ra lắm chứ? Ai cấm một em nhỏ 12 tuổi tham gia các trò chơi lành mạnh với bạn bè đồng lứa tuổi? Cũng dễ hiểu và chấp nhận được, nếu Phúc âm thuật lại Đức Mẹ tìm thấy trẻ Giêsu đang vừa đi vừa khóc ngoài chợ, vì thất lạc cha mẹ, vì đói khát, vì lo lắng. Dù 12 tuổi, bé Giêsu vẫn là trẻ nhỏ giữa chốn thị thành đông đúc của thủ đô một nước. Nhưng các ngài đã thấy Chúa trong đền thờ đang thảo luận với các thầy luật sĩ. Điều này nghĩa là gì? Khi giải thích đoạn văn trên, các nhà thần học gia thường chú trọng đến sự thông thái của Chúa, đến việc Chúa tranh luận, có lẽ dậy dỗ, các vị lãnh đạo dân Do thái thời đó. Nhưng trên khía cạnh giáo dục gia đình, có thể khẳng định cách chắn chắn rằng trẻ con hay lai vãng những nơi nào các em quen thuộc và thoải mái nhất. Do dó, không ai ngạc nhiên khi ngày nay, đi vào siêu thị, các em thích nhất là gian hàng đồ chơi; vào tiệm ăn, chọn món ăn thích nhất. Vậy, việc Chúa ở lại trong đền thờ chính là vì Ngài thấy quen thuộc với không khí đền thờ. Nhờ đâu Ngài quen thuộc với không khí đền thờ? Câu trả lời thật dễ dàng và rõ ràng và dễ dàng: Vì cha mẹ Ngài, thánh Giuse và thánh Maria thường xuyên đến đền thờ và đưa Ngài đến đền thờ. Mẹ Maria đã ươm trẻ Giêsu quen thuộc với khung cảnh đền thờ địa phương ngay từ thuở thơ ấu. Mẹ đã giáo dục con tuân theo luật khi cùng con lên đền thờ cả tại Gierusalem. Chính đời sống đạo đức của Mẹ làm tươi tốt và dưỡng nuôi tâm tư con. Mẹ cũng biết vậy, nên khi trở lại thủ đô, Mẹ và thánh Giuse đến thẳng đền thờ. Mẹ biết sẽ gặp con mình ở đó. Chúa Giêsu cũng không đi đâu xa. Ngài biết cha mẹ sẽ đi tìm và sẽ gặp mình tại đền thờ.

Bây giờ, các bậc cha mẹ muốn ươm và trồng cây cách nào đây? Trước hết, nên ôn lại chuyện cũ. Thuở xưa, có lẽ mẹ và gia đình, bên cạnh vai trò ươm và trồng, đã quá vội vã bắt cây phải mọc lên ngay chăng? Khoa tâm lý học cho biết, mọi người đều ẩn dấu giấc mộng trường sinh. Tần Thủy Hoàng sai các đạo sĩ đi tìm thuốc trường sinh. Cụ Nguyễn Du mong muốn mình sống mãi với thế hệ mai sau qua các tác phẩm, nên đã thốt lên: “Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Ba trăm năm nữa, còn có ai khóc mình chăng? Đạo Hiếu của người Việt Nam chúng ta cũng mong muốn con cháu sẽ tiếp tục nhớ mà cầu nguyện cho ông bà, cho mình, chứ không phải chết là hết. Muốn sống mãi mãi với Chúa trên thiên đàng cũng là giấc mộng trường sinh. Giấc mộng trường sinh thực tế nhất kéo dài qua con cái, cháu chắt. Nói cho dễ hiểu, ai nấy đều muốn thấy “gien” của mình tồn tại.

Vậy, bây giờ nếu con cái có người làm bác sĩ, kỹ sư -là những ngành nghề “ngồi mát ăn bát vàng,” “có kẻ hầu người hạ”- thì điều này chứng tỏ con mình có gien tốt. Gien tốt bởi đâu là ra? Bởi bố, bởi mẹ mà ra. Con giỏi thì mẹ thơm lây. Ngày xưa mình không làm ông nọ bà kia, là vì không có cơ hội, chứ thực ra gien mình là loại thông minh, quý tộc, cao cấp. Khổ nỗi, khi cha và mẹ mong con như vậy, thực ra là ước mơ cho mình và mong thỏa mãn tự ái, chứ chưa chắc đã làm cho con hạnh phúc. Nhiều ông bà bác sĩ, luật sư, kỹ sư mặt mũi lúc nào cũng như bị táo bón, trầm cảm, vì “nạn nhân” có thấy thư giãn và an vui với nghề đã chọn đâu? Có điều đổi nghề cũng khó, không lẽ đang làm bác sĩ trở thành người bán hàng rong “dưới trời quên lãng”, cho tự do hơn? Rồi còn gia đình, còn con cái. Biết tính sao khi đổi nghề?

Vì thế, cách hay nhất và tốt nhất là giúp con tìm ra hướng đi, vừa hợp khả năng, vừa thấy bình an, hạnh phúc. Nhưng cách nào đây? Hay nhất là dựa vào các bảng thăm dò thống kê về đi tu. Khi hỏi tại sao làm linh mục, chỉ có 12% muốn tìm bình an trong tâm hồn và đời sống; 78% trả lời: “phục vụ tha nhân và Chúa.” Câu trả lời này đúng không chỉ với nam mà còn nữ tu nữa. Thật tuyệt vời. Phục vụ là mấu chốt, như lời Chúa nói: “Con người đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ.”

Hình như Chúa đã tiềm ẩn trong lòng nhiều người tâm tình phục vụ. Trong cuộc thăm dò nơi các em học sinh lớp 4 tại Hoa kỳ, tức là lớp tuổi còn nhỏ, nhưng sắp bước lên trung học, và bắt đầu biết suy tư; thì rất ngạc nhiên khi nghe câu hỏi tương lai lớn lên, các em thích làm nghề gì? 67% làm lính cứu hỏa và nhân viên cứu thương, 21% làm bác sĩ. A! Đó là mấu chốt. Trên màn ảnh vô tu‎yến, các em thấy những tấm gương tốt đẹp của lính cứu hỏa, nhân viên cứu thương và bác sĩ, lo lắng cứu giúp nạn nhân. Rõ ràng, ngay tại quốc gia giầu có nhất thế giới, nơi tiền bạc và hưởng thụ được đề cao như hạnh phúc, các em muốn phục vụ.

Gia đình là vườn ươm cây qua bậc cha mẹ sống đời đạo đức. Việt Nam có câu “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo” thật đúng. Bậc cha mẹ sống đời đạo đức, chịu khó đi nhà thờ, sinh hoạt Công giáo tiến hành, đọc kinh cầu nguyện tại gia, là những phương cách khiến vườn ươm trồng ơn gọi dễ nẩy nở và phát triển. Hạt giống truyền giáo, hạt giống ơn gọi, sau khi gieo nơi đất tốt, sẽ dần dần nẩy mầm qua tấm gương phục vụ. Phục vụ mang lại hạnh phúc và bình an cho cả người thi hành cũng như người nhận.

Tang ma, cưới hỏi, an ủi bệnh nhân, thăm viếng người ốm trong nhà thương là những tấm gương rõ nét và dễ dàng nhất, giúp các em nhận ra tầm quan trọng của phục vụ. Bậc làm cha mẹ qua những biến cố đó gieo hạt trong tâm hồn các em. Thay vì câu hỏi hướng về lợi nhuận là những câu hướng về phục vụ: “Con thấy cha xức dầu cho cụ A, B, C, đó; con có muốn mai mốt giống cha không?” hoặc “Cha đến thăm ông, bà đấy, con có thấy ông, bà vui hơn không? Mai mốt con mà làm cha, đến thăm ông, bà, thì ông, bà còn vui hơn nữa.” Có rất nhiều dịp phục vụ và đương nhiên, có rất nhiều dịp mời gọi con cháu mình phục vụ trong thiên chức linh mục.

Cha mẹ đóng vai trò quan trọng qua tiến trình gieo hạt giống và ươm trồng ơn gọi. Chúng ta giải thích, trình bầy, nâng đỡ nhưng không đề cao quá mức thực tế khiến người nghe đâm ra sợ và thấy thiếu thực tế. Hãy để con cháu qu‎yết định, hãy để Chúa cùng tham gia vào tiến trình phát triển hạt giống ơn gọi với chúng ta. Đừng đóng vai trò thay Chúa, bắt ơn gọi phải mọc ngay và mọc nhanh theo ý mình. Gieo hạt, ươm trồng, tạo ra đất tốt là bổn phận của gia đình, còn để hạt lớn lên và trưởng thành là của Chúa.

Như ngày xưa Mẹ Maria đã cưu mang và ươm vị linh mục đời đời là Đức Giêsu trong cung lòng của mình, thì ngày nay, gia đình cũng sẽ là vườn cây tốt mà nơi đó có các bậc phụ huynh, nhất là bà mẹ là người làm vườn.

Mẹ ươm linh mục.
 
Gioan Bosco, Vị Thánh Sống Vui
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
14:06 30/01/2010
“Thánh thiện đâu phải là nhăn nhó, cực khổ, đau thương ! Thánh thiện là vui tươi liên lỉ vì được Chúa, “được đất trên trời là của mình vậy” (ĐHV 532). Lời vàng này đã gợi cho tôi liên tưởng đến một con người, cũng là một vị thánh đã sống một đời “vui tươi liên lỉ” trong Chúa và tha nhân. Đó chính là Gioan Bosco, vị thánh của giới trẻ.

1. Niềm vui sống cho giới trẻ

Cuộc đời của Thánh Gioan Bosco được dệt nên bởi chuỗi ngày tươi vui đồng hành cùng giới trẻ. Được mời gọi tận hiến cho những “hạt mầm tương lai”, Don Bosco đã vui vẻ chấp nhận sứ vụ này với niềm tin và nghị lực phi thường của người tông đồ.

Niềm vui mà Gioan Bosco tìm gặp được trong hành trình phục vụ, chính là được góp phần làm thăng tiến các giá trị nhân bản Kitô giáo nơi những người trẻ. Ý thức được những hoàn cảnh khắc nghiệt mà giới trẻ đương thời phải đối diện, Ngài đã vận dụng hết khả năng tâm lực vào việc hoàn thiện nhân phẩm và hướng các đối tượng này tới sự trưởng thành không ngừng về nhân cách. Niềm vui lớn nhất nơi thánh nhân, chính là được chứng nghiệm những hoa trái đẹp đẽ trổ sinh nơi những tâm hồn trẻ, do chính bàn tay mình góp phần vui xới.

Chúng ta nhận thấy một nỗ lực kiên cường của người “Cha và là thầy của giới trẻ” nơi hoạt động tông đồ của ngài. Mặc cho những khó khăn từ các nhóm chống đối giáo sĩ, Gioan Bosco đã biến Nguyện xá “Oratoire” thành nơi đón tiếp, nuôi nấng, cảm hoá những đứa trẻ nghèo khổ, bất hảo… nên những còn người tốt, có ý thức trách nhiệm. Năm 1868, nguyện xá này đã quy tụ 800 em, là cộng đồng lớn nhất tại Ý dành cho giới trẻ lúc bấy giờ.

Niềm vui nơi Don Bosco chính là được tỏ bày ân sủng Thiên Chúa ban qua đời sống tận hiến trọn vẹn cho giới trẻ. Đây là động lực thôi thúc ngài dấn thân không ngừng trên nẻo đường tông đồ, ở đó có những người trẻ đang chờ đợi sự cưu mang của “thánh Vinh Sơn mới”. Lời ngài xác quyết của ngài cho thấy một sự trải nghiệm bền bỉ và chất chứa tình yêu mến nồng nhiệt đối với giới trẻ: “Tôi đã hứa với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng vẫn dành cho giới trẻ nghèo khổ”; “Tất cả cuộc đời cha dành cho các con !”…

2. Niềm vui sống cho Thiên Chúa

Được phục vụ những người trẻ là niềm vui lớn trong cuộc đời Gioan Bosco. Không chỉ dừng lại như một hoạt động xã hội đơn thuần, chiều kích sâu xa trong công tác tông đồ của Gioan Bosco, chính là niềm vui sống cho Thiên Chúa. Chính ngài đã bộc bạch lý do được thúc đẩy khi vận dụng phương pháp giáo dục giới trẻ: “Giáo dục là việc của con tim; chỉ vì Thiên Chúa là Thầy duy nhất, chúng ta sẽ không bao giờ thành công, nếu như Người không ban cho chúng ta chìa khoá”

Như vậy, việc thực thi thánh ý Thiên Chúa, và luôn sẵn sàng để Ngài hành động là niềm vui thánh thiện của người môn đệ Đức Kitô. Thánh Gioan Bosco đã quy chiếu tất cả mọi hoạt động của ngài để làm cho Thiên Chúa được vui nhờ hành vi đáp trả của mình. Điều mãn nguyện đối với Don Bosco là đem về cho Chúa thật nhiều linh hồn từ những mảnh đời được quy hồi phẩm giá. Châm ngôn của ngài nói lên niềm vui của người mục tử sẵn sàng tước bỏ những gì không cần thiết để có thể cứu vớt được những linh hồn: “Hãy ban cho con các linh hồn, và hãy lấy đi tất cả những gì còn lại” (St 14, 21)

3. Niềm vui của chúng ta

Chúng ta vui mừng cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Gioan Bosco, vị thánh của giới trẻ. Chúng ta cũng cảm tạ Chúa vì được chia sẻ niềm vui đích thực của Thánh Gioan Bosco. Sẽ thật ý nghĩa nếu chúng ta biết dùng niềm vui ấy như men nồng cho lý tưởng sống đời chứng nhân.

Thử nhìn lại, chúng ta đã có được niềm vui thực sự trước những lo toan bộn bề thường ngày chưa ? Niềm vui của chúng ta là gì ? Phải chăng là nụ cười khi công thành danh toại ? Phải chăng là niềm vui của kẻ “chiến thắng” trên đau thương, đổ vỡ, mất mát của người khác ? Phải chăng là sự thoả thích khi đoạt được một sự hiếu kỳ, thú tính ?....

Gương sống vui của Thánh Gioan Bosco gợi mở cho chúng ta một ý hướng cao đẹp cho đời mình. Ý hướng ấy như điểm khởi phát cho hành trình chấp nhận hy sinh gian khó, và luôn biết cởi mở đón nhận niềm vui sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Nó không dựa trên những thành tựa bên ngoài, hay một sự náo động, phô trương; mà là dấn thân cho “công trình của Thiên Chúa” được hoàn thành trong thinh lặng, như lời Thánh Gioan Bosco đã chỉ lối: “Sự thiện hảo không ồn ào, và sự ồn ào không làm nên việc thiện”.

Niềm vui thánh thiện chỉ có thể đến với ta bằng sự nỗ lực cho nền giáo dục nhân bản Kitô giáo. Nó được bắt đầu từ con tim thanh thoát, cởi mở, biết cảm thông, và sẵn sàng chia sẻ mọi chướng ngại, đòi hỏi của quá trình này.

Niềm vui thực sự được thăng hoa từ trong đau khổ, tận hiến vì tình yêu đồng loại. Chính Thánh Gioan Bosco đã từng sống kinh nghiệm này:

“Giới trẻ đã được yêu mến đầy đủ chưa ? Anh biết tôi yêu mến chúng như thế nào ? Anh cũng biết, vì chúng, tôi đã đau khổ và chịu đựng trong suốt 40 năm qua, và tất cả những gì tôi đau khổ và chịu đựng vẫn còn tới nay” (Trích từ một lá thư Gioan Bosco viết năm 1884).
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:50 30/01/2010
CHÁO GÀ

N2T


Một hí viện trong thành phố nọ, vũ công mới biểu diễn một nửa thì đột nhiên màn hạ xuống, giám đốc đi lên sân khấu nói với khán giả:

- “Kính thưa quý ông quý bà, tôi rất lấy làm đau lòng mà thông báo với quý vị rằng: nam diễn viên chính vừa mới bị đột quỵ vì bệnh tim trong phòng hóa trang, do đó mà tiết mục vừa rồi không thể không gián đoạn.”

Vừa nghe tin như thế thì có người phụ nữ ngồi hàng ghế trước lập tức đứng lên, vội vàng nói:

- “Mau, mau cho anh ta ăn cháo gà.”

- “Bà này” giám đốc nói: “Bệnh tim vừa phát thì không thể thu hồi, nam diễn viên chính đã chết rồi.”

- “Do đó mà lập tức đút canh gà cho anh ta.”

Giám đốc hình như tuyệt vọng nói:

- “Thưa bà, đem cháo gà cho người chết ăn, có ích gì chứ ?”

- “Lẽ nào có chỗ không đúng sao ?”


(Lắng nghe của loài ếch)

Suy tư:

Cháo gà với người chết thì giống như tôn giáo với người ngớ ngẩn không tự giác, đem cháo gà cho người chết ăn thì giống như đem ngọc quý cho heo vậy, không ích gì mà lại còn làm trò cười cho thiên hạ, nhất là lãng phí tô cháo gà cách vô ích.

Người không tin vào tôn giáo đã không biết tự giác đã đành, nhưng có những người Ki-tô hữu lại ngớ ngẩn không tự giác khi thực hành niềm tin của mình vào Chúa Giê-su, họ ngớ ngẩn cho rằng vào đạo là để được hội Caritas giúp đỡ, họ tưởng rằng vào đạo là để được Chúa cho có nhiều tiền danh vọng, họ ngớ ngẩn cho rằng vào đạo là để được gạo ăn.v.v...mà không biết rằng vào đạo chính là gia nhập vào hàng ngũ được tuyển chọn và nên thánh, do đó mà họ phải sống như Lời Chúa đã dạy trong Phúc Âm qua Giáo Hội và các mục tử của mình.

Cháo gà đối với người bệnh rất tốt, nhưng đối với người chết rồi thì vô ích; cũng vậy, tôn giáo đối với những người thành tâm thiện chí tìm hiểu thì rất có ích, nhưng sẽ vô ích với những người ngớ ngẩn coi tôn giáo như là một bàn đạp để tiến thân, an phận.

---------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:51 30/01/2010
N2T


15. Mỗi lần cần cho tha nhân thì mỗi lần tay họ đầy tràn.

(Thánh Terese of Lisieux)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:53 30/01/2010
N2T


356. Tất cả sự vật đều tùy tâm mà muốn, nhưng phải dùng hết khả năng của anh.

 
Nhạc: Lời Chúa
Lê Hà
19:00 30/01/2010
Mời nghe bài nhạc ở cuối bài