Ngày 30-01-2024
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:21 30/01/2024

20. Bạn phải dùng lương thực thiên thần như mưa tưới gội bạn, đền bù đủ những gì bạn thiếu sót.

(Thánh Teresa of Lisieux)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:25 30/01/2024
66. NGỰA BÉO LỢN BỆNH

Có năm nọ vào thời nhà Minh, cứ ba năm thì có một năm tổ chức thi cử, các ứng sinh của các châu phủ huyện tấp nập đổ về tỉnh thành, quan chấm thi thì do triều đình phái đến, người thi đỗ thì được làm cử nhân.

Có một hoạn quan đầy quyền thế nói với các thí sinh:

- “Hôm nay thi thì khỏi viết luận văn, chỉ cần viết một câu đối, đáp đúng thì nhất định được chọn.”

Nói xong thì xuất một câu đối:

- “Tử Lộ ngồi ngựa béo”. (1)

Các thí sinh nghe xong thì cười thầm, có một thí sinh cố ý đùa giỡn nên đối lại:

- “Nghiêu Thuấn cưỡi lợn bệnh.” (2)

Hoạn quan không biết xuất xứ của nó, càng không biết là bị cười nhạo, nên liên tục tán thành câu đối có nắn nót tuyệt diệu ấy !

(Cổ kim tiếu sử)

Suy tư 66:

Hoạn quan là người chỉ có phục vụ vua và hoàng hậu, chứ không thể ra đề thi và chấm bài thi cho các tử sĩ, vì như thế là không hợp cách dù cho hoạn quan có thông minh. Khi hoạn quan làm quan khảo hạch thì có nghĩa là triều đình không có người tài giỏi hoặc là lạm quyền nhà vua để hống hách với các thí sinh...

Câu đối của hoạn quan và câu đối lại của thí sinh thật ăn khớp, nhưng lại không có trong sách thánh hiền vì hoạn quan đã ra đề tầm bậy nên có câu đáp tầm bậy của thí sinh.

Lời của Thiên Chúa thì trước sau như một và rất phù hợp cho mọi hoàn cảnh, nó không như những bài luận văn, những câu đối, những bài viết có tính cách thời sự. Lời của Thiên Chúa không phải là lời của con người nên không thể đem cái kiêu ngạo của con người ra ma suy luận, nhưng đem cái khiêm tốn của mình ra để nhận thấy ý của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình qua Lời Chúa trong thánh kinh.

Có những “hoạn quan” là tiên tri giả xuất hiện, họ nói lời của Thiên Chúa nhưng lại thực hành theo lời của ma quỷ, họ dạy người khác lời của Đấng Hằng Sống nhưng mình lại làm theo điều dạy của satan, những hoạn quan tiên tri giả này thời nào cũng có, nhất là vào thời điểm con người coi sự hưởng thụ là mục đích của họ...

(1) Câu này trong sách “luận ngữ”: Khổng tử muốn các học trò nói về chí hướng, Tử Lộ nói: “Nguyện xe mã, y khinh cầu, dữ bằng hữu cộng, tệ chi nhi vô hám”, nhưng câu này bị tên hoạn quan bỏ mất.

(2) Câu này đồng âm với câu: “Nghiêu Thuấn kỳ bệnh lợn” trong sách “luận ngữ”.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Thôi hững hờ
Lm. Minh Anh
14:41 30/01/2024

THÔI HỮNG HỜ
“Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?”.

Nói về cái chết của Gioan Tẩy Giả, một nhà tu đức viết, “Ai cố giữ sự sống cho mình, bảo vệ nó như ông vua tham tàn hay người đàn bà đầy cừu hận, hoặc người con gái hững hờ, hơi giống trẻ vị thành niên… thì vô tình, sự sống chết héo, trở nên vô dụng!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở lại quê nhà và những người đồng hương vô thừa nhận Ngài. Lời Chúa mời gọi bạn và tôi ‘thôi hững hờ’ trước quà tặng của Chúa!

“Bởi đâu ông ta được như thế? Trước những dấu chỉ cho thấy nguồn gốc và sứ mệnh thực sự của Chúa Giêsu, đồng hương của Ngài sửng sốt và kinh ngạc. Ngài tỏ cho thấy quyền năng siêu việt của Thiên Chúa, giờ đây, thể hiện nơi những gì thuần tuý tự nhiên qua con người biệt danh “Bác thợ, con bà Maria”. Những phép lạ, những lời nói và việc làm mạnh mẽ của Ngài chỉ ra nguồn gốc thần linh của mình; đồng thời, mời gọi họ tin. Đó là một lời mời bỏ lại phía sau phạm trù hững hờ về một Giêsu như chỉ là một hàng xóm tốt bụng mà họ có thể có với Ngài trước đây; để từ đó, đón nhận món quà Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ. Điều này có nghĩa là họ cần thay đổi, hoán cải và ‘thôi hững hờ’.

Ai từ chối yêu thương sẽ đối nghịch với tình yêu. Ghen ghét - cụ thể là căm ghét những điều siêu nhiên. Đó là một thảm kịch đang diễn ra trong nền văn hoá đương đại, nó làm nảy sinh các lực lượng phản Phúc Âm hoá. Về phần mình, chúng ta coi đó là một hy sinh hầu dành cho Thiên Chúa vị trí ưu tiên trong dòng chảy bình thường của cuộc sống mình. Để làm được điều này, bạn cần hy sinh ý thức tự lập, hy sinh tính phù phiếm; bởi lẽ, nó cản trở nỗ lực tôn thờ Thiên Chúa vì chúng mang lại rất ít hoặc không nhận được sự tán thưởng nào từ những người chung quanh. Cần hy sinh sự thoải mái của chủ nghĩa tự nhiên ‘theo chiều ngang’ về mọi thứ. Sự hy sinh này là một công việc yêu thương, ‘thôi hững hờ’, hầu đáp lại lời mời gọi của Chúa để chia sẻ sự sống của Ngài.

Bài đọc Samuel hôm nay cho thấy điều tương tự nơi một vị vua phạm tội, Đavít. Vậy mà Đavít không nỡ vô tình khi Thiên Chúa đánh phạt ông trên dân, “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!”. Ông nài xin Thiên Chúa, “Lạy Chúa, xin tha thứ tội vạ cho con!” - Thánh Vịnh đáp ca; và Thiên Chúa cũng đã ‘thôi hững hờ’, Ngài thương tha thứ!

Anh Chị em,

“Bởi đâu ông ta được như thế?”. Có dấu hiệu nào trong cuộc sống cho thấy Chúa Giêsu đang tìm cách thay đổi tôi, thay đổi các hành vi của tôi để tôi có thể sống đức tin và bác ái nhiều hơn? Tôi còn kháng cự được bao lâu trước khi bị lòng tốt của Ngài chinh phục? Đừng để nó trở thành thảm kịch của chính mình! Chúa Giêsu đến chỉ để mưu cầu hạnh phúc và nâng cao cuộc sống của chúng ta cho đẹp đẽ hơn, sâu sắc hơn về ý nghĩa; phong phú hơn về hoa trái. Điều duy nhất Ngài cần là đức tin tích cực và vô điều kiện của chúng ta. Không có nó chúng ta sẽ làm tê liệt khả năng hành động của Ngài. Buồn biết bao khi chúng ta dễ dàng từ chối một món quà đẹp đẽ và vị tha đến như vậy!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘chết héo’ hoặc trở nên vô dụng khi con hững hờ và hời hợt trước những quà tặng xác hồn của Chúa!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Nhịp sống của Thầy
Lm Phêrô Phan Văn Lợi
14:45 30/01/2024

CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN NĂM B : MC 1,29-39

Khi ấy, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người về tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, và chúng biết Người là ai.

Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm kiếm. Khi gặp Người, các ông thưa : “Mọi người đang tìm Thầy !” Người bảo các ông : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.



NHỊP SỐNG CỦA THẦY

Tiếp nối bài đọc tuần trước (trình bày hai hoạt động của Đức Giê-su là giảng dạy và trừ quỷ tại hội đường), trang Tin Mừng hôm nay trình bày ba hoạt động tại ba nơi khác (chữa bệnh âm thầm trong nhà Si-môn - trừ quỷ ở trước cửa nhà, nơi cả thành xúm lại - và cầu nguyện nơi thanh vắng). Kết thúc ngày mẫu này (1,21-39) là lời tuyên phán mở rộng nhãn giới của các môn đệ và mở rộng chân trời hoạt động của Đức Giê-su.

1. Trong nhà của Si-môn : chữa bệnh

Đức Giê-su là con người của đường phố, của đám đông, và… của nơi thanh vắng. Nhưng Người cũng biết tới sự dịu dàng của một mái nhà trong đó người ta chắc chắn mình được tiếp đãi trọng hậu. Bạn nghĩ đến Bê-ta-ni-a, đến sự tiếp đón của La-da-rô, Mác-ta và Ma-ri-a chăng? Một ngôi nhà khác cũng còn là mái ấm của Người hơn nữa : nhà của Phê-rô và An-rê tại Ca-phác-na-um.

Trong giai thoại mẹ vợ Phê-rô được chữa lành này, xin lưu ý kỹ hai từ : “Người đỡ bà dậy” và “bà phục vụ các ngài”. Vì một phép lạ bao giờ cũng là một giáo huấn, nên Tin Mừng muốn cho ta thấy quyền năng của Đức Giê-su có thể đỡ chúng ta dậy để chúng ta lại trở thành kẻ phục vụ “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay”. Một nhà pháp thuật hẳn đã dùng nhiều nghi thức phức tạp hoặc đã tỏ ra trang trọng hơn. Ở đây mọi sự đều đơn giản. Làm điều gì, Đức Giê-su luôn làm một cách vô cùng giản đơn, giản đơn nhất có thể. Cầm lấy tay bệnh nhân, Người đỡ bà dậy. Người chẳng bao giờ chữa lành ai -dù bệnh phần xác hay phần hồn- mà không “đỡ” họ dậy, mà không giúp họ rời bỏ vị thế bại xuội của mình, mà không thăng hoa họ lên một tầm cao hơn nào đó.

Dưới ánh sáng Phục sinh, cử chỉ này của Đức Giê-su mang một ý nghĩa biểu tượng đối với Mác-cô và cộng đoàn Ki-tô của thánh sử. Trong tiếng Hy-lạp, động từ “đỡ dậy” cũng là động từ Mác-cô dùng để nói về Đức Giê-su: “Người đã trỗi dậy rồi” (16,6). Đối với các Ki-tô hữu tiên khởi, điều đó cho thấy Đức Giê-su không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc phục sinh, Người được suy tôn là “Đức Chúa và Đấng Ki-tô” (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi, và tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết.

Phản ứng đầu tiên của bệnh nhân vừa được chữa lành là “sẵn sàng phục vụ” Đức Giê-su, sẵn sàng hầu bàn cho Người. Cũng đúng thôi ! Vì bàn tay vừa được Người cầm lấy trong tay Người còn phải làm việc gì khác hơn? Bàn tay ấy có thể lãnh nhận điều chi mà không sẵn sàng dâng tiến lại cho Người? Đây cũng là hình ảnh Ki-tô hữu đã từng nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là tội lỗi (trong Cựu Ước, bị sốt là dấu chỉ có phạm tội và bệnh sốt được xem như là một trong những hình phạt Thiên Chúa giáng xuống dân bất trung, x. Lv 26,15-16). Nhưng Đức Ki-tô đã đến “cầm lấy tay mà đỡ dậy”, nhờ đức tin và phép rửa, để một khi được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và anh em. Thành thử người phụ nữ mà Đức Giê-su cho bình phục lại là kẻ phục vụ tốt lành của Người. Ai mà lại “ngồi chơi xơi nước” khi Đức Giê-su có đó, khi theo bước Đức Giê-su !

2. Ngoài cửa, có cả thành xúm lại : trừ quỷ

Khi mặt trời lặn, đối với người Do-thái, đó là lúc kết thúc ngày Sa-bát (xem lại Mc 1,21), và một ngày mới bắt đầu. Hết bị ràng buộc bởi những cấm đoán liên quan tới hưu nhật, từ lúc này ai nấy trở lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Giê-su “mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám”. Chẳng mấy chốc, “cả thành xúm lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành mẹ vợ của Phê-rô diễn ra âm thầm giữa một nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho khát vọng của bao kẻ bên ngoài : “Đức Giê-su chữa… đủ thứ bệnh và trừ nhiều quỷ”

Nhưng Người ra lệnh cho chúng không được nói gì cả, lần này cũng nghiêm khắc không kém gì lúc ở trong hội đường (c. 25). Tại sao có lệnh cấm đoán đó? Ấy là vì vào thời Đức Giê-su, xứ Pa-lét-ti-na đã bị mất chủ quyền và rơi vào ách đô hộ của người Rô-ma. Do vậy, dân tộc Do-thái ngày đêm mong mỏi một vị anh hùng giải phóng đến để “khôi phục vương quốc Ít-ra-en” (Cv 1,6; Lc 1,68-73). Nhưng Đức Giê-su được Thiên Chúa sai đến không phải để thực hiện công cuộc khôi phục mang màu sắc chính trị này. Chính Người rồi đây sẽ giải thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển khai giáo huấn của Người bằng những dụ ngôn (x. Mc 4,1tt), và chúng ta sẽ hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vị vua mà dân Do-thái chờ mong và vị vua mà Thiên Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muốn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giê-su đã không cho phép quỷ xưng Người là ai, cũng như sau này Người sẽ chỉ thị cho những kẻ được chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là “bí mật (về Đấng) Mê-si-a”.

Danh hiệu “Đấng Ki-tô” và “Con Thiên Chúa” chỉ được giải nghĩa chính xác sau này dưới ánh sáng của Khổ nạn và Sống lại. Phải giữ thinh lặng cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng Đấng Mê-si-a chỉ đến cứu loài người qua con đường hy sinh chịu chết.

3. Nơi thanh vắng : cầu nguyện một mình

“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Đức Giê-su đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”. Sự kiện này là lý lẽ mạnh mẽ nhất bênh vực việc cầu nguyện. Dẫu là Con Thiên Chúa, luôn tiếp xúc với Thiên Chúa trong lúc giảng dạy và trong hoạt động chữa bệnh, Đức Giê-su vẫn cảm thấy cần cầu nguyện luôn. Trước một nhu cầu như thế, lý do không cầu nguyện nào có thể đứng vững? Sở dĩ Người đến nơi vắng vẻ, bởi lẽ trong nơi vắng vẻ, tất cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có Thiên Chúa với con người. Vì nơi ấy mọi sự đều lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên Chúa.

Đức Giê-su dậy rất sớm, đó là giờ ca ngợi của Người, kinh sáng của Người. Tấm gương này làm chúng ta yêu mến buổi cầu nguyện đầu tiên trong ngày của chúng ta. Ngày mới này sắp nhận được màu sắc của mình từ một vài (chục) phút chúng ta gặp gỡ với Chúa. Hãy sử dụng tốt mọi phương tiện để khoảng thời gian ấy nên một cuộc gặp gỡ thật sự, rất nội tâm.

Làm sao nội tâm hóa một sự cầu nguyện? Bằng chú ý đến sự Hiện diện của Chúa : Chúa có đây và con có đây. Nếu chúng ta mải miết trong những mơ mộng và đọc kinh nguyện cách máy móc, cái mà chúng ta đang làm chẳng xứng với Thiên Chúa cũng như chẳng xứng với chúng ta tí nào.

Trong số các phương thế được khuyên để “có mặt”, các linh sư bảo hãy thẳng cột sống, một tư thế đẹp giúp tỉnh táo mà không căng thẳng. Nếu thử tưởng tượng Đức Giê-su đang cầu nguyện, chúng ta có thể thấy Người quỳ hay đứng rất thẳng, rất quý phái.

Nhưng lúc ấy Người ba mươi tuổi và đâu có bị hư khớp ! Người sẽ tha thứ cho những cột sống già hơn muốn tìm tư thế tốt nhất để cầu nguyện mà không quá đau đớn khổ sở. Điều Người không thể tha thứ cho chúng ta, đó là đến gần Người mà để tâm trí lang thang xa Người. Dĩ nhiên lo ra chia trí là chuyện tự nhiên, và thông thường, cái tivi nội tâm của chúng ta luôn luôn bật, nhưng phần chúng ta, trong lúc đặc biệt này, là phải chọn kênh Giê-su.

Các người láng giềng của nhà thần bí Hồi giáo, Farid ud-Din (#1145-#1221, người Ba-tư) đã thuyết phục ông đến Delhi (kinh đô cũ của các bang Hồi giáo ở Bắc Ấn tk. 8-19) để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình trong cầu nguyện.

Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?” Hoàng đế Akbar đáp: “Ta cầu xin Đấng Nhân Từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu”. Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: “Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một người ăn xin, không khác gì những hạng người khác !”

Bạn nghĩ Đức Giê-su cầu nguyện gì khi ở trước nhan Thiên Chúa? Và lời cầu nguyện này đã ảnh hưởng ra sao trên hoạt động của Người?
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đam mê Huyền nhiệm so với Tình yêu và Trách nhiệm
Vũ Văn An
13:51 30/01/2024

Trên tạp chí mạng Crisis, Richard A. Spinello, Giáo sư Thực hành Quản lý tại Đại học Boston và là thành viên của ban giảng dạy phụ trợ tại Chủng viện St. John ở Boston, gần đây đã so sánh cuốn sách tục tĩu của Hồng Y Fernandez và cuốn sách nhân vị xuất sắc của Đức Gioan Phaolô II. Ông viết:



Sau sự tiết lộ không đúng lúc về cuốn sách tục tĩu của Đức Hồng Y Fernández, Đam mê Huyền nhiệm: Tâm linh và Tính dục, một số người Công Giáo tiến bộ nổi tiếng đã vội vã bảo vệ vị giám mục đang bị bao vây. Đức Hồng Y, người được bổ nhiệm làm người đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin vào tháng 9 năm ngoái, đã trở thành nguồn gây bối rối và tranh cãi cho Giáo hội, đặc biệt vì Tuyên bố thiếu hiểu biết và mơ hồ của ngài, Fiducia Supplicans, vốn mở đường cho việc chúc lành cho các cặp sống trong những cuộc kết hợp bất hợp lệ. Khi cuốn Đam mê Huyền nhiệm được phát hiện cách đây vài tuần, nhiều người Công Giáo đã bày tỏ mối quan ngại của họ về khả năng phán đoán kém cỏi và sự thiếu thận trọng của vị Hồng Y.

Cuốn sách này, được sáng tác vào năm 1998, đã gây ra một cơn bão lửa vì nội dung báng bổ và khiêu dâm. Fernández viết về “cực khoái huyền nhiệm”, và trong một chương, ngài mô tả một cuộc gặp gỡ tình ái tưởng tượng với Chúa Giêsu, dựa trên trải nghiệm được một cô gái mười sáu tuổi kể lại cho ngài nghe. Ba chương khác bao gồm tài liệu xúc phạm về cách đạt được cực khoái thoải mái và sự khác biệt giữa cực khoái nam và nữ. Ngài đề cập đến lời khen ngợi của một nhà thần học Hồi giáo đối với Chúa vì đã làm cho cơ quan sinh dục của đàn ông “cứng và thẳng như những ngọn giáo” để “tiến hành chiến tranh” trên âm đạo của phụ nữ. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi cuốn sách được dán nhãn là “khiêu dâm hạng nặng được bọc trong một tấm khăn giấy mỏng manh của chủ nghĩa huyền nhiệm”.

John Allen, biên tập viên của Crux và phóng viên lâu năm của Vatican, giải thích lời chỉ trích cuốn sách này như một phần của chiến dịch được dàn dựng nhằm mục đích làm suy yếu sức mạnh của Fiducia Supplicans. Allen tiếp tục tuyên bố rằng chúng ta tìm thấy cùng một loại hình ảnh và văn xuôi tình dục sinh động rõ ràng trong một trong những tác phẩm của Karol Wojtyla (Đức Gioan Phaolô II), có tựa đề Tình yêu và Trách nhiệm. Ông chỉ trích những người Công Giáo bảo thủ và lập luận rằng nếu họ lo lắng về nội dung và giọng điệu của Đam mê Huyền nhiệm, thì đáng lẽ họ cũng phải lo lắng như vậy về Tình yêu và Trách nhiệm. Ông nhận xét rằng “Những nhà phê bình mạnh mẽ nhất của Fernández, hầu hết trong số họ tự mô tả mình là những người mộ mến Đức Gioan Phaolô II, không thoải mái khi nhận thức được những điểm tương đồng này và đang cố gắng phủ nhận hoặc giảm thiểu chúng”.

Chính thống. Trung thành. Tự do.

Để chứng minh cho lý lẽ của mình, ông Allen đưa ra những điểm giống nhau giữa hai người đàn ông này và những cuốn sách của họ. Cả hai tác phẩm đều được sáng tác khi những người đàn ông này còn trẻ—Fernández 36 tuổi và Wojtyla 40 tuổi. Cả hai cuốn sách đều chịu ảnh hưởng từ những cuộc trò chuyện với các cặp vợ chồng trẻ. Đức Hồng Y Fernández nói rằng các chủ đề trong cuốn sách của ngài bắt đầu có ý nghĩa nhờ cuộc đối thoại với các cặp vợ chồng trẻ. Các suy tư của Karol Wojtyla về tính dục phần nào dựa trên sự tương tác của ngài với các sinh viên tại Đại học Công Giáo Lublin.

Cả hai cuốn sách đều có nội dung khiêu dâm theo cách có thể được coi là bất thường đối với lối viết của một linh mục độc thân. Như Allen đã chỉ ra, hạn từ “cực khoái” xuất hiện bảy lần trong bản dịch tiếng Anh của Tình yêu và Trách nhiệm, trong khi “đỉnh cao” [climax] xuất hiện mười lần. Do đó, Allen kết luận một cách cộc lốc rằng “nếu viên chức Vatican nào thăm dò động lực cực khoái đương nhiên bị loại khỏi chức vụ, thì tiêu chuẩn như vậy sẽ loại trừ không những Fernández mà còn cả Đức Gioan Phaolô II”.

Nhưng liệu có cơ sở nào cho mối liên kết giữa hai tác phẩm này ngoài những quan sát hời hợt mà ông Allen đưa ra? Hay đây thực sự là một sự so sánh đáng ghê tởm, chỉ vô tình bôi nhọ danh tiếng của Thánh Gioan Phaolô II? Nếu xem xét kỹ lưỡng các sự việc một cách khách quan, chúng ta sẽ thấy rằng những tác phẩm này hoàn toàn không có điểm chung nào ngoại trừ việc cả hai đều đề cập đến các vấn đề về tình dục học.

Đầu tiên, Fernández nói rằng khi viết cuốn sách, mình còn trẻ và sẽ không viết nó ngày nay; ngài cũng tìm cách ngăn chặn việc xuất bản nó và phân phối thêm. Ngược lại, Karol Wojtyla không bao giờ hối hận hay từ bỏ những gì mình đã viết. Những suy tư của ngài đã trở thành nền tảng cho tác phẩm Thần học Thân xác vô cùng nổi tiếng của ngài. Các học giả và nhà thần học Công Giáo cấp tiến không đặc biệt thích Tình yêu và Trách nhiệm vì tính chính thống của nó, nhưng họ chưa bao giờ cho rằng nó mang tính chất khiêu dâm hoặc quá minh nhiên về tình dục.

Tình yêu và Trách nhiệm đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ và được giảng dạy trong các chủng viện và trường đại học Công Giáo trên khắp thế giới. Nó được đánh giá cao như một cách tiếp cận mang tính bản thân xuất sắc đối với đạo đức tình dục, dự đoán trước thái độ phóng túng do cuộc cách mạng tình dục gây ra. Nó vẫn gây được thiện cảm với giới trẻ hơn 60 năm sau lần xuất bản đầu tiên.

Thứ hai, Tình yêu và Trách nhiệm không có nội dung báng bổ. Ông Allen quên nói với chúng tôi rằng rất nhiều sự phẫn nộ đối với đoạn văn dâm ô của Đức Hồng Y Fernández xuất phát từ nội dung báng bổ của nó, chứ không chỉ từ văn xuôi khiêu dâm. Nhưng trong Tình yêu và Trách nhiệm, không có mô tả nào về “cuộc gặp gỡ đầy đam mê” với Chúa Giêsu Kitô khi mẹ Người nhìn với vẻ tán thành.

Cuối cùng, ông Allen chắc chắn đúng khi chỉ ra rằng Wojtyla mô tả sự cực khoái của nam và nữ và đề cập đến cực điểm tình dục. Nhưng tài liệu này xuất hiện trong phần phụ lục của cuốn sách có tên “Tình dục học và Đạo đức”. Trong Lời Nói Đầu, Đức Wojtyla làm sáng tỏ rằng đạo đức tính dục là về con người và về tình yêu, vốn luôn là sự tự hiến cho nhau. Cuộc thảo luận về tình dục học chỉ được thêm vào để bổ sung cho những suy gẫm của ngài về các chủ đề chính của cuốn sách.

Do đó, Wojtyla dành gần 300 trang để mô tả mục đích sinh sản của ham muốn tình dục, bản chất của tình yêu, sự kết hợp vợ chồng và đức khiết tịnh, trước khi viết một vài trang về sinh lý học của tình dục. Như ngài giải thích, chỉ khi chúng ta hiểu được mục đích sinh sản của ham muốn tình dục và bản chất của tình yêu vợ chồng thì chúng ta mới có thể thu được lợi ích từ kiến thức của nhà tình dục học. Mục đích duy nhất của ngài khi đưa nội dung này vào là giúp các cặp vợ chồng “trải nghiệm hành vi vợ chồng một cách trưởng thành hoàn toàn, với sự cam kết trọn vẹn tư cách nhân vị của mỗi người”.

Sợi chỉ xuyên suốt có tính thống nhất trong tác phẩm của Wojtyla là quy tắc nhân vị, thừa nhận giá trị nội tại của nhân vị, vốn luôn phải được đối xử như một ai đó hơn là một thứ gì đó. Nguyên tắc này cấm việc sử dụng người khác chỉ vì lợi ích của chính mình và điều này bao gồm việc sử dụng ai đó như một đối tượng tình dục hoàn toàn chỉ nhằm mục đích thỏa mãn bản thân. Với tiêu chuẩn này, Wojtyla trình bày rõ ràng ba chủ đề đóng vai trò trụ cột trung tâm của đạo đức tính dục của ngài: ý nghĩa hiện sinh của ham muốn tính dục, quan điểm toàn diện về tình yêu lãng mạn hoặc tình yêu vợ chồng, và quan điểm nhân vị về đức khiết tịnh.

Ngài lập luận một cách thuyết phục rằng ham muốn tình dục có một ý nghĩa hiện sinh bởi vì mục đích hoặc mục đích chính của ham muốn này là sự tồn tại kéo dài muôn thuở của loài người. Tuy nhiên, ham muốn tình dục cũng là nguồn gốc của tình yêu vợ chồng dẫn đến hôn nhân. Vì vậy, ham muốn tình dục là nền tảng cho cả tình yêu lẫn sinh sản.

Nhờ tính hỗ tương tình dục, động lực này mở đường cho người nam và người nữ yêu nhau trọn vẹn, và sự kết hợp tình dục được hình thành bởi tình yêu đó tự nhiên mở ra cho cuộc sống mới. Tình yêu hôn nhân phải luôn hòa hợp với mục đích sinh sản của nỗ lực này, nếu không việc tự thỏa mãn lẫn nhau sẽ bắt đầu thay thế sự kết hợp trọn vẹn và hữu hiệu giữa con người với nhau. Hơn nữa, nhờ ý nghĩa sinh sản này, hoạt động tình dục không có gì là tầm phào hay tầm thường. Ngược lại, chúng ta phải thừa nhận “sự vĩ đại thực sự” gắn liền với ham muốn tình dục.

Nhưng bản chất của tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà thường được thúc đẩy bởi ham muốn tình dục là gì? Ngài mô tả các yếu tố chung của tình yêu con người bao gồm sự ham thích (fondness, hoặc sự hấp dẫn), khao khát người khác và lòng nhân mở đường cho sự kết hợp tinh thần và sự cam kết của tình bạn được tăng cường bởi sự đồng cảm ấm áp. Hình thức triệt để nhất của tình yêu là tình yêu vợ chồng, một tình yêu không chỉ mong muốn điều tốt cho người khác mà còn “cho đi chính mình, cho đi cái tôi của mình”. Việc tự hiến hỗ tương này trở thành một sự kết hợp toàn diện và độc quyền của hai người, được thể hiện và được hiện thực hóa thông qua hành vi tình dục. Tình yêu vợ chồng là con đường dẫn đến sự hoàn thiện của bản thân con người, xuất phát từ việc trao tặng vô điều kiện bản thân mình cho người khác.

Cột trụ thứ ba trong đạo đức tính dục của Wojtyla là tầm nhìn độc đáo của ngài về nhân đức khiết tịnh. Nhiều người hiểu sai đức khiết tịnh là sự cả thẹn [prudishness], và các triết gia có xu hướng đồng nhất đức khiết tịnh với nhân đức tiết độ. Nhưng đối với Wojtyla, khiết tịnh là thói quen đạo đức để có thể nhìn một con người khác giới với một chiều sâu đạo đức và sự minh bạch nhất định để người ta luôn nhìn nhận cá nhân đó như một ngôi vị chứ không phải là một đối tượng để sử dụng.

Tình yêu đòi hỏi sự hỗ trợ của khiết tịnh để đảm bảo rằng các mối quan hệ tình dục không bao giờ bị mất tư cách bản vị. Chỉ người trong sạch, người khẳng định phẩm giá của người khác, mới thoát ly khỏi dục vọng hoặc nhục dục bừa bãi để chân thành hiến dâng chính mình cho người khác. Chỉ sau khi làm sáng tỏ rằng quan hệ tình dục là đặc quyền duy nhất của hôn nhân như một dấu hiệu và một phương tiện cho sự hiến dâng hoàn toàn của cặp vợ chồng đó và tất cả những người khác đều được kêu gọi sống khiết tịnh để không lợi dụng người khác để làm thú vui mà Đức Gioan Phaolô II mới xem xét đến các khía cạnh sinh lý của quan hệ tình dục trong chương bổ sung cuối cùng đó.

Mặt khác, bối cảnh phong phú này được Wojtyla trình bày làm cơ sở cho cuộc thảo luận ngắn gọn của ngài về cực khoái của nam và nữ không được tìm thấy trong Đam mê Huyền nhiệm. Cùng với những suy nghĩ ngẫu nhiên về quan hệ tình dục, cuốn sách của Fernández chỉ kể lại những cuộc phiêu lưu tình dục khác nhau cùng với một số bình luận thần học mỏng manh. Không giống như Wojtyla, vị Hồng Y không nhấn mạnh rằng hành vi tình dục phải luôn nhằm mục đích sinh sản, diễn tả sự kết hợp liên bản vị đầy đủ của một cặp vợ chồng.

Thay vào đó, ngài nhấn mạnh một cách không chính đáng vào niềm vui chung của một cặp đôi, vốn có “sự cao quý đặc biệt”. Hơn nữa, có rất ít đề cập đến cách hiểu của Công Giáo về hôn nhân là một vợ một chồng và không thể hủy tiêu và không có nỗ lực giải thích bản chất của tình yêu vợ chồng như một sự hiến dâng toàn bộ thân xác của một người cho người phối ngẫu của mình. Cũng thiếu bất cứ cuộc thảo luận nào về các nhân đức khiết tịnh và trong sạch không thể nào thiếu được.

Do đó, Đam mê Huyền nhiệm là một cuốn sách nông cạn, hầu như không có những phẩm chất cứu chuộc và một tầm nhìn xa lạ và bất đồng về tình dục con người. Nhưng Tình yêu và Trách nhiệm, được ủ men với những chân lý sâu sắc và những hiểu biết sâu sắc về mặt triết học, là một luận thuyết được soạn thảo cẩn thận, bắt nguồn sâu xa từ nền tảng nhân học Kitô giáo, trình bày một sự chứng minh mang tính nhân vị của sứ điệp Tin Mừng về luân lý tính dục. Bất cứ ai nhận ra sự tương đồng dù chỉ là xa vời giữa hai cuốn sách này đều chưa đọc Tình yêu và Trách nhiệm hoặc chưa hiểu rõ về nó.
 
Ý cầu nguyện tháng Hai của Đức Thánh Cha: Cho những người mắc bệnh nan y
Thanh Quảng sdb
16:30 30/01/2024
Ý cầu nguyện tháng Hai của Đức Thánh Cha: Cho những người mắc bệnh nan y

Đức Thánh Cha Phanxicô công bố ý cầu nguyện tháng 2 năm 2024 và mời gọi mọi người cầu nguyện cho những người đang mắc bệnh nan y ở giai đoạn cuối và cầu gia đình họ.

(Tin Vatican - Deborah Castellano Lubov)

Đức Thánh Cha mời gọi Giáo hội cầu nguyện theo ý chỉ này trong Video tháng này, mời gọi toàn thể Giáo hội qua Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng.

Video tháng này được phát hành vào ngày mà Giáo hội cử hành lễ Đức Mẹ Lộ Đức, ngày 11 tháng 2, và là Ngày Thế giới Bệnh nhân.

Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rằng “khi một số người nói về những căn bệnh nan y, họ thường nhầm lẫn hai từ: không thể chữa khỏi và không thể chạy chữa. Nó không giống nhau."

Chăm xóc dù không thể chữa trị

ĐTC trích dẫn lời của vị tiền nhiệm là Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Hãy chữa trị nếu có thể; hãy luôn kiên trì.”

Những hình ảnh trong Video Ý cầu nguyện của Giáo hoàng tháng 2 minh họa những tình huống thể hiện tình yêu thương và sự dịu dàng đối với người bệnh nan y, và tùy thuộc vào cách chúng được giải thích, mô tả một loạt thất bại hoặc thành công, thất bại “vì kết quả duy nhất có thể chấp nhận được là chữa khỏi bệnh” và thành công vì "mục tiêu là chăm sóc bệnh nhân."

Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rõ ràng rằng ngay cả khi có rất ít cơ hội chữa lành, “mọi người bệnh đều có quyền được hỗ trợ về mặt y tế, tâm lý, tinh thần và nhân bản”.

Ngài thừa nhận: “Việc chữa lành không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được, nhưng chúng ta phải luôn chăm sóc người bệnh và yêu thương họ”.

Đảm bảo sự gần gũi và hỗ trợ

Suy tư về tầm quan trọng của việc chăm xóc, Đức Thánh Cha Phanxicô tái khẳng định sự “đảm bảo cho bệnh nhân không chỉ sự chăm sóc về mặt y tế” mà còn cả “sự trợ giúp và sự gần gũi của con người”.

Trong khi đó, khi nói về vai trò của gia đình, ĐTC nhấn mạnh rằng những người đau bệnh “không nên bị bỏ rơi một mình trong những thời khắc khó khăn này”.

Vai trò của gia đình “có tính quyết định”, Đức Giáo Hoàng nói, đồng thời nhấn mạnh người thân “cần được cung cấp các phương tiện thích hợp để hỗ trợ thích hợp về thể chất, tinh thần và xã hội cho người bệnh”.

Đức Thánh Cha Phanxicô kết thúc bằng việc xin mọi người cầu nguyện và cam kết để “những người mắc bệnh nan y và gia đình họ luôn nhận được sự chăm sóc và hỗ trợ cần thiết về y tế và nhân bản”.

Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Thánh Cha

Video Giáo hoàng là một sáng kiến chính thức toàn cầu với mục đích phổ biến ý cầu nguyện hàng tháng của Đức Thánh Cha. Nó được thực hiện bởi Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Giáo hoàng (Tông đồ cầu nguyện). Kể từ năm 2016, Video về Ý cầu nguyện của Giáo hoàng đã có hơn 203 triệu lượt xem trên tất cả các mạng xã hội của Vatican và được dịch sang hơn 23 ngôn ngữ, được báo chí đưa tin ở 114 quốc gia.

Các video này được phát hành và hình thành bởi nhóm Mạng lưới Cầu nguyện Video Giáo hoàng, do Andrea Sarubbi điều phối và được phân phối bởi La Machi Communications for Good Causes. Dự án được tài trợ bởi Vatican Media. Để biết thêm thông tin xin vào trang mạng: Video của Giáo hoàng.

Mạng lưới Cầu nguyện Toàn cầu của Đức Thánh Cha là một tổ chức của Vatican, với sứ mệnh huy động người Công Giáo thông qua cầu nguyện và hành động nhằm đáp lại những thách đố mà nhân loại đang phải đối diện và sứ mệnh của Giáo hội. Những thách thức này được trình bày dưới hình thức ý cầu nguyện được Đức Thánh Cha giao phó cho toàn thể Giáo hội.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hiệp hành giữa Giáo Xứ Thánh Vinh Sơn Liêm và Gia Đình
Khanh Lai
14:26 30/01/2024
Hiệp hành giữa Giáo Xứ Thánh Vinh Sơn Liêm và Gia Đình

Xem thêm hình ảnh

Với sự hướng dẫn của Giáo Hội nói chung và giáo phận Calgary Canada nói riêng, Đức Giám Mục Mc Grattan William đã đề ra chương trình đặc biệt “ Củng cố đời sống Gia đình “ với 3 châm ngôn hướng dẫn các linh mục trong giáo phận

1. Mời gọi gia đình đến với đời sống bí tích.
2. Lôi cuốn gia đình và giới trẻ một cuộc sống có ý nghĩa.
3. Đồng hành cùng mọi người trong mọi giai đoạn của cuộc sống.

Để thể hiện những châm ngôn này. Giáo xứ Thánh Vinh Sơn Liêm đã hình thành một chương trình cả năm 2024 mừng sinh nhật từng thành viên trong giáo xứ vào chiều mỗi Chúa nhật cuối tháng.
Đầu tháng 1/2024, Giáo xứ gửi thư mời từng thành viên trong từng gia đình có ngày sinh nhật trong tháng và gia đình hồi báo đến tham dự thánh lễ, trước thánh lễ xướng tên và cầu nguyện cho từng thành viên từ trẻ đến già. Trong thánh lễ cầu nguyện cho những bạn trẻ học hành tấn tới ngoan hiền và gắn bó với giáo xứ bằng sinh hoạt các hội đoàn trẻ. Với những người lớn tuồi, cầu nguyện cho họ có được sức khỏe hồn xác và nhất là thường xuyên đến với thánh lễ tạo gương lành cho các bạn trẻ.

Ban tổ chức được mời gọi mỗi hội đoàn cùng tham gia để điều phối chương trình từ phụng vụ trong nhà thờ đến việc sinh hoạt trong hội trường. Tháng 1 đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể đã nhận điều phối chương trình với người dự trưởng MC dễ mến, từ nhà thờ đến hội trường, từ phục vụ ăn uống đến cùng hát, cùng tạo niềm vui đã làm cho mọi người thích thú, và họ cũng là những bạn trẻ ở lại cuối cùng dọn dẹp sạch sẽ hội trường và ra về để chuẩn bị cho ngày thứ Hai đầu tuần mới, lo học hành và công việc.
Sau khi rời nhà thờ với tấm hình chung, mọi người được ban tổ chức mời vào hội trường, bài hát “Chúc Mừng Sinh nhật” được quý thầy và Tốp ca Thiếu Nhi cất lên chào đón mọi người và mọi người được mời vào chỗ ngồi.
Tiếp đên, vị đại diện hội đồng giáo xứ có đôi lời chúc mừng và tri ân về sự giúp góp của từng người trong từng gia đình 39 năm qua, (đóng góp bảo trì giáo xứ, đóng góp xây dựng 2 thánh đường trước (1985) và bây giờ (2015); Tiếp đến, Giáo xứ đón chào các thành viên mới đến và gia nhập giáo xứ trong tâm tình chuẩn bị 40 năm thành lập giáo xứ (1985-2025).

Quý cha ban phép lành và bữa ăn thanh đạm đã được dọn sẵn, mỗi người 1 phần ăn, nước uống và tráng miệng. Bữa ăn được một số nhà tài trợ cùng với giáo xứ nên đều miễn phí.
Trong khi chờ đợi và ngay cả trong thời gian ăn mỗi gia đình có người mừng Sinh nhật tiến lên chụp ảnh kỷ niệm với quý cha và quý thầy. Cũng vậy, trong khi dùng bữa có chương trình Karaoke cho mọi người tham gia và thưởng thức. Kèm theo đó là chương trình chụp hình gia đình để chuẩn bị hình thành cuốn kỷ yếu cho giáo xứ năm 2025 sắp tới.

Cuối cùng, những người có ngày Sinh nhật được MC mời lên cùng lên cắt bánh với những bài hát chúc mừng sinh nhật và Happy Birthday dược vang lên trang trọng có kèm lời Việt “ Chào mừng sinh nhật chúng ta; Mừng ngày sinh nhật chúng ta,; Mừng ngày Chúa cho ta ra đời; với phúc ân năm này chan hòa”…

Bữa tiệc mừng sinh nhật tháng 1 vào lúc 6:00 pm đến 9:00 pm ngày Chúa nhật 28/1/2024 đã kết thúc, mọi người ra về trong niềm vui tươi hớn hở chờ cuối tháng 2, vì có gia đình hầu như tháng nào cũng có người có sinh nhật. Tri ân mọi người.



Lm JB Nguyễn Đức Vượng
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hình ảnh lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long.
03:09 30/01/2024

Hình ảnh lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ

Nếp sống đức tin Công Giáo trong suốt năm phụng vụ có nhiều ngày lễ mừng kính với những chủ đề, những kỷ niệm đạo đức khác nhau. Hằng năm vào ngày 02. Tháng Hai, 40 ngày sau lễ Chúa Giêsu giáng sinh, Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Maria dâng Chúa Giêsu vào đền thờ.

Đâu là nguồn gốc lịch sử cùng hình ảnh ý nghĩa đạo đức thần học ngày lễ này?

Trước Công đồng Vatican II. lễ này có tên „ thanh tẩy“ bắt nguồn từ tập tục theo luật lệ thời Cựu ước trong Do Thái Giáo. Theo luật lệ xa xưa qui định, người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai, và 80 ngày sau khi sinh con gái, vì chưa thanh sạch, nên phải được thanh tẩy, như chép trong luật Ông Mose nơi sách Leviticus ( Levi 12,1-8).

Lễ vật để thanh tẩy theo luật lệ là một con chiên một tuổi hay chim bồ câu non hoặc chim gáy non làm lễ xá tội để được thanh tẩy cho trong sạch.

Ngoài ra lễ này cũng còn có tên gọi là lễ Nến nữa. Nhưng từ 1969 Công đồng Vatican II. cải tổ lại Phụng vụ không còn mang tên lễ Đức Mẹ Maria thanh tẩy hay lễ Nến nữa, mà đổi tên thành lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ.

Đức Mẹ Maria sau khi hạ sinh Chúa Giêsu không cần phải được thanh tẩy. Vì Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu là Đấng mang lại sự thanh tẩy cho nhân loại. Đức Mẹ Maria dẫu vậy vẫn trung thành tuân giữ luật lệ truyền buộc, và để hoàn thành như lời đã đoan hứa.

Theo Phúc âm Thánh Luca ( Lc 2,22-40) hài nhi Giêsu được cha mẹ mang vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo như luật đã ấn định từ xa xưa. Nơi đó Ông Simeon và Bà Hanna đã gặp nhận ra hài nhi Giêsu là ánh sáng đấng cứu thế cho con người.

Ngay từ thế kỷ thứ tư bên Giáo hội Đông phương đã mừng lễ này 40 ngày sau lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Bên Đông phương mừng lễ Chúa giáng sinh vào ngày 06. Tháng 12., nên lễ này mừng vào ngày 14. Tháng hai.

Bên Giáo hội Chính Thống từ thế kỷ thứ năm ngày lễ này có tên Hypapante - Lễ gặp gỡ. Vì Đấng cứu Thế vào đền thờ của mình và gặp gỡ dân Thiên Chúa thời cựu ước đại diện là Ông Simeon và bà Hanna.

Đền thờ Gierusalem với người Do Thái là ngôi nhà của Thiên Chúa trên trần gian. Từ nơi nầy ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa ra khắp trần gian. Vì thế, cuộc gặp gỡ trùng phùng giữa Thiên Chúa và những người đạo đức luôn hằng trông chờ Thiên Chúa, đã xảy diễn ra ở trong đền thờ.

Bên Giáo hội Roma mừng lễ Giáng sinh ngày 25. Tháng 12, nên lễ này mừng vào ngày 02. Tháng Hai, từ giữa thế kỷ thứ năm với rước kiệu Nến. Tập tục rước kiệu nến để thay thế vào tập tục của lương dân lúc đó có tập tục rước kiệu đền tội.

Ánh sáng của cây nến nhắc nhớ đến những lời Ông Simeon nói tiên tri về Chúa Giêsu là „ vinh quang của dân Israel, là ánh sáng soi chiếu cho lương dân“. Hai từ ngữ „vinh quang và ánh sáng“ này đã được Tiên Tri Isaia ( 42,6, và 49,6) tiên báo nói trước đó về Người tôi tớ Thiên Chúa. Như thế Hài nhi Giêsu được nhận ra là người tôi tớ Thiên Chúa, mà tiên trí Isaia đã diễn tả trước về khuôn mặt tương lai còn ẩn chứa bí ẩn nhiệm mầu. Sứ mạng chính yếu của người tôi tớ Thiên Chúa cho cả nhân loại phổ quát, mang ánh sáng sự mặc khải cho muôn người trên trần gian.

Ông Simeon không chỉ nói tiên tri về hài nhi Giêsu là vinh quang dân Israel, là ánh sáng cho muôn dân. Nhưng ông còn nói tiếp hài nhi Giêsu là cớ cho người ta chống đối, Maria Mẹ của trẻ Giêsu sẽ phải chịu đau khổ như lưỡi gươm đâm thấu lòng.

Như thế ông Simeon đã nói trước về sự đau khổ, về thập giá đời hài nhi Giêsu sẽ phải gánh chịu. Sứ mạng Người tôi tớ Thiên Chúa nơi hài nhi Giêsu là ánh sáng của Thiên Chúa cho trần gian, nhưng sứ mạng này bị bao trùm bởi bóng tối của đau khổ thập gía.

Cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian đi rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa. Nhưng bị chống đối, bị chối từ và sau cùng bị kết án đóng đinh trên thập giá cho tới chết. Dẫu vậy sứ mạng mang ánh sáng cho muôn dân của ngài không bị dập tắt tiêu hủy trong nấm mồ sự chết. Ngài đã sống lại. Sự sống lại của Ngài là vinh quang, là ánh sáng sự sống cho con người được ơn cứu chuộc khỏi hình phạt tội lỗi.

„ Trong đời sống người Kitô hữu tin theo yêu mến Thiên Chúa luôn hằng sống trong sự trái ngược. Thiên Chúa luôn bị nhìn như là giới hạn của sự tự do con người. Và như thế Ngài phải bị loại trừ, để con người sống hoàn toàn tự do như mình là mình là.

Thiên Chúa là chân lý. Ngài đứng đối chiếu lại sự giả trá gian dối dưới muôn vàn hình thức, đối chiếu lại sự ham muốn và sự kiêu ngạo của con người.

Thiên Chúa là tình yêu. Nhưng tình yêu cũng có thể bị ghen ghét hận thù, nơi tình yêu bị chà đạp, bị thách thức. Tình yêu đây không phải là cảm giác thi vị lãng mạn, là wellness - sự chăm sóc sức khoẻ và vẻ đẹp - hay không khí lâng lâng thoải mái trong bể bơi hồ tắm, nhưng đó là sự giái thoát khỏi ràng buộc áp chế trong con người. Sự giải thoát này được trả giá bằng đau khổ của thập gía… Lời tiên tri về ánh sáng và lời về thập gía chung hợp đi đôi với nhau.“ ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, Tr. 93).

Dù không có tên là lễ Nến nữa, nhưng theo tập tục lễ nghi phụng vụ vẫn có nghi thức làm phép Nến và rước Nến trong thánh đường trước thánh lễ. Những cây nến làm phép này sẽ được dùng đốt thắp lên trong thánh đường, khi có lễ nghi phụng vụ. Những cây nến làm phép này cũng được người tín hữu Chúa Kitô, Đấng là ánh sáng, thắp lên ở nhà khi đọc kinh cầu nguyện.

Ánh sáng cây nến làm phép không rực rỡ chiếu sáng mạnh như ánh sáng của ngọn đèn điện. Nhưng ánh sáng từ cây nến lan tỏa ánh sáng hiền diệu đầm ấm ẩn chứa hình ảnh sứ điệp: với Chúa Giêsu khởi đầu cho sự kết thúc sự dữ, bóng tối tội lỗi. Vì ánh sáng chiếu tỏa từ một cây nến dù nhỏ, cũng đủ xóa tan đẩy lùi bóng tối không gian thể lý lúc tối trời ban đêm.
 
Đóng góp của thơ Công Giáo vào việc truyền bá Tin Mừng
Phạm Bá Nha
14:56 30/01/2024

ÐÓNG GÓP CỦA THƠ Công Giáo VÀO VIỆC TRUYỀN BÁ TIN MỪNG

Tín ngưỡng và tôn giáo là hai yếu tố cấu thành nền văn minh nhân loại. Tức là có loài người là có tín ngưỡng và tôn giáo. Văn minh Kitô giáo có chỗ đứng riêng và đóng góp một phần quan trọng trong lịch sử con người.

Giáo Hội luôn thích nghi văn hóa. Theo truyền thống này, Giáo Hội Việt Nam từ khi khai sinh đã thích nghi văn hóa Việt Nam và đổi mới con người. Tại Việt Nam, đã 470 năm (1533-2003), qua nhiều hoàn cảnh khác nhau, những sáng tác văn chương về thơ không ngừng phát triển. Thi phú Công Giáo Việt Nam thích nghi hòa hợp giáo lý với nền văn hóa dân tộc. Tinh hoa của Ðạo và dân tộc hài hòa thành nền văn hóa dân tộc muôn mầu muôn sắc đẹp tươi, tạo thành con người Công Giáo Việt Nam hoàn hảo.

Dưới đây thử tìm xem từ thời kỳ sơ khởi, bước qua giai đoạn nhiều nhà thơ có tên tuổi, và ngay trong thời đại ngày nay, những thi sỹ Công Giáo đã dùng ngòi bút của mình đang minh họa tư tưởng cho việc truyền bá đức tin. Hay nói đúng hơn các thi sỹ đã dùng lời thơ để thể hiện Lời Chúa, hướng dẫn người khác sống và trung thành với đức tin. Lời thơ của các thi sỹ được mọi giới trân trọng đón nhận.


I. GIAI ÐOẠN KHỞI ÐẦU

Có thể nói thi ca Công Giáo nảy sinh từ thế kỷ XVII. Ban đầu, các nhà truyền giáo và các giáo sỹ Việt Nam đã dùng văn tự sẵn có tại nơi mình đến để diễn đạt tư tưởng mới về giáo lý cho giáo dân bình dân dễ đọc, dễ hiểu. Ngôn ngữ văn tự cũ lúc bấy giờ của chúng ta là chữ Nôm và chữ Hán. Thể văn dễ thu hút đối với người dân là Ca vè, Vãn (dâng hoa), Tuồng, Chèo và Thơ Lục bát. Lời văn dùng trong các loại ‘‘thơ dân gian’’ này đơn sơ mộc mạc đi sát với sinh hoạt đời sống và phong tục hay tín ngưỡng. Ðiểm cần nghi nhận là thời kỳ này đạo Công Giáo được coi là ‘‘tà đạo’’ nên bị cấm truyền giảng. Vì thế những bài ca vần thơ càng bị cấm đoán và lưu hành. Những loại thi ca dân gian truyền khẩu này rất nhiều chứa đựng trong các bài vãn, quan họ, trống quân, hát đố, ví von...

1. THẦY GIẢNG PHANXICÔ (? - 1640)

Phanxicô trước là vị sư, đậu tiến sỹ và được bổ làm quan trong triều. Năm 1632, được giáo sỹ Dòng Tên Jeronimô Majorica rửa tội và đặt tên là Phanxicô. Phanxicô là một khoa bảng lỗi lạc đã viết tới 40 cuốn sách đạo bằng chữ Nôm. Năm 1640, Thầy bị bắt và được phúc tử đạo. Nên sách vở của ngài bị cấm ngặt lưu hành. Tại các nhà thờ giáo phận Bùi Chu, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, người ta hát và lưu truyền bài Văn Tế Cầu Hồn, bằng chữ Nôm. Dưới đây là phần một bản dịch tiếng Việt:

Tấu lạy!
Chúa thật chí tôn, chín tầng trời cao ngự trị
Người phàm hèn, muôn loài đất thấp sinh thành,
Soi xét chẳng sai,
Chở che không sót.
Bày tôi thiết nghĩ:
Cội rễ khôn thiêng,
Hỗn mang mới mở.
Từ cõi hoang vu mà tạo dựng,
Dùng diệu pháp để thi hành.
Chúa Cha toàn năng hóa sinh trời đất vạn vật, nhân loại.
Chúa Con duy nhất giáng trần chịu khổ chịu nạn, chịu chết.
Cho linh hồn được sung mãn,
Cho đức nghĩa được siêu nhiên?
Vinh quang Thánh Thần
Hiện thân sáng láng.
Phân định Ba Ngôi tuy khác,
Hợp lại nhất thể như nhau.
Một trí một thảo một tài cùng nhau không khác,
Rất lành, rất nhân, rất đẹp thật rất linh thông.

(Xin đọc nguyên bài trong ’’Công Giáo Việt Nam trong truyền thống văn hóa dân tộc’’.
PETRUS VŨ ÐÌNH TRÁC, Orange. CA. 1996. tr. 64)

2. CÔNG CHÚA CATARINA

Công chúa Catarina em chúa Trịnh Tráng (1576-1657) sau khi được rửa tội đã lôi cuốn và khuyên dụ được 17 người trong hoàng cung trở lại. Trong đó có mẹ công chúa. Mẹ nàng là người rất sùng đạo Phật và là người đứng đầu các sư sãi. Chính bà khuyên nhiều cung nữ và dạy giáo lý cho các cô này. Công chúa Catarina rất nhiệt thành trong việc giúp đỡ người khác trở lại với Ðức Tin. Bà là người có óc nghệ thuật và tài thơ văn và đem tài nghệ này phục vụ Giáo Hội. Bà đã viết tập vãn bằng chữ Nôm về ‘‘Lịch sử Giáo Hội’. Nội dung trình bày hai phần. Phần đầu: Từ khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất. Chúa Giêsu xuống thế cứu chuộc nhân loại và cuộc đời Chúa Giêsu nơi trần gian và cuộc tử nạn trên thập giá. Cuộc phục sinh khải hoàn và lên trời hiển vinh của Chúa Cứu Thế. Phần hai nói về cuộc hành trình truyền giáo của các Cha dòng Tên tại Tonkin.

Thơ văn của bà được các tín hữu ham mộ và chuyền đọc. Họ ngâm đọc trong gia đình, trong khi làm việc và cả khi ra ngoài đồng hay khi đi đường. Các nhạc sỹ đã dùng lời thơ của bà để phổ nhạc. Nhiều người lương cũng mê thích những bài vãn của bà. Nhờ vậy mà nhiều người trở lại đạo. Có thể nói công chúa Catarina là người sáng tác thơ Công Giáo đầu tiên.

(Nguyễn Hồng. Lịch sử truyền giáo Việt Nam, Q I, tr. 118)
DCÂC. 7/1997, tr. 52.)

3. GIÁO SỸ LỮ Y ÐOAN (+ 1678)

Lữ Y Ðoan tên là Louis Ðoan, trước là thầy giảng, thụ phong linh mục năm 1776. Ngài đã cùng với Philippê Minh giúp Ðức Cha Taberd biên soạn tự điển ‘‘Nam Việt Dương Hiệp’’. Riêng ngài đã phỏng dịch (không đúng nguyên văn) 5 cuốn đầu trong Bộ Kinh Thánh: Sáng Thế Ký, Xuất Hành, Giáo Sĩ, Dân Số Ký và Nhị Luật. Tập Sáng Thế Ký viết bằng chữ Nôm, gồm 3596 câu thơ Lục Bát. Và đây là 12 câu mở đầu:

Hằng sinh Thượng Ðế đại quyền,
Tự không sáng tạo phán truyền hoằng khai:
Càn khôn bỗng chốc phôi thai,
Hư hư hàn vũ, dầy dầy u minh.
Thánh Thần sinh hóa vận trình,
Ðột nhiên quang ánh lộ hình khắp nơi.
Ban khen trong sáng tuyệt vời,
Liền phân lưỡng vực muôn đời đối nhau.
Gọi ngày dương khí làu làu,
Gọi đêm âm khí phủ bao mịt mờ.
Hoàng hôn chuyển tiếp minh sơ,
Chu kỳ thứ nhất, thiên cơ ứng hành.

4. LINH MỤC ÐẶNG ÐỨC TUẤN (Bình Ðịnh 1830? - 1912?)

Tây truyện. Văn tế Ðức Cha Thể. Văn tế giáo nhân bị giết vì Ðạo. Khuyến giáo dân.

Tập thơ Tự tích việc Ðạo nước Nam gồm 630 câu lục bát, đôi khi chen thất ngôn. Ðây là một đoạn.

Làm cho xao xác trong đời,
Rung động đất nước, đời đời gió trăng.
Núi ẢI Vân khoái giăng mấy khúc,
Cõi Ðồng Nai gió thúc ngàn sầu.
Khôn cùng mọi nỗi lo âu,
Một mình ở giữa hai đầu bằng nhau.
Nghĩ suy mà sợ ngày sau,
Bá tùng đã đốn, sậy lau nào chừa.
Ngạn rằng quạ quạ ăn dưa,
Bắt cò phơi nắng, người xưa để lời.
Canh giam nghiêm nhặt khắp nơi,
Giữa đường mang ách lạ đời oan xương.
Giữa đường mang ách, ách như không,
Ách tức lạ đời, ách quá xưng.
Kẻ ở Tây dương qua bắn súng,
Người ở Nam Việt lại mang gông.
Trời cao cổ vắn kêu không thấu,
Lễ vạy, tình ngay phải xét công.
Ðông đạo nào hề đông chước móc,
Khóc trời, khóc biển, khóc tây đông.

5. DANH SỸ PHẠM TRẠCH THIỆN (Nam Ðịnh 1823?)

Ðặng Ðức Tuấn sinh khoảng 1830, tại Quy Hòa, Bồng Sơn, Bình Ðịnh. Từ nhỏ, thông minh tuấn tú nhưng không từ chương. Năm 22 tuổi được mời dạy học chữ Hán cho chủng viện Penang, Mã Lai. Tuấn học thêm tiếng Anh, Pháp, Latinh và thu thập nhiều kiến thức đạo đức. Từ đây Thầy theo tiếng gọi của Chúa, đi tu. Thầy được gọi về VN, thụ phong linh mục ở Gò Thị và phục vụ tại Quảng Ngãi. Năm 1861, có lệnh cấm đạo, cha bị bắt tại Mộ Ðức, và lục soát được bản điều trần Minh đạo bình Tây (đường lối đánh giặc Tây). Trước mặt vua Tự Ðừc, cha trình bày về nội dung bản điều trần: không theo Tây, không làm phản, không tôn thờ dị đoan. Vua đắc ý tha ngài, lại tặng thưởng và ra lệnh viết thêm bản khác biện minh cho đạo. Cha viết bản Khất xá Thiên giáo nhân (xin tha những người theo đạo Thiên Chúa bị tù đầy oan uổng) và bản Nguyên Ðạo (nguồn gốc Ðạo). Ðọc xong hai bản này vua muốn lưu ngài vào kinh bàn quốc sự và văn chương, nhưng ngài từ chối. Năm 1912 (?) cha qua đời trong chức vụ quản nhiệm xứ Tân Lộc.

Ngoài ba bài điều trần trên, cha Ðặng Ðức Tuấn còn viết các tác phẩm, như: Sự tích về việc Ðạo nước Nam. Tự thuật việc bị bắt và điều trần. Giải sầu ca. Thân hào sát tả bình Phạm Trạch Thiện sinh khoảng 1823, tại Cốc Thành, Nam Trực, Nam Ðịnh. Từ thiếu thời có tiếng văn hay chữ tốt. Vì là người Công Giáo, trong thời cấm đạo, nên không dám ra mặt. Năm 1852, ông thi đậu thứ 2 khoa Hương Thí. Nhưng bị truất tịch vì biết ông theo Ðạo Da Tô. Ông lén lút về làng sống đạo. Ðược các vị Thừa Sai khuyến khích ông sáng tác nhiều thơ văn đạo. Trong đó, ba bài vãn trích dẫn dưới đây, còn lưu đọc và hát trong các xứ đạo miền Bắc trong các tháng 5 và 10.

Vãn Dâng Hoa là trường ca gồm 110 câu Lục Bát, chen Song Thất.

Ðền vàng quì trước dâng hoa
Trông lên tháp bảo thấy tòa Ba Ngôi
Mười hai nhân đức gương soi,
Kính dâng Ðức Mẹ đời đời ngửa trông.
... Lạ thay là sắc hoa xanh,
Mừng Bà nhân đức trọn lành cực cao.
Dờn dờn sau trước một màu,
Quản chi sương nắng dãi dầu ngày đêm.
...Ðức Bà thờ Chúa một bề,
Hoa Qùy chăm chắm hướng về thái dương.
Tội nguyên không nhiễm khác thường,
Hoa sen trên nước chẳng vương bùn lầm.
Lòng đầy Thánh Sủng giáng lâm,
Hoa Lê tuyết đượm mùi thơm khác vời.
Tuổi cao phúc đức càng đầy,
Lạ lùng hoa Cúc nở ngày vãn thâu.
Tòa cao Thần Thánh kính chầu,
Hoa Mai đỉnh núi nở đầu trăm hoa...

Vãn Mân Côi gồm 150 câu thơ Song Thất Lục Bát, đôi khi thêm chữ Nho. Bản vãn dành cho cộng đồng. Giống như lần chuỗi bằng ngâm vãn. Mở đầu 8 câu, 16 câu tạ và 36 câu tổng tạ. Phần giữa suy gẫm về 15 mầu nhiệm: Vui Thương và Mừng. Ðây là đoạn cuối của lời Tổng Tạ.

Vì ba sự Vui Thương Mừng ấy,
Giúp đỡ Con chuộc lấy loài người.
Lại nên vườn hoa rất lạ thay,
Cho thánh Hội đời đời thưởng ngoạn.

Kinh Cầu Ðức Bà là loại kinh thơ viết theo Lục Bát. Nguyên bản bằng tiếng Latinh, gồm 126 câu, chia ra 2 phần: 94 câu kinh cầu và 32 câu lời nguyện.

Ba ngôi cùng một Chúa Trời,
Xin thương phù hộ chúng con mọi đàng.
Nữ Vương tuyết sáng gương trong,
Hơi trần chẳng đượm vào trong tính tình.
Maria Thánh Nữ Vương,
Trước tòa xin dủ lòng thương thay lời.
Ðức Bà như thể đền vàng,
Vững bền chói lói vẻ vang mọi bề.
... Chúng con còn chốn long đong,
Như người vượt biển mênh mông giữa vời.
Mẹ như sao ngự giữa trời,
Chính bên phương Bắc các ngôi sao chầu.
Xin soi dẫn để con theo,
Kẻo con lạc lối sa vào trầm luân.

6. LINH MỤC PHILIPHÊ ROSARIÔ BỈNH (Hải Dương, 1759-1832)

Năm 1775, Philiphê vào tu chủng viện và thụ phong Linh Mục năm 30 tuổi. Ngày 20-06-1796, cha gia nhập dòng Tên và được gửi qua du học tại Lisbonne, Bồ Ðào Nha. Tại đây Cha đã nghiên cứu và viết tới 23 tác phẩm bằng chữ Nôm, chữ quốc ngữ, tiếng Bồ Ðào Nha, và tiếng Latinh. Trong đó có truyện Thánh Phanxicô Xaviê, Thánh Anna, Thánh Gioakim, Lịch sử Dòng Tên. Về lịch sử truyền giáo Việt Nam Cha để lại hai cuốn có giá trị sử liệu : ‘‘Truyện Nước Annam Ðàng Ngoài chí Ðàng Trong’’ (Portugal.1822) và cuốn ‘‘Sách sổ sang chép các việc’’ (Truyện Ðàng Trão. Bản dịch của viện Ðại học Ðà Lạt. 1968).

‘‘Truyện Nước Annam Ðàng Ngoài chí Ðàng Trong’’ viết năm 1822, theo thể văn tứ lục biền ngẫu, có đối nhưng không có vần. Trong tập này có bài ‘‘Cảm tạ cầu hồn’’ (hay Kinh Phục dĩ, còn gọi là ‘‘Cảm niệm từ’’) viết bằng chữ Hán, có nhiều điệp ngữ ê a, dùng như kinh cầu hồn, thường đọc trong các gia đình Công Giáo khi có lễ giỗ. Nội dung cầu xin Thiên Chúa, Ðức Mẹ và các Thánh cứu vớt các linh hồn mới qua đời :

Thần kim thế thủ (con nay rập đầu)
Khẩn thiết nghệ cầu (khẩn thiết kêu cầu)
Nguyện thử linh hồn (nguyện linh hồn này)
Khiết thăng thiên quốc (được sạch mà lên nước trời)

7. THÁNH LINH MỤC PHILIPPHÊ PHAN VĂN MINH (Vĩnh Long, 1815-1853)

Phan Văn Minh sinh năm 1815 tại Cái Mơn, Vĩnh Long, trong gia đình 14 anh chị em, Minh là con thứ 12. Năm 13 tuổi, Philipphê Minh được Ðức Cha Jean Louis Taberd (MEP. 1794-1840) nhận làm đệ tử. Năm 1833, có chỉ thị cấm đạo, nên Ðức Cha gửi Minh qua học ở Penang. Năm 1833, Ðức Cha gọi Minh qua Calcutta giúp ngài biên soạn cuốn Dictionarium Anamiticum-Laticum (xuất bản năm 1838). Năm 1840 Ðức Cha qua đời, thầy Minh trở lại Penang tiếp tục học. Và năm 1846, thầy trở về VN và thụ phong linh mục.

Từ ngày thụ phong linh mục, Cha Minh sống chết với đoàn chiên và trải qua bao nhiêu gian lao thử thách. Cha bị bắt năm 1853, và bị lưu đầy lên Sơn Tây. Ngày 3-7-1853, Cha bị xử trảm quyết và quăng đầu xuống sông. Cha được tôn phong lên bậc Hiển Thánh ngày 19-8-1988

Là người thông minh, Cha Phan Văn Minh lại có năng khiếu văn chương thi phú. Cha sáng tác tập thơ chữ Nôm mang tên ‘‘Phi Năng (Pénang) thi tập’’, gồm 35 bài thơ lục bát và 94 bài ngâm vịnh của các thi sỹ khác.

Các vần thơ của Cha mang tâm tình của người ‘‘đạo trưởng’’, truyền lại những cái hay cái đẹp hấp thụ từ Penang về, một lòng tin tưởng vào ‘‘Chúa Trời Ðất’’ với lòng trung kiên quyết không ‘‘chối đạo’’ khảng khái tuyên xưng đức tin. Ở đây xin trích dẫn ba bài thơ ngắn.

. Tạ Ơn Ba Ngôi.

Ðội ơn Chúa Cả Ba Ngôi
Dựng nên muôn vật cho tôi hưởng dùng.
Chúa là vô thủy vô chung,
Thường sinh thường vượng, không cùng không sai.
Chúa là toàn đức toàn tài,
Suốt trong trời đất không ai ví tầy.

. Phán xét công bình

Hãi hùng kinh khiếp hỡi người ta!
Chúa xét công bình chẳng thứ tha
Công bằng mũi lông không khuất lấp
Tội dầu hơi cũng nghiêm tra.
Bấy giờ ngãi tử giao Thần Thánh,
Khi ấy tội nhân phú quỉ ma.
Bởi đó mười năm tua nắm giữ,
Rượu trà cờ bạc chớ mê sa.

. Bắt đạo

Lừng lẫy oai hùng tiếng đã rân,
Chỉ truyền cấm đạo khắp xa gần.
Thánh đường chốn chốn đều tiêu triệt,
Giáo hữu người người chịu khổ tân.
Linh mục giảo lưu, hình thảm khắc,
Cận thần trảm quyết, lính đồ thân.
Há rằng vương đế làm nhân chánh,
Sao nỡ phiền hà hại chúng nhân.

8. TẬP THƠ INÊ TỬ ÐẠO VĂN

Tập thơ vãn này đăng trong Dictionarium Anamiticum-Laticum của Ðức cha Jean Louis Taberd, in năm 1838, bằng 3 thứ tiếng Anh, Pháp, và Latinh, từ trang 110 đến 135, khổ lớn. Tập thơ không ghi tác giả. Ðọc nội dung thì thấy không phải Ià Thánh Nữ Lê Thị Thành mà đây là vị nữ tử đạo khác trùng tên thánh là Inê. Vị Nữ anh hùng này luôn biểu lộ đức tin Công Giáo sẵn sàng tuyên xưng Chúa Kitô, trung thành với Giáo Hội và tin vào diễm phúc tử đạo. Hơn nữa về dòng tộc, cha của Inê là Carolô, mẹ là Save. Inê là con thứ 8 của gia đình 12 anh chị em. Inê có anh cả là linh mục Loren Lâu. Năm 19 tuổi Inê lập gia đình với Mátcô sinh được hai con trai tên Nabê và Phaolồ. Năm Inê được 16 tuổi thì mẹ mất và năm 28 tuổi cha mất. (câu 1- 48).

Inê và phụ nữ khác tên Cầm Du cùng bị bắt và được ông nghè khuyên dụ nếu ‘‘Bay mà bỏ đạo Chúa Trời, trở về đạo Phật’’ sẽ được tha, không thì bị giết. Inê trả lời:

. Inê đặt gối trình qua: (câu 153-160)

Chúng tôi giữ dạo Chúa cha nhơn từ,
Thật đàng công chính chẳng tư
Tôi đâu dám bỏ công phu ngãi người?
Mặc ông tha thiết hai lời,
Tôi thà chịu chết, cõi trời nên công.
Giết tha thì mặc lượng ông,
Kim tạch là lòng chẳng chậy mỗ phân.

. Anh Mát Cô chồng của Inê vào thăm vợ trong tù: (câu 281-308)

Này đoạn Mát Cô càng thương,
Tìm lên viếng vợ tư lương thảm sầu,
Vợ chồng đạo nghĩa tào khương,
Con thơ nỡ bỏ lo lường làm sao?
Lìa nhau anh dám cãi nào.
Làm chi nên nỗi tù lao rạc hình
Inê lẳng lặng làm thinh.
Chồng càng than khóc vợ mình kể khuyên:
Sắt cầm từ thuở ấu niên
Nỡ nào li biệt cho an tấc lòng,
Dầu chẳng nên đạo vợ chồng.
Con thơ ai kể quan phòng dưỡng nuôi.
Má hồng mặt bạc mày môi,
Mình vàng vóc ngọc bỏ tôi chẳng nhìn?
Em hỡi nghe lời anh khuyên,
Sắt cầm giai lão nhơn duyên hiệp hòa.
Inê rằng: chước quỉ ma,
Nó toan làm hại hồn ta phen nầy.
Mát Cô anh đã tới đây,
Công linh nghĩa Chúa tôi rày trả ơn.
Anh thì ở lại chớ sờn,
Thìn lòng giữ đạo chẳng hơn cũng tày,
Ngày sau ta lại hiệp vầy.
Thương thì cầu nguyện hồn ngay thẳng về.
Ấy là ngãi đạo phu thê,
Chớ ra lòng mọn lỡi nghì chẳng nên.

. Chồng bồng con đến nhà tù thăm vợ. (câu 352- 365)

Inê lòng động thương ôi!
Thấy con kêu khóc nhuốm sôi hai hàng.
Muốn làm thinh vây cho an,
Lại e thất ý phu lang chăng là,
Cầu xin cùng Chúa nói ra,
Giúp tôi bền vững khỏi qua nạn này.
Mát Cô anh đã tới đây,
Thiếp giã ơn này, đã có lòng thương.
Bồng con trở lại gia đường,
Làm chi bịn rịn áp lòng dạ tôi?
Con nghe tiếng mẹ thốt thôi,
Kêu rằng: ớ mẹ, mẹ ơi chẳng về.
Mẹ càng chuyển động ngã kề.

Nữ anh hùng Inê bị nhốt một tháng, cha Loren được vào thăm và giải tội cho em, trước khi Inê tắt thở vì quá kiệt sức. Khi qua đời xác thánh tỏa ra mùi thơm lạ thường. Giáo dân được lãnh xác đem về an táng đàng hoàng trong đất thánh. Theo H. Ravier viết trong ‘‘Sử Ký Hội Thánh’’, (Hànội, 1934, Q 3, tr.270) thì Inê bị chết bỏ đói vào lễ Giáng Sinh năm 1700.

Viết bài trường ca tử đạo dài 482 câu này, tác giả muốn nêu gương sáng cho mai sau ở hai câu cuối:

Giáo nhơn học lấy làm lòng,
Giữ trong mười giái thì thông lẽ mầu.

9. KỊCH ÔNG THÁNH LÝ MĨ TỬ ÐẠO

(Imprimerie de la société de Mìssions Étrangères, Hong Kong. 1918)

Kịch bản này không ghi tác giả, và chia làm 5 cảnh: 1) Trong nhà lý Mĩ, nhà quê, gian giữa bày bàn thờ. 2) Ðình làng Vĩnh Trị. 3) Dinh quan Tuần Nam, cung đường. 4) Ngục thất. 5) Ông Thánh Mĩ tử vì đạo. Xin trích ba đoạn:

. Gia thế Thánh Mighê Mỹ. (Cảnh thứ I, tr.4-5)

Kể tắt truyện ông Lý Mỹ
Từ bè cho đến khi làm lý trưởng
Bài hát giáo đầu:
Hội Thánh ngày ngày thấy vẻ vang
Anh hùng nổi tiếng cõi Nam bang
Khắn khắn một niềm vâng Ðạo Chúa.
Ðinh ninh mang hưởng phúc Thiên Ðàng.
Một niềm mến phúc Thiên đàng.
Xả sinh thử nghĩa thật càng chóng lên,
Nay xin diễn tích tên lý Mỹ
Quán ở làng Vĩnh Trị huyện Yên,
Từ thuở bé lúc thiếu niên
Trí khôn sắc sảo lại chuyên tập thành
Trông coi sóc gia đình tiêm tất
Ngoài khu xử cách rất phân minh,
Sớm hôm đọc sách nguyện kinh
Lý tài lo giữ công bình liêm ngay,
Ðến khi gánh việc thay làng nước
Bề gia thất phó thác vợ coi.
Việc đời việc đạo hẳn hoi
Cổ kim nào thấy có ai sánh bày.
Ung dong dũng sĩ chí anh tài
Nam thiên lịch đại không đôi kẻ
Viễn cận trung gian dễ mấy người
Trung gian dễ có mấy người
Khôn ngoan sắc sảo đạo đời giỏi giang.

. Lời khuyên của bà Lý Mĩ lúc ẵm con thơ vào thăm chồng. (Cảnh thứ 2. tr. 46-47)

Phải, đã lâu nay cha con chẳng được gặp mặt, nhân khi mát giời, em đem con đi để anh ôm con lần sau hết (khóc) hi.. hi.. hi.. (gạt nước mắt). Nay Chúa định cho anh phải đòn vọt giam cầm vì Người, thôi thì em khuyên anh vững lòng chịu khó vì Chúa, chớ lo phiền về đường vợ con làm chi. Em nay dù ngậm đắng nuốt cay đi nữa cũng cam tâm phó thác mọi sự cho Chúa, trông rằng có ngày vợ chồng xum họp vui vẻ, anh ôi.

Bất bằng bỗng nổi cơn giông tố
Ðạo vợ chồng khôn biết thở than
Lòng thương chồng xiết nỗi tân toan
Công dạy trẻ không quản khó nhọc
Nhờ Chúa đã cho em sức vác
Xin anh hãy gắng sức cho bền
Vững vàng xưng đạo Chúa liên liên
Danh vọng ấy bia truyền Việt Pháp.

Lý Mĩ.
Sự khốn khó vì đâu bay buộc,
Ðạo phu thê chỉ nước thề non.
Xin em ghi tạc sắt son
Mạc mỗ danh liều vàng đá,
Phép vua càng đau dạ
Ðạo Chúa dám ngã lòng,
Khuyên em trở lại khuê phòng,
Nuôi con trẻ, hết lòng cầu nguyện.

. Con gái thánh nhân vào thăm cha (Hồi thứ 3, tr. 51-52)

Thị Mĩ. Chào các ông, xin các ông cho vào thăm thày tôi một chốc.

Lính canh. Con bé nào kia, vào thế nào được, không có phép, đi ra đi.

Bếp. Tội nghiệp con bé, thôi anh quyền, cho nó vào (chỉ tay vào thị Mĩ)

Lính canh. Cho vào một lát thôi nghe chưa?

Thị Mĩ. Dạ, cám ơn ông (rồi đi vào)

Lý Mĩ (thấy con chạy ra) Kìa con ra thăm thày đây ư? Ai đưa con đi thế? Sao hôm nọ con không đi làm một với mẹ con, hử?

Thị Mĩ. Hôm nọ mẹ không cho con đi, bảo rằng đường xa quá. Hôm nay con trốn đi ra thăm thày, con nhớ thày quá.

Lý Mĩ Ở con, thày cũng nhớ con lắm, song con đừng có lo, con cứ về giữ đạo hẳn hoi, vâng lời chịu lụy mẹ con, chẳng khỏi bao lâu con sẽ gặp được thày mãi mãi trên thiên đàng, đó con.

Thị Mĩ. Sao mình thày mâng mủ cả lên thế, các quan đánh thày đau lắm phải không?

Lý MĨ. Không hề gì, thày không đau, đã đóng xẹo cả rồi.

Thị Mĩ. Thưa thày, con thấy thày phải khổ sở thì con thương thày lắm, song dù thế nào, xin thày đừng khóa quá, thày cứ xưng đạo ra cho được chết vì đạo, thày nhé.

Lý MĨ. Con khuyên thày thế là phải lắm, thày sẵn lòng chết vì Chúa, con đừng lo. Thôi con đi về, tối sớm nhớ đọc kinh cầu nguyện cho thày vuối, nghe con.

Vở kịch kết thúc bằng đọc bản án xử trảm Lý Mỹ, do Minh Mệnh ký.

Cảnh thứ 5 : Ông Thánh Mĩ trên thiên đàng, một bài văn tế được đọc lên với câu kết:

Thánh ý nghìn trùng. Lòng thành một tấc,
Cứu cho người thoát đắm sông Mê
Ðộ lấy kẻ sa vời kẻ khổ.
Vui thay. Mừng thay
Thiên đàng cực lạc. (tr. 61)

II. CÁC THI SỸ TIÊN PHONG

Qua thế kỷ 19, chữ quốc ngữ phát triển và thịnh hành, làm thay đổi lối hành văn trong các tác phẩm văn học. Do đó, những nét văn hóa Công Giáo cũng ảnh hưởng theo. Nhiều nhà thơ Công Giáo xuất hiện với nhũng lời thơ trong sáng dễ hiểu.

1. Cụ sáu Trần Lục (Thanh Hóa, 1825-1899)

Phêrô Trần Lục có tên chính là Trần Hữu, sinh năm 1825, tại Mỹ Quan, Nga Sơn, Thanh Hóa. Khi nhập tu chủng viện Vĩnh Trị đổi tên là Triêm. Năm 1858, Thày Triêm lãnh chức Sáu (Phó tế). Vì thế quen gọi ngài là Cụ Sáu, hay Trần Lục. Thời Tự Ðức, Cụ Sáu Trần Lục bị bắt và tra khảo kìm kẹp và đày lên trại Lạng Sơn. Nhờ tài ba, thông thạo nho học nên được mời dạy học cho con các quan. Năm 1860, Cụ được phép về Kẻ Trừ chịu chức linh mục, xong lại trở lại trại tù cho đến ngày được thả, năm 1862. Sau đó Cha phục vụ tại Thanh hóa và Phát Diệm. Phần mộ ngài còn đặt trước cửa chính nhà thờ Phát Diệm.

Không được diễm phúc tử vì đạo, nhưng cha đã để lại sự nghiệp rất lớn lao về công trình kiến trúc và văn hóa. Ngày nay, quần thể kiến trúc khu nhà thờ Phát Diệm xây cất theo lối đông phương là di tích lịch sử để lại cho cả nước. Những bài ca vè, thơ văn của cha là kho tàng quí giá về văn hóa và giáo dục. Ðể ghi ơn Cha, triều đình VN và chính phủ Pháp đã trao tặng Cha nhiều huy chương.

Về văn hóa giáo dục, Cha đã viết:

1) TUỒNG THƯƠNG KHÓ quen gọi là tuồng ‘‘Bắt quân dữ ’’, diễn lại một cách linh động việc quân dữ bắt Chúa Giêsu trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Tuồng bản không có in thành sách. Các nghệ sỹ học và hát diễn thuộc lòng. Tuy nhiên những vị lão thành cho biết ‘‘Tuần Thánh mà xem Tuồng Thương Khó thì dễ nhớ, cảm động và sốt sáng. Tuồng được bổn đạo cũng như lương hoan nghênh lắm’’.

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, đến táng xác Chúa trong mồ. Cha Trần Lục đã sáng tác bài Than Mồ ‘‘Ðứng trước hiếu sơn’’, gồm 65 câu thơ, ghi lại cuộc đời Chúa Giêsu xuống trần gian, sinh ra tại Belem, sống ẩn thân trong gia đình ở Nazaret, ra giảng đạo tại Giêrusalem, trước khi chết trên Thập giá, đã lập ra phép Thánh Thể. Bản văn diễn ngâm bằng giọng bi ai, cốt để đánh động người tín hữu có chai đá khô khan mấy cũng phải se lòng. Mục đích đã đạt được trong phần kết luận.

Thương Chúa tôi, lạy Chúa tôi hằng sống vô cùng
Mà rầy thụ tử, cực nhẽ nguồn cơn là thế
Ðá cũng vỡ tan, màn cũng xé
Huống nọ con là loài linh tính
Nhẽ nào con còn uốn chín khúc trong lòng
Phương chi con là loài thấp hèn
Sao không chảy đôi hàng giọt lệ
Ấy năm dấu đanh là hoa nhuộm đủ mùi thơm
Ðể rửa sạch lòng trần ô uế
Vậy nay đứng trước hiếu sơn viếng nơi táng địa
Năm dấu thánh chắp tay kính lạy
Tích vào lòng cho đến lọn đời
Mười bốn đàng qùi gối ngắm suy
Trong cơn phúc để mà trả nghĩa...

2) VÃN DÂNG HOA là những bài dân ca theo điệu ca trù, thường hát khi dâng hoa vào tháng Năm, kính Ðức Mẹ. Cụ Sáu là người có lòng sùng kính Ðức Mẹ, nên đã xây nhà thờ lớn Phát Diệm để tôn kính Ðức Mẹ Mân Côi và chọn Ðức Mẹ Mân Côi làm quan thày của Giáo phận Phát Diệm. Vì thế, sau khi công trình xây cất nhà thờ xong, Cha đã cổ võ lòng sùng kính Ðức Mẹ. Tháng Năm là dịp giáo dân tụ họp kiệu hoa, sau đó vừa dâng hoa vừa hát vãn, được tập luyện công phu. Nội dung các bài vãn này rất thực tế, như:

Ðức Mẹ có ‘‘xin vâng’’ mới có Chúa Cứu Thế xuống thế làm người.

Chúc mừng Ðức Mẹ với tước hiệu là Mẹ Con Thiên
Xin dâng Mẹ với những đóa hoa tươi và cả tấm lòng trìu mến.
Xin ban ơn mưa thuận gió hòa, mùa màng đầy kho.
Khấn thương ban cho chúng con phúc thiên đàng.

Xin dẫn trích một vài đoạn:

- Trông cậy Bà vạn sự sa-ga
Là mẹ thật loài người
Xưa Chúa Lời
Sai con người
Xuống thế dân chuộc tội dân
Ngự trong lòng Thánh Mẫu thân đồng thân
Ơn phúc gồm lọn vẹn phân mười phân
Là nguồn mạch mọi ân
Ơn phúc lạ
Trong thiên hạ
Khắp cả dân gian
Mang tin hèn mừng rỡ hoan hỉ hoan.
- Mùi thơm ngát trên tòa kính đốc
Chúng con nay hiến thành cân bộc
Xin Ðức Bà rộng đức khoan dong
Bốn mùa hòa khí xuân phong.
- Mẹ rất khoan nhân từ thiên tính... cửa thiên đường
Quyền bính Chúa trao đoái thương xem con mọn ba đào.

3) CA VÈ là lối văn chương bình dân. Cha Trần Lục đã viết rất nhiều như là bài học giáo lý về Thiên Chúa, Ðức Mẹ, các Thánh, về luân thường đạo lý. Trong tập ’’Sách thuật lại ít nhiều ca vè Cụ Sáu đã làm’’ ghi lại ba bài dài: Hiếu Tự Ca (1088 câu), Nữ Tắc Thường Lễ (1016 câu) và Nịch Ái Vong Ân (440 câu).

Hiếu Tự Ca giảng giải về đạo hiếu người tín hữu Việt Nam phải có đối với tổ tiên và cha mẹ, và đây cũng là điều răn Thứ Tư Chúa truyền dạy: thảo kính cha mẹ.

Người mẹ sinh con, người cha nuôi dưỡng. Cả hai cùng trách nhiệm giáo dục con cái nên người, lo dựng vợ gả chồng cho con, và nhất là chỉ bảo con cái giữ đạo hẳn hoi.

- Phần hồn thì Chúa sinh ra
Xác này Chúa phó mẹ cha sinh thành.
Phụ tinh mẫu huyết đúc hình
Cho ta toàn vẹn mà sinh làm người.
- Cha thì tối sớm băn khoăn
Lo sao cho được thành thân sau này
Ân cần các việc bề ngoài
Dạy con cho biết làm người hẳn hoi
Mẹ cha lo mãi chẳng rồi
Lo dần từng thí từng hồi chưa xong.
- Mẹ cha mỏi miệng mỏi môi
Dạy việc đạo đời hiếu đễ cho con.

Bổn phận làm con là phải báo đáp công ơn, bằng nghe lời các ngài răn dạy và trao tặng chút ít vật chất khi có thể. Giữ tròn chữ hiếu là trung thành lề luật Chúa. Thiên Chúa biết và thưởng công xứng đáng những người con hiếu thảo. Ðọc ở mấy câu kết luận.

Hãy hãy lắng tai nghe lời Chúa hứa
Ai hết lòng thảo hiếu mẹ cha
Sẽ ban phần thưởng này là
Sống lâu dưới thế để mà trả công
Về sau phúc trọng muôn phần
Chúa còn trả lại vô cùng hẹp chi
Mãy lời hiếu tự phải ghi
Chôn lòng mà giữ chớ khi nào rời. Amen.

Nữ Tắc Thường lễ là những chỉ dẫn riêng cho chị em nữ giới, khi còn xuân xanh đến khi lập gia đình, có con có cháu, về công việc làm, giữ gìn vẻ đẹp, trau dồi đức hạnh, khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói, và biết cách cư xử ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Người con gái ngoan được đánh giá cao vẫn là người con hiếu thảo và có giáo dục.

Nữ nhi bay cũng phải nghĩ suy
Cá không ăn muối ắt cá ươn
Làm người có dạy có khôn
Các điều dạy dỗ phải chôn vào lòng.
Trong gia đình, tác giả nhấn mạnh cần chăm chỉ làm việc.
- Thứ hai ta lại nói dần
Cách ăn nết ở về phần nữ nhi
Dạy dậy sớm, thức thức khuya
Chẳng kỳ việc gì dọn dẹp liền tay.

Muốn nên người, nữ nhi phải sửa đổi tính tình, như tỵ hiềm, bất hòa, nghe chuyện người khác, nói xấu, đặt điều không hay, bỏ vạ cáo gian.

- Lại còn tính khác chưa xong
Ấy là bất thuận bề trong bề ngoài
Chẳng ưa chẳng phục ai
Ðiều lành nhẽ phải gác tai mọi nhời
Lấy mình là phải hơn người
Kẻ trên người dưới không ai bằng mình.
- Nữ nhi vẫn có thói thường
Nói hành nói tỏi lại càng không nên
Ngồi lê mách lẻo thói quen
Nói hay bếp xép thì hèn mà hư.

Nịch Ái Vong Ân là bài học cho thanh niên. Họ có hai bổn phận đối với vợ và cha mẹ hai bên. Với vợ, người chồng phải rộng lượng, để yêu thương và sống kiếp ở đời với nhau. Vợ chồng sống thuận hòa, không còn là hai mà là một.

Phép vợ chồng một xương một thịt
Ðền công ơn sống chết cùng nhau...
Ở ăn khép tắc thuận hòa
Chớ đừng khó mặt mới là người khôn.

Tác giả nhắc vợ chồng đừng quên sống công bằng bác ái, thương giúp đỡ người giúp việc trong nhà và người bất hạnh khi gặp.

Lại phải thương con nhà nghèo khó
Chớ ra điều cậy có bao giờ
Mồ côi cũng chớ làm ngơ
Mù què thương xót tóc tơ bù chì
Ðừng sân si với người già cả
Kẻ bầy vai chớ khá khinh thường
Vai dưới lại càng phải thương
Ðể lòng giữ kỹ đạo thường người ta.

2. GIÁM MỤC NGUYỄN BÁ TÒNG (Gò Công,1868-1949).

Tác giả TUỒNG THƯƠNG KHÓ

Khi còn làm phó xứ Tân Ðịnh, Sài gòn, Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng đã nổi tiếng về diễn giảng hay và viết bài cho báo Nam Kỳ Ðịa Phận (Sài gòn), báo Vì Chúa (Huế). Năm 1911 Linh mục J.B. Tòng viết Tuồng Thương Khó và được khởi diễn nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập chủng viện Sài gòn (1863-1913). Dịp đại lễ kỷ niệm này, tuồng được diễn 5 lần: Chúa nhật 13-4-1913, vào 4 giờ chiều; Thứ Tư chính lễ 16-4-1913, vào 7 giờ tối; Chúa nhật 20-4-1913, 4 giờ chiều; Thứ Ba 22-4-1913, 7 giờ tối và Chúa nhật 27-4-1913, 4 giờ chiều. Vé xem tuồng bán tại tòa báo Nam Kỳ Ðịa Phận, ở Tân Ðịnh, và nhà các cha sở, vé hạng nhất giá 2 $, hạng nhì 1$, hạng ba 0$ 50. Sau này tuồng có diễn tại Bà Rịa (1917), Tân Ðịnh (1924). Năm 1933, Ðức Cha Tòng được chọn làm giám mục Phát Diệm, và tuồng này được diễn tại Phát Diệm (1934) và nhiều nơi tại miền Bắc. Lần nào diễn, số khán giả xem rất đông.

Tuồng Thương Khó viết theo sách Gẫm sự thương khó Chúa Giêsu Kitô và bản văn ngoại ngữ đã được trình diễn ở Oberammergau (Ðức) và Nancy (Pháp). Vở tuồng chia làm hai phần:

- Phần thứ nhứt: từ khi Ðức Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cho đến khi Giuđà nộp Người.

- Phần thứ hai: Từ khi Giuđà nộp Ðức Chúa Giêsu cho đến khi Người sống lại.

Dưới đây trích dẫn hai màn:

. Ðức Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông Ðồ

Vêrô. Lạy Thầy, vậy Thầy ăn lễ Phanxica với chúng tôi lần này là lần sau hết sao?

ÐCG. Phải, lần này là lần sau hết. Song bởi các con đã chịu gian nan bắt bớ cùng Thầy, thì các con sẽ đặng ngồi cai trị cùng Thầy trên nước Ðức Chúa Cha. Các con sẽ ăn uống một bàn cùng Thầy, và sẽ ngự tòa mà phân xử mười hai đoàn dân Isarae. Nhưng vậy đệ tử hãy chiêm nghiệm điều này: là vua chúa thế gian thì dùng quờn, mà trừng trị thế gian. Song đệ tử đừng làm thể ấy, mà lại ai lớn hơn trong các con, thì phải làm nhỏ, còn kẻ có quờn thì phải ở như người tôi tớ. Ðệ tử hãy xét: kẻ ngồi ăn với người dọn ăn, ai trọng hơn? Chẳng phải là kẻ ngồi ăn trọng hơn sao? Mà bấy lâu Thầy ở cùng đệ tử khác nào kẻ dọn, cùng như tôi tớ. (ÐCG cởi áo ngoài, lấy khăn nịt lưng và đổ nước vào trong chậu) Hỡi đệ tử yêu dấu, hãy ngồi.

Tông Ðồ (nói cùng nhau) Không biết Thầy tính làm gì đây?

ÐCG. Vêrô, hãy cởi giày.

Vêrô. Lạy Chúa, Chúa toan rửa chơn tôi sao?

ÐCG. Việc Thầy làm, bây giờ đệ tử chưa hiểu ý, mà đến sau sẽ rõ.

Vêrô. Không, không khi nào tôi dám chịu.

ÐCG. Nếu Vêrô chẳng để Thầy rửa, thì chẳng còn nghĩa cùng Thầy.

Vêrô. Nếu vậy thì chẳng những rửa chơn mà lại xin Thầy rửa tay và đầu nữa. (hồi thứ VI, tr. 21-22)

. Hạ xác Ðức Chúa Giêsu.

Madalenna. Kẻ nghịch đã đi hết rồi, bây giờ chúng tôi mới an lòng, vì đây là của trọng vô giá. Ôi ôi! biết Ðức Mẹ đau lòng xót dạ là dường nào!

Ðức Mẹ. Ớ các con. Hãy coi chúng nó đã làm cho Người hư nát cho đến nỗi nào!

Matta. Ðó là việc cứu chuộc loài người. Ðức Mẹ đã cực lực vì chúng con lưỡi nào kể đặng.

Gioang. Xin Ðức Mẹ ngồi đây. Chúng con lo việc phong phần (Giude Arimathia, Nicôdêmô và Gioang lo việc hạ xác. Ðoạn Giude ôm xác Ðức Chúa Giêsu để trong lòng Ðức Mẹ). Xin Ðức Mẹ hãy chịu lấy xác con Ðức Mẹ.

Ðức Mẹ. Ôi ôi ! Nó trả con tôi lại cho tôi như vầy!

Gioang. Lạy Ðức Mẹ, chúng con mới hiểu lòng Người yêu dấu chúng con quá hậu.

Madalenna. Nhờ đó, chúng con mới rõ lòng Người yêu dấu chúng con quá hậu.

Nicôđêmô. Xin Ðức Mẹ để chúng con ướp thuốc thơm, rồi liệm xác Người trong bức kh#n nầy.

Madalenna. (đổ thuốc thơm dưới chơn Ðức Chúa Giêsu). Lạy Thầy tôi đổ thuốc thơm nơi chơn Thầy. Phen nầy là phen sau hết.

Giuse Arimathia. Bây giờ ta hãy đem xác vào vườn, mà táng trong huyệt đá.

Ðức Mẹ. Ớ Giêsu, Con ôi! Này là việc sau hết Mẹ làm cho Con là đem con đi phần mộ. Xin Con đừng để Mẹ xa Con lâu ngày, một cho Mẹ hiệp vầy cùng Con cho kíp.


3. GIÁM MỤC HỒ NGỌC CẨN (Huế, 1876 -1948)

Ðức Cha Ða Minh Hồ Ngọc Cẩn là một thiên tài. Trong cương vị là linh mục coi xứ đạo (1902-1910), Giáo sư chủng viện (1910-1924), Bề trên dòng Thánh Tâm (1924-1935) Chủ bút nguyệt san Linh Mục Ðông Dương (Sarcerdos Indosiensis, từ 1935) rồi làm giám mục (1935-1948), Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Ða Minh bán nguyệt san (1939-1946)... công việc nhiều như vậy, mà Ðức Cha đã viết đến 248 bài, tác phẩm lớn nhỏ, dưới nhiều hình thức văn thơ khác nhau.

Các tác phẩm của ngài được đăng trên báo Nam Kỳ Ðịa Phận, Lời Thăm, Ðông Dương tạp chí, Vì Chúa, Ða Minh bán nguyệt san, Nam Phong tạp chí, Nam Kỳ tuần báo, Thời Mới... dưới nhiều bút hiệu khác nhau, như : Hồ Ngọc, Ngô Tri Dược, Ngô Ðồng Hành, Ngô Ký Vãng, Ngô Tri Lễ (Luận), Ngô Ký Ẩn, Ngô Tương Ai, Ngô Ðiều Trần, có khi chính danh là Hồ Ngọc Cẩn hoặc viết tắt : Ð.H.N.C. Số lượng sáng tác của Ðức Cha còn có thể nhiều hơn, chưa được phổ biến. Ðây là một công trình văn hóa vô cùng qúi báu.

Ðức Cha thông minh tài trí, viết nhiều, và nhanh về mọi vấn đề. Có thể xếp nội dung tư tưởng các sáng tác về văn xuôi và thơ của Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn vào những chủ đề chính sau: Bài học giáo lý và luân lý, trung tâm mục vụ, đào tạo tu sỹ, huấn luyện giáo dân, giáo dục và sách giáo khoa, các dịp đại lễ và đời sống hằng ngày và dược tính,

1) Bài học Giáo lý và Luân Lý

Bổn phận hàng đầu của con người là thờ kính Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vũ trụ, muôn loài và loài người :

Giữa trời có một Chúa Trời
Hằng có đời đời vô thỉ vô chung
Thiêng liêng sáng láng vô cùng,
Oai quyền phép tắc khoan dung tốt lành...
Ðời này giữ đạo cho nên,
Phượng thờ Thiên Chúa để đền công ơn.
(NKÐP. số 447, tr. 533-535)
Kính mến Ðức Mẹ với cả tấm lòng con ngoan:
Thành tâm thờ Mẹ Chúa Trời
Sống đà khỏi sợ, chết thì hỉ hoan;
Làm cơn khổ hãi gian nan,
Có Người bàu chữa, ủi an dắt dìu;
Vậy khuyên con hãy mến yêu,
Cùng làm tôi Mẹ chớ liều bơ vơ.
(NKÐP. Số 431, tr. 279-281)

Kế đến là đạo hiếu, đạo nhân và nghĩa vợ chồng. Hiếu với cha mẹ, đền đáp công ơn sinh thành. Nhân với bạn bè xung quanh và sống trọn nghĩa vợ chồng với nhau.

Với cha mẹ vẹn tình thâm,
Lòng ghi chữ hiếu, tay cầm chữ trung;
Với anh em dạ phục tùng,
Với người thiên hạ lòng cùng chung yêu;
Phận mình trăm nết đừng xiêu,
Cách ăn thói ở mỗi điều mỗi hay;
Sống như vậy khá vui thay,
Chết rồi lại đặng muôn ngày hỉ hoan.
(Sinh vô nhục, tử vô ưu. NKÐP. Số 518, tr. 40-41)

Ðức Cha khuyên riêng vợ chồng :

- Loài người lớn trọng cao sang,
Nếu không giữ vẹn lại càng xấu thay.
Làm chồng hãy nhớ phận chồng,
Nhìn xem nét chữ dặn lòng chớ quên. (KHUYỂN THÁI PHU LUẬN, Nam Kỳ Ðịa Phận, số 217, tr. 138-139)
- Chồng khôn ngoan cam gan nhịn vợ,
Vợ đạo đức gắng sức nhịn chồng. (NHỊN NHỤC NHAU MỖI KHI LỖI LẦM, NKÐP. Số 271, tr. 181-182)

Cờ bạc, rượu chè luôn là tệ nạn xã hội, cần xa tránh mới gìn giữ hạnh phúc gia đình lâu bền.

Làm người cần có ‘‘Ðức, Chí, Nhơn, Tâm, Ngôn, Tín, Chính, Trực’’

Luận về chữ Ðức:
Trau dồi vặc vặc giữa trần ai,
Hai chữ trực tâm phải nhớ hoài.
Bộ bước nước đi bằng chính đính
Thói ăn nết ở chớ gì sai. (NKÐP, số 394, tr. 470-471)

Chữ Chí: Qúi thay cái miệng học trò,
Biết đo trường đoản, biết dò thị phi.
Khen lòng quân tử tao trì,
Lâm tai chẳng biến, gặp nguy không dời.
(NKÐP. Số 376, tr. 217-218)

Chữ Nhơn : Một người giữ trọn cả hai,
Hai người như một ấy người có nhơn.
(NKÐP. Số 390 tr. 440-442)

Chữ Tâm: Lòng người khi ám khi minh,
Nguyệt tà thành tượng tam tinh điểm đầu.

Chữ Ngôn: Nói ra khôn nỗi rút lời
Hãy suy cho chín đoạn thời nói ra.

Chữ Tín: Làm người chớ khá xuyên hoa,
Nói ra nhầm lý ấy là nên tin.

Chữ Chính và chữ Trực:
Nẻo tà có bảy có ba,
Ðàng ngay có một ấy là đinh ninh
Có câu thập mục đừng khinh,
Hãy dặn lấy mình mà ở cho ngay

Và nhiều bài khác về: Nhơn Ðại Thiên: nói về 3 chữ nho: Nhơn là người, Ðại là lớn và Thiên là Chúa. Chớ đoán sai (điều răn thứ Tám). Ðức hiếu thảo (điều răn thứ Tư). Ðức Chúa Trời phạt kẻ bất hiếu. Cờ bạc, rượu chè. Tửu trung tài thuợng. Nhịn nhục nhau mọi khi lỗi lầm. Phước họa thị phi chân bửu giám (Bảy phép bí tích). Triết nhơn tri kỷ (biết mình). Quê ta ở đâu? Dạy con biết đàng kính mến Ðức Chúa Bà. Ðức Chúa Bà tự tích vãn. Niên chung nguyệt tận. Trái tim Chúa Giêsu. Triết nhân tri kỷ. Ơn Chúa mềm mại. Cõi trần thế. Năm cũ đã qua. Huynh đệ như thủ túc. Hiếu ư thân sở. Ðạo nguyên xuất ư thiên.

Trong bài ‘‘Sinh vô dục, tưữ vô ưu’’, có tư tưởng về công phúc.

Sống lành Chúa mến người yêu
Chết rồi lại đặng nhiều điều thơm danh.
Nhiều gương xưa tỏ đành rành
Ðời nay còn có người lành gương treo

2) La Vang sự tích vãn gồm 324 câu thơ lục bát, cho phép imprimatur của Ðức Cha Alxandre Paul Chabanon, Vicaire Apostolique, Huế ngày 20-07-1932.

Trong lời minh bạch ở đầu Ðức cha Cẩn cho hay ‘‘vãn kể sự tích La Vang từ thuở sơ khai cho đến khi kiệu đại hội Iần thứ nhứt năm 1601. Vãn này ai làm chẳng biết làm hồi nào cũng bất minh. Có lẽ mà đoán đã làm năm 1901... Văn chương không tao nhã là bao... Tôi chỉ sửa mấy tiếng trúc trắc quá và bỏ bớt mấy khúc không cần. (Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam. tr.525).Xin trích dẫn những điểm chính:

. Ðịa thế hiểm trở, đầy thú rừng cheo leo:

Trời sinh cái chốn lạ lùng
Tự nhiên giữa nên cung Chúa Bà:
Truyền rằng có một cây đa,
Mọc lên giữa núi diềm dà tốt tươi.
Ngày thì hạc phụng dạo chơi,
Ðêm thì hổ báo chầu nơi linh hoàng.
Chốn này thanh vắng nghiêm trang,
Hai bên khe ruộng giữ làng La Vang. (c 1-8)

. Hình ảnh khi Ðức Mẹ hiện ra được ghi qua truyền tụng.

Thơ rằng: Chúa Cả Ba Ngôi
Hộ phù giáo hữu, vài lời thông tin
Rằng: Ðức Mẹ hiện xuống thánh đền
Bồng thánh tử trọng nên là trọng
Ðội mão vàng sang quá đỗi sang. (c. 127-131)

. Những ơn lạ Ðức Mẹ ban cho cả lương giáo.

- Rất oai vang chữa người bệnh hoạn
Hóa phép lạ cứu kẻ gian nan
Những chúng lâm nạn khổ bức,
Ðều nhờ Mẹ trăm thức nhiệm mầu
Dẫu lương giao khắp xứ đâu đâu,
Ðều đến đó khẩn cầu khấn vái. (c. 132-137)
- Truyền rằng: Ðức Mẹ hiện hình
Tay bồng Ấu Chúa oai linh vô cùng.
Cứu người vô chốn sơn trung
Khỏi lâm vuốt hổ, miệng hùm, răng beo. (c. 203- 206)

. Kiệu lần đầu tiên vào ngày 13-07 năm (?). Sau kiệu có lễ hát và chầu Phép Lành. Kiệu xong, người ta hái lá cây ‘‘đem về cất lấy khi đau mà dùng’’ (c. 320)

3) Hai bài thơ nổi tiếng của Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn:

. Triết nhơn tri kỷ (Người khôn ngoan thì biết mình)

Khuyên người hãy biết lấy mình,
Triết nhơn tri kỷ, sử kinh dặn lời;
Dẫu thông mọi việc trong đời,
Phận mình không biết ắt thời luống công;
Luống công ấy sự đã xong,
Lại thêm mắc lỗi lại không biết mình;
Biết mình mới thật văn minh,
Mới nên quân tử mới thành trượng phu.
Muôn loài thảy có chân nguyên,
Ấy là chính lý đương nhiên giữa đời;
Kìa xem cảnh cuộc đất trời,
Nếu không Thiên Chúa vậy thời ai sinh?
Và thêm nhiều chứng đinh ninh,
Hiển nhơn ghi chép sử kinh di truyền,
Chữ Thiên, Thượng Ðế, Hoàng Thiên,
Tuy dầu khác hiệu, ý duyên cũng đồng.
Lòng người phải xét cho thông;
Biết mình cho tốt, mới xong con người.
Giữa trời có một Chúa Trời,
Hằng có đời đời vô thỉ vô chung;
Thiêng liêng sáng láng vô cùng,
Oai quyền phép tắc khoan dung tốt lành;
Chí công chí thánh chí thành,
Dựng nên muôn vật tạo sanh nhơn loài;
Ấy đều chân thật không sai,
Khuyên người quân tử nhớ hoài đừng quên.
Ðời nầy giữ đạo cho nên,
Phượng thờ Thiên Chúa để đền công ơn.
Biết mình hồn tính thiêng liêng,
Xác dầu có chết hồn nguyên sống đời,
Sống đời ắt phải về nơi,
Thiên đàng Ðịa ngục mặc thời thân ta;
Lành không cứ, dữ không xa,
Thiên đàng đà hỏng, lại xa địa hình;
Tu thân tích đức thìn mình,
Ðịa hình ắt khỏi, Thiên đàng đặng lên;
Bấy lời hãy nhớ đừng quên,
Biết mình như vậy mới nên nhân hiền.
(NKÐp. Số 447, tr. 533-535)

. Tu thân huấn đức
(bài thơ chữ Nho này chỉ truyền miệng, được Lm Vũ Ðình Trác ghi lại và dịch:

Ly thân ly thận ly thần,
Luyện thân luyện thận luyện thần đạo tu
Vô phu vô phụ vô phù,
Vi phu vi phụ, phụ phù sinh linh.
Hồn linh tâm tĩnh tính tình,
Minh tinh dạ tĩnh dục tình bất dao.
Như tao kiến tạo bất tào,
Ba tao thủy táo vô tao loạn thần.
Chấp cân chính cận công cần,
Phục trung nghi cẩn ân cần lễ nghi.
Minh tri lịch trị chí trì,
Chí trì hữu trí, tốc trì hữu canh.
Sự thanh đắc thịnh ý thành,
Vinh thanh hiển thánh lộc thành thiên cung.

Bản dịch của Lm Vũ Ðình Trác:

Bỏ mình, bỏ thận dục, bỏ thê noa,
Luyện thân luyện thận luyện tinh thần tu.
Không chồng, không vợ không mộng ảo,
Làm cha làm mẹ để giúp đỡ mọi người.
Hồn trong tim sạch, đúng tính ngay tình,
Như sao sáng đêm thanh, dục tình không động.
Thanh tao, xây dựng, không ồn ào,
Sóng tình khô cháy, không trong, loạn trí.
Cầm cân nảy mực cho ân cần,
Phục vụ cho đúng, lễ nghi nghiêm chỉnh.
Thông suốt, biết cai trị, giữ trí lực,
Bền chí thì sáng, buông trôi thì lộn xộn.
Thanh liêm ngay thẳng sẽ thành tựu,
Siêu thăng vinh hiển, phục lộc thiên đàng.
(Công Giáo VN trong truyền thống Văn hóa dân tộc, tr. 118-119)

Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn là người thông thạo chữ Hán, Latinh và tiếng Pháp. Nên trong thơ văn ngài viết có nhiều chữ Hán. Nhưng không phải vì vậy mà lời văn khó hiểu hay tối nghĩa, trái lại lời văn trong sáng và dễ hiểu. Ðúng như khẩu hiệu giám mục của ngài là ‘‘Kiên nhẫn giảng dạy’’ (In Omni patientia et doctrina)


4. TUẦN BÁO NAM KỲ ÐỊA PHẬN (Semaine Religieuse)

Tuần báo Nam Kỳ Ðịa Phận phát hành vào thứ năm trong tuần, in tại Imprimerie de la Mission Saigon - Tân Ðịnh và Imprimatur của Ðức Cha Mossard, Vic. Ap.

Số 1, ra ngày 26 Nomvembre 1908, và đình bản ngày 01-01-1945, số 1845. Mục đích và Nội dung đã được trình bay trong ‘‘Bổn Quán kính cáo’’: Trong Nhựt báo sẽ biện luận về những điều sau nầy: Ðạo Lý, Phong hóa, Bá nghệ, Bát học, và Văn tín. Ngay cuối lời mở đầu thấy tóm gọn bằng mấy vần thơ mộc mạc :

Nam Kỳ Ðịa Phận Nhựt trình chung,
Lương giáo hai bên mặc thích dùng:
Giáo, Hóa, Công, Văn, bày lẽ chánh,
Sĩ, Nông, Công, Cỏ, tỏ đường cùng,
Dám khuyên chư vị lòng quang cố,
Hãy rán với nhau đau vốn hùn;
Như thế mau mau vào tấn bộ,
Ất là hồn xác đặng vui hung.
(CẦU KHO, NKÐP số 1, 1908, tr. 4)

Mỗi số có nội dung gồm các mục: Tòa Thánh Roma, Châu Tri Ðức Giám Mục Ðịa phận Sài gòn, Lời Kinh Thánh, Ðạo Lý, Hạnh Các Thánh, sự tích phép lạ, Những gương lành, sự tìch các cha đã qua đời. Phong Hóa, Thương mãi, Nuôi súc vật, Thiên văn, Thi Phú và Ca vịnh, Truyện giải buờn, Chữ Quốc Ngữ tân văn, Các bài thuốc.

Riêng mục Thi Phú và Ca vịnh rất phong phú và tư tưởng đa dạng. Linh mục P. Lục, người Qui Nhơn đã viết loạt bài về ‘‘Văn Chương An Nam’’ (Littérature) Khởi đăng từ số 176 năm 1912, (ttr. 297-301), và các số tiếp sau, số 178, (ttr. 363-365), số 181 (ttr. 379-382), số 182 (ttr 411-414), số 184 (ttr. 428-431). Từ số 190, Ngô Hữu Công viết thay cha P. Lục mắc việc khác, (ttr. 520-524), số 192 (ttr. 559-566), số 194 (ttr. 688- 689), số 196 (ttr. 717-719), số 202 (ttr. 816-817), số 203 (ttr. 833-836), số 205 (ttr. 865- 868) số 207 (ttr. 894-895).

. Nói về đạo Thiên Chúa:

Lược bày đàng đạo Chúa trời,
Thánh kinh chép để mọi lời đinh ninh;
Thuở còn trời đất chưa sinh,
Ðã có một Chúa chí linh đời đời;
Thường sinh tự hữu toàn tài,
Chí phán một lời trời đất liền phân. (NKÐP. số 181, tr. 380)

. Về Tạo Hóa

Chữ rằng: sự hữu thì chung,
Vật phân bổn mạt, lẽ công chẳng tà.
Ấy là Ðại Phụ người ta,
Chánh giao gọi là Tạo hóa càn khôn.
Chí linh, chí mĩ, chí tôn,
Vô thinh, vô xú, toàn thân toàn tài;
Nhứt ngươn tự hữu đâu hai?
Thường sinh, thường vượng có a bằng Người
(NKÐP. số 181, tr. 381)
Khuyên đừng ham hố sự đời này,
Ðổi chác nên hư có một giây.

. Sinh nhật Ðức Mẹ

Hôm nay Ðức Me sinh ra,
Khắp Hội Thánh tung hô tán tụng;
Ðặng tin lành hoan hỉ bội gia:
Khấp khởi tợ cá khô đặng nước,
Hớn hở như hạn cả gặp mưa.
Muôn dân còn trong chốn tối tăm,
Mầng thấy Sao mai đã tỏ rạng... (NKÐP. số 183. tr. 411)

. Một sự nhịn chín sự lành:

Ðã hay khôn khéo nào quá lẽ,
Câu nhịn đã hơn, mà lại khỏe,
Giụm miệng đua khôn khuấy nhỏ to,
Thìn lòng giả dại yên già trẻ;
Làm thinh nghĩ nghị có khi hơn,
Hống tống láu lau không thể nhẹ,
Cãi cọ kìa ai dặn những người,
Giả ngu qua ải, ca thường kẻ.
(Ð. Hồ Ngọc Cẩn, NKÐP. số 278, 14-3-1914, tr. 298)

Hàng năm số đầu năm nêu ra lập trường cho cả năm qua bài Minh Niên Khánh Hỉ:

Mừng Chư Tôn đôi chữ ninh khương,
Mọi sự bình an trong năm mới;
Chúc Qúi Vị một câu vinh thới,
Trăm đều thạnh lợI trần gian.
Thạnh bề gia thuộc thạnh bề cuộc sinh giai,
Phụ tử phu thê đồng hòa hảo;
Lợi nghiệp nông tang lợi đàng thương cổ,
Sư đồ bạo phụ thảy vinh vang.
Ðàng đạo hạnh càng ngày càng tấn tới;
Bước Văn minh một lâu một chững chàng.
Cuộc Nam Kỳ khai sáng có sáu năm,
Cám ơn trên đủ lòng quảng cố;
Tờ nhựt báo phát ra nhiều số,
Nhờ Chư Vị hứng dạ khán quang.
(NKÐP, số 317, 11-2-1915, tr. 89)

Ngoài thơ, thể văn suôi hoặc dịch đã chiếm nhiều trang của số báo để dạy giáo lý, chú giải Kinh Thánh, lịch sử Giáo Hội, gương các Anh Hùng Tử Ðạo VN, tiểu sử các linh mục VN hay Thừa Sai,

Mỗi số nơi trang 1, có phần Lời Kinh Thánh phần bài giải thích bài Phúc Âm Chúa nhật do Mathêu Ðức phụ trách. Dưới đây trích dẫn một câu Phúc Âm trong lễ Chúa nhật I sau Lễ Phục Sinh:

‘‘Chiều bữa ấy là ngày thứ nhứt trong tuần, khi cửa nẻo còn đóng lại, nơi môn đệ thâu hiệp cùng nhau, vì sợ quân Giudêu, thì ÐCG đến, và đứng ở giữa mà phán cùng phô ông rằng : Bằng an cho bay. Phán lời ấy đoạn, người tỏ cho phô ông ấy xem hai tay và cạnh nương long. Vậy các môn đệ vui mừng, vì đã thấy Chúa’’ (Ga. 20,19-20). (NKÐP, số 323, 1-4-1915, tr. 177)

Nam Kỳ Ðịa Phận còn dịch cả Cựu Ước, câu chuyện Abraham vâng lời đem con lên núi giết con làm của lễ.

‘‘Rồi người lấy củi, chất lên vai Isaac, còn người thì cầm gươm và lửa mà đi. Hai cha con lẳng lặng bước tới kế một bên, Isaac bèn lên tiếng:

- Cha nè!
- Giống gì con?
- Lửa củi thì có đây, còn con thịt mà tế lễ ở đâu?
- Chúa sẽ lo cho có, ớ con.

Ðoạn cả hai cha con cứ trèo riết lên núi, mà chẳng nói lời gì nữa. Tới trên chót vót, ông Abraham làm một bàn thờ, sắp đóng củi lên trên ấy. Rồi mới nói lại cho con hẳn mọi lời Chúa dạy đầu đuôi thế nào. Isaac nghe tỏ sự tình bèn dâng mình theo ý Chúa, như con chiên thanh sạch, chẳng chút chạy trốn chống trả, một để cho cha trói mình lại, mà đặt trên đống củi trên bàn thờ. Chúc ấy, cha bèn giơ tay tuốt gươm ra, hòng chém xuống, vừa nghe một tiếng trên đầu mình kêu:

- Ớ Abraham, Abraham!
- Lạy Chúa, này tôi đây.
- Mầy hãy hạ gươm xuống, và chớ khá động đến con trẻ. Rày tao biết mầy kính sợ (Ðức Chúa Trời, vì mầy chẳng nệ, một sẵn lòng tế lễ con một mầy cho đặng vâng lời tao. (NKÐP. số 347, 16-9-1915. tr. 561)


5. LINH MỤC NGUYỄN VĂN THÍCH (Huế, 1891-1978)

Linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích sinh 22-8-1891, tại Bình Ðịnh. Song thân là cụ Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại (1858-1945) và bà Thân Thị Vỹ (1862-1946). Từ nhỏ cha theo học trường Dòng Pellerin tại Huế. Năm 1911, sau ba năm cầu nguyện, cha lãnh nhận phép Rửa Tội. Năm 1917, nhập tu chủng viện An Ninh Quảng Trị, và Phú Xuân, Huế. Thụ phong linh mục năm 1926. Cha Nguyễn Văn Thích đã đảm nhận các công việc: Giáo sư trường Thiên Hựu (1926-1937), Tiểu chủng viện An Ninh (1937), Tuyên úy rồi tổng tuyên úy Hướng Ðạo (1942), Nhiếp chính địa phận Huế (1948), Tuyên úy nữ sinh và tham gia ủy ban Ca Kịch và Sách báo (1961). Từ 1970 giáo sư chữ Hán và Triết Ðông tại Ðại Học Huế và Sàigòn. Cha qua đời ngày 9-12-1979, tại Huế. Cải táng năm 1982.

Mười năm sau khi thụ phong linh mục, Cha Nguyễn Văn Thích đã sáng lập và chủ bút báo Vì Chúa. Báo đình bản năm 1945. Sau đó Cha cộng tác bài vở cho tạp chí Tổ Quốc (1945-1948), nguyệt San Vinh Sơn (1949-1958), nguyệt san Nguồn Sống (1958-1961), và Cổ Học Súy Hoa. Khi viết báo cha lấy bút hiệu Sảng Ðình, hay ghi tắt J.M.Thích, J.M.T. Cha đã sưu tập và xuất bản ‘‘Cổ Việt Phong Dao (1968). Nguyệt San Vì Chúa đã xuất bản Sảng Ðình Thi Tập. Sách dày 126 trang gồm 5 phần: Thơ Quốc Văn, Thơ Hán Văn, Thơ Pháp Văn, thơ dịch Hán Văn và Thơ dịch Pháp Văn. Một điểm cần ghi nhận là cha Nguyễn Văn Thích là con cụ Nguyễn Văn Mại. Cụ thân sinh hai lần đậu phó bảng (1885 và 1889), được bổ làm Hàn Lâm Viện. Nhiều lần làm chủ khảo các khoa thi Hương và thi Hội, và làm Thị Lang Bộ Học (1911-1912). Cha Nguyễn Văn Thích đã được hấp thụ và ảnh hưởng giáo dục lẫn văn chương của thân phụ.

Sứ điệp của thơ Sảng Ðình là thế giới đức tin, do ân sủng Chúa ban.

Bĩ cực rồi thì đến thái lai:
Nỗi mừng nửa khóc, nửa vui cười.
Muôn vàn cảm đội ơn Chúa,
Bao xiết cao rao phước phận tôi.
Mấy độ gian nan còn để dạ,
Ba năm cầu nguyện đã như lời.
Thôi thôi đừng bạn cùng ta nữa.
Ôi sự công danh phú quý ôi!
(Sau khi chịu phép rửa tội, 29-6-1911)

Sảng Ðình ca tụng Ðức Mẹ bằng nhiều tước hiệu trong bài ‘‘Kính Ðức Mẹ lên Trời’’.

Bao giờ tôi được lên trời,
Ở cùng Ðức Mẹ thì tôi phỉ nguyền
Ôi! lòng tôi yêu đương,
Ôi! lòng tôi mến thương
Ôi! lòng tôi mong ước
Trông xem mặt Mẹ cho tường.
Mẹ là biển mênh mông,
Mẹ là mạch suối trong,
Mẹ là nguồn ơn thánh,
Tắm tôi sạch mát tâm hồn.
Mẹ, vừng hồng cao quang,
Mẹ, dịu dàng yến trăng,
Mẹ, rạng ngời sao sáng,
Ôi Mẹ là cửa Thiên Ðàng.
Mặt Mẹ ánh trời tươi,
Lời Mẹ tiếng đàn vui,
Lòng Mẹ đầy êm ái,
Nơi con nghỉ yên đời đời.
Mẹ là phần của tôi,
Mẹ là phần phước tôi,
Mẹ phần tôi vinh quý
Dưới đất bằng trên trời.

Nhiều người không hiểu cho rằng theo đạo Thiên Chúa là bỏ cha mẹ. Người Công Giáo luôn trung với Chúa và hiếu với cha mẹ tổ tiên.

Hết trung thờ Chúa đạo làm trai,
Chữ hiếu làm con dễ dám sai.
Vẫn hiếu với trung là vốn một,
Mà trung cùng hiếu chẳng toàn hai.
Thà rằng mất hiếu trung cùng Chúa,
Hễ đã không trung hiếu với ai?
Chữ hiếu ấy tình, trung ấy nghĩa,
Bên trung bên hiếu nặng hai vai. (TRUNG VÀ HIẾU)

Nghèo mà có tâm hồn trẻ thơ đơn sơ và thành thật sẽ đẹp lòng Chúa hơn hết.

Lúc chầu máng-cỏ tối qua
Em thấy hai tay Chúa ngã ra
Hai tay trắng muốt dễ thương lắm
Như muốn đòi em một món quà.
Em về em cứ nghĩ liên miên:
Trằn trọc đêm nằm ngủ chẳng yên.
Nghèo khó phần em có chi có,
Muốn mua lễ vật lại không tiền.
Mai nay Thiên Thần bảo em hay
Em sẵn món quà thật rất may,
Quà em dâng Chúa đố ai biết?
Một tấm lòng đơn lửa mến đầy. (LỄ QUÀ CỦA EM).

Lý tưởng sống đạo là vươn lên cao. Bài ‘‘Trên cao’’ mời gọi sống giao hòa với Thiên Chúa và tha nhân.

Trời mênh mông,
Biển mênh mông,
Ta trèo lên gành đá chập chồng,
Nhắm xem vũ trụ cho biết vô cùng là đến đâu và đâu.
Trên thì mây, dưới nước một màu,
Gió đưa phát phất phất như đem ta đứng giữa bầu hư không.
Với nụ cười tươi đẹp và trẻ trung,
Giang tay ôm lấy khoảng trời không ta đem về.
Dài dằng dằng, dài dặc dặc cái ngày hè,
Thanh niên ơi! hãy hưởng lấy cho no nê cái thú này.
Trời trời, nước nước mây mây.

Cha Nguyễn Văn Thích đã dịch viết thành thơ bi kịch Polyeucte của Pierre Corneille (1606-1684) với nhan đề ‘‘Tuồng Phổ Liệt’’. Tuồng này đăng trong báo Vì Chúa năm 1940. Ðã nhiều lần công diễn và được khán giả hâm mộ. Thơ của Linh Mục Nguyễn Văn Thích đã được phổ nhạc. Chính Cha đã sáng tác các bản nhạc: Trời cao đất thấp gặp nhau, Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Lạy Ðức Mẹ La Vang, Mười hai cái mến, Bao giờ tôi được lên trời, Cái nhà là nhà của ta, Nguồn Thật...


6. THI SỸ HÀN MẶC TỬ (Ðồng Hới, 1912-1940)

Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22-9-1912 tại Mỹ Lệ, Ðồng Hới, trú ngụ tại Qui Nhơn. Mồ côi cha từ nhỏ nên sống trong cảnh đơn nghèo. Bỏ dở học hành từ Qui Nhơn vào Sàigòn làm việc cho sở đạc điền, bị bệnh và mất việc. Quay sang viết báo một thời gian rồi trở ra Qui Nhơn. Bị bệnh cùi và chết tại nhà thương cùi Quy Hòa, ngày 11-11-1940.

Các tác phẩm của Hàn Mặc Tử : Thơ Ðường Luật (1935), Gái Quê (1936), Ðau Thương (3 tập, 1937), Xuân Như Ý (1939), Thương Thanh Khí (1940), Duyên kỳ ngộ, Quần Tiên Hội và Chơi giữa mùa trăng.

Thi ca của Hàn Mặc Tử có nguồn hứng từ tôn giáo, nhiều nhất là Công Giáo. Phê bình về Hàn Mạc Tử, Hoài Thanh và Hoài Chân (người ngoài Công Giáo) đã viết trong Thi Nhân Việt Nam như sau : Với Hàn Mặc Tử, Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của tín đồ thời thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với di thảo của thi nhân. Huống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm thấm tận đáy tâm hồn đoàn thể. (Thi Nhân Việt Nam. Thằng Mõ. Hoa Kỳ, tr 311)

Vũ Ngọc Phan xác nhận: Thơ tôn giáo đã ra đời. Tôi dám chắc rồi đây còn nhiều thi sỹ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường mới, rất xa x#m mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới. (Nhà văn hiện đại. Sống Mới. Q 2. tr. 769)

Thơ của Hàn Mặc Tử càng sáng chói lên càng đượm thêm niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa và Trinh Nữ Maria. Lần đầu tiên, đem niềm tin tôn giáo vào thi ca. Thơ của ông được cảm hứng bởi Thánh Kinh, những tràng chuỗi Mân Côi và say đắm khi cầu nguyện.

. Ðối với Thiên Chúa. Thi sĩ minh xác: Ðức Chúa Trời đã tạo ra trăng, sao, hoa nhạc, hương là để cho con người hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đây chiêm ngưỡng lẽ mầu nhiệm phép tắc của Ðấng Chí Tôn.

Thơ của Hàn Mặc Tử đượm vẻ thanh cao. Tư tưởng cao siêu này khơi nguồn trong Sách Sáng Thế ‘‘Khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, ánh sáng, thảo mộc, trăng sao, sinh vật và con người’’ (x. St 1,1-31)

Chúc tụng Thiên Chúa vì những kỳ công của Ngài
nhất là ánh mặt trời
qua anh Chúa đã thương ban cho ngày và ánh sáng;
anh tươi đẹp tỏa hào quang sáng láng,
vì anh là biểu tượng của Thiên Chúa,
chúc tụng Thiên Chúa
vì Chúa đã cho chị Trăng và những vì sao:
trên bầu trời chứa đựng, tỏa ánh sáng đẹp xinh.
(MẶT TRỜI)
- Thiên địa đắm hoang mang...
Là đương khi thờ lạy cả Thiên Ðàng,
Bay những tiếng tung hô thánh đức
Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu chực,
Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly,
Ôi! Cao sang khôn ví, trọng ai bì...
Trên nước cả có vô vàn châu báu,
Trí rất ngớp, bởi chưng xuân hồn hậu
Ðã ra đời, theo lệnh của Ngôi Hai...
Ôi! Thánh tai, thánh tai và thánh tai. (RA ÐỜI)

Một niềm khao khát ấp ủ trong lòng thi sỹ là Phúc Âm được liên tục rao giảng.

Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm
Mà ta ngỡ đấng Tiên tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc âm
(NGUỒN THƠM).

Cầu nguyện để ca tụng kỳ công của Thiên Chúa trong cảnh vật bốn mùa. Cầu nguyện là nhu cầu cần thiết để lướt thắng những đau khổ thể xác.

- Trời hôm nay bình an như nguyệt bạch,
Ðường trăng xa, ánh sáng tuyệt vời bay
Ðây là hương qúi trọng thấm trong mây
Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm...
Ta chắp tay lạy quì hoan hảo,
Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian
Ðể vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở một lượt giầu sang hơn Thượng đế.
(ÐÊM XUÂN CẦU NGUYỆN).
- Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao giá lắm,
Xin ban ơn bằng cách cho ánh thêm lên
(VẦNG TRĂNG)
- Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió
Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao
(Tựa XUÂN NHƯ Ý)
- Trăng đang nằm trên sóng cỏ
Cỏ đưa trăng tới bờ ao
Trăng lại đầm mình xuống nước
Trăng nước đề lặng nhìn nhau (HỒN LÀ AI?)

. Bài Thánh Nữ Ðồng Trinh Maria (Ave Maria) ý thơ lấy từ Thánh Kinh Tân ước (Luca 1,18) ‘‘Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng bà’’. Bài thơ được sáng tác trong trạng thái nửa thực nửa hư, tay lần chuỗi kinh ‘‘Ave, Ave, Ave... liên tục‘’

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sang hơn trăng,
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Ðàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể...
Lạy bà là đấng tinh truyền thánh vẹn,
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi...
Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel,
Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trời.
(THÁNH NỮ ÐỒNG TRINH MARIA)

Cuối đời Thi sĩ tuyên xưng ‘‘Thiên Chúa là tình yêu’’ và đạo của Chúa là ‘‘đạo tình thương bác ái yêu thương’’. Mở đầu bài Pureté de l’âme, ông viết:

Hỡi các vị thiên thần trên Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần của hòa bình và hoan lạc, xin hãy mang lại cho tôi một vòng hoa.Tôi muốn tắm trong bể ánh sáng và lòng yêu thiêng liêng. Bởi vì dưới cõi trần gian, đã thành tựu nhiều phép lạ nó làm cho người ta phải nghẹn ngào vì khâm phục khi ngưỡng vọng cái sự nghiệp thần bí của Ðấng Tối Cao... (François Trí, Deo gratias. Ðêm 24-10-1940)

Theo Thi sỹ, người tri kỷ của thi sĩ phải là bậc cao quí, toàn năng toàn tài, môt đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết cả mọi sự. Ðấng ấy là Ðức Chúa Trời. Thi sĩ chỉ có thể trút hết hận tình với Ðức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng anh hoa. Thế mới là mãn nguyện. Vì Ðức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian nay, nhưng thi sĩ là người khao khát vô tận, cứ nhất định muốn hướng cái thơ trên cái to khác nữa. Chỉ có Ðức Chúa Trời mới vừa lòng thi sĩ. Cho nên tất cả thi sĩ ở trong đời phải qui tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Ðức Chúa Trới. (Quan niệm về thơ víết cho Trọng Miên, Juin, 1939).

Vì thế trách nhiệm và nguồn cảm hứng của ‘‘Thi sỹ không phải người thường. Với sứ mệnh của trời, thi sĩ phải biết đem tài năng ra ca ngợi Ðấng Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẻ đẹp câu thơ, để đua nhau nhìn nhận và tận hưởng. Những thi sĩ nào không biết đem tài ứng dụng vào chỗ tốt đẹp, thì sẽ bị Ðức Chúa Trời lấy tài lại một cách nhãn tiền...’’

Nhạc sỹ Hải Linh đã phổ nhạc bài Ave Maria (1988). Và Phạm Duy đã sáng tác Trường ca Hàn Mạc Tử (1994).


III. CÁC THI SỸ MỚI ÐƯƠNG THỜI

Ngày nay có nhiều thi sỹ mới, viết cho nhiều tờ báo, như Nam Kỳ Ðịa Phận (xuất bản tại Sàigòn, năm 1908), Trung Hòa nhật báo (1923), Tuần báo Công Giáo Ðồng Thanh (1927), Nguyệt san Sacerdos, khởi đầu là Sacerdos Indosinensis (1927), Nguyệt san Vì Chúa (Huế, 1936), Ða Minh bán nguyệt san (Bùi Chu, 1940), Tuần báo Tiếng Kêu (Phát Diệm, 1947), Tuần Báo Ðường Sống (1955), Nguyệt san Việt Tiến (1959), Tuần báo Thẳng Tiến (1962), Nguyệt san Tinh Thần (1964) Nhật Báo Xây Dựng (1964), Nguyệt san Sống Ðạo (1970), Tạp chí Phụng Vụ (1970), Tạp chí Ðông Phương (1970), dân Chúa Mỹ Châu (1977), Trái Tim Ðức Mẹ (MO.1978), dân Chúa Âu Châu (1982), Giáo Xứ Việt Nam (Paris, 1984), dân Chúa Úc Châu (1984), Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp (TX, 1985), Thời Ðiểm (CA, 1991), Mục Vụ (Thụy Sỹ), Hiệp Nhất (CA.1992), Thánh Gia (Lyon), Lời Chúa (Yvelines)...

Nhiều tác giả đã xuất bản thành sách, tập thơ hay phổ biến trên Internet.

1. LINH MỤC LÊ XUÂN MẦNG

Linh Mục Gioan Baotixita Lê xuân mầng sinh năm 1911, tại Cổ Vưu, Quảng Trị, thụ phong linh mục năm 1941. Từ 1978, Cha cư ngụ tại Aix en Provence, Pháp. Thơ của Cha được đăng tải trong các báo: Linh Mục nguyệt san, tập san Nguồn Sống, Tập san Ðức Mẹ La Vang, Nguyệt san Tiếng Gọi Tình Thương, Thân Ái, Hiện Diện, Giáo Xứ Việt Nam, Nguyệt San Ðộc Lập, và dân Chúa Âu Châu. Cha đã xuất bản 5 tập thơ tiếng Việt, vào các năm 1990, 1991, 1992,1998, 1999. Và hai tập bằng tiếng Pháp (1993,1994)

Mục đích viết và xuất bản thơ của Cha đã ghi trong lời mở đầu và kết thúc tập thơ xuất bản năm 1990:

- Lờì đầu như lời cuối
Muốn nói chữ tạ ơn
Chúa Trời, thương quá đỗi
Bởi Chúa là tình thương
- Chúa ơi ! Quyết chẳng cho con!
Nhưng, cho Danh Chúa Sáng Luôn! thôi mà.

Trong bài ‘‘Kiếp Thơ’’, tác giả thú nhận ‘‘sáng tác thơ’’ một cách dễ dàng, bất cứ nơi nào, ‘‘sớm khuya’’. Và chính thơ đã làm cho thi sỹ cảm thấy thích thú và say mê.

Chẳng biết rồi ai thưởng thức Thơ,
Mà rày khuya sớm cứ ra Thơ,
Hay là cái kiếp Thơ ấy
Muốn sống cùng thơ, chết với Thơ
Thú làm Thơ Việt, nếm cho cùng,
Vừa đọc lại vừa bắp vế rung!
Ðúng điệu đúng vần là đúng thích,
Dẫu rằng cảm kích giữa mông lung!

Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh là đề tài Cha khai bút cho tập thơ xuất bản tại Toulouse, năm 1990, gồm 16 bài.

Hôm nay, thật biết bao người
Hân hoan kỷ niệm Ngôi Lời Giáng Sinh!
Tôn vinh Thiên Chúa Cứu Tinh
Hẳn là nhiệm vụ sanh linh mọi thời!
Mọi thời đại xưa, nay,
Cho tới ngày thế mạt,
Biết lấy gì đền đáp
Ơn Cứu Chuộc cao dày. (GIÁNG SINH CỨU THẾ)

Nguồn tư tưởng dồi dào chan chứa hơn của thi sỹ là về Ðức Mẹ. Tập thơ nào tác giả cũng dành nửa số bài viết về Ðức Trinh Nữ Maria. Tình Thánh Mẫu Maria tỏ hiện qua các lần hiện ra với đoàn con. Ở Việt Nam có La Vang. Pháp có Lộ Ðức, Bồ Ðào Nha có Fatima và nhiều nơi khác.

- Thấy Lộ Ðức, dập dìu tấp nập,
Tự do về, tràn ngập nẻo đường
Càng xui khiến, lòng đau dạ thắt,
Nhớ La Vang ! Nhớ khắp Quê Hương.
(VỀ LỘ ÐỨC! NHỚ LA VANG!)
- Trẻ, Già cùng đặt một Triều Thiên
Trên Ðỉnh Ðầu cao của Mẹ Hiền
Tự cõi Fatima đến Huế !
Thương con, không thể cứ ngồi yên !
(DÂNG TRIỀU THIÊN CHO MẸ)

Tinh thần truyền giáo được tác giả quan tâm và khao khát ‘‘Hạt giống Phúc Âm có gieo, có người gặt’’ của những người có tâm hồn quảng đại và thiện chí.

Hột giống Phúc Âm,
Ai gieo? Ai vãi?
Ðồng lúa chin vàng,
Ai gặt? Ai hái?
Ai là người phải để tâm lo,
Cộng tác hết mình, chẳng đắn đo,
Bằng việc nguyện kinh, bằng hoạt động,
Bằng nhiều phương thế Chúa ban cho.
(TINH THẦN TRUYỀN GIÁO)

Tuổi trẻ được thi sỹ kính trọng và đặt tin tưởng nhiều hơn cả.

Tuổi trẻ là thơ,
Tuổi trẻ là mơ,
Chứa chan hy vọng,
Không bến, không bờ!
Tuổi trẻ vươn cao,
Mắt sáng như sao,
Ðuổi theo Lý Tưởng
Bộc phát thuở nào! (TUỔI TRẺ)

Cậy tin và noi gương các thánh. Ðời sống của các thánh đã ảnh hưởng đời sống nội tâm và hướng dẫn tư tưởng tác giả. Coi nhẹ sự chết như Thánh Phan Sinh. Tin yêu phó thác như Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu. Hy sinh bất chấp gian khổ tù đày như các Thánh Tủ Ðạo VN. Thủy chung cần cù làm việc như Thánh Giuse.

- Anh hùng Tử Ðạo được biêu danh,
Hiển Thánh Lạc Hồng tạc sử xanh,
Giáo Hội Việt Nam rày mở mặt,
Năm châu đều phục những gương lành
- Thánh cả Giuse
Là Thánh Quan Thầy người lao động,
Nghề mộc, nghề nông, như mọi nghề,
Vất vả đã ghê, đường mưu sống !
Thiên Cung còn hướng tim về. (THÁNH CẢ GIUSE)

Tác giả dành nhiều bài đề cao tài đức, kinh nghiệm của hàng giáo sỹ đương thời VN, tình yêu gia đình, bạn bè xa gần và người xa nhà. Theo tác giả, người tỵ nạn rất đáng thương. Nên đem tình thương đùm bọc. Không hững hờ theo tuyên truyền làm đau lòng kẻ xa nhà, xa quê hương.

2. VÂN UYÊN

Vân Uyên là bút hiệu của Bác sỹ Nguyễn Văn Ái, sinh năm 1920, tại Hà Nội. Khi ở Việt Nam bác sỹ làm viện trưởng viện Pasteur Việt Nam, đồng thời hoạt động Công Giáo Tiến Hành trong Pax Romana, trụ sở tại nhà thờ Tân Ðịnh. Qua Pháp Bác sỹ là trưởng ban Mục Vụ Gia Ðình và giảng viên khóa Chuẩn Bị Hôn Nhân của Giáo Xứ Việt Nam Paris. Vân Uyên đã xuất bản ba tập thơ : Những Vần Lưu Niệm (1996), Tình Thơ (1997) và Duyên Kiếp Thiên Tình (1999). Hiện nay, một số thơ của Vân Uyên được phổ biến sâu rộng trên Site Internet: http: // perso.wanadoo.fr/ vanuyen.

Bút hiệu Vân Uyên của bác sỹ Nguyễn Văn Ái, rất đơn giản là đọc nhẹ nhàng từ hai chữ trong tên Văn Ái.

Không như bạn bè cắt nghĩa : Vân là mây, Uyên là con chim khuyên trống, một mình tung tăng hót kêu trong mây. Ý nói ngày nay chỉ còn một con chim trống, bác sỹ Ái, đơn độc kêu trong mây mà không có chim mái chắp đôi họa lại. Vì hiền thê của ông đã qua đời. Ðây cũng phù hợp với khu vườn sau nhà bác sỹ. Chiều chiều trên tường rào ngăn cách với đường phố náo nhiệt, thỉnh thoảng có chim mái bay lượn hót rồi bay đi, làm thi sỹ trong nhà nhìn ra bâng khuâng nhớ vợ hiền năm xưa. Cũng trong sân này, xưa kia hai vợ chồng sánh đôi. Nay kẻ ở người đi.

Hay một ý kiến khác của độc giả ham mộ qúi mến cắt nghĩa : Vân là mây, Uyên là tình yêu. Vân Uyên là tình yêu trên mây. Nghĩa là, hiện tại, thi sỹ không sống bằng tình yêu thực tại nữa, mà gửi trái tim nơi mây gió cung trời cao xa. Nơi có người vợ hiền đang hưởng phúc vĩnh cửu.

Bạn bè có lý khi tìm hiểu sâu xa về nguồn thơ của Vân Uyên. Ngày 01-01-1996, bà bác sỹ Lucie Nguyễn Tuyết Lan, hiền thê của bác sỹ Nguyễn Văn Ái qua đời, năm 70 tuổi. Ðể lại lối suy tư mới sau cái chết của người bạn đời. Trong sự chết có cái gì lạ lùng. Chết đưa đến sự sống, lâu dài hơn bên Thiên Chúa. Người ra đi để gặp Thiên Chúa. Và kẻ trước người sau sẽ có ngày gặp lại nhau bên Nhan Thánh Ngài. Tình yêu chung thủy đích thực chỉ tìm được nơi Thiên Chúa, chứ không ở những ngày chung sống ở trần gian. Tư tưởng thần học đạo lý thâm sâu này được diễn tả trong hai câu của bài thơ ‘‘Khói Trầm Hương’’ :

Thiên nhan hẹn ước trời cao
Mặt nào nhìn mặt, tay nào cầm tay.

Từ bài thơ mở đầu sự nghiệp văn chương thi phú trên, xin được tạm xếp luồng tư tưởng của tác giả qua những nét chính:

1) Vân Uyên viết thơ ca tụng tình yêu, tả cảnh thiên nhiên. Nhìn nét đẹp của trời đất hoa lá cỏ cây, cảnh vật thiên nhiên tạo vật, đẹp vô cùng, không ai vẽ tả được, luôn với tấm lòng cảm phục và say mến.

. Tình yêu tạo dựng nơi con người tạo thành vợ chồng là một huyền nhiệm

- Nguồn thiêng mạch sống lứa đôi
Thần linh Nhiệm thể hướng tới tình chung. (TÌNH CHUNG THỦY)
- Xác hồn ngủ lặng thinh
Hoa tươi gió rung rinh
Vẳng xa tiếng chim hót
Thanh thót nhắc thiên tinh (TÌNH TIỄN ÐƯA)

. Nhìn ‘‘rừng hoa cúc’’, ‘‘chim lượn gọi đôi’’, ‘‘lá rơi’’ và ‘‘mây nổi’’ nơi nghĩa trang, tác giả cho đó là ‘‘bao ơn lạ’’.

Kiếp xưa chung gánh bao ơn lạ
Ðến tạ tình ai, đạo thiếp chàng. (RỪNG HOA CÚC)

. Gợi lại mốc thời gian trôi qua mau, như 50 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam Paris (1947-1997), Vân Uyên cho đây không phải chỉ là kỷ niệm mà còn phải tạ ơn kèm theo lời hứa, làm rạng danh Thiên Chúa.

Tay lần giở hồ sơ báo cũ
Lòng ứa trào ơn tạ Trời cao.
... Giữ giới răn cầu duyên Thiên ước
Rạng danh Cha xác tín Lời ban
Ơn an ủi là ơn trọng thánh
Thanh bình ơn vĩnh phúc Thiên An.
(HƯƠNG THƠM KỶ NIỆM)

. Mỗi giây phút trôi qua, ngày đêm thay đổi đều mang sinh khí mới cho con người hưởng dùng. Thọ tạo phải cảm mến và tin yêu hơn nơi Ðấng Tạo Thành.

Ai đưa tôi đến ngày đêm,
Ai đưa tôi đến bên thềm thời gian.
... Ngày đêm, kết mối duyên thần,
Ðắm say ơn phước tới gần lửa Tin.
Ý thiêng linh động nhịp tim,
Hướng đời là hướng Lời tìm gọi Yêu. (NGÀY ÐÊM)

. Dường như đứng trước bất cứ cảnh vật thiên nhiên nào, tác giả cũng đem ra lời giao ước, phải đổi mới con tim và con người. Ðọc lời kết luận bài ‘‘Xuân Thiên Ước’’ viết vào Tết Canh Thìn 2000, sẽ thấy rõ

...Nhiệm mầu nhắc nhở
Con người mới.
Tân Tạo muôn đời
Bốn bộ kinh.

2) Viết về Thiên Chúa, và Thánh Mẫu Maria, Vân Uyên cho là khó. Vì nhiều sách vở, nhiều người thông thái đã viết đi viết lại cả rồi. Lịch sử của cả ngàn năm trước, làm sao viết cho người của thế kỷ 20 hiểu. Thật khó. Nhưng chân lý vẫn là sự thật, cần tin vào Phúc Âm, như Vân Uyên xác nhận:

Người, Trời. Sống chết tơ vương.
Phúc Âm. Là phúc. Chung đường cùng Ai...
(Ðọc Phúc Âm)

Khi đọc những bài viết về đề tài này, mới thấy tác giả có lối diễn tả độc đáo. Ðó là lấy từ sự kiện hay biến cố của xã hội hôm nay gợi lại sự kiện trong Thánh Kinh hay Giáo Sử năm xưa.

. Trang sử Việt Nam mới ai cũng rõ, trong những năm qua, đất nước chúng ta trải qua bao đau thương tang tóc làm cho mẹ quê hương sầu khổ đau đớn. Làm nhớ lại cách nay 200 năm, Ðức Mẹ La Vang cũng đau khóc cho số phận con dân đất Việt. Tất cả con dân Việt Nam nguyện xin Mẹ dẫn đưa về tới thiên đàng, cõi phúc lâu bền. Xin đọc hai đoạn đối chiếu lịch sử trong bài ‘‘Mẹ Sầu Bi’’ mới thấy cách diễn tả tài tình và lối dùng chữ của tác giả.

... Bóng tiền sử phũ phàng di động biến
Mộng hồng trần mù mịt ngả đường đi...
Nơi hoang đảo... chim trời kêu lạc tiếng
Gọi xót thương... con dại... Mẹ sầu bi !
... Hai trăm năm Thánh Nữ hiện đâu đây
Lau ngấn lệ biết bao đời nức nở...
Linh thiêng hỡi ! Gỡ hộ mối sầu vương
Xác bềnh bồng... bèo bọt... sóng đại dương
Lùa gió hú... bão mùa gào thê thảm
Thổi buồm tang... địa ngục... tới thiên đường...

. Hình ảnh khổ giá trên Ðồi Thánh cách nay 2000 năm, được tác giả phác họa có mặt đủ 4 người đại diện: Ðức Mẹ Maria, Tông Ðồ Gioan, bà Madalêna, và người cùng bị kết án chết. Người có mặt trên đồi cao năm xưa, và những tín hữu say đắm Thánh Giá hôm nay cùng mang tâm tình sám hối ăn năn trở về.

... Gần Mẹ bên Gioan
Mệnh bạc hồng nhan
Giang hồ tử tội.
... Thánh của ai niềm tin phút cuối
... Của những người phản bội kiếp người
Xin ơn xám hối
Tình cha tình con
Linh khí sắt son
Hứng lời hấp hối
Mở đường tình mới... (CẠY THẬP TỰ)

. Có chết mới có sống. Có Thánh Giá mới có Phục Sinh. Ðó là ‘‘Nguồn ân ái đợi từ muôn thuở’’. Con người chai đá mấy cũng phải nhận ra chân giá trị của Thiên Chúa Tình Yêu.

Tân Cựu Sấm Truyền ngàn trang Giáo sử
Trang lần trang ánh soi đường sáng tỏ
Chỉ là yêu mong ngóng tìm yêu
Hỡi tim người! Trai đá cũng xiêu xiêu.
(Tình Ta với TÌNH, Phục Sinh 2001)

. Không ai quên lãng, tất cả đều trông đợi sống lại, đời sống mới.

Thông tuệ lãng quên
Nguồn tạo hóa.
Thú tâm chìm nổi
Cõi u minh.
Ðường yêu thử thách
Ngàn năm tới
Mù điếc khó nghèo
Ðợi Phục sinh. (XÁC LINH HỒN)

. Kinh Magnificat được tác giả lồng gói trong những vần thơ điêu luyện, qua bài ‘‘Ngợi Khen Ai’’ (Lc 1, 46-55)

Tâm trí hồn tôi hiển lộng vui
Dâng lời khánh hạ ngợi khen Ai.
Chúa tôi là chúa ngôi Thiên Chúa
Cứu chuộc, cứu tinh, cứu độ tôi.
Chúa đoái thương tôi, gieo ánh mắt
Ngó xuống nô tỳ phận nhỏ nhoi.
Từ đây hậu thế vang kinh kính
Truyền kiếp mừng tôi được phúc Trời.
Thiên tính Toàn Năng, tên gọi Thánh,
Cho tôi kỳ diệu mọi an bài.
Ðời đời thương xót tràn lan tới
Ưu ái cùng ai mến sợ Ngài.
Thẳng tay, mãnh liệt tan tành đánh
Những kẻ tâm chuyên cao ngạo thôi.
Nâng giấc, đỡ lên người khiếm thế,
Ngai vàng lật đổ kẻ quyền oai.
Của cải dư tràn cho đói khát,
Xa đuổi tay không kẻ phú tài.
Cứu Dân Thiên Chúa, tôi trung tín,
Ghi nhớ muôn đời, hứa với ai... (Phục Sinh, Năm 2001)

3) Tư tưởng chia sẻ thông cảm man mác trong thơ Vân Uyên.

Vui buồn của người khác là vui buồn của mình. Chia sẻ với bạn bè, khi có người thân qua đời. Thương giúp rộng tay bác ái những nạn nhân thiên tai, hay bị phá hoại:

. Ðôi hàng tâm thành chia sẻ cùng nhà thơ CUNG CHI khi mất mẹ trong bài ‘‘Tình Mẹ Tình Con’’.

Nức nở câu kinh... lệ lệ rơi
Thổn thức lòng con... mẹ mẹ ơi !
Khăn xô dấu thánh tay dâng lễ
Qùi gối hương yêu nguyện ý Trời...
Khóc mẹ... như xưa Mẹ khóc Con.

. Kính viếng hương hồn Anh Huỳnh Minh Châu, phu quân nữ sỹ Minh Châu và chung lời cầu nguyện với tang quyến.

Con thuyền nhất thể, biển đời.
Bến thiêng, nửa xuống
Nửa ngồi quạnh hiu.
Sáng danh nguyện sớm kinh chiều.
Mân côi lần chuỗi
Tín điều tạc ghi. (CON THUYỀN NHẤT THỂ)

. Bài ‘‘Âm Khí Mịt Mù’’ chạnh lòng xót thương 7.000 nạn nhân trong ngày đại khủng bố rùng rợn tại New York, Washington, Pittsburg, Hoa Kỳ, ngày 11-09-2001

Ngác ngơ... tim thắt... nói sao đây?
Lửa phun cồn bụi... khói dồn mây
... Bức tường Gia Liêm
Bò vàng chỉ thiên
Lạc đà
sao lọt lỗ kim?
Ném đi hòn đá... ai tìm tội ai.
Nghe tiếng, thấy hình, lòng thổn thức
Không hình, vắng tiếng, có ai thương?
Từ vực thẳm âm u
Vọng lại lời thập tự
Xót thương, Xót thương!

Nhiều độc giả cho rằng đọc thơ Vân Uyên khó hiểu. Thơ của Vân Uyên viết không phải để đọc một hơi cho hết bài. Mà cần vừa đọc vừa suy nghĩ mới tìm được tinh túy của ý thơ. Mở một bài thơ của Vân Uyên ra, đọc một chữ chưa hiểu, đọc tới chữ thứ hai cũng chưa hiểu, phải đọc cả câu mới hiểu tác giả nói gì. Có khi đọc một hai câu chưa khám phá được tình ý người viết. Ðọc một lần chưa xong, đọc đi đọc lại mới nắm được ý của thi sỹ. Chính vì thế mà thơ của Vân Uyên là những vần thơ cô đọng, ngắn. Diễn tả ý thơ vào từng chữ, từng câu. Ðắn đo, cân nhắc bỏ đi giữ lại từng lời. Ðây là những đặc tính trong thơ văn của một nguồn thi hứng đạo hạnh đáng kính.

4) Vân Uyên được bạn bè qúi mến.

Con người của Vân Uyên đã trải rộng cùng khắp và như vẽ lại trong những vần thơ của mình. Một khi đã đọc kỹ thơ của Vân Uyên sẽ khâm phục và cảm mến. Chính vì thế, Vân Uyên được bạn bè, độc giả xa gần thương mến. Dưới đây xin chép lại bài ‘‘Vân Uyên, Uyên Bác’’ của Cung Chi có đôi lời ‘‘tạ lòng’’ với nhà thơ Vân Uyên đã ‘‘tâm thành chia sẻ’’, qua bài ‘‘Tình Mẹ Tình Con’’.

Vui buồn chia sẻ với nhau
Niềm vui thêm đậm, buồn đau nhạt mầu.
Vần thơ có bấy nhiêu câu
Mà sao hàm súc ý sâu đạo đời.
Tạ ơn khôn nói hết lời
Mây bay khôn dứt, vực trời khôn đo.
Chút riêng tình nghĩa nhỏ to
Vân Uyên, Uyên Bác hiểu cho nỗi lòng.
Nhớ nhau trong ‘‘tháng Cầu hồn’’
Ðẹp thay ‘‘Các Thánh Thông Công’’ bốn mùa.

3. XUÂN LY BĂNG

Xuân Ly Băng là bút hiệu của Linh mục Gioan Baotixita Lê Xuân Hoa, sinh năm 1926, tại Vinh. Khi còn là chủng sinh, Lê Xuân Hoa đã có khiếu văn chương, và đã xuất bản bốn tập thơ : Thơ Kinh (1956) Hương Kinh (1957), Trầm Tư (1958) và Nỗi Niềm (1959) mang bút hiệu Xuân Ly Băng. Ly Băng dịch từ âm địa danh Liban mà từ nguyên tiếng Aram là màu trắng. Xuân Ly Băng là xuân của màu trắng. Năm 1959, Cha Lê Xuân Hoa thụ phong linh mục. Tiếp theo cha lần lượt làm chính xứ, giáo sư chủng viện, quản hạt. Từ 1986 đến nay Cha là Tổng Ðại Diện giáo phận Phan Thiết. Năm 1998, Cha được ân thưởng tước hiệu Ðức Ông. Cha là thành phần ban phiên dịch bộ Thánh Kinh tại VN. Năm 1961 Cha in thêm cuốn Nỗi Niềm và không ngừng sáng tác và cho ra đời 22 tập thơ, tập mới nhất có tựa đề ‘‘Dứt Lời Cầu Kinh’’. Một tuyển tập giá trị gồm 326 bài được chọn.

Thơ của Xuân Ly Băng đã được phổ nhạc qua các bài Chuông Chiều (Hải Linh), Hát Rằng, và Khúc Hát Tình Cha (Hải Triều), Ðêm Noen (XuânThảo), Ðêm về con yêu Ngài, và Vì Ngài là tất cả (Kim Long)

Theo Xuân Ly Băng, Thơ và Kinh không còn là hai phạm vi khác nhau mà là một tác động đức tin. Thơ giao hội với kinh nguyện. Ðối tượng thơ không phải thơ mộng, ảo giác, hay mớ ý tưởng, mà là quà tặng thiêng thánh, công trình củaThiên Chúa. Xuân Ly Băng mang tâm tình ‘‘Mọi sự là ơn Chúa’’ của Thánh Têrêsa, khi viết bài Thăng Hoa (tập Một Vùng Châu Lệ, tr. 150)

Mến yêu là từ bỏ
Mọi việc đều thăng hoa
Mọi sự vẫn còn đó
Mọi sự đã khác xa...
Thập giá và sự chết
Một thực tại mà thôi
Yêu là trải qua hết
Ðể được thấy Nước Trời
Con đừng khinh dể chi
Mọi sự là ơn Chúa
Hãy can đảm bước đi
Dù qua nước qua lửa.

Chủ đề về Thiên Chúa, Xuân Ly Băng đã viết bài ‘‘Noel không có Chúa’’ (tập Quê Hương và Tình Ðạo, tr, 92), đi xâu vào huyền nhiệm Nhập Thể và tố cáo tệ hại tục hóa lễ Giáng Sinh. Xin trích đăng ba đoạn của bài thơ dài 9 đoạn.

. ‘‘Noel không có Chúa’’

Noel :
Chúa đâu ở trong đền thờ
Ngài cũng không ở trong hang đá
Nếu không gặp Ngài trong tối tăm
Chẳng bao giờ thấy Ngài trong ánh sáng
Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ.
Chẳng bao giờ thấy Ngài trong cao sang
Nếu không gặp Ngài ở dưới đất
Chẳng bao giờ thấy Ngài cõi thiên đàng. (đoạn 5)
Noel:
Chúa đâu ở trong đền thờ
Ngài cũng không ở trong hang đá
Ta tìm Ngài và muôn năm không gặp Ngài
Nếu lòng ta không mở
Cho những ai thiếu ánh sáng mặt trời
Lây lất trong vũng đời u thảm
Của một xã hội thừa súng đạn và thiếu bánh cơm. (đoạn 7)
Noel :
Chúa đâu ở trong hang đá
Ngài đang qùy đó
Ở dưới đáy nhà thờ
Bên anh và bên tôi
Ngài đã già cả
Rét run quần áo tả tơi
Ngài đang lo chốc nữa lễ hết rồi
Chống gậy về lối nào cho xe người ta đừng tông ngã
Và đứa cháu có thức dậy đòi quà
Biết lấy gì mà cho nó. (đoạn 9)

. ‘‘Xin hãy vui mừng’’ là bài thơ ca tụng Ðức Mẹ theo kinh Magnificat.

Xin hãy vui mừng
Hỡi nữ tử Sion
Vì Bà được chan hòa ân phúc
Nhờ Bà mà ‘‘Chúa ở cùng chúng con’’
Bà tràn đầy nhân đức
Nên Bà gương mẫu thiện toàn
Cho muôn đời muôn phương...
Kính chào nữ tử Sion
Xin hãy vui mừng
Vì đây muôn đời sẽ khen Bà đầy diễm phúc
Bà được nâng cao vì Bà đã khiêm nhường tuyệt mức
Bà giàu sang Bà từ bi muôn hộc
Vì Bà là người mẹ nghèo
Của người nghèo nhất thế gian
Lòng Bà như đại dương
Chứa đày lưu ly, báu ngọc
Mắt Bà là ức triệu mắt bồ câu
Miệng Bà là trời hoa đàm tiếu
Lời Bà là cung đàn muôn điệu...

Xuân Ly Băng đã viết theo đủ thể thơ: ngũ ngôn, lục bát, tám chữ, song thất lục bát, loại thơ mới...Tác giả còn rành rẽ tâm lý vai kịch khi viết cuộc đối thoại giữa vua Herode và bà Herodia (Mc 6, 17-18).

Herode: Herodia ơi! lòng ta đang bực tức
Vì Gioan, hẳn nàng biết chuyện rồi

Herodia: Xin thánh thượng giết quách nó đi thôi
Tên ngôn sứ của rừng núi man rợ.

Herode: Này, nàng ơi, giết y ta chưa nỡ
Lời của y, tuy nặng nhưng lời ngay
Nàng cũng nên xem xét điều này
Giết y dễ, thuận lòng dân không dễ
Ðối với y, toàn dân đang kính nể
Vẫn coi y, là thánh thiện công minh.

Herodia: Xin thánh thượng đừng nghĩ quẩn nghĩ quanh
Hao sức khỏe, tốn thì giờ vàng ngọc
Theo ý thiếp cứ tống y vào ngục
Trói tay, bịt miệng để chờ xem
Phản ứng sao? Một lũ dân đơn hèn
Rồi sau đó tùy thời cơ xử trí...

4. NỮ SỸ MINH CHÂU

Nữ thi sỹ Minh Châu tên thật là Thái Hạc Oanh, sinh năm 1922, tại Huế, tốt nghệp Quốc Gia Cao Ðẳng Mỹ Thuật và Hội Họa (?). Trước 1975 là Giáo sư các trường Kỹ Thuật Huế, Võ Trường Toản, Regina Mundi, Quốc Gia Cao Ðẳng Mỹ Thuật. Là phụ nữ duy nhất trong 9 thành viên của nhóm Công Giáo Pax Romana. Tên tuổi Bà được biết đến từ 1967-1975, tại Sàigòn, qua các cuộc trưng bày triển lãm tranh. Và Bà đã từng xuất ngoại triển lãm tranh tại Ðại Hàn, Nhật và Ðài Loan (1971).

Sau 1975, Bà định cư tại Paris. Biêt hiệu Minh Châu của Thái Hạc Oanh lấy từ tên của phu quân là Nha sỹ Huỳnh Minh Châu (+ 9-10-1998). Các bức họa Bà ký tên Anna Châu. Thái Hạc Oanh có hai thiên tài: Thơ và họa. Minh Châu đã xuất bản ba tập thơ: Nhớ Thương (1990). Quê Hương Là Tình (1991). Thi Họa Hương Lòng (1997). Một tập khác sẽ xuất bản nay mai. Bên cạnh các trang sách về thơ, tác giả có in kèm các bức họa. Ở đây xin có cái nhìn với Minh Châu về ý thơ Công Giáo mà thôi.

Minh Châu có nguồn cảm hứng thơ riêng. Nhưng thi sỹ cũng có nguồn khác từ bạn bè qua gặp gỡ trao đổi bằng xướng họa. Ý của bạn như thách thức, moi và ý gợi cho thi sỹ, hay ngược lại. Ðây là thú vui tao nhã của các buổi trà đàm gặp gỡ của ‘‘Ba Lê Thi Xã’’, mà Minh Châu là một thành viên sáng lập, từ 1982, và còn ảnh hưởng trên văn đàn thơ văn hải ngoại ở Paris.

Về phía cạnh Công Giáo, Minh Châu không có các bài thơ mang ‘‘tựa đề Công Giáo’’, mà tinh thần truyền bá đức tin Công Giáo nằm rải rác trong các ‘‘bài thơ đời’’. Ý thơ Công Giáo của Minh Châu được trải rộng qua các nguồn hứng về Quê Hương, Tình yêu lứa đôi hôn nhân, Thân cát bụi của con người và Luật yêu thương Kitô giáo.

1. Tình Yêu Quê Hương trổi vượt trong tác phẩm.

Tình Yêu Quê Hương nơi tác giả bắt nguồn từ việc rời xứ trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975, với các em bé mồ côi đi theo diện UNICEF. Tình quê hương mang theo gói ghém trong những nét mặt ngây thơ trong trắng của tuổi thơ. Nay các em đã khôn lớn và ở đâu đâu. Về thăm hay từ Paris, thả hồn về Huế, nơi sinh trường, về Sàigòn, nơi đem cả sự nghiệp cho nền giáo dục và văn hóa. Băn khoăn nhiều nhất của tác giả là nền tảng giữ vững đức tin, nuôi sống và bảo vệ nền văn hóa còn hay không. Ðó là số phận các nơi thờ tự, thánh đường, trường học.

- Sài-gòn lộng lẫy đẹp xinh thay,
Cách trở sầu đong trải tháng ngày
Xá Lợi, Thánh Ðường, nơi khấn nguyện...
Biết ai gởi gắm nỗi lòng đây... (THƯƠNG VỀ SÀIGÒN)
- Tay cầm tay nhớ ngày nào
Quê xưa Thánh Lễ vui chào thân thương...
Thành tâm xin Chúa nhận lời,
Ban chung ân sủng thảnh thơi cõi lòng. (THƠ THÂN TẶNG)
- Pax Romana nơi gặp gỡ,
Của những ngày Thánh Lễ lễ xa xôi.
Giờ đây quê biệt lạc loài,
Ðồng tâm tiếp tục kẻo hoài mai sau.
(NHỚ PAX ROMANA, 1994)

Tác giả nhớ thương, luyến tiếc, với mong ước xây dựng đẹp tươi.

- Cô thương em, khi nửa chừng bỏ học,
Mái trường yêu thôi tạm biệt từ nay...
Tuổi thanh xuân đâu được hưởng trọn ngày.
Cuộc đời đến lúc thật chua cay. (THƯƠNG EM)
- Cầm tay rồi lại cầm tay,
Ngậm ngùi trước cảnh trời Tây xa nhà.
Cầu cho tình mãi đậm đà,
Sớm về cùng Huế cho ta thỏa lòng. (BÀI THƠ CHO HUẾ)
- Hùng Vương giỗ tổ hôm nay
Ðèn hoa sáng láng một ngày cung nghinh.
Nguyện cầu đất nước thanh bình,
Sanh cơ lập nghiệp dân tình ấm no.
(MỪNG NGÀY GIỖ TỔ. 1989)

Tất cả tình cảm sâu xa uẩn khúc, người thi sỹ của sông Hương núi Ngự đã gửi về người mẹ vô hình đầy yêu thương dễ mến. Ðó là Mẹ Việt Nam.

Mẹ Việt Nam, Mẹ Việt Nam,
Mẹ là ánh sáng trăng rằm soi đêm.
Tình Mẹ là khúc nhạc êm,
Huy hoàng chỗi dậy mang theo ấm nồng. (Mẹ Việt Nam)

2. Tình yêu lứa đôi hôn nhân được thánh hóa.

Tác giả đã ý thức rõ rệt trách nhiệm hôn nhân Công Giáo hơn ai hết. Vợ chồng là một. Nữ thi sỹ đã lấy tên phu quân là biệt hiệu viết các áng thơ văn và họa phẩm của mình. Như đã nói trên.

Trong ba tập thơ xuất bản năm 1990, 1991 và 1997, trang đầu mỗi tập thi sỹ đã dành tặng riêng cho người bạn đời chung thủy, như

... Gặp nhau duyên kỳ ngộ
Trung Nam đôi mái đầu
Ðường hẹn có nhau
Dù gian nan kham khổ... (Nhớ Thương. tr. 9)

Và 4 câu: Mến gởi Anh :

Một chữ Tình yêu gởi tặng ai,
Là muôn ý đẹp chuỗi ngày dài,
Là niềm thương nhớ bao năm tháng,
Là cả tấm lòng chẳng nhạt phai...
(Quê Hương Là Tình. 22-11-1989)

Hay 4 câu khác đề: Tặng Anh

... Rằng đây tất cả tơ lòng
Tặng anh yêu dấu những dòng mến thân
Dẫu cho con Tạo xoay vần,
Mấy mươi năm vẫn như xuân buổi Ðầu
(Balê 1995. Thi Họa Hương Lòng, 1997, tr 9)

Vợ chồng ân nghĩa sắt son và bền chặt hay không là do hai trái tim đập đều nhịp. Tình yêu lớn mạnh và lâu dài tới đầu bạc răng long là nhờ hiệu quả của bí tích hôn nhân Công Giáo.

- Em hỏi anh sao chẳng đáp lời,
Chuyện đời ngẫm lại giống trò chơi.
Buồn vui ấm lạnh chung san sẻ
Bởi lẽ hai ta NHƯ một thôi... (NHƯ MỘT)

Ðẹp và quí thay cho đội tân hôn của ngày cưới có chuông đổ hồi của tháp giáo đường giữa tiếng nhạc vang rộn, khi hai người trẻ sánh bước tiến lên cung thánh.

Rạng rỡ đèn hoa cung Thánh Ðường,
Trang nghiêm dâu rể nguyện cầu chung.
Lắng nghe học hỏi, Con Thiên Chúa,
Thầm khấn theo đòi, Mẹ Nữ Vương. (MỪNG LỄ CƯỚI)

Minh Châu có lý định nghĩa tình yêu gồm có hy sinh, có sầu đau, chấp nhận vui buồn.

- Hồn lâng lâng ngỡ Thiên Ðàng lạc lối,
Trăng sáng soi nguồn bứng cảm đầy vơi
... Lại sầu đau và đợi chờ vương vít,
Bóng thân thương ấp ủ chẳng lúc rời,
Tình thắm đượm lưu luyến mãi tim tôi,
Dù biết… ‘‘Yêu là chết lòng một ít’’... (DÙ BIẾT YÊU)
- Em vẫn biết YÊU LÀ NIỀM ÐAU KHỔ
Là hy sinh tất cả những đòi hỏi...
Duyên cầm sắt nguyện ước khéo giữ gìn.
Ðể Tình Yêu không còn là Ðau khổ (Em vẫn biết)

3. Con người là thân cát bụi.

Con người có sinh có chết. Chết không là hết mà đi vào cõi linh thiêng, thiên thu vĩnh cửu hằng sống. Ngay khi sống là chuẩn bị xứng đáng lãnh nhận phần thưởng cao cả hơn. Phần thưởng lớn nhỏ là do chuẩn bị kỹ và chu đáo. Hai bài thơ ‘‘Xóa’’ và ‘‘Mất Còn’’ trong tập Thi Họa Hương Lòng cắt nghĩa đủ ý nghĩa chung cuộc cuộc đời: Xin Thượng Ðế xóa đi những lỗi lầm. Và đừng để mất đi những công phúc, còn tồn tại mãi nơi cao cả ánh sáng.

- Thượng Ðế sinh ra cảnh vật người,
Trải ngàn vạn kỷ một trò chơi.
Không thêm không bớt không thay đổi
Sớm muộn sẽ thành cát bụi.
Danh lợi dù ai toại nguyện cầu,
Có đem theo được đến cùng đâu?
Gẫm suy muôn sự đều hư ảnh,
Lưu luyến làm chi nặng gánh sầu. (XÓA, tr. 78)
- Sinh tử thay phiên vòng lẩn quẩn,
Kiếp người tuần tự lối xoay tròn.
Bực mình xin hỏi ông xanh vậy,
Tạo dựng bày chi chuyện mất còn. (MẤT CÒN, tr. 74)

Cuộc sống là tạm bợ. Tất cả là cát bụi. Không có gì riêng tư. Bon chen danh lợi là hư ảo. Có ra đi đừng lưu luyến.

- Từ nay đôi ngã chia ly
Ðường trần dứt nợ ra đi nhẹ nhàng. (AI CŨNG MỘT LẦN)
- Tôi muốn anh và tôi
Ý thức luật Tạo Hóa
‘‘Rồi ra tro bụi cả’’
Chẳng có gì riêng ta... (TÔI MUỐN)
- Em chỉ muốn, giờ đây em chỉ muốn,
Ðem tình yêu sưởi ấm khắp trần gian,
Cho vũ trụ thôi hết lầm than,
Và dương thế thanh bình đầy ơn phước (Em chỈ muốn)

4. Luật yêu thương Kitô giáo.

Trong thơ của Minh Châu Thái Hạc Oanh hàm chứa nhiều nét tình bạn, tình người. Tư thất là nơi gặp gỡ bạn thơ của Ba Lê Thi Xã. Bạn hiền, người gần lẫn kẻ xa, đều là anh em, không thương không được. Ðộng đất tại Arménie, năm 1989, tác giả thương lòng nghĩ đến bao cảnh ’’bơ vơ, côi cút, nức nở, lẻ loi, ngẩn ngơ, tay trắng, chua xót...

- Bao dân lành không còn lấy tấc đất,
Thân chẳng vẹn suốt đời mang bệnh tật.
Nhìn thiên tai chu xót đến tận cùng,
Bởi khổ đau còn bao trùm vạn vật. (ARMÉNIE)
Ðau đớn trách cứ con người hờ hững trước cảnh điêu tàn của Sarajevo.
- Nhìn chiến tranh Sa-Ra
Trách loài người độc ác
Giận xã hội lơ là
Trước những cảnh thảm sát. (SARAJEVO NỖI LÒNG)

Tóm lại, mến thương xót xa quê hương, chia ly đôi lứa, nhìn mình để thương người... Ước nguyện thâm sâu của thi sỹ họ Thái cũng như mọi người, sống tình ‘‘anh em, bạn hữu’’, bằng lời nguyện chân thành cho tất cả: được ‘‘chia sẻ chung vui hạnh phúc’’, và để ‘‘phụng thờ Thiên Chúa với hăng say’’.

- Xem ra ai cũng hân hoan,
Cửa nhà êm thấm lo toan làm giàu,
Trên đường thương mãi mai sau,
Anh em, bạn hữu, giúp nhau một lòng.
(VIẾNG CALY. 1988)
- Em ước Chúa Ba Ngôi
Soi sáng cho mọi người
Chia sẻ chung hạnh phúc
Ân phước khắp vòm trời. (EM ƯỚC)
- Trước Thánh Ðường nguyện cầu
Mẹ Hiền ban ân sâu
Non sông sớm thoát họa
Hạnh phúc khởi bắt đầu...
Ðoái thương chấp nhận lời
Ðấng CAO CẢ CHÚA TRờI
Xin tha tội nhân thế
Lỗi tròt phạm một thời. (THÁNG TƯ ÐEN)
- Nến sáng quì dâng phút lặng thinh
Ngước nhìn cung kình Mẹ Hòa Bình
Nguyện cầu Thánh Mẫu hằng che chở
Phù hộ xuân nay mọi sự lành.
Lời Mẹ hiền linh nhớ mỗi ngày
Phụng thờ Thiên Chúa với hăng say
Ðức tin gìn giữ đừng sao lãng
Tội lỗi tránh xa chớ vẽ bày. (ÐẸP LÒNG CHÚA MẸ)
- Ôi mừng thay! Ðẹp thay!
Chúa giáng sinh đêm nay
Chuộc tội cho nhân thế
Phép nhiệm mầu tràn đày
Con cúi mình dâng lời
Cầu xin Chúa sáng soi
Cho đời bớt phạm lỗi
Ban ơn lành khắp nơi. (NOEL)

5. PHƯƠNG DU NGUYỄN BÁ HẬU

Bác sỹ Nguyễn Bá Hậu sinh năm 1924, tại làng Phương Canh, Hà Ðông, tốt nghiệp y khoa bác sỹ tại Hànội, năm 1951, và khi hành nghề chuyên về châm cứu. Ông đã hai lần di cư vào Nam (1954) và Pháp (1972). Trước 1975, Bác sỹ Hậu đã được nhiều người biết đến qua nhiều chuyến tu nghiệp bên Hong Kong, Ðài Loan, Nhật. Và tại Pháp, biết đến hơn, khi Bác sỹ tham gia sinh hoạt trong hội Y Sỹ Việt Nam và tham dự hội nghị y tế quốc tế, như tại New York năm 1982... Về y nghiệp, ông chuyên về châm cứu, điều trị những bệnh về khí (énergie vital). Ông thường phổ biến đông y trên báo Le Val de Bièvres và Le Mensuel du Médecin Acupunteur.

Biệt hiệu Phương Du được dùng khi sáng tác thơ là ghép bởi hai địa danh. Nơi ông sinh là làng PHƯƠNG Canh. Và nơi ông định cư tại Pháp là tỉnh Jouy-en-Josas (miền 78), chữ Jouy được đọc theo âm Việt Ià DU y. Ông là hội viên giường cột của Ba Lê Thi Xã thành lập 1983. Chủ tịch Câu lạc bộ Văn Hóa Văn Hóa VN thành lập 1991. Năm 1991 và 1993, ông được mờI làm thuyết trình viên về ‘‘Văn học Việt Nam’’ tại Paris và Orlando, trong đại hội do Nha Dược Y Việt Nam tổ chức 2 hay 3 năm một lần.

PHƯƠNG DU, đã xuất bản hai băng Thi Nhạc Tình Thương 1 và 2. Bốn tập thơ: Tha Hương (1985). Tình Thương 1 (1991). Tình Thương 2 (1993). Và mới nhất là tập Hoa Tâm (2002), gồm 42 bài thơ và 12 bản thánh ca. Trong con người đa tài về thơ, và nhạc của Bác sỹ Nguyễn Bá Hậu, những dòng này xin điểm qua những vần thơ mang nét Kitô giáo của tác giả.

Ngay việc đặt tựa cho tác phẩm, cho thấy chất thơ của tác giả mang nhiều tâm tư ‘‘mến, thương’’ đối với Thượng Ðế, và những người gặp gỡ trên đường đời. Phương Du không dùng danh từ tượng trưng, hay hình dáng mà viết thẳng ra chữ ‘‘Chúa, Chúa Kitô, Ðừc Chúa Cha, Ðức Maria, các Thánh ’’, một hình thức công khai tuyên xưng đức tin, không che dấu thao thức của con tim, như hoa luôn nở trong tim.

1. Giáo lý căn bản của Kitô Giáo, là những điều phải tin, làm nền tảng đức tin người giáo dân, được đọc thấy trong thơ của Phương Du, như:

Chúa Kitô phục sinh, thắng sự chết:
Nhớ xưa kia bao lần Ta nói:
Ta ra đi lìa cõi đời này
Ba ngày Ta lại sống ngay
Phục sinh Ta sẽ hàng ngày bên con.
(TÔNG ÐỒ TIN CHÚA PHỤC SINH)

Con người có hồn và xác. Xác sẽ sống lại, như Lazare được Chúa chữa khỏi.

Sau giây phút mọi người chờ đợi
Chúa hô to bảo với Lazare
Ðứng lên và hãy ra đi
Lazare sống lại thật là phép thiêng;
Và sau đó Chúa liền dạy phán:
Ta là nguồn ánh sáng tỏa ra.
Mọi người nên nhớ rằng là
Ta là sự sống, ta là phục sinh. (Kẻ chết sống lại)

2. Những bài giáo huấn, dụ ngôn của Phúc Âm được tác giả ghi lại bằng thơ, dễ hiểu dễ nhớ.

Chàng thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu, tìm lẽ sống cuộc đời. (Mt 19, 16-22)

Chúa đang giảng, kẻ giàu tới hỏi...
Chúa phán dạy phải làm việc thiện...
Chớ mê tiền băn khoăn giữ của...
Mà lãng quên thờ Chúa chí tôn
Thánh kinh nhắc nhở luôn luôn
Giàu tiền mà mất linh hồn ích chi?
(CHỚ MÊ TIỀN CHỚ THAN KHỔ)

Phép lạ đầu tiên Chúa làm tại tiệc cưới ở Cana. (Ga 2, 1-12).

Chúa liền bảo các gia nô,
Ðổ nước vào vại, đổ cho thật đầy.
Nước đổ xong thành ngay rượu qúy.
Khách vui mừng túy lúy khen ngon. (PHÉP LẠ CANA)

Phương Du là người hiểu biết nhiều về Tân và Cựu Ước, nên Thánh Kinh còn được diễn tả trong các bài khác:

Bài ‘‘Biển chết’’ cho nhớ lại tai họa thành Sodoma và nạn Hồng Thủy

Bài ‘‘Hình phạt ném đá’’ nói đến người phụ nữ ngoại tình. (Lc 7, 38-50)

Bài ‘‘Em bé mù’’, Chúa trả lời nguyên nhân em bị mù từ nhỏ. (Ga 9, 1-5)

Bài ‘‘Chúa sai khiến gió mưa’’, dân chúng kính phục Chúa làm sóng gió yên lặng. (Lc 8, 22-25)

Bài ‘‘Phép lạ làm ra nhiều bánh’’, Chúa làm hóa ra nhiều bánh lần thứ nhất. (Mt 14, 13-21).

Bài ‘‘Ông Jacé’’ đón tiếp Chúa về nhà. (Lc 19,1-10)

3. Thực hành Lời Chúa là nền tảng sống đức tin của người kitô hữu hôm nay.

Thông thường ngày xuân nghĩ đến vui chơi, giải trí. Tác giả bài ‘‘Cảm nghĩ xuân Qúy Mùi’’ trong tập Hoa Tâm,
lại có cảm nghĩ khác, cao hơn:

Triều đại Tình Thương tạo thái bình
Theo Lời Chúa dạy hết u minh:
Hãy thương, hãy mến, không thù hận,
Ðừng ghét, đừng ghen trọng nghĩa tình,
Nhân ái, vị tha, năng tích đức,
Khiêm nhường, tha thứ, gắng cầu kinh
Những hoa tâm đó là nền tảng
Cuộc sống an hòa của chúng sinh.

Ðêm Noel tưng bừng nhộn nhịp, đua chen sắm sửa, theo đuổi vật chất, thì dường như con người quên lãng Lời Chúa răn dạy.

Ðêm No-el mọi người vui vẻ
Kỷ niệm mừng ngày lễ Chúa sinh...
Lời Chúa dạy như hầu quên lãng
Bao năm dòng ngày tháng trôi qua
Thế gian vẫn sống theo đà
Chiến tranh khói lửa thật là lầm than.
(MỪNG LỄ GIÁNG SINH)

Lý tưởng sống đạo là yêu người. Người tín hữu biết sống theo tinh thần kinh Lạy Cha là hay nhất.

Nhiều bạc, nhiều vàng, nhiều tính toán
Ít tiền, ít của, ít lo âu
‘‘Hằng ngày dùng đủ’’, đời thanh thản (*)
Tránh mối ưu tư của kẻ giàu.
(THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN)

(*) Hằng ngày dùng đủ’’ là một phần của câu kinh Lạy Cha (Pater noster) mà các tín đồ Công Giáo xin Chúa cho được đủ chi tiêu hàng ngày.

Tạo hạnh phúc mai sau hơn hưởng thụ mau qua hiện tại

Ở đời quyền bính lợi danh
Chỉ là tạm bợ chớ dành dật nhau.
Vậy nên nghĩ tới đời sau
Tu thân tích đức nguyện cầu Chúa luôn.
(KHÓC MỸ NHÂN)

Người Công Giáo cần thận trọng, tỉnh thức trước vấn đề thời sự, như có thái độ đứng về lập trường của Giáo Hội trong việc phá thai. Sống lương tâm Công Giáo. Phá thai là luật cấm của điều răn thứ 5: ‘‘chớ giết người’’

Phá thai xưa bị ê chề
Giờ đây luật pháp vỗ về phá thai...
Giáo hội Ki-tô tỏ vẻ ngỡ ngàng
Ra thông cáo bị phũ phàng bác bỏ
Ðời vật chất tiết trinh không cần bày tỏ.
(CẢM NGHĨ VỀ LUẬT PHÁ THAI)

Lời ‘‘Kinh hòa bình’’ của thánh Phanxicô là khuôn mẫu cho người tín hữu bất cứ thời đại nào.

... Ôi Thượng Ðế:
Con không thích được người an ủi,
Hơn là con an ủi tha nhân.
Hiểu lòng người khác con cần,
Cần hơn được người trần hiểu con.
... Khi tha thứ là con đón nhận
Ơn tha thứ của Ðấng Chí tôn.
Chết rồi, xác rữa nhưng hồn,
Khai sinh cuộc sống vĩnh tồn đời sau.

4. Các cuộc hành hương tạo cơ hội lãnh nhận ơn thánh, làm tăng thêm sức mạnh cho khách hành hương, đồng thời chứng kiến tận mắt những chứng nhân đức tin. Ðến những nơi thiêng, có những dấu lạ để củng cố niềm tin. Xưa nay, rất đông người đã được ơn lạ sau khi viếng Jérusalem (còn thánh tích cuộc tử nạn của Chúa Kitô), Roma (Thủ đô Công Giáo). La Salette (Ðức Mẹ hiện ra với hai em chăn cừu, 1848), Lộ Ðức (Ðức Mẹ hiện ra với Bernadette, 1858), Fatima (Ðức Mẹ hiện ra với Ba Em, 1917),

Từ Thiên Quốc Mẹ đà hiện xuống
Rất nhiều lần khắp chốn khắp nơi
Khuyên ta cải thiện cuộc đời
Tránh ngày Chúa phạt, giữ mười điều răn. (LẮM THIÊN TAI)

Mục đích viết thơ của Phương Du không có nghĩa đơn giản là

Hồn thơ gom lại đôi lời
In thành thi tập tặng người yêu thơ (Hoa Tâm)
Hay: Vài bài thơ thô thiển
Gửi tặng bạn bốn phương
Đọc chơi khi nhàn rỗi
Ðể tưởng nhớ quê hương. (THAY LỜI TỰ TỰ)

Mà trong thâm tâm, Phương Du muốn dùng thơ truyền đạt đức tin, phù hợp với dụng ý của cả bài sưu tập này.

Ðường trần ai, hồn ta cũng thế.
Phải vâng theo luật lệ Chúa ban...
Dùng lời thơ Phương Du nhắc nhở
Ðộc giả rằng: xin chớ lãng quên
Những lề luật Chúa nói lên (*)
Là lời vàng ngọc ta nên thực hành. (DĨ THƠ TẢI ÐẠO)

(*) Mười điều răn Thiên Chúa đọc cho ông Maisen (Moise) và những lời giảng dạy của Chúa Kitô.

Và trong ‘‘Lời tác giả’’ của tập Tình Thương (1991), tác giã đã bọc bạch với độc giả: Quý vị độc giả sẽ nhàn lãm những bài thơ giản dị, dễ hiểu, với những đề tài phong phú thuộc về nếp sống thời nay để nói lên những cái hay cái dở của Tình Ðời. Sau khi đọc xong, quý vị sẽ có những suy tư nghĩ ngợi đặng tìm hiểu đâu là Tình Thương, đâu là Chân Lý, hướng đi của chúng ta... (tr. 1)

6. LINH MỤC CAO VĨNH PHAN

Linh Mục Cao Vĩnh Phan là nhà biên khảo, có nhiều tài liệu đã xuất bản hoặc chưa. Trong lãnh vực thơ, Cha đã xuất bản tập thơ lục bát Trường Ca dân Chúa. Gồm 73 bài giáo lý viết theo Thánh Kinh. Sách xuất bản hai lần tại Sàigòn vào năm 1970 và năm 1971, được phép Imprimatur của Ðức Cha Trần Thanh Khâm (26-6-1970) và tái bản lần thứ ba, tại Thụy Sỹ, năm 1994. Xin trích đăng hai bài.

. Ðức Bà Maria nhận thụ thai Con Thiên Chúa giáng trần (Lc 1, 26-38)

Cảm thông nguyện ước thân thưa,
Ga-ben thiên sứ tin đưa dịu lòng,
Ma-Ri thoạt thấy ngỡ ngàng,
Một người lạ mặt đàng hoàng lắm thay;
Dâng lời chào kính tỏ bày:
-‘‘Xin Ma-Ri nhận thụ thai cứu đời
Một ngôi Thiên Chúa Iàm người,
Do quyền phép Chúa chẳng ai phàm trần’’
- ‘‘Tôi là thiếu nữ thanh bần
Tôi thề trinh khiết xa phần hôn thê’’
- Ma-Ri chớ vội, chấp nê,
Thánh Thần hóa phép chẳng hề khó khăn’’.
Ma-Ri nước mắt tuôn tràn :
Là tôi tớ Chúa nguyện vâng như lời’’.
Ngôi Hai xuống thế làm người
Trong lòng trinh nữ cứu đời khốn nguy. (Bài 70, tr. 90)

. Ðức Mẹ trước máng cỏ (Lc 2,19)

Ma-Ri trìu mến lặng thinh,
Nhìn con Thiên Chúa lòng mình sinh ra,
Nghĩa tình Chúa Cả bao la!
‘Chúa thương phận gái thật là quá thay,
Sá chi đến kẻ hèn này,
Sá chi dương thế lưu đày hóa thân,
Thương chi thương mãi thứ dân
Vô ân bạc nghĩa bao lần trước đây,
Chúa thương đâu một dân này,
Chúa thương đâu kể đông tây bến bờ’’.
Ma-Ri cung kính lạy thờ,
Giu-se khép nép say sưa kính chầu,
Hai người chỉ biết cúi đầu,
Thảm thương Con Chúa vì đâu nỗi này
Tình thương tràn ngập nơi đây,
Tình thương cứu rỗi đổ đầy trần gian.

Cuối tập thơ, tác giả viết về ‘‘Mười Ðiều Răn Thiên Chúa’’, dưới dạng ca vè, dễ học.

Ðây điều LUẬT SỐ MỘT
Thờ phượng một Chúa Trời
Ðấng tạo dựng đất trờI
Ðừng tin vơ thờ quấy
Ðừng dị đoan cúng quẩy...
ĐIỀU LUẬT TƯ cha mẹ
Con phải giữ HIẾU TRUNG
Khi sống cả lâm chung
Vâng lời đừng hỗn xược
Kính yêu đừng ngạo ngược.

7. LINH MỤC VÕ THANH TÂM

Linh Mục Phanxicô Xaviê Võ Thanh Tâm đã từng du học bên Roma (1994-1998), hiện là giáo sư Ðại chủng Vinh Thanh, Việt Nam. Trong tập thơ ‘‘Hương Xuân’’, gồm 63 bài thơ xuất bản n#m 1999, tác giả đã viết : Ðối với tôi là một Kitô hữu đồng thời là linh mục, thì Thơ còn là một bài suy niệm, là hương cầu nguyện dâng lên trước tòa Chúa Mẹ nhân hiền, là tiếng hát ngượi khen công trình của Ðấng Tại Hóa, là những lời hay ý đẹp của lý tưởng Công Giáo đem trao đổi với anh em, là cách phản ứng của một tâm hồn có đức tin trước những biến cố cuộc đời...

Vì tôi cảm thấy cần phải diễn tả nội tâm và cuộc sống để có thể cống hiến cho bạn một cái gì hữu ích, thiếu nó thì Giáo Hội ta thiếu đi một khía cạnh sự sống, thiếu đi những hình ảnh, những âm thanh và những mầu sắc cần thiết. (tr.3-4)

Ca tụng Thiên Chúa nhân từ trong bài ‘‘Trăm con chiên’’: Thiên Chúa như chủ chăn, chăm lo cho đoàn chiên béo tốt. Nhưng thương riêng có một con vì yếu mệt, không kịp về chuồng như bạn bè. Người chủ quay lại tìm cho bằng được

Bày chiên một trăm con
Có chung người chủ tốt.
Trắng và béo mườn mượt
Chủ chăn thương hết tình...
Trong nắng chiều rung rinh
Chủ soát nhìn rất kỹ
Ðúng một trăm vừa ý
Cám đội Chúa ban ơn.
Nhưng đến lúc hoàng hôn
Soát lại thì thấy thiếu
Một con nhỏ hơi yếu
Lạc đâu trên đồi xa.

Thiên Chúa kiên trì chờ đợi mong đợi tội nhân và sẵn sàng ban ơn thánh hóa.

Con hãy đến cùng Cha trong lặng lẽ
Cha sẽ nói những điều đẹp đẽ với lòng con
Những điều con chưa hề nghe trong sâu thẳm trong tâm hồn
Cha sẽ viết tên Cha vào đời con đậm nét
Và dần dần con sẽ biết
Ý nghĩa việc Cha làm...
Cha sẽ ở với con
Làm ánh sáng soi hồn
Cha sẽ đi với con
Trên đường dài dương thế. (CHA SẼ Ở VỚI CON)

Ít ai nói tới Chúa Thánh Thần. Tác giả đặc biệt nói về sự hiện diện và sự thánh hóa của Chúa Thánh Thần trong con người Kitô hữu.

Lạy Thánh Linh rất dịu hiền êm ái,
Con biết Ngài đang nghe tiếng lòng con.?
Ở với con lúc gối mỏi chân dồn,
Sát bên con khi hòng vấp ngã. (LẠY THÁNH LINH)
Lời thơ như hương thơm cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin Ngài cho con mắt trương
Ðể xem kỳ diệu tình Chúa thương
Con là thằng mù mong Chúa chữa
Ðang thiết tha van ở trên đường.
Lạy Chúa, xin Ngài mở tay con,
Nắm chặt bo bo giữ của tròn
Xin dạy cho con biết chia sẻ
Khi thấy người nghèo đến nỉ non.
(LỜI NGUYỆN BAN CHIỀU)

Thế hệ trẻ hôm nay có nhiều mẫu gương sống đạo và thi hành bác ái. Như mẹ Teresa Calcutta.

Như ở Calcutta và nhiều nơi khác...
Têrêxa ơi! đã bao lần nước mắt chị ứa
Nhìn ngón tay rơi rụng của người phong
Những đôi mắt mồ côi lệ chảy ròng ròng...
Nhắc tới họ tâm hồn chị bàng hoàng
(GỬI CHỊ TÊRÊSA CALCUTTA)

Têrêxa Hài Ðồng mộ mến thánh Théophane Vénard thừa sai tử đạo tại VN. Hai thánh nhân chết trẻ, thúc đẩy tuổi trẻ trong việc tu thân và phục vụ.

Bao nhiêu vị thánh trên trời
Ðồng thanh ca hat mừng Người hy sinh.
Théophane ơi! Giữa thiên binh
Luyến thần khao khát cung nghinh...
Hỡi người tử đạo ngang nhiên
Thưởng thức hoan lạc trong niềm đắng cay.
(ƯỚC GÌ LÀM ÐÓA HOA XUÂN)

Trong bài ‘‘Tuổi trẻ bước theo Ngài’’, tác giả đánh giá cao tinh thần người trẻ tham dự Ðại Hội Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ XII tại Paris (1997)

Ðời tuổi trẻ lại càng thêm trẻ lại
Như đóa hồng ôm mãi giọt sương xuân
Như suối mơ buông giải nước trong ngần
Như nắng sớm lượn trên đồi xanh biếc
Và tất cả đầy ước mơ tha thiết
Thánh hóa đời dưới ánh đẹp Phúc Âm.

8. LINH MỤC ÐINH ÐỒNG THƯỢNG SÁCH

Linh Mục Giuse Ðinh Ðồng Thượng Sách sinh năm 1939, tại làng Tử Nê, tỉnh Bắc Ninh.

Ngày 03-12-1966 qua Pháp du học. Cha thụ phong linh mục ngày 24-12-1972. Từ năm 1977 đến 2017, cha phục vụ tại Giáo Xứ Việt Nam - Paris.

Khi làm thơ, Linh Mục có 3 bút hiệu chính: Chổi Cùn Giáo Xứ, Cung Chi, và Lương Nhi Tử. Ðôi khi ghi tên khác như Thần Lộ,...

Thơ của cha đã khởi đăng trên các báo của Giáo Xứ VN ấn hành: Tin (từ 1972), Hiện Diện (1979) Giáo Xứ Việt Nam, bộ mới từ tháng 02-1984, tờ Emmau và Bản tin gia đình Thiếu Nhi Thánh Thể.

Năm 1976, Cha làm tuyên úy Giới Trẻ của Giáo Xứ Việt Nam. Từ tháng 11-1980, Cha chủ trương tờ báo Emmau, nhiều bài giá trị in trong 200 ấn bản phát tặng các bạn trẻ vào dịp lễ giới trẻ hàng tháng.

Và Năm 1986, làm Tuyên Úy Thiếu Nhi Thánh Thể, Cha hỗ trợ cho các Huynh trưởng ấn hành Bản Tin Gia Ðình Thiếu Nhi Thánh Thể. Tờ Liên Lạc in 100 số mỗi tháng, để thông tin liên lạc với gia đình phụ huynh.

Nguồn thơ thiên phú lẫn tư tưởng dồi dào của Cha lúc cởi mở, phóng khoáng, pha giọng tếu lẫn xây dựng qua bút hiệu Chổi Cùn Giáo Xứ. Lúc diễn tả đạo đức cao siêu, tín lý, thần học cha ký bút hiệu Cung Chi. Và khi cần trình bày về xã hội, bác ái, tình liên đới anh em, giáo dục Cha dành cho bút hiệu LƯƠNG NHI TỬ. Số lượng bài thơ của cha khá nhiều. Các thân hữu của Cha đang xúc tiến in các bài thơ thành sách để đóng góp cho tủ sách văn hóa Công Giáo Việt Nam thêm phong phú và dồi dào về phẩm và lượng.

Mỗi bút hiệu của thi sỹ là một đề tài, một nguồn thơ, một khung trời tư tưởng riêng biệt, sắc thái khác nhau. Ðọc thơ với ba bút hiệu, người ta cứ tưởng của ba tác giả. Nhưng thực sự là một. Cốt cách chừng mực được như vậy là điểm căn bản và chính yếu trong thơ văn của người sáng tác.

1) CHỔI CÙN GIÁO XỨ

Chổi dùng để quét dọn. Quét nhiều tới mức đã cùn, quả là lâu năm nhiều tháng. Thế mà vẫn chưa hết. Nhiệm vụ của chổi Ià quét. Quét sạch. Tuy là Chổi Cùn ở xó nhà xó bếp của Giáo Xứ, không ai để ý dòm ngó tới, nhưng nó có cái nhìn khắp nhà, biết nhiều việc trong nhà ngoài ngõ, nhà trên nhà dưới, ngoài hiên đàng sau, và cả việc của bàng dân thiên hạ. Việc tốt có, việc không ra gì cũng có... đủ thứ đủ loại. Không chê ai trách ai, với lời thơ nhẹ nhàng, tác giả viết ra cho mọi người cùng suy nghĩ, nêu gương sáng, xây dựng một nếp sống mới, hợp với sứ vụ Tin Mừng. Thiết nghĩ đó là mục đích của mái chổi, có nhiệm vụ quét dọn.

Chổi Cùn nhắc khéo những người hoang mang dễ tin rằng năm 2000 sẽ tận thế. Quan trọng là mỗi người : Cứ sẵn sàng giờ điểm ta đi. Chổi Cùn Giáo Xứ viết :

Sắp tận thế hay chưa tận thế?
Biết ngược xuôi lý lẽ sao đây?
Một đàng tai họa giáng đày
Một đàng lắm kẻ : ta đây sợ gì!
... Việc phải đến rồi sẽ đến
Cứ sẵn sàng giờ điểm... ta đi!
Năm Thìn cá hóa long phi
Rồng bay phượng múa... chim ri biết gì?
(TẬN THẾ... RỒNG BAY)

Thời đại nguyên tử, vấn đề thông tin liên lạc phát triển nhanh. Téléphone portable có nhiều hại, khiến tác giả cân nhắc.

Thời đại mới có "phôn póc táp"
Ði đến đâu cũng cắp theo bên
Cần chi cấp tốc gọi liền
"A lô" một tiếng tin truyền đạt ngay.
... Chỉ xin vắn tắt cho vừa
Ðừng cho thiên hạ đồ thừa ngồi bên.
... Máy của Chúa ở đâu Chúa nhỉ
Con dám xin Chúa chỉ số cho
Một mai giờ phút qua đò
Thất thanh con gọi Chúa lờ sao đang?
(TÉLÉPHONE PARTABLE)

Ðã 20 thế kỷ, xã hội vẫn còn bất công chênh lệch giàu nghèo. Chỉ có bàn tay ‘‘Ðấng hằng thường bất biến’’ mới quét nổi.

Cúi lạy Ðấng hằng thường bất biến
Ðã khiêm cung tự nguyện giáng trần
Hy sinh mặc lấy nhục thân
Mở trang Thánh Sử hồng ân cứu đời.
Nay thiên kỷ thay hồi đổi mới
Ước mong sao thế giới trong ngoài
Tinh thần vật chất hòa hài
Tương lai nhân loại ngày mai huy hoàng.
Hết những cảnh hèn sang khinh trọng
Hố giầu nghèo sâu rộng lấp đầy
Hòa bình khắp đó cùng đây
Từ bi bác ái kết giây thân tình...
Tựa cán chổi ngắm nhìn hang đá
Bỗng phút giây lòng dạ bồn chồn
Run run hỏi Chúa Hài Ðồng:
Liệu ai quét nổi cuồng ngông thói đời? (SAO SINH NHẬT)

Tìm một người xứng đáng cho năm 2001, Chổi Cùn Giáo Xứ đã chọn Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Vì ngài ưu việt khác thường: vị Giáo Hoàng truyền giáo, đi khắp nơi, làm nhiều việc lớn mà vẫn khiêm nhu, sống chân tâm, và thẳng thắn.

Người tất tả ngược xuôi xuôi ngược
Dáng bơ vơ lỡ bước năm châu
Vòng quanh quá trái địa cầu
‘‘Bỏng không xôi hỏng’’ bạc phau mái đầu!
Người vẫn trước sau như một
Chắc như đinh đóng cột khôn lay
Chính Người tạo cuộc đổi thay
Không chi đảo ngược đổi thay chí Người.
Làm những chuyện vá trời lấp biển
Nhưng khiêm nhu chẳng chiếm lấn ai...
Nếu phải chọn tức thời một mẫu
Làm con người đánh dấu năm qua
Xin chọn Ðức Thánh ‘‘Phapha’’
Từ bi, hỉ xả, xin tha lỗi hoài...
(Người của Năm 2001) (Kính dâng Ðức JP. II)

2) CUNG CHI

Cung Chi viết thơ để ca tụng Thiên Chúa nhân ái, Hiền Mẫu Trinh Nữ Maria, nêu cao gương các Thánh và vĩ nhân, mở lại những trang Giáo Sử, hay Thánh Kinh, sống xứng với hồng ân thiên chức Linh Mục mà Thiên Chúa trao ban, trung thành với phụng vụ Lời Chúa, và công tác mục vụ được ủy thác cho vẹn toàn.

Nguồn thơ bắt nguồn từ Ðức Mẹ, như tác giả xác nhận trong bài ‘‘Rộn Tình Mẫu Tử’’.

Tơ tằm vương kén bao nhiêu
Thơ con quyến Mẹ bấy nhiêu tơ lòng.
Nguồn thơ chưa vội cạn lòng
Cũng là nhờ Mẹ gợi hồn đó thôi.
Mẹ là gạch nối đất trời
Thơ con kết chuỗi mân côi đôi bờ.
Mỗi ngày một hạt ước mơ
Mỗi năm là cả bài thơ ơn trời
... Con cõi tục, Mẹ cõi tiên
Bao giờ thoát tục, con lên, Mẹ chờ.
Bây giờ tạm với ước mơ
Dòng thơ đừng cạn, ý thơ đừng mòn.
Bốn mùa thi hứng nắng hồng
Rộn tình mẫu tử mẹ con tháng ngày.
Chẳng thưa Mẹ cũng thừa hay
Lòng con tang trắng những ngày tháng qua.
Mẫu thân khuất núi non xa
Con càng gần Mẹ, thiết tha càng nhiều.

Ơn nghĩa người mẹ trần gian kết luyện với ơn thánh chức linh mục khăng khít không xa nhau. Ðẹp nhất và cao cả nhất ''Ðội Bàn Tay Linh Mục'' được thánh hiến để ban các phép Bí Tích.

Chúa ban cho con đôi bàn tay
Gọi con giơ lên vào một ngày
Lĩnh ơn dầu thơm ơn thánh hiến
Ðể rồi sai đi khắp đó đây
... Nhân danh Ba Ngôi cực trọng thay
Con dùng đôi tay yếu đuối này
Làm dấu nối liền trời với đất
Như nguồn phúc lộc suối ơn đầy.
Cũng chỉ vì thế cho đến nay
Con cố trung kiên giữ đôi tay
Hiến dâng trọn vẹn lên cho Chúa
Những phút run run Chúa đỡ thay?...
(ÐÔI BÀN TAY LINH MỤC)

Thâm thúy và ý nghĩa hơn khi tác giả dùng bàn tay của mình là người con, tiễn đưa thân mẫu về nơi Vĩnh Phúc hoan lạc

Con làm dấu trán mẹ...
Con xức dầu mắt mẹ...
Con xức dầu môi mẹ...
Con xức dầu mũi mẹ...
Con xức dầu tay mẹ...
Con xức dầu chân mẹ...
Mỗi phần thân thể mẹ
Có chút phần riêng con
Con xức dầu cho mẹ
Nhức nhối phận đời con
Làm các phép cuối cùng
Giờ phút mẹ lâm chung
Con nghẹn ngào khôn tả
An ủi cũng vô song
Nếu không là linh mục
Con đâu tích sự gì?
Huyền nhiệm thay thánh chức
Giúp con tiễn mẹ đi. (NẾU KHÔNG LÀ LINH MỤC)
Ý chí và tinh thần phục vụ của tác giả luôn vươn cao.
Cúi lạy Chúa ! cho con thêm mới mẻ,
Khi lần nữa được lãnh tuổi Chúa ban.
Cho con biết mang nét mặt hân hoan,
Và o những nơi đang buồn sầu tủi cực.
(LỜI NGUYỆN ÐẦU NĂM.1983)

Mượn thân con chó, nói lên con người bé nhỏ của mình, ‘‘trung thành, sắt son một đời’’.

Chúa ơi con biết nói sao.
Lòng con cuộn sóng dạt dào mến thương...
... Chẳng làm những việc gì vẻ vang.
... Chẳng làm những chuyện phi thường
... Chẳng làm công cuộc động trời
... Chẳng làm nổi việc cao kỳ
... Chẳng gây địa chân anh hùng
... Chẳng vượt bốn bể trùng dương
Trước sau mong ước duy nhất là:
... Sống vui loan báo Tin Mừng
Chết an lưu lại cõi lòng hồng tươi
Vì Trờì, vì Ðất, vì Người
Tấm thân sô cẩu nổi trôi ngại gì
(HỒNG TƯƠI. Giáp Tuất 1994)

Nhiệt tình bác ái luôn ấp ủ, nhưng thi sỹ vẫn cảm thấy mình bé nhỏ:

Là tu sĩ, tôi khơi nguồn tư tưởng
Ðem tình thương reo rắc khắp dân gian...
Là tu sĩ, tôi hân hoan hớn hở
Ðem ‘‘Tin Vui’’ giải phóng cho anh em...
Là tu sĩ, tôi nguyện như muối bể
Muối yêu đương, men bác ái phúc âm...
Là tu sĩ, tôi vạch đường chỉ hướng
Giữa sa mạc hoang vắng bể đìu hiu...
Là tu sĩ, tôi cho đi mọi nhẽ
Cho nhưng không vì đã nhận nhưng không
Cả trời đất rộng rãi như vô cùng
Người tu sĩ lòng son vẫn thấy nhỏ.
(LỜI TÂM NGUYỆN. Paris, 1975)

3) LƯƠNG NHI TỬ

Lương Nhi Tử nặng tình hiếu đễ, mang bút hiệu LƯƠNG NHI TỬ tác giả lấy từ tên song thân. Thân phụ tác giả là LƯƠNG và thân mẫu là NHI. TỬ có nghĩa là con. LƯƠNG NHI TỬ mang nghĩa là CON của cụ ông LƯƠNG và cụ bà NHI. Ðược biết, cụ cố Ðinh Ðồng Lương (+ 1986) là người có tâm hồn thi sỹ, làm thơ giỏi, và hay. Còn cụ bà Nguyễn Thị Nhi (+ 2001) lại mê và thuộc rất nhiều thơ. Trong nhà cụ thích ngâm thơ và thường dùng thơ để dạy bảo con cháu.

Lương Nhi Tử luôn nhủ mình trước, nhắc người sau: "Tình cha nghĩa mẹ không bao giờ phôi phai".

Con ơi muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Trọn bề gia đạo
Phận làm con hiếu thảo phải chu toàn
Với song thân nhớ phụng dưỡng lo toan
Tình huynh đệ luôn ân cần hòa thuận
Cha sinh mẹ dưỡng đời lận đận
Anh em thủ túc liền tay chân
Giọt máu đào hơn ao nước trăm phần
Gì chi nữa cũng gà đàn chung mẹ
Ðừng lăng nhăng theo thói đời tục thế
Bỏ gia đình coi nhẹ ý mẹ cha
Mấy lời, con chớ bỏ qua! (CHỚ BỎ QUA)

Ðối với tuổi trẻ, thi sỹ hiểu họ hơn ai hết. Người trẻ đừng buồn, đừng nghĩ đến chiều buông, luôn đạp chông gai hướng về tương lai.

Tuổi con nay đương tuổi còn hoa bướm
Ðừng bao giờ ảm đạm nét buồn thương
... Luôn kiên nhẫn dễ thương và phục thiện
Nhìn phía trước cứ mỉm cười thẳng tiến
Sau đêm dài biết chắc có bình minh
Mang trong mình lửa nóng bỏng niềm Tin
Chìa khóa ấy mở tung mọi cánh cửa... (YÊU ÐỜI)

Trung thành với Giáo Hội, đặt hết tín thành vào các thánh Tử Ðạo Việt Nam. Tên 117 Thánh Tử Ðạo Việt Nam được ghi gọn trong bài HỌ LÀ AI. Trong 14 câu trong đoạn dưới ta đếm được 52 vị thánh (chữ viết hoa) :

...Họ là ai muốn nói trong yên lặng
Ðể nêu CAO TRUNG HIẾU vẻ HIỀN KHOAN
PHỤNG sự Chúa trong DŨNG LẠC hân HOAN
Nhằm phát HUY nét MỸ HÒA huynh ÐỆ
Mục ÐÍCH ÐẠT AN BÌNH TỰ cõi THẾ
HƯỞNG LỘäC Trời nhờ NGÔN HẠNH tinh TÂN
ÐƯỜøNG MINH ÐỨC QUÍ hơn TRIỆU kim NGÂN
Lòng THÀNH KÍNH dưỡng tâm ÐIỀM LIÊM TỊNH
Việc hành THIỆN ÐÔNG NAM BẮC hưng THỊNH
Như QUỲNH UYỂN LƯU HƯƠNG XUYÊN CAO xa
Như YẾN TƯỚC VEN TƯỜNG cất tiếng ca
THÔNG bốn cõi DƯƠNG gian cùng tiên Cảnh

Hàng năm, vè sớ Táo Quân mô tả sinh hoạt thế giới, đất nước và cộng đoàn. Trên 20 năm, mỗi năm Cha viết một bài ca vè dài. Ðọc lại thấy như những trang sử vui tươi. Thí dụ năm 1994, lớp Pháp văn và thư viện hoạt động mạnh:

Tiếng Pháp ú ớ
Có lớp ban ngày
Nếu cần học ngay
Có lớp ban tối
... Có phòng coi xinh
Là trang thư viện
Xếp đặt bày biện

So với những năm trước, năm 1999, lòng đạo giáo dân gia tăng nhờ những ngày lễ lớn, ơn gọi phát triển có người thành Sơ, có người "làm cha".

Lễ Lá chủ nhật
Kéo về hơn ngàn
Không mấy khó khăn
Hết cảnh chạy mướn
Tuần Thánh lễ lớn
Sốt sắng tham gia
‘‘Xức dầu’’ tuổi già
Rửa chân các cụ
Vui chung cả xứ
Anh chị tân tòng
Ba chục có hơn

Một ít trang viết về thơ của Cha Ðinh Ðồng Thượng Sách, người viết có cảm tưởng là chưa nói được gì. Hay chỉ muốn nói trong thơ của ngài chất chứa nhiều tư tưởng phong phú, ấy là không kể đến lối kiến trúc lời văn, ngòi bút lưu loát và tinh tế, ngoài phạm vi bài này. Xin mời bạn đọc tìm đọc và thưởng thức tài nghệ của thi sỹ.

9. LÊ NGỌC HỒ

Ông Lê Ngọc Hồ sinh ngày 19-3-1948, tại Cát Trì, Hà Nam. Từ nhỏ được hấp thụ bằng nền giáo dục qua ca dao, thơ phú. Chính từ đó, có thể là mầm sinh và nguồn thơ của ông sau này. Ông đã từng hoạt đông trong ngành truyền thông cho giáo phận Hà Nội. Ông tốt nghiệp cao học Hành Chánh và Chính Trị Kinh Doanh. Và làm việc trong ngành hành chánh cấp cao. Sau năm 1975, Ông định cư tại Washington, làm việc trong thư viện, ở Seattle. Song song với nghề nghiệp, Ông sinh hoạt báo chí và viết văn. Lê Ngọc Hồ đã xuất bản hơn 10 tác phẩm, trong đó tới phân nửa là thơ: Anh Hùng Tử Ðạo (1987), Tình Yêu và Quê Hương (1988), Ngợi Ca I (1994), Ngợi Ca II (1995)...

Khuynh hướng thơ Ông rất bình dân, dễ hiểu, nhưng ý tưởng thâm sâu. Chủ đích thơ văn của ông là truyền bá đạo lý và phục vụ giáo dục. Chất thơ của Lê Ngọc Hồ nằm trong ý rất độc đáo ‘‘Con Người Việt Nam là Con Thiên Chúa’’

Câu chuyện Chúa Giêsu gặp hai Môn Ðệ trên đường Emmau (Lc 24, 13-33) được tác giả thấm nhuần tinh thần bác ái sâu xa.

Có nhiều khi trong những nẻo đường đời
Ta đã từng gặp Chúa khắp nơi nơi...
Không biết, tại cửa hồn bưng mắt lại
Kinh Thánh viết mà sao tôi không thấy!
... Chính Chúa còn trong những kẻ tha hương
... Chúa khổ buồn trong những kẻ ngục tù
... Chúa ở luôn nơi hải tặc nạn nhân
... Chúa chính là nơi bao kẻ cô đơn
... Chúa lang thang nơi những kẻ không nhà,
Ðám lữ hành kẻ lỡ bước đường xa
Con tiếp đón hay nhẫn tâm đóng cửa?
Với tất cả hay phân chia chọn lựa? (TRÊN ÐƯỜNG EMMAU)

Trong bài ‘‘Một Ánh Sao’’ đưa mắt nhìn trời với ánh sao đêm, hiện thân cho tình yêu của Thiên Chúa với con người. Con người cần sát lại bằng tương trợ lẫn nhau.

Trên trời lộng lẫy tinh cầu,
Từ đây dưới thế đẹp màu yêu thương.
Trên trời có ánh sao vương,
Tình dâng Thượng Ðế hoa hương ngạt ngào.
Trên trời một sáng sao cao,
Tình thân chia sẻ hồn vào trần gian.
Trên trời ánh đẹp sao gần,
Hồi chuông bác ái tiếng ngân muôn đời.

Thơ của Lê Ngọc Hồ đi vào thực tế, ít viễn vông hay trống rỗng. Nội dung thơ kêu gọi con người phải sống cao thượng hơn, xứng đáng Ià người có hồn bất diệt. Thí dụ như trong đêm Giáng Sinh, loài vật còn biết đến bái thờ Chúa Hài Ðồng, mà con người lại thờ ơ hững hờ. Chúa bị sua đuổi. Thật chua sót.

Chuyện hai ngàn năm trước
Rất lạ một vì sao
Chói ngời soi đỉnh tuyết
Cả muôn loài xôn xao...
Loài vật còn chiêm ngưỡng
Huống chi con người
Hẳn nhìn về một hướng
Hồng ân Chúa cứu đời. (CHIÊM NGƯỠNG VỊ SAO)

Lê Ngọc Hồ viết nhiều về Các Thánh Tử Ðạo Việt Nam, với ý nêu cao ý chí anh hùng đã ghi vào sử xanh, nguyện xin cho dân tộc hạnh phúc ấm no.

Hàng hàng lớp lớp đao binh
Chứng nhân cho Chúa nhiệt tình dâng cao.
Hoa dâng lộng lẫy máu đào
Niềm tin chất ngất đã vào tâm tư...
Máu thiêng đã vẽ bóng hình,
Ðã tô đậm nét trên tim não người.
Giáo dân nước Việt đáp lời
Theo gương tiền bối đời đời xin vâng.
(HÀNG HÀNG LỚP LỚP)

Tinh thần và nề nếp đạo đức của giao dân VN dù ở đâu, sớm chiều vẫn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

Bao nẻo đường thế giới
Khi người Việt đi tới
Ðua nở những màu hoa
Niềm tin mùa hương mới.
Chân bến trời ánh sang
Tim màu đẹp năm, tháng
Theo lối Chúa tình yêu
Trầm hương tình trong trắng.
Hoa tiến tình sáng tối
Tin, Cậy, Mến bình tâm
Bài kinh chiều ca mới. (HOA TÍM BÁCH VIỆT)

Mẹ Maria là đề tài quen thuộc của các thi sỹ Việt Nam. Nhưng Lê Ngọc Hồ viết về Ðức Trinh Nữ với cả tâm hồn. Bài ’’TruyềnTin’’ (Lc 1, 26-38), lột hết những rung cảm khi sáng tác.

Có nàng trinh nữ xinh
Như hoa sương bình minh
Ðơn sơ và chân thật
Sớm, trưa, chiều dâng kinh.
Thiên Chúa rất quyền thế
Ma ry nói Xin Vâng
Con đây là nô lệ...
Ðây bài học xin vâng
Nêu một tấm gương vàng
Lời thiếu nữ bình dị
Xôn xao cả thiên đàng.

10. NGUYỄN TẦM THƯỜNG

Nguyễn Tầm Thường tên thật là Nguyễn Trọng Tước, sinh 1951, tại Bắc Ninh, là Linh Mục Dòng Tên, thụ phong năm 1989. Sau khi thụ phong Cha đi truyền giáo tại trại tỵ nạn Palawan, Phi Luật Tân, sau Cha về làm việc cho trung tâm Truyền Hình Kuangchi, tại Ðài Loan. Hiện nay, Cha đang hoạt động mục vụ rất đắc lực cho Phong trào Linh Thao tại Hoa Kỳ. Linh mục viết văn xuôi hay thơ đạt yêu cầu tò mò của độc giả. Nguyễn Tầm Thường đã xuất bản trên 10 tác phẩm, có tác phẩm đã in lại tới 6 lần. Hai tập thơ: Mùa Hoa Trên Thánh Giá Gỗ, CA.1994. Tình Thơ Thập Giá. Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. CA. 1988. Ðề tài xoay quanh Thánh Giá.

Thơ của tôi là tình thơ Thập Giá.
Lời thơ tôi khô khan như rào gai tượng đá
Vườn thơ tôi không có áo lụa thướt tha.
Không có sân trường thương đôi guốc nhỏ mặn mà.
(TÌNH THƠ THẬP GIÁ)

Vì say mê Thập Giá, nên lý tưởng sống là: ‘‘Nếu Ngài muốn’’

Ôi Thượng Ðế nếu Ngài muốn như vậy
Tay tôi này Ngài hãy đóng đanh đi
Ðóng cho sâu còn ngần ngại làm gì
Ðóng thật chặt để biết rằng tôi chết.
Hỡi Thượng Ðế này đây tôi trao hết
Tuổi hai mươi với kỷ niệm sân trường
Nắng thu về ấp ủ chuyện yêu đương
Lấy hết đi những gì Ngài muốn lấy... (NẾU NGÀI MUỐN)
... Tôi đã chọn viết chuyện tình thập giá
Thì tôi yêu những sáng đẹp mây hồng
Thì tôi yêu những sương phủ chiều đông
Như Thập Giá trên cánh đồng Do Thái
... Nhưng đời ạ cho dù đời lộng gió
Tôi sẽ đi dẫu vấp ngã lầm đường
Lời thập tự là chứng từ yêu thương
Tôi tin chắc có trăm nghìn tha thứ. (TÔI SẼ Ði)

Và tâm nguyện của thi sỹ không cao xa chỉ đơn giản như trong bài ‘’Xin được làm con sâu tằm’’.

Tôi không làm bướm bay trên cao
Cũng không có áo lụa hoàng đào khoe cùng bướm đâu
Tôi chỉ là con sâu
Biết duyên sắc của mình rất xấu
Nên âm thầm nguyện cầu nghìn đời.
Chỉ kết duyên cùng với vườn dâu.
Trung kiên và theo Chúa từ sáng cho đến chiều.

Con nhìn con trên quán trọ cuộc đời
Quá thưa khách mỗi người đi mỗi ngả
Chiều xám nặng ôi đường về thập giá
Bày ngựa hồng đã rũ bã chân bon.

Con ngồi đây bên quán vắng chiều hôm
Trời mờ tối bên bìa rừng tội lỗi
Con thấy sợ thấy bồi hồi bối rối
Quay ngựa về hay ruổi bóng trường chinh.

Rừng âm u quán trọ con một mình
Con thắc mắc nhưng không lời đáp trả
Chúa như chết, chết trên thập giá
Chiều âm thầm chĩu nặng một niềm thương.

Nếu tiếp tục lên đường về thượng trí
Ðường thì dài mà lắm quãng hồ nghi
Lắm mưa mùa sa mù nẻo tương lai
Vó ngựa này có cuồng say mãi mãi.

Nhưng bỏ thầy đời con biết theo ai
Con hỏi nhỏ nghe lòng hiu quạnh giá
Ðường siêu bạo ôi đường về thập giá
Chúa chẳng nhìn chẳng nói lặng thinh.

Trong cô đơn con tự hỏi lòng mình
Tình chỉ đẹp khi âm thầm đau khổ
Giang tay mãi trên gác lầu chuông gỗ
Như thập giá nhện giăng phủ mặt mày.

Quán trọ buồn con mỏi mệt chiều nay
Ngựa lừng thừng chán chường từng bước nhỏ
Thấy trước mắt một đường đời lộng gió
Con u hoài nghi ngại quá Chúa ơi.
(CHIỀU BÊN QUÁN TRỌ)

Thơ của Nguyễn Tầm Thường dựa trên những nhân vật, sự việc tầm thường, lời văn đơn sơ. Nhưng công việc đã đem lại kết quả thật lớn đối với quần chúng, nhất là giới trẻ.

11. TRĂNG THẬP TỰ

Năm 1999, Trăng Thập Tự tuyển chọn và xuất bản tập ‘‘Góp Nhặt Thơ Công Giáo Việt Nam’’, tập 1, gồm 230 bài thơ đủ loại tuyển chọn của 41 tác giả. Sách có Imprimatur của Ðức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám mục Nha Trang ký ngày 29-06-1999.

Xin chọn trích đăng tượng trưng 3 tác giả.

1) TRĂNG THẬP TỰ đã chọn 13 bài đem vào thi tập chung của nhiều tác giả: Tạ ơn (1978), Chào đời (1978), Eva (1980), Ra đời (1978), Tâm sự, Sau phút tìm mình (1978), Cha (1987), Cánh đồng (1972), Diễm ca (1984), Ghetsêmani (1991), Người bị đóng đinh (1987), Rèm thưa, và Dung dăng Dung dẻ (1997).

‘‘Cánh Ðồng’’ là bài thơ diễn tả tâm tình truyền giáo, khát vọng đứng trước ‘‘cánh đồng lúa chín mà thiếu thợ gặt’’.

Khi chiều về rất đỗi vội vàng
Cánh đồng còn bề bộn
Ta bỗng mơ tay được nối dài
Ta bỗng thèm mặt trời đứng lại
Ðể ta gặt cho đầy
Ðể ta góp cho hết
Ðem lúa thơm về trước đêm đen.

... Ta vẫn nuôi trong ta một hoài bão lớn
... Và bắt gặp những nụ cười
Có chung hoài bão lớn
Cùng nhau ôm cả một cánh đồng
Sẽ gặt kịp trước khi chiều đến. (tr. 243)

Những dòng thơ của Trăng Thập Tự nặng tình biết ơn, say mê, và chấp nhận khổ đau để cảm thương Chúa Giêsu đau khổ.

Ôi Thiên Chúa đêm nay Ngài khóc
Ðêm nay Ngài trần trọc trong tôi...
Chén đắng dẫu ngậm cười vẫn đắng
Ðêm mênh mang, đêm lắng xuống hồn...
Ðêm sinh tự địa đàng khép cửa,
Ðêm vô hình chất chứa lòng ai!
Mình trăng tư lự đêm dài,
Mực sương giấy lá chép bài kinh khuya. (GHETSÊMANI)

2) ÐÌNH BẢNG có 7 bài đăng trong tuyển tập thơ này: Có ai về thôn Vỹ, Kinh cáo mình, Lời khấn nhỏ chiều chúa nhật, Mộ khúc, Trăm năm tro bụi về đâu, Em lên đền thánh và Hãy xé lòng tôi đừng xé áo.

Tâm tình hối lỗi của ‘‘Mùa Chịu Nạn’’ trong bài ‘‘Hãy xé lòng tôi đừng xé áo’’.

Hãy xé lòng tôi tan ra như xác pháo.
... Hãy ướp lòng tôi trong muối
... Hãy xé lòng tôi, tơ vò trăm mối
... Hãy xé lòng tôi như cọng rơm gốc rạ
Như cây nhang tắt ngấm nguội tàn
Lạy Chúa Trời, đến bao giờ đá nát vàng tan
Cho tôi sực nhớ ra mình, con-chim-lìa-tổ
Hãy cột dây và điệu tôi đi vòng quanh phố chợ
Gặp từng người xin đấm ngực ăn năn. (trang 60)

Ước ao tâm hồn trong trắng, sạch bợn nhơ để thảnh thơi dưới tháp chuông giáo đường.

Hồn tôi, một cánh đồng không
Lạy TrờI mưa xuống thành sông thành ngòi.
Hồn tôi nghìn mũi kim khâu
Sợi thưa, thưa mãi, sợi mau, mau dần.
Hồn tôi một mảnh gương tan...
Hồn tôi rậm rịt hoang vu,
Nằm nghe đá mọc thiên thu đợi Người.
Hồn tôi mấy ngọn sầu đông,
Rụng rơi tàn tạ còn mong nỗi gì.
... Tiếng chuông thiêm thiếp bên kia giáo đường. (KINH CÁO MÌINH)

3) XUÂN VÂN đóng góp 11 bài, ý thơ rút từ Thánh Kinh Tân Ước: Lời hằng sống, Chúa Giêsu giáng sinh, Tiệc cưới Cana, Mạc khải cho người bé mọn, Cỏ lùng, Kho tàng và viên ngọc, Dụ ngôn người trinh nữ, Phép lạ hóa bánh lần đầu, Chúa chết trên Thánh giá, Ðức Mẹ khóc con, Chúa lên trời.

Sứ vụ của Gioan Tiền Hô là loan báo dọn đường cho Chúa Giêsu đến.

Gioan có lần chứng minh không đố kỵ:
Người đến sau mà cao trọng hơn tôi,
Từ đời đời Người đã có trước rồi
Tôi không đáng xách giày Người đâu nhé!
Là Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể,
Người quyền uy và sung mãn biết bao!
Ðược thông phần nguồn ân phúc dồi dào,
Ta lãnh nhận ơn này qua ơn khác. (LỜI HẰNG SỐNG)
Thiên Chúa giàu tình thương và luôn sẵn sàng tha thứ.

- Có người xin dọn ruộng nhà
Chủ rằng: Ðừng vội! Chẳng thà để yên.
Lúa và cỏ sẽ lớn lên
Tạm thời để đó chẳng nên nhổ lầm. (CỎ LÙNG)
- An-rê bỗng cất tiếng thưa:
Bánh còn năm chiếc, cá thừa hai con...
Chúa nhìn lên cõi trời mây
Một tay cầm bánh, một tay chúc lành.
Bẻ ra chia khắp chúng sanh,
Xếp ngồi trên bãi cỏ xanh từng đoàn.
Trẻ già trên dưới năm ngàn,
No nê hương vị ân ban dồi dào. (PHÉP LẠ HÓA BÁNH LẦN ÐẦU)

KẾT LUẬN

Với đề tài trên có thể viết dài hơn. Nhưng thời gian sưu tập tài liệu có hạn, với số lượng bài thơ quá nhiều, đa dạng và vô cùng phong phú. Vườn thơ Công Giáo rộng mênh mông, muôn mầu muôn sắc. Càng viết càng thấy thiếu sót. Chúng tôi xin tạm ngưng ở đây với lời minh xác : Việc xếp loại hay đánh giá các nhà thơ mới (ở phần III) cần phải có thời gian lâu dài, do ‘‘hội đồng’’ của các nhà văn, nhà phê bình, biên khảo. Chúng tôi là người đọc, thâu thập ghi lại trong những tài liệu sẵn có, lại quá ít. Còn nhiều thi sỹ mà chúng ta chưa ghi vào đây. Xin nhận nơi đây sự thiếu sót ngoài ý muốn này.

Chúng tôi xin được phép đưa ra một số nhận xét chủ quan để kết thúc bài này:

Thơ Công Giáo Việt Nam luôn có tính cách thời sự. Những biến cố gì mới, những thay đổi từ cá nhân, trong gia đình, xứ đạo, đến giáo phận hay liên quan đến Giáo Hội hoàn vũ, đều được các thi sỹ ghi ngay và ghi trung thực. Nên các tập thơ cũng là những trang sử đẹp của Giáo Sử hoàn vũ và Việt Nam.

Chính vì vậy, thơ Công Giáo Việt Nam lúc nào cũng mang hình ảnh, dáng vóc, tính tình con người Việt Nam. Ðọc thơ lên, cảm thấy mình nhẹ nhàng kín đáo... dễ rung cảm nhạy bén. Chẳng hạn đọc một bài thơ ngắn, người ta dễ nhớ cả một giai đoạn lịch sử dài. Ðiểm hay của thơ và tài của thi sỹ ở chỗ đó.

Các bài học giáo lý được viết theo đủ loại thơ cho dễ đọc dễ nhớ. Nhiều người không am tường Phúc Âm nhưng đã thuộc nhiều bài thơ, ca vè nội dung của Thánh Kinh, những bài giáo lý căn bản. Người tín hữu ít học, đơn sơ chất phát đã sống đạo theo nội dung nhũng bài thơ này.

Tinh thần Phúc Âm được các thi sỹ thuấn nhầm và là nguồn cảm hứng sáng tác. Phân nửa các bài thơ nội dung lấy từ Thánh Kinh. Các Thánh Vịnh được biến dạng thành kinh nguyện hợp với tinh thần Á Ðông. Những bài thơ ngắn viết về dụ ngôn, Mười Ðiều Răn, phúc đức dễ in sâu vào đầu óc dân trí hơn một bài giảng dài.

Một số bài thơ đã là đề tài cho sáng tác và phổ nhạc. Tiến tới mức độ cao hơn là thơ và nhạc kết hợp hài hòa. Cung đàn tiếng hát vang vọng ý thơ trong giờ phụng cộng đồng, dễ nâng lòng khấn nguyện, cầu kinh.

Tất cả những yếu tố trên tác thành thi ca Công Giáo Việt Nam, thực tế đã giúp rất nhiều tring việc tăng lòng đạo đức và tinh thần, ý chí truyền giáo của giáo dân Việt Nam.

Ðến đây, xin được phép ghi lại trách nhiệm chung của người cầm bút mà Công Ðồng Vaticvan II đã vạch ra trong sứ điệp gửi giới văn nghệ sỹ, vào dịp bế mạc, ngày 08-12-1965.

Giờ đây, chúng tôi xin ngỏ lời với qúi vị văn nghệ sỹ, những người say mê và phục vụ cái đẹp : Qúi vị là những thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia, kiến trúc sư, nhạc sĩ, diễn viên cũng như chuyên viên kịch nghệ và điện ảnh... Qua tiếng nói của chúng tôi, Công Ðồng Giáo Hội xin ngỏ lời với toàn thể qúi vị: nếu yêu chuộng nghệ thuật chân chính thì qui vị là bạn hữu của chúng tôi.

Ðã từ lâu, Giáo Hội liên kết với quí vị. Quí vị đã xây dựng và trang hoàng những đền thờ, suy tôn các tín điều, làm giàu cho phụng vụ của Giáo Hội. Quí vị đã giúp đỡ Giáo Hội diễn tả sứ điệp thánh của mình ra ngôn ngữ hình thể và sắc thái, khiến cho thế giới vô hình có thể được cảm nhận.

Ngày nay cũng nhưng trong quá khứ, Giáo Hội vẫn cần quí vị và hướng về quí vị. Qua tiếng nói của chúng tôi, Giáo Hội ngỏ lời cùng quí vị: xin đừng để tan vỡ mối liên kết phong phú tuyệt bực. Xin đừng chối từ đem tài năng ra phụng sự chân lý Thiên Chúa. Xin đừng đóng cửa tinh thần quí vị trước hơi thở của Thánh Thần Chúa !

Thế giới chúng ta sống ngày nay đang cần đến cái đẹp để khỏi chìm đắm vào thất vọng. Cái đẹp, cũng như sự thật mang lại niềm vui cho tâm hồn con người, đó chính là hoa trái quí giá không tàn úa vì thời gian nhưng nối kết các thế hệ lại và làm cho họ thông cảm nhau khi thán phục nhau. Công trình ấy là do bàn tay của quí vị...

Ước mong những bàn tay ấy được thanh sạch, vô vị lợi ! Xin hãy nhớ rằng quí vị là những người bảo vệ cái đẹp trong thế giới: Mong rằng chỉ điều đó cũng đủ khiến qúi vị vượt qua những thị hiếu phù du không có giá trị đích thực, đủ khiến quí vị tránh tìm những lối diễn tả dị kỳ và bất nhã.

Ước chi lúc nào và chỗ nào quí vị cũng vẫn xứng đáng với lý tưởng mình để rồi xứng đáng với Giáo Hội, mà ngày hôm nay qua tiếng nói chúng tôi, xin gửi đến quí vị sứ điệp thân hữu, cứu độ, ân phúc và chúc lành. (Bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Pio X)

Nhà thơ Công Giáo khác nào như một ký giả, như lời Tháh Giáo Hoàng Gioan Phaolô lI nhắn nhủ trong buổi tiếp kiến phái đoàn Hiệp Hội Báo Chí Công Giáo (UCIP) nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập, tại Vatican ngày 6-12-2002 : Ðặc tính nổi bật mà ký giả (nhà thơ) Công Giáo phải có. Ðó là một người thanh liêm. Ðời sống bản thân và nghề nghiệp của họ phản ánh của Chúa Kitô và Tin Mừng. Họ cố gắng tranh đấu cho cho lý tưởng nghề nghiệp. Ðồng thời cũng là người cầu nguyện, luôn tìm cách trao ban những điều tốt đẹp nhất, có can đảm kiếm tìm và thông truyền sự thật, cả khi sự thật ấy bất tiện hoặc không được coi là ‘‘đứng đắn về chính trị’’. Ðiều đó có nghĩa là ký giả (nhà thơ) Công Giáo không phải chỉ tường thuật những tội ác và tai ương, nhưng còn nói về những hoạt động tích cực xây dựng xã hội, những sáng kiến bênh vực người nghèo, bệnh nhân, người tàn tật, kẻ yếu thế và những người bị xã hội lãng quên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

XUÂN LY BĂNG, Tuyển Tập thơ Xuân Ly Băng. 1999; Bài ca Thương Khó, 1999
MINH CHÂU, Nhớ Thương (1990). Quê Hương Là Tình (1991). Thi Họa Hương Lòng (1997)
PHƯƠNG DU, Băng Thi Nhạc Tình Thương 1 và 2. Tha Hương (1986). Tình Thương (1991). Tình Thương 2 (1993). Hoa Tâm (2002).
TRẦN ANH DŨNG, Tiểu sử và thư mục Ðức Cha Hồ Ngọc Cẩn (1876-1948). Paris 2000.
TRẦN ANH DŨNG, Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam. Paris 1996
NGUYỄN GIA ÐỆ, Trần Lục. Canada, 1996
ÐOẢN KHOÁCH, Sản Ðình Thi Tập của J.M. Thích. 2001, USA.
TRẦN THANH MẠI, Hàn Mạc Tử (1912-1940). 1941. USA tái bản.
LM. LÊ XUÂN MẦNG, Poèmes, 1994. Dâng Mẹ 1998; Thơ, Toulouse 1999; Nhờ có Mẹ, 1999..
LM. CAO VĨNH PHAN, Trường ca dân Chúa. Thụy sỹ tái bản 1994.
VÕ THANH TÂM, Hương Xuân, 1999.
NGUYỄN TẦM THƯỜNG, Mùa Hoa TrênThánh Giá Gỗ. CA.1994; Tình Thơ Thập Giá. Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. CA. 1988.
TRĂNG THẬP TỰ. Góp Nhặt Thơ Công Giáo Việt Nam. Tập 1. Tòa giám mục Nha Trang, Thuận Hóa.1999.
PETRUS VŨ ÐÌNH TRÁC, Công Giáo Việt Nam trong truyền thống văn hóa dân Tộc. Orange. CA. 1996.
VÂN UYÊN, Những Vần Lưu Niệm (1996), Tình Thơ (1997) và Duyên Kiếp Thiên Tình (1999).
Tuần báo Nam Kỳ Ðịa Phận, Sàigòn, Tân Ðịnh. Các năm 1912, 1913, 1914, 1915, 1916, 1923, 1929... và năm cuối cùng 1945.
Nguyệt san Giáo xứ Việt Nam, Paris, bộ mới từ 1984 đến 2003, có bài của CUNG CHI, LƯƠNG NHI TỬ và CHỔI CÙN GIÁO XỨ.

 
VietCatholic TV
Ván bài lật ngửa: Orbán nhượng bộ 50 tỷ cho Kyiv. Thua siểng niểng, Nga lại tung tin giả chiến thắng
VietCatholic Media
04:31 30/01/2024


1. Zelenskiy tiết lộ một lợi thế bất ngờ của Ukraine trước quân xâm lược Nga

Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Zelensky Reveals Unexpected Advantage Over Russia”, nghĩa là “Zelenskiy tiết lộ lợi thế bất ngờ trước Nga.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy bất ngờ tuyên bố rằng đất nước của ông có lợi thế về quân số trước quân đội Nga xâm lược.

Zelenskiy cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây với kênh truyền hình ARD của Đức rằng quân đội Kyiv có ít nhất 880.000 quân nhân tại ngũ - nhiều hơn đáng kể so với 617.000 quân xâm lược mà Putin cho biết đang chiến đấu ở Ukraine vào tuần trước.

Tổng thống Ukraine dẫn số liệu nhân sự sau khi được hỏi quan điểm về những người đàn ông không thể nhập ngũ vì đã rời khỏi đất nước ngay sau khi Nga xâm lược ngày 24/2/2022.

“Chúng tôi biết ơn những người đã quay trở lại để tái thiết Ukraine”, ông Zelenskiy nói, theo bản dịch từ Ukraine Today. “Chúng tôi có 880.000 quân nhân; chúng tôi có một đội quân hàng triệu người, ngoài ra còn có 30 triệu công dân đang làm việc, thậm chí có thể nhiều hơn”.

Ông nói thêm: “Tôi không thể nói chắc chắn vì chúng tôi không biết: 6,5 đến 7,5 triệu người đã ra đi kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh toàn diện”.

Tuyên bố của Zelenskiy khác rất nhiều so với con số mà ông trích dẫn như trên vào ngày 12/12, khi ông nói rằng có gần 600.000 binh sĩ “thuộc nhiều nhánh khác nhau của quân đội” đang chiến đấu chống lại Nga.

Nền tảng thu thập và phân tích dữ liệu Statista ước tính quân đội Ukraine có khoảng 900.000 quân tính đến tháng này. Nga được cho là có lực lượng 1,32 triệu người, bao gồm cả nhân sự không được triển khai tới Ukraine.

Vladislav Seleznev, cựu giám đốc cơ quan báo chí của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Ukraine, tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 11 với hãng tin TSN của Ukraine rằng có 1,3 triệu người trong Lực lượng vũ trang Ukraine.

Thương vong ngày càng gia tăng ở cả hai phía chiến trường khi cuộc chiến sắp kỷ niệm hai năm.

Quân đội Ukraine hôm Chúa Nhật tuyên bố rằng Nga đã mất ít nhất 6.080 binh sĩ chỉ trong tuần trước đó, trong khi 1.070 người khác được cho là đã mất vào thứ Hai.

Ukraine tuyên bố rằng hơn 250.000 quân Nga đã thiệt mạng trong năm 2023, trong đó có khoảng 360.000 quân Nga thiệt mạng trong toàn bộ cuộc chiến. Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu tháng trước tuyên bố rằng Ukraine đã mất tổng cộng 383.000 binh sĩ, TASS đưa tin.

Số liệu thương vong chính xác nổi tiếng là khó xác định trong bất kỳ cuộc chiến nào và Newsweek không thể xác minh độc lập con số mà Ukraine và Nga tuyên bố.

Zelenskiy cho biết trong cuộc phỏng vấn với ARD rằng Putin đang đối xử với quân đội của mình như những “miếng thịt” có thể sử dụng được, đồng thời cho rằng giới lãnh đạo quân sự Nga không quan tâm có bao nhiêu binh sĩ chết trong chiến tranh.

“Năm đầu tiên của cuộc chiến, tôi không nghĩ Nga đã sử dụng toán học chút nào,” Zelenskiy nói. “Nó vừa vứt bỏ người của nó. Nga đối xử với Nga như những miếng thịt, và tôi không chắc thực tế đó có làm phiền lòng ha2ng lãnh đạo của họ hay không. Một triệu, hai triệu, ba triệu... họ không quan tâm bao nhiêu người sẽ chết.”

2. Bất chấp tổn thất nặng nề, Nga vẫn tung tin chiến thắng giả

Hôm thứ Hai, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Nga, Trung tướng Igor Konashenkov, cho biết lực lượng của họ đã giành quyền kiểm soát làng Tabaivka ở khu vực Kharkiv của Ukraine, nhưng Ukraine đã phủ nhận điều này.

Đại Tá Serhiy Cherevatyi, phát ngôn viên của Bộ chỉ huy quân sự miền đông Ukraine, cho biết:

“Người Nga đã không chiếm được Tabaivka, họ đang chịu tổn thất nặng nề ở đó. Những người bảo vệ của chúng ta đang cố gắng đẩy họ ra ngoài. Bản thân Tabaivka nằm ở một nơi bất tiện - trong một khu vực đầm lầy, tấn công vào đó, người Nga chỉ có con đường chết.”

Đại Tá Serhiy Cherevatyi cho biết 700 cuộc tấn công đã diễn ra theo hướng Lyman-Kupiansk trong ngày qua và 613 cuộc tấn công theo hướng Bakhmut. “Kẻ địch đang bị tổn thất nặng nề về nhân lực và trang thiết bị. 220 người thiệt mạng theo hướng Lyman-Kupiansk, 128 chiến binh thiệt mạng theo hướng Bakhmut”, ông nói. Ngoài ra, 130 thiết bị ở các hướng này đã bị Lực lượng Vũ trang Ukraine phá hủy.

Đại Tá Serhiy Cherevatyi trước đó đã bình luận về việc đối phương chiếm giữ làng Krokhmalne ở vùng Kharkiv. Theo ông, quân xâm lược Nga có thể sẽ hối hận vì quyết định tiến vào Krokhmalne, nằm trên đường cao tốc Kupiansk-Svativ. Đồng thời, ông lưu ý, việc mất Krokhmalne không quá quan trọng đối với chúng tôi, bởi vì các hậu vệ của chúng tôi đã di chuyển đến những vị trí thuận lợi hơn.

“Tình hình hoạt động ở miền đông và miền nam Ukraine vẫn còn khó khăn. Năm mươi mốt trận giao tranh đã diễn ra trong ngày. Đối phương đã tiến hành sáu cuộc tấn công hỏa tiễn bằng hỏa tiễn phòng không dẫn đường S-300 nhằm vào cơ sở hạ tầng dân sự ở Myrnohrad, vùng Donetsk và Muzykivka, vùng Kherson. Quân xâm lược Nga còn tiến hành 64 đợt không kích và 45 đợt tấn công bằng hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt nhằm vào các vị trí của quân đội, và các khu dân cư của ta. Thường dân thiệt mạng và bị thương do các cuộc tấn công khủng bố của Nga. Các tòa nhà dân cư, trường học và cơ sở hạ tầng dân sự khác đã bị phá hủy và hư hại”, ông nói.

3. Nhà lãnh đạo NATO hội ý với các đồng minh của cựu tổng thống Trump trong nỗ lực thúc đẩy viện trợ cho Ukraine

Ký giả PAUL MCLEARY của tờ Politico có trụ sở ở Washington DC có bài tường trình nhan đề “NATO chief huddles with cựu tổng thống Trump allies in longshot Ukraine funding push”, nghĩa là “Nhà lãnh đạo NATO hội ý với các đồng minh của cựu tổng thống Trump trong nỗ lực thúc đẩy tài trợ lâu dài cho Ukraine”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Nhà lãnh đạo NATO Jens Stoltenberg hôm thứ Hai đã bắt đầu chuyến đi quan trọng tới Mỹ, nơi ông sẽ gặp các quan chức chính quyền Tổng thống Biden, các nhà lập pháp và đồng minh của cựu Tổng thống Donald cựu tổng thống Trump trong một nỗ lực lớn nhằm giành được 60 tỷ Mỹ Kim tài trợ cho Ukraine.

Nhà lãnh đạo phục vụ lâu nhất trong lịch sử liên minh sẽ có bài phát biểu tại Heritage Foundation vào hôm thứ Tư, một tổ chức tư vấn bảo thủ có liên kết chặt chẽ với cựu tổng thống Trump. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh gói viện trợ trị giá 111 tỷ Mỹ Kim bao gồm viện trợ cho Ukraine, Israel và Đài Loan do bất đồng với Tòa Bạch Ốc về chính sách biên giới đang gặp khó khăn tại Quốc Hội Hoa Kỳ.

Stoltenberg có thể sẽ tìm thấy những khán giả hoài nghi tại Heritage – tổ chức đã ủng hộ việc Âu Châu đi đầu trong việc hỗ trợ Ukraine trong khi Mỹ chuyển trọng tâm sang Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Hôm thứ Hai, Stoltenberg đã có cuộc trò chuyện với khán giả thân thiện tại Ngũ Giác Đài, nơi ông gặp Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin tại Ngũ Giác Đài để nói về Ukraine.

“Các đồng minh NATO đang cung cấp sự hỗ trợ chưa từng có cho Ukraine và điều quan trọng là chúng ta tiếp tục làm như vậy”, ông Stoltenberg nói trước cuộc họp. “Sự hỗ trợ của chúng ta không phải là bác ái; đó là một khoản đầu tư cho an ninh của chính chúng ta vì thế giới sẽ trở nên nguy hiểm hơn nếu ông Putin giành chiến thắng ở Ukraine.”

Stoltenberg sẽ gặp gỡ Quốc hội Hoa Kỳ vào hôm nay thứ Ba, 30 Tháng Giêng, gặp Chủ tịch Hạ viện Mike Johnson, Lãnh đạo phe thiểu số Hakeem Jeffries, Lãnh đạo phe thiểu số tại Thượng viện Mitch McConnell và những người khác của cả hai đảng. Phía Thượng viện có thể sớm đưa ra ngôn ngữ về chính sách biên giới, tuy nhiên một số thành viên tại Hạ viện nói rằng nó đã chết khi mới xuất hiện.

Cuối tuần, ông sẽ tới nhà máy hỏa tiễn của Lockheed Martin ở Alabama, nơi ông có thể sẽ lặp lại lập luận của Tổng thống Joe Biden và những người khác rằng việc làm của người Mỹ phụ thuộc vào viện trợ do Mỹ cung cấp cho Kyiv.

Những thông điệp đó sẽ nhắm vào phe chủ nghĩa biệt lập ngày càng tăng và các nhà lập pháp đang tranh luận về yêu cầu viện trợ Ukraine của Tổng thống Biden, vốn đã bị mắc kẹt trong nhiều tháng.

Tình hình Ukraine tiếp tục trở nên khó khăn khi Kyiv và Mạc Tư Khoa vào lúc này dường như đang đấu tranh trong tình trạng bế tắc, không bên nào có thể tập hợp đủ sức mạnh chiến đấu để tạo ra bất kỳ bước đột phá đáng kể nào.

Một quan chức quân sự NATO nói với các phóng viên trong tháng này: “Chúng tôi không mong đợi những thay đổi lớn ở tiền tuyến” trong năm nay. Quan chức này được giấu tên để thảo luận về những đánh giá hoạt động của cuộc chiến. “Tất cả chúng tôi đều đồng ý rằng cuộc phản công của Ukraine đã không tạo ra được tất cả những hiệu quả như mong đợi. Nhưng điều đó không có nghĩa là Nga đang chiến thắng, bất chấp sự tuyên truyền của Nga.”

Cuộc chiến vào thời điểm này là một “sự tham gia lâu dài” “gắn liền với việc thể hiện sự lãnh đạo của Mỹ mà tất cả chúng ta đều ủng hộ và khuyến khích”.

Tuy nhiên, Stoltenberg đã đạt được một số thành công đáng kể trong tuần này như màn dạo đầu cho lễ kỷ niệm 75 năm thành lập liên minh tại Washington vào tháng 7.

Các nước như Ba Lan, Rumani, Pháp, Đức, Anh và các nước vùng Baltic đã tăng ngân sách quốc phòng thêm hàng chục tỷ Mỹ Kim, trong khi thành viên mới Phần Lan và Thụy Điển sắp trở thành thành viên cũng cam kết đầu tư mới rất lớn vào quốc phòng.

Ông cũng sẽ kể một câu chuyện về việc các nước NATO đang tăng cường sản xuất quốc phòng như thế nào và đang cố gắng môi giới các thỏa thuận với các nhà sản xuất vũ khí Ukraine để bắt đầu xây dựng lại năng lực sản xuất vũ khí của riêng mình ở Kyiv - một thông điệp về sự tự lực chắc chắn sẽ nhận được sự hoan nghênh. khán giả ở Washington.

“Dường như có rất nhiều sự quan tâm, cả từ phía Ukraine và phía ngành công nghiệp quốc phòng Hoa Kỳ về những gì họ có thể làm để hợp tác với người Ukraine,” Mira Resnick, người điều hành Văn phòng An ninh Khu vực và Bộ Ngoại giao Mỹ, nói khi đề cập đến việc chuyển giao vũ khí, cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

“Điều tôi nghe được từ ngành công nghiệp là họ thực sự ấn tượng với người Ukraine và ở đó có cơ hội thực sự nhờ những gì người Ukraine đã có thể đạt được cũng như ý tưởng điều khiển công nghệ theo ý muốn của họ,” để sản xuất bà nói rằng họ sở hữu máy bay không người lái và trang bị thêm hỏa tiễn và hỏa tiễn của phương Tây trên các máy bay và bệ phóng hỏa tiễn thời Liên Xô của họ.

4. Bản tin tình báo của Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Vương Quốc Anh

Trong bản tin tình báo mới nhất, Cục Tình Báo Bộ Quốc Phòng Vương Quốc Anh đã đưa ra các nhận định liên quan đến tổn thất của quân Nga tại Ukraine.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Bích Ngọc.

Từ ngày 24 tháng 2 năm 2022 đến ngày 25 Tháng Giêng năm 2024, Lực lượng Lục Quân Nga, gọi tắt là RGF, có thể đã mất khoảng 2.600 xe tăng chiến đấu chủ lực và 4.900 xe chiến đấu bọc thép khác ở Ukraine. RGF có thể mất ít xe hơn khoảng 40% vào năm 2023 so với năm 2022. Rất có thể việc giảm tỷ lệ tiêu hao xe bọc thép là do tính chất chiến tranh giành giật vị trí ngày càng tăng của cuộc xung đột vào năm 2023 và do Nga đã dành phần lớn thời gian trong năm cho tư thế phòng thủ.

Kể từ đầu tháng 10 năm 2023, RGF đã tấn công ở miền đông Ukraine. Trong giai đoạn này, tổn thất về xe bọc thép của Nga đã tăng lên và RGF có thể đã mất tới 365 xe tăng chiến đấu chủ lực và 700 xe chiến đấu bộ binh nhưng chỉ đạt được những lợi ích nhỏ về lãnh thổ. Tuy nhiên, Nga có thể sản xuất ít nhất 100 xe tăng chiến đấu chủ lực mỗi tháng và do đó vẫn duy trì được khả năng thay thế tổn thất trên chiến trường cũng như tiếp tục các hoạt động tấn công ở mức độ này trong tương lai gần.

5. Thành viên Quốc Hội Latvia bị cáo buộc làm gián điệp cho Nga

Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC có bài tường trình nhan đề “Probe opened into Latvian MEP accused of spying for Russia”, nghĩa là “Mở cuộc điều tra về thành viên Quốc Hội Latvia bị cáo buộc làm gián điệp cho Nga”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Tatjana Ždanoka phủ nhận các cáo buộc, nói rằng cô chưa bao giờ liên quan đến Cơ quan An ninh Nga.

Nghị viện Âu Châu hôm thứ Hai đã mở một cuộc điều tra về những cáo buộc rằng Tatjana Ždanoka, một thành viên người Latvia của cơ quan lập pháp Liên Hiệp Âu Châu, đã làm gián điệp cho Nga trong nhiều năm.

Những cáo buộc mà Ždanoka phủ nhận, được đưa ra trong một bài báo được xuất bản hôm thứ Hai bởi Insider, một tờ báo điều tra của Nga. Báo cáo cho biết Ždanoka đã làm việc thay mặt cho Cơ quan An ninh Liên bang Nga, gọi tắt là FSB, cơ quan kế nhiệm của KGB thời Liên Xô.

Phát ngôn nhân của Nghị viện cho biết hôm thứ Hai: “Các cuộc điều tra trong Nghị viện Âu Châu đã được mở” đối với các tuyên bố của tờ báo.

Phát ngôn nhân cho biết Chủ tịch Quốc hội Roberta Metsola “rất coi trọng những cáo buộc này và đang chuyển vụ việc lên Ủy ban Cố vấn về Quy tắc ứng xử”. “Cô ấy cũng sẽ đưa vấn đề này ra Hội Đồng Âu Châu vào thứ Tư.”

Ždanoka là một trong 13 thành viên của Nghị Viện Âu Châu đã bỏ phiếu chống lại nghị quyết lên án việc Nga xâm chiếm Ukraine vào tháng 3 năm 2022.

Trong một video, Ždanoka đã phủ nhận mạnh mẽ những tuyên bố của Insider. Cô nói: “Tôi chưa bao giờ liên quan đến KGB, không giống như nhiều nhân vật nổi tiếng của Latvia, và tôi chưa bao giờ hợp tác với bất kỳ cơ quan tình báo nào khác”.

Đảng Liên minh Tự do Âu Châu, gọi tắt là EFA, cho biết trong một tuyên bố rằng họ đã mở cuộc điều tra riêng về vấn đề này.

Nhà lãnh đạo ủy ban các vấn đề pháp lý của Quốc hội, thành viên của Nghị Viện Âu Châu người Tây Ban Nha Adrián Vázquez Lázara, cho biết nhóm trung dung của ông đã yêu cầu toàn bộ nghị viện tranh luận về cái mà ông gọi là “Russian Gate” vào tuần tới. Ông viết: “Sẽ không thể chấp nhận được nếu có những thành viên của Nghị Viện Âu Châu thuộc hàng ngũ của Điện Cẩm Linh hoạt động để phá hủy nền dân chủ Âu Châu từ bên trong”.

Bài báo của Insider dựa trên một cuộc điều tra được thực hiện với sự hợp tác của hãng tin Delfi của Estonia, trung tâm báo chí điều tra Baltica của Latvia và tờ báo Expressen của Thụy Điển. Nó cáo buộc rằng Ždanoka đã “làm việc thay mặt cho Cơ quan thứ năm của FSB, báo cáo cho hai người phụ trách khác nhau từ ít nhất là năm 2004 đến năm 2017.”

“Các email bị rò rỉ giữa Ždanoka và hai nhân viên phụ trách vụ án người Nga nổi tiếng của cô bao gồm các báo cáo rõ ràng, chi tiết từ Ždanoka gửi đến những người quản lý của cô mô tả công việc của cô với tư cách là một nhà lập pháp Âu Châu, đặc biệt khi những nhiệm vụ chính thức đó liên quan đến việc thúc đẩy tình cảm ủng hộ Điện Cẩm Linh ở khu vực Baltic quê hương cô”.

Cơ quan an ninh Latvia, gọi tắt là VDD cũng cho biết họ sẽ điều tra các cáo buộc. VDD cho biết quyền miễn trừ của Ždanoka với tư cách là thành viên Nghị viện Âu Châu “là một yếu tố quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho cô ấy hoạt động nhằm hỗ trợ các lợi ích địa chính trị của Nga”.

VDD cho biết trong một tuyên bố: “Việc hỗ trợ một quốc gia nước ngoài phá hoại Latvia chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự kể từ năm 2016. Việc Nga sáp nhập Crimea và sự ủng hộ của Ždanoka đối với Crimea thực sự đã thúc đẩy những thay đổi pháp lý”.

Nghị viện Âu Châu không thể loại bỏ MEP hoặc ngăn cô ấy bỏ phiếu ngay cả khi cô ấy bị phát hiện vi phạm quy tắc ứng xử. Hình phạt mạnh nhất mà Nghị viện có thể áp dụng đối với một nhà lập pháp đương nhiệm là cắt trợ cấp tài chính hàng ngày của họ trong 60 ngày hoặc cấm bà tham gia một số hoạt động của Nghị viện trong cùng thời gian.

Gần đây, bà đã thông báo rằng bà sẽ không tái tranh cử vào Nghị viện Âu Châu vào tháng 6 nhưng Inna Djeri sẽ đứng đầu danh sách đảng của bà. Ždanoka hiện đang thuê Djeri làm trợ lý địa phương cùng với 11 người khác.

Ždanoka là một trong những nhà lãnh đạo của Liên minh Latvia-Nga, một đảng ủng hộ Điện Cẩm Linh bên lề vẫn đứng ngoài quốc hội trong 14 năm. Đảng ủng hộ việc Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và Ždanoka từ chối tố cáo cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022.

Thành viên của Nghị Viện Âu Châu Ilhan Kyuchyuk người Bulgaria cho biết Quốc hội “phải hành động để loại bỏ tận gốc mầm mống gây chia rẽ, và tất cả những kẻ xấu trong phòng của chúng ta”. Kyuchyuk nói trên X. “Không thể tiếp tục là một trò đùa rằng Nghị viện Âu Châu chứa đầy gián điệp hoặc các chính trị gia tham nhũng”.

6. Reuters đưa tin, Ngoại trưởng Hung Gia Lợi Péter Szijjártó đã đến Ukraine để hội đàm với các quan chức cao cấp vào hôm thứ Hai, vài ngày trước hội nghị thượng đỉnh Liên minh Âu Châu nhằm tìm kiếm thỏa thuận về gói hỗ trợ tài chính đã bị Budapest trì hoãn.

Cuộc hội đàm của Szijjarto tại thành phố Uzhhorod phía tây Ukraine với Ngoại trưởng Ukraine Dmytro Kuleba và chánh văn phòng tổng thống Andriy Yermak diễn ra sau nhiều tuần Hung Gia Lợi phản đối việc Liên Hiệp Âu Châu cung cấp viện trợ 50 tỷ euro.

Giám đốc chính trị của Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán trước đó hôm thứ Hai cho biết Budapest sẵn sàng sử dụng ngân sách Liên Hiệp Âu Châu cho gói viện trợ được đề xuất, đó là một sự thay đổi trong lập trường của Budapest.

Văn phòng Tổng thống Ukraine cho biết trên kênh chính thức của mình trên ứng dụng nhắn tin Telegram: “Một cuộc đối thoại thẳng thắn và mang tính xây dựng dự kiến sẽ cải thiện mối quan hệ giữa các quốc gia”, cùng với bức ảnh của Szijjártó, Kuleba và Yermak.

7. Hoa Kỳ thúc đẩy việc Ukraine gia nhập NATO

Ký giả Kaitlin Lewis của tờ Politico có trụ sở ở Washington DC có bài tường trình nhan đề “Biden Admin Targets Putin's Top Priority”, nghĩa là “Chính quyèn Hoa Kỳ nhắm vào ưu tiên hàng đầu của Putin”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken hôm thứ Hai nhắc lại rằng con đường để Ukraine gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) “vẫn rộng mở” trong bối cảnh Nga xâm lược.

Trong cuộc họp báo chung cùng với Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Blinken đã đề cao “cảm giác cấp bách” của liên minh nhằm đáp trả hành động gây hấn của Mạc Tư Khoa. NATO đã rõ ràng ủng hộ quân đội Kyiv kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Ông cũng lưu ý rằng hành động của Nga đã thúc đẩy các nước trung lập trong lịch sử như Phần Lan và Thụy Điển nộp đơn xin gia nhập khối phương Tây - đơn ghi danh của Phần Lan đã chính thức được phê duyệt vào tháng 4, trong khi đơn ghi danh của Thụy Điển vẫn đang được xem xét.

Ông Blinken nói với các phóng viên: “Sau hành động gây hấn mới của Mạc Tư Khoa đối với Ukraine, cả hai nước đều cảm thấy rằng việc bảo vệ người dân và chủ quyền của mình bằng cách gia nhập Liên minh là có lợi rõ ràng”.

Ông nói thêm: “Tôi nghĩ rằng quá trình mà chúng ta đã chứng kiến trong thời gian kỷ lục, đầu tiên là với Phần Lan và bây giờ là với Thụy Điển, chứng tỏ rằng cánh cửa của NATO đang mở và vẫn mở, bao gồm cả Ukraine, quốc gia sẽ trở thành thành viên của NATO”.

Tổng thống Joe Biden đã nhiều lần tuyên bố rằng Ukraine sẽ trở thành thành viên NATO sau cuộc chiến giữa nước này với Nga, kể cả vào tháng trước trong cuộc họp báo chung cùng với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy, nơi tổng thống nói với các phóng viên rằng NATO “sẽ có mặt trong tương lai của Ukraine, không. câu hỏi.”

Putin đã đổ lỗi cho ảnh hưởng của phương Tây ở Ukraine - quốc gia đã chính thức tuyên bố ý định gia nhập liên minh NATO vào năm 2019. Putin cho rằng ảnh hưởng của phương Tây tại Ukraine đã thúc đẩy Mạc Tư Khoa xâm chiếm nước láng giềng của mình. Điện Cẩm Linh cũng tuyên bố rằng chiến tranh không thể kết thúc cho đến khi Nga đạt được sự trung lập hóa Ukraine.

Ông Blinken hôm thứ Hai cho biết việc Phần Lan và Thụy Điển gia nhập NATO “cũng nhấn mạnh một trong nhiều cách mà theo đó hành động gây hấn của Putin đối với Ukraine là một thất bại chiến lược tồi tệ đối với Nga”.

“Putin muốn thu nhỏ NATO. Bây giờ nó đã lớn hơn và ngày càng lớn hơn,” ông nói thêm. “Ông ấy muốn làm suy yếu NATO. Nó mạnh hơn bao giờ hết.”

Ông Stoltenberg trong cuộc họp báo hôm thứ Hai cũng nhấn mạnh sự đoàn kết của NATO trước sự xâm lược của Nga, đồng thời nhắc lại rằng liên minh này sẽ sát cánh bên Kyiv cho đến khi chiến tranh kết thúc.

“Tổng thống Putin đã bắt đầu cuộc chiến này và ông ấy có thể kết thúc nó ngay hôm nay nếu ông ấy ngừng tấn công một nước láng giềng”, ông Stoltenberg nói với các phóng viên. “Chiến tranh cũng có thể kết thúc nếu Ukraine ngừng tự vệ. Nhưng điều đó không có nghĩa là hòa bình. Điều đó có nghĩa là sự xâm lược và sự thống trị của Nga không phải là hòa bình”.

“Hòa bình chỉ cần Tổng thống Putin nhận ra rằng ông sẽ không đạt được điều mình muốn trên chiến trường… Vì vậy, nếu chúng ta muốn điều cuối cùng, một nền hòa bình công chính, chúng ta phải cung cấp cho Ukraine thêm vũ khí và đạn dược. Vũ khí cho Ukraine là con đường dẫn đến hòa bình, hòa bình cho Ukraine và hòa bình cho thế giới”, nhà lãnh đạo NATO nói thêm.

“Đối với NATO, Mỹ có nhiều bạn bè và đồng minh hơn bất kỳ cường quốc nào khác”, ông Stoltenberg nói. “Cùng nhau, chúng ta tạo nên 50% sức mạnh kinh tế và quân sự của thế giới. Trung Quốc và Nga không có gì giống NATO. Đó là lý do tại sao họ luôn tìm cách phá hoại sự đoàn kết của chúng ta.”

8. Hung Gia Lợi 'cởi mở' với việc sử dụng ngân sách Liên Hiệp Âu Châu cho gói viện trợ 50 tỷ euro cho Ukraine

Hung Gia Lợi sẵn sàng sử dụng ngân sách Liên Hiệp Âu Châu cho gói viện trợ trị giá 50 tỷ euro được đề xuất cho Ukraine, Reuters đưa tin, dẫn lời giám đốc chính trị của thủ tướng Viktor Orbán.

Thủ tướng Hung Gia Lợi, hay còn gọi là Hungary, là người chỉ trích mạnh mẽ việc khối này ủng hộ Kyiv và giữ quan hệ với Điện Cẩm Linh kể từ khi Nga tham chiến ở Ukraine vào tháng 2 năm 2022. Trước đó, ông đã chặn việc sửa đổi ngân sách Liên Hiệp Âu Châu, bao gồm cả viện trợ cho Ukraine.

Tờ Financial Times đưa tin hôm Chúa Nhật rằng Liên Hiệp Âu Châu sẽ phá hoại nền kinh tế Hung Gia Lợi nếu Budapest chặn viện trợ tại hội nghị thượng đỉnh tuần này.

Balázs Orbán, trợ lý chính trị chính của thủ tướng, xác nhận rằng Budapest đã gửi đề xuất tới Brussels vào hôm thứ Bảy cho thấy họ sẵn sàng sử dụng ngân sách cho gói viện trợ và phát hành khoản nợ chung của Liên Hiệp Âu Châu để tài trợ cho gói này.

“Brussels đang sử dụng biện pháp tống tiền chống lại Hung Gia Lợi như thể chúng tôi s không có ngày mai, mặc dù thực tế là chúng tôi đã đề xuất một thỏa hiệp,” cố vấn nói trên X.

Hôm Thứ Hai, 29 Tháng Giêng, các đảng đối lập ở Hung Gia Lợi đã đệ trình kiến nghị kêu gọi một phiên họp bất thường của quốc hội để phê chuẩn nỗ lực gia nhập NATO của Thụy Điển.

Các lãnh tụ đối lập cho rằng thái độ của đảng cầm quyền ra mặt bênh vực Nga trong việc tài trợ cho Ukraine và phê chuẩn việc gia nhập NATO của Thụy Điển sẽ dẫn đến một Hung Gia Lợi ngày càng bị cô lập.

Chủ tịch Quốc hội Laszlo Kover cho biết tuần trước rằng không có sự cấp bách nào đối với bất kỳ động thái bất thường nào nhằm phê chuẩn việc Thụy Điển gia nhập NATO và đã báo hiệu những nỗ lực của phe đối lập tại một phiên họp bổ sung có thể sẽ thất bại.

9. Hung Gia Lợi đổi thái độ đối với Ukraine

Ukraine và Hung Gia Lợi quan tâm đến việc tổ chức một cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo của họ càng sớm càng tốt, Ngoại trưởng Ukraine, Dmytro Kuleba, cho biết hôm thứ Hai sau cuộc hội đàm với Bộ Trưởng Ngoại Giao Hung Gia Lợi, Péter Szijjártó.

Trong các bình luận được hãng truyền thông Evropeiska Pravda của Ukraine đưa tin, Kuleba cũng cho biết hai nước đã đồng ý thành lập một ủy ban nhằm chuẩn bị các đề xuất về quyền của người dân tộc Hung Gia Lợi thiểu số sống ở Ukraine.

Budapest và Kyiv đã mâu thuẫn về vấn đề người thiểu số. Thủ tướng Hung Gia Lợi, Viktor Orbán, vẫn giữ mối quan hệ thân mật với Nga bất chấp việc Mạc Tư Khoa xâm chiếm Ukraine gần hai năm trước.
 
Đau lòng: Khủng bố xử tử giáo dân ngay trong nhà thờ ở Thủ đô Istanbul lúc linh mục đang truyền phép
VietCatholic Media
05:10 30/01/2024


1. Khủng bố tấn công nhà thờ Công Giáo ngay tại Thủ đô Istanbul

Hai kẻ tấn công đeo mặt nạ đã nổ súng vào một nhà thờ Công Giáo ở Istanbul trong Thánh lễ sáng Chúa Nhật, được tường trình đã giết chết một người khi linh mục chủ tế đang truyền phép.

Đức Giám Mục Massimiliano Palinuro, đại diện tông tòa của Istanbul, nói với EWTN News Hôm Chúa Nhật, 28 Tháng Giêng rằng một người đàn ông đã thiệt mạng “trong thánh lễ khi linh mục chủ tế đang truyền phép” trong vụ tấn công tại Nhà thờ Santa Maria ở quận Sariyer của Istanbul.

Bộ trưởng Nội vụ Thổ Nhĩ Kỳ Ali Yerlikaya xác nhận rằng vụ tấn công xảy ra vào khoảng 11h40 sáng giờ địa phương và “một cuộc điều tra toàn diện” đã được triển khai khi chính quyền nỗ lực bắt giữ những kẻ tấn công.

Bộ trưởng cho biết một người đàn ông, chỉ được gọi là CT, là “mục tiêu của một vụ tấn công bằng súng và đã thiệt mạng”.

Đoạn video về vụ tấn công mà EWTN News thu được cho thấy hai người đàn ông có vũ trang mặc đồ đen đi theo một người đàn ông tóc trắng vào nhà thờ và bắn vào sau đầu anh ta. Giáo dân trốn dưới hàng ghế sau khi người đàn ông bị bắn. Đoạn video không rõ liệu những kẻ tấn công có tiếp tục nổ súng khi chúng nhắm vũ khí theo nhiều hướng khác nhau trong nhà thờ trước khi nhanh chóng tẩu thoát hay không.

Yerlikaya nói: “Chúng tôi cực lực lên án cuộc tấn công hèn hạ này.”

Trong một cuộc phỏng vấn với EWTN News chưa đầy hai giờ sau vụ tấn công, Đức Giám Mục Palinuro nói rằng nạn nhân “đã bị bắn bằng súng bên trong nhà thờ khi đang linh mục chủ tế truyền phép trong khi toàn thể giáo đoàn đang cầu nguyện”.

“Chúng tôi không biết lý do… chúng tôi phải chờ để hiểu tại sao thảm kịch này lại xảy ra, và xảy ra trong nhà thờ khi Thánh lễ đang được cử hành”, Đức Giám Mục Palinuro nói.

Đức Giám Mục đã yêu cầu mọi người cầu nguyện cho các nạn nhân và Giáo Hội Công Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ.

“Chúng tôi lo lắng về tương lai vì nếu đây là dấu hiệu của sự không khoan dung tôn giáo thì đối với cộng đồng của chúng tôi, đó có thể là một dấu hiệu rất xấu. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện.”

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ một thông điệp với các nạn nhân của vụ tấn công sau khi ngài đọc Kinh Truyền Tin tại Quảng trường Thánh Phêrô vài giờ sau vụ nổ súng.

Đức Thánh Cha nói: “Tôi bày tỏ sự gần gũi của mình với cộng đồng nhà thờ Santa Maria Draperis ở Istanbul, nơi đã hứng chịu một cuộc tấn công vũ trang trong Thánh lễ khiến một người chết và một số người bị thương”.

2. Đức Thánh Cha Phanxicô không bác bỏ học thuyết Công Giáo về chiến tranh chính nghĩa

Rabbi Riccardo di Segni, đã bày tỏ “sự thất vọng to lớn” với cách mà Vatican đã ứng phó với cuộc khủng hoảng ở Gaza. Trước đó, người Ukraine cũng không hài lòng. Tuy nhiên, những tuyên bố gần đây của Đức Thánh Cha nên được hiểu rõ nhất là một lời kêu gọi nhiệt tình chấm dứt bạo lực, chứ không phải là sự bác bỏ truyền thống lâu đời của Công Giáo về chiến tranh và hòa bình.

Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Trên tờ National Catholic Register, ngài có bài viết nhan đề “Pope Francis Hasn’t Repudiated the Catholic Doctrine of Just War”, nghĩa là “Đức Thánh Cha Phanxicô không bác bỏ học thuyết Công Giáo về chiến tranh chính nghĩa”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.

Những bình luận gần đây của Đức Thánh Cha Phanxicô rằng “chiến tranh không bao giờ có thể được biện minh” đã gây chú ý khắp thế giới. Tuy nhiên, đó không chính xác là những gì ngài nói; trong bối cảnh tưởng nhớ đến nạn diệt chủng Holocaust, Đức Thánh Cha nói rằng “luận lý của hận thù và bạo lực” không bao giờ có thể được biện minh.

Tuy nhiên, những bình luận trong tuần này là một phần của những tuyên bố mạnh mẽ chống chiến tranh. Một số người tự hỏi liệu điều đó có nghĩa là Đức Thánh Cha đã gạt bỏ truyền thống Công Giáo về giảng dạy chiến tranh chính nghĩa hay không. Không phải như thế đâu, nhưng câu hỏi đáng được kiểm tra.

Thế giới không muốn Đức Giáo Hoàng trở thành người cổ vũ cho chiến tranh; đã có quá nhiều chiến tranh rồi. Rôma đóng vai trò là nhân chứng cho hòa bình và khả năng hòa bình, có lẽ chưa bao giờ gây ấn tượng mạnh hơn như trong thông điệp năm 1963 của Thánh Gioan XXIII, Pacem in Terris, nghĩa là Hòa bình Tại thế, được viết trong những tháng sau Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn Cuba đã đưa thế giới đến tình trạng bên bờ vực khủng hoảng. Trong khi hầu hết các thông điệp đều biến mất khỏi ký ức, lễ kỷ niệm 60 năm Thông điệp Pacem in Terris đã được cử hành rộng rãi vào năm ngoái.

Trong những tuần gần đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về chiến tranh với giọng điệu ngày càng cấp bách. Trong nhiều năm, Đức Thánh Cha đã đề cập đến “một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba đang diễn ra từng mảnh”. Hai năm sau cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine, và ba tháng sau cuộc chiến Israel-Hamas ở Gaza, các cuộc chiến tranh leo thang đã làm tăng tần suất và cường độ lên án chiến tranh của Đức Thánh Cha. Hai năm vừa qua đã có nhiều lần các cuộc chiến tranh bị lên án như vậy.

Vào tháng 3 năm 2022, trong một cuộc gọi video với Thượng phụ Kirill của Mạc Tư Khoa, Đức Thánh Cha Phanxicô gợi ý rằng không thể nói về “chiến tranh chính nghĩa” được nữa: “Chiến tranh luôn bất công”.

Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 6 năm 2022, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói về cuộc đổ bộ Normandy năm 1944, đồng thời hỏi liệu việc gửi binh lính Đồng minh đến chống lại các công sự của Đức Quốc xã có “chính đáng” hay không. Đi xa hơn, ngài cho rằng có lẽ đã đến lúc phải suy nghĩ lại liệu có nên tiến hành một “cuộc chiến tranh chính nghĩa” hay không.

“Tôi tin rằng đã đến lúc phải suy nghĩ lại về khái niệm 'chiến tranh chính nghĩa'. Một cuộc chiến có thể chính đáng; có quyền tự vệ. Nhưng chúng ta cần suy nghĩ lại về cách sử dụng khái niệm này ngày nay”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.

Vào tháng 8 năm 2022, trong cuốn sách của Đức Giáo Hoàng có tựa đề là “Chống chiến tranh”, Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên bố:

“Chiến tranh không phải là giải pháp, chiến tranh là sự điên rồ, chiến tranh là một con quái vật, chiến tranh là căn bệnh ung thư ăn mòn chính nó, nhấn chìm mọi thứ! Hơn thế nữa, chiến tranh là một sự phạm thánh tàn phá những gì quý giá nhất trên trái đất của chúng ta, sự sống con người, sự ngây thơ của những đứa trẻ nhỏ, vẻ đẹp của tạo vật. Đúng, chiến tranh là một sự phạm thánh!”

“Chiến tranh luôn luôn là một thất bại,” Đức Thánh Cha nói vào năm ngoái trong chuyến viếng thăm nghĩa trang quân đội ở Rôma nhân Ngày Lễ Các Linh Hồn. “Không bao giờ có chiến thắng hoàn toàn. Bên này thắng bên kia, nhưng đằng sau đó luôn là sự thất bại với cái giá phải trả”.

Trong huấn từ trước khi đọc kinh Truyền Tin cách đây 10 ngày, Đức Thánh Cha đã nói về “chính chiến tranh” như một “tội ác chống lại loài người”:

“Chúng ta cầu nguyện rằng những người có quyền lực đối với những cuộc xung đột này sẽ phản ánh rằng chiến tranh không phải là cách giải quyết chúng vì nó gieo rắc cái chết cho dân thường và phá hủy các thành phố cũng như cơ sở hạ tầng. Nói cách khác, chiến tranh ngày nay tự nó đã là một tội ác chống lại loài người. Chúng ta đừng quên điều này: Bản thân chiến tranh là một tội ác chống lại loài người.”

Trong buổi tiếp kiến chung vào ngày 24 Tháng Giêng, Đức Thánh Cha nói rằng “bản thân chiến tranh là sự phủ nhận tình nhân loại”.

Nếu chiến tranh là một “sự phạm thánh”, một “sự phủ nhận tình nhân loại” và một “tội ác chống lại loài người”, thì phải chăng điều đó có nghĩa là Đức Thánh Cha Phanxicô đang đề xuất một thứ chủ nghĩa hòa bình, dạy rằng ngay cả việc tự vệ trước một thế lực hung hãn cũng bị cấm chăng?

Không phải như thế. Điều quan trọng là phải tìm nơi khác.

Trong thông điệp Fratelli Tutti (Tất cả là Anh em) năm 2020, Đức Thánh Cha thừa nhận rằng một cuộc chiến tranh chính nghĩa là có thể xảy ra, nhưng các tiêu chuẩn cho điều đó có thể được áp dụng quá lỏng lẻo:

“Chiến tranh có thể dễ dàng được lựa chọn bằng cách viện đến đủ loại lý do được cho là nhân đạo, phòng thủ hoặc phòng ngừa, và thậm chí dùng đến việc thao túng thông tin. Trong những thập kỷ gần đây, mọi cuộc chiến đều có vẻ 'chính đáng'. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nói đến khả năng phòng vệ hợp pháp bằng lực lượng quân sự, bao gồm việc chứng minh rằng một số “điều kiện nghiêm ngặt về tính hợp pháp về mặt đạo đức” phải được đáp ứng. Tuy nhiên, rất dễ rơi vào cách giải thích quá rộng về quyền tiềm năng này. Bằng cách này, một số người cũng sẽ biện minh một cách sai lầm ngay cả những cuộc tấn công hoặc hành động chiến tranh 'phòng ngừa' mà khó có thể tránh khỏi việc kéo theo những tệ nạn và rối loạn còn trầm trọng hơn cả cái ác cần phải loại bỏ” (258).

Hơn nữa, trong cùng một tài liệu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết về nghĩa vụ chống lại kẻ xâm lược, “tước bỏ quyền lực của hắn”:

“Chúng ta được kêu gọi yêu thương mọi người, không có ngoại lệ; đồng thời, yêu kẻ áp bức không có nghĩa là để hắn tiếp tục đàn áp chúng ta, hay để hắn nghĩ rằng việc mình làm là chấp nhận được. Ngược lại, tình yêu đích thực dành cho kẻ áp bức có nghĩa là tìm cách làm cho kẻ đó chấm dứt sự áp bức; nó có nghĩa là tước bỏ quyền lực mà anh ta không biết cách sử dụng và điều đó làm giảm nhân tính của chính anh ta và của người khác. Sự tha thứ không đòi hỏi phải cho phép những kẻ áp bức tiếp tục chà đạp nhân phẩm của mình và của người khác, hoặc để cho tội phạm tiếp tục hành vi sai trái của họ” (241).

Những bình luận gần đây hơn của Đức Giáo Hoàng được hiểu rõ nhất là những lời kêu gọi nhiệt thành cho hòa bình - một lời kêu gọi chống lại sự đau khổ của chiến tranh - hơn là một tuyên bố mang tính giáo lý cẩn thận. Việc tự mình đưa ra các nhận xét và không đặt chúng vào trong giáo huấn của Sách Giáo lý - và Fratelli Tutti, vốn đề cập đến Sách Giáo lý - sẽ có nghĩa là bác bỏ truyền thống Công Giáo lâu đời về chiến tranh và hòa bình, vốn không phải là chủ nghĩa hòa bình. Giáo huấn Công Giáo về khả năng xảy ra chiến tranh chính đáng vẫn còn.

Chẳng hạn, người ta có thể nghe thấy nơi Đức Thánh Cha Phanxicô những tiếng vọng về lời kêu gọi kiên quyết chống lại chiến tranh của Thánh Gioan Phaolô II. “Chiến tranh là một thất bại của nhân loại” là cụm từ được Đức Gioan Phaolô sử dụng trong thông điệp Ngày Thế giới vì Hòa bình nhân Năm Thánh 2000:

“Chiến tranh nói chung không giải quyết được những vấn đề mà chúng gây ra; và do đó, ngoài việc gây ra thiệt hại khủng khiếp, cuối cùng chúng tỏ ra vô ích. Chiến tranh là một thất bại của nhân loại. Chỉ trong hòa bình và thông qua hòa bình, sự tôn trọng phẩm giá con người và các quyền bất khả xâm phạm của nó mới được bảo đảm.”

Tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô, người được rèn giũa trong lò luyện kim của sự xâm lược Ba Lan của Đức Quốc xã và Liên Xô, cũng nói về chứng tá Kitô giáo trong việc chống lại sự dữ. Tại Westerplatte, gần Gdansk năm 1987, ngài nhớ lại “cuộc đấu tranh anh hùng” và “biểu tượng hùng hồn” của những người lính trẻ Ba Lan đã chống lại Đức Quốc xã với “sự ngoan cố cao cả”. Ngài đưa ra chứng tá của họ như một hình mẫu cho giới trẻ Ba Lan tụ tập để lắng nghe ngài.

Có lẽ còn đặc biệt hơn nữa, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16, khi đến thăm nước Anh để dự lễ phong chân phước cho Hồng Y John Henry Newman, đã thuyết giảng vào dịp kỷ niệm 70 năm Trận chiến nước Anh. Vị Giáo hoàng Đức cảm ơn người dân Anh đã chiến đấu chống lại Đức Quốc xã.

“Đối với tôi, là một người đã sống và chịu đựng những ngày đen tối của chế độ Đức Quốc xã ở Đức, thật vô cùng cảm động khi được ở đây cùng các bạn trong dịp này và nhớ lại biết bao đồng bào của các bạn đã hy sinh mạng sống, dũng cảm chống lại các thế lực của ý thức hệ xấu xa đó,” Đức Bênêđíctô nói.

Cả Thánh Gioan Phaolô và Đức Bênêđíctô đều kiên quyết cầu xin hòa bình. Đức Gioan Phaolô II, người đã vận động mạnh mẽ chống lại cả Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất và lần thứ hai, đã gọi chiến tranh là “một cuộc phiêu lưu không thể quay lại”. Tuy nhiên, cả hai vị tiền nhiệm của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng thừa nhận rõ ràng hơn nghĩa vụ và đức tính đấu tranh vì chính nghĩa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn một điểm nhấn khác. Nhưng truyền thống Công Giáo về chiến tranh chính nghĩa vẫn còn.

3. Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Chúa Nhật 28 Tháng Giêng, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ Tư Mùa Quanh Năm. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, Đức Thánh Cha nói:

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu giải thoát một người bị “quỷ dữ” ám (xem Mc 1:21-28), ma quỷ hành hạ và khiến người ấy phải la hét (xem câu 23, 26). Đây là cách ma quỷ hành động, đây là cách hắn hành động: hắn muốn chiếm hữu chúng ta để “xiềng xích tâm hồn chúng ta”. Xiềng xích tâm hồn chúng ta là điều ma quỷ muốn. Chúng ta phải cẩn thận với những “xiềng xích” bóp nghẹt tự do của chúng ta, vì ma quỷ luôn cướp đi tự do của chúng ta. Chúng ta hãy thử kể tên một số xiềng xích có thể xiềng xích trái tim chúng ta.

Tôi đang nghĩ đến những cơn nghiện, nó biến chúng ta thành nô lệ và khiến chúng ta thường xuyên bất mãn, tiêu hao năng lượng, của cải và các mối quan hệ của chúng ta. Một xiềng xích khác mà tôi đang nghĩ đến là những xu hướng thống trị khuyến khích việc theo đuổi những chủ nghĩa hoàn hảo, chủ nghĩa tiêu dùng và chủ nghĩa khoái lạc không thể thực hiện được, những thứ khiến con người trở nên hàng hóa và làm hỏng các mối quan hệ. Và còn nhiều xiềng xích hơn nữa: có những cám dỗ và điều kiện làm xói mòn lòng tự trọng, làm xói mòn sự bình yên, cũng như khả năng lựa chọn và yêu cuộc sống. Một sợi dây xích khác là sự sợ hãi, khiến chúng ta nhìn về tương lai với thái độ bi quan, bất mãn, luôn đổ lỗi cho người khác. Sau đó, có một sợi dây xích rất xấu xí, đó là việc tôn thờ quyền lực, tạo ra xung đột và sử dụng vũ khí giết chết hoặc sử dụng sự bất công kinh tế và thao túng tư tưởng.

Nhiều xiềng xích là xiềng xích của chính chúng ta, thực sự có rất nhiều trong cuộc sống của chúng tôi.

Và Chúa Giêsu đã đến để giải thoát chúng ta khỏi tất cả những xiềng xích này. Hôm nay, đối mặt với ma quỷ đang thách thức Ngài bằng cách hét lên: “Chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (c. 24), Chúa Giêsu trả lời: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (câu 25). Chúa Giêsu có quyền trừ quỷ. Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của sự dữ nhưng – chúng ta hãy cẩn thận – Người xua đuổi ma quỷ nhưng Người không bao giờ thương lượng với hắn! Chúa Giêsu không bao giờ đàm phán với ma quỷ và khi bị cám dỗ trong sa mạc, câu trả lời của Chúa Giêsu luôn là những lời trong Kinh thánh, không bao giờ là một cuộc đối thoại. Anh chị em thân mến: không được đối thoại với ma quỷ! Hãy cẩn thận: không thể có đối thoại với ma quỷ, vì nếu bạn bắt đầu nói chuyện với hắn, hắn sẽ luôn thắng. Hãy cẩn thận.

Vậy chúng ta nên làm gì khi cảm thấy bị cám dỗ và áp bức? Đàm phán với ma quỷ chăng? Không: không được phép thương lượng với nó.

Chúng ta phải kêu cầu Chúa Giêsu: chúng ta hãy kêu cầu Ngài từ những nơi mà chúng ta cảm thấy xiềng xích của sự dữ và sợ hãi đang thắt chặt nhất.

Một lần nữa, nhờ quyền năng Thánh Thần của Người, Chúa muốn nói với kẻ dữ hôm nay: “Hãy đi đi, để tâm hồn đó được bình yên, đừng chia rẽ thế giới, đừng chia rẽ gia đình và cộng đồng của chúng con; hãy để họ sống thanh thản để hoa trái Thánh Thần của Ta có thể nảy nở ở đó, chứ không phải của ngươi - đây là điều Chúa Giêsu nói. Hãy để tình yêu, niềm vui, sự hiền lành ngự trị giữa họ, và thay vì bạo lực và la hét hận thù, hãy có tự do và hòa bình.

Chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có thực sự muốn thoát khỏi những xiềng xích trói buộc trái tim tôi không? Ngoài ra, tôi có khả năng nói “không” với những cám dỗ của sự dữ trước khi chúng len lỏi vào tâm hồn tôi không? Cuối cùng, tôi có cầu xin Chúa Giêsu, để Ngài hành động trong tôi, chữa lành tôi từ bên trong không?

Xin Đức Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi sự dữ.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:

Anh chị em thân mến,

Đã ba năm nay, tiếng kêu đau đớn và tiếng ồn của vũ khí đã thay thế những nụ cười vốn là nét đặc trưng của người dân Miến Điện. Tôi tham gia lời kêu gọi của một số giám mục Miến Điện cầu xin cho “vũ khí hủy diệt có thể được biến thành công cụ cho sự phát triển của nhân loại và công lý”. Hòa bình là một cuộc hành trình, và tôi mời gọi tất cả các bên liên quan thực hiện các bước đối thoại và thể hiện sự hiểu biết để đất nước Miến Điện có thể đạt được mục tiêu hòa giải huynh đệ. Việc vận chuyển viện trợ nhân đạo phải được cho phép để bảo đảm đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của mỗi người.

Điều tương tự cũng phải xảy ra ở Trung Đông, ở Palestine và Israel, và bất cứ nơi nào có xung đột: người dân phải được tôn trọng! Tôi luôn nghĩ sâu sắc đến tất cả các nạn nhân, đặc biệt là những người dân thường thiệt mạng vì cuộc chiến ở Ukraine. Xin hãy lắng nghe tiếng kêu cầu hòa bình của họ: đó là tiếng kêu của người dân, những người đã mệt mỏi vì bạo lực và mong muốn chiến tranh chấm dứt. Đó là một thảm họa cho các dân tộc và một thất bại cho nhân loại!

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi biết tin các nữ tu và những người khác bị bắt cóc cùng với họ ở Haiti vào tuần trước đã được thả. Tôi yêu cầu những người vẫn đang bị giam giữ được trả tự do và mọi hình thức bạo lực có thể chấm dứt. Mọi người phải đóng góp vào sự phát triển hòa bình của đất nước này, vì điều đó cần có sự hỗ trợ mới từ cộng đồng quốc tế.

Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi của tôi với cộng đồng nhà thờ Santa Maria ở Istanbul, nơi đã hứng chịu một cuộc tấn công vũ trang trong Thánh lễ khiến một người chết và một số người bị thương.

Hôm nay chúng ta kỷ niệm Ngày Thế giới Bệnh phong. Tôi khuyến khích những người đang tham gia hỗ trợ và tái hòa nhập xã hội cho những người bị ảnh hưởng bởi căn bệnh này, căn bệnh, mặc dù đã suy giảm, vẫn là một trong những căn bệnh đáng sợ nhất và ảnh hưởng đến những người nghèo nhất và bị thiệt thòi nhất.

Xin gửi lời chào đến tất cả các bạn đã đến từ Rôma, Ý và nhiều nơi trên thế giới. Đặc biệt là các sinh viên của Viện “Puente Ajuda” ở Olivenza, Tây Ban Nha, và các sinh viên của Viện “Sir Michelangelo Refalo” ở Gozo.

Bây giờ tôi ngỏ lời với các bạn, hỡi các chàng trai và cô gái của Công Giáo Tiến hành, của các giáo xứ và trường học Công Giáo ở Rôma. Các bạn đến đây vào lúc kết thúc “Đoàn lữ hành Hòa bình”, trong đó các bạn đã suy ngẫm về lời kêu gọi trở thành những người bảo vệ Công trình Sáng tạo, vốn là một món quà từ Thiên Chúa. Cảm ơn sự hiện diện của bạn! Và cảm ơn các bạn vì sự cam kết xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

Tôi chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tốt lành. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Anh chị em thấy rằng những người trẻ, những đứa trẻ của Công Giáo Tiến hành, thật tốt! Hãy can đảm lên! Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt.
 
Ukraine tung ra robot chiến đấu. Patriot cứu Ukraine suốt mùa Đông. Giá cả tăng ở Âu Châu vì Houthi
VietCatholic Media
16:09 30/01/2024


1. Ukraine triển khai robot gắn súng máy tấn công quân của Putin

Kyiv đang triển khai các robot mặt đất thử nghiệm được trang bị súng máy trên tiền tuyến chống lại lực lượng Nga, một động thái có thể cứu sống các chiến binh Ukraine khi cuộc chiến chưa có dấu hiệu kết thúc.

Các hình ảnh và cảnh quay lưu hành trong những tuần gần đây dường như cho thấy nhiều loại robot trên mặt đất của Ukraine, từ các robot được giao nhiệm vụ rà phá bom mìn nguy hiểm cho đến các robot chống lại các cuộc đọ súng.

Ukraine đã đầu tư rất nhiều vào công nghệ máy bay không người lái, và thuyền không người lái; và thường xuyên gây chú ý khi tấn công vào tài sản của Nga ở Hắc Hải hoặc vượt qua biên giới vào lãnh thổ Nga. Xe mặt đất không người lái, gọi tắt là UGV, của Ukraine ít được chú ý hơn, nhưng Kyiv vẫn đang tiếp tục phát triển chúng.

Vào giữa tháng 9 năm 2023, Sa hoàng máy bay không người lái và Bộ trưởng chuyển đổi kỹ thuật số của Ukraine, Mykhailo Fedorov, cho biết Ukraine đang thử nghiệm robot không người lái “Ironclad” của mình trong các nhiệm vụ chiến đấu ở tiền tuyến.

Fedorov cho biết, nó được trang bị súng máy hoặc tháp pháo chiến đấu robot và được thiết kế để giúp tấn công các vị trí của đối phương, thực hiện các nhiệm vụ trinh sát và hỗ trợ hỏa lực. Theo báo cáo, nó có thể di chuyển với tốc độ lên tới 12 dặm một giờ.

Fedorov cho biết nó được điều khiển từ xa từ một địa điểm an toàn, bảo vệ tính mạng của binh lính Ukraine. Bộ trưởng Ukraine trước đó cho biết vào cuối tháng 8 rằng cuộc thử nghiệm đang được tiến hành trên 25 loại robot chiến đấu do Ukraine sản xuất thuộc nhiều loại khác nhau, bao gồm cả robot cảm tử.

Samuel Bendett, thuộc Trung tâm Phân tích Hải quân, cho biết cả Nga và Ukraine đều đang phát triển UGV nhằm “thay thế binh lính con người trong các cuộc tấn công nguy hiểm và có nhiều thương vong nhất”.

Bendett nói với Newsweek rằng chúng tôi hiện đang thấy các mẫu UGV thử nghiệm khi Kyiv chuẩn bị sản xuất hàng loạt robot trên mặt đất.

Ukraine đã công bố kế hoạch xây dựng “Đội quân Robot” vào năm ngoái, một đối tác trên mặt đất của “Đội quân máy bay không người lái” của nước này để duy trì hoạt động trên không rộng rãi của Ukraine.

Đầu tháng này, lực lượng mặt đất của Ukraine cho biết Lữ đoàn tấn công biệt lập số 5 của họ đang sử dụng máy bay không người lái chiến đấu trên mặt đất để nhắm vào các vị trí của Nga.

“Tương lai tuyệt vời đã đến”. Chia sẻ cùng đoạn clip về máy bay không người lái tác chiến mặt đất, Bộ Quốc phòng Ukraine cho biết hiện nó đã được đưa vào hoạt động cùng lữ đoàn.

Nga cũng đã phát triển các robot mà nước này dự định sử dụng ở Ukraine, bao gồm cả robot chiến đấu “Marker” được hỗ trợ Trí Tuệ Nhân Tạo.

Bendett lập luận: “Chúng tôi đang chứng kiến một mô hình tương tự ở cả hai phía khi nói đến sự phát triển của UGV”. Ông nói: “Các phương tiện có xu hướng nhỏ hơn để giảm thiểu nguy cơ bị các máy bay không người lái hiện nay phát hiện,” đồng thời cho biết thêm chúng thường thô sơ và rẻ tiền.

Bendett nói: “Mục tiêu tổng thể là thực hiện các nhiệm vụ đơn giản như tiến vào vị trí của đối thủ, buộc đối phương phải bắn vào vị trí đó và do đó làm lộ vị trí của hắn cho các cuộc tấn công tiếp theo bằng hệ thống mặt đất hoặc trên không”.

Ông gợi ý rằng việc gắn súng máy trên loại máy bay không người lái mặt đất này là một quá trình “tương đối đơn giản” và nhiều chiếc sẽ hoạt động song song với máy bay không người lái trên không để hướng dẫn UGV đến các vị trí tấn công có thể xảy ra.

2. Các cuộc tấn công ở Biển Đỏ làm căng thẳng chuỗi cung ứng của Âu Châu

Các chuyến hàng hóa giữa Á Châu và Âu Châu đang bị gián đoạn do các cuộc tấn công liên tục vào các tàu ở Biển Đỏ và điều đó bắt đầu có tác động kinh tế.

Hầu hết các hãng tàu đã chuyển hướng khỏi Biển Đỏ kể từ khi các cuộc tấn công của phiến quân Houthi bắt đầu vào tháng 11 và đang đi tuyến đường dài hơn quanh Nam Phi. Điều đó kéo dài hành trình thêm một tuần và tăng chi phí nhiên liệu, phí bảo hiểm và tiền lương của phi hành đoàn.

Cyrus de la Rubia, nhà kinh tế trưởng tại Ngân hàng Thương mại Hamburg, cho biết: “Các cuộc tấn công dai dẳng nhằm vào các tàu thương mại di chuyển trên Biển Đỏ đang gây ra những tác động rõ rệt đến chuỗi cung ứng”.

Chris Williamson, nhà kinh tế trưởng của S&P Global Market Intelligence, cho biết: “Sự gián đoạn nguồn cung ở Biển Đỏ đang gây ra lạm phát trong lĩnh vực sản xuất”.

Một số hãng xe hơi đã tạm dừng sản xuất xe điện tại Liên Hiệp Âu Châu do khủng hoảng; hầu hết các loại pin đều có nguồn gốc ở Á Châu.

Tesla sẽ ngừng sản xuất tại Berlin Gigafactory trong khoảng thời gian từ ngày 29 Tháng Giêng đến ngày 11 tháng 2 và Volvo Cars đã ngừng sản xuất một thời gian ngắn tại nhà máy ở Bỉ vào đầu tháng này.

Ivar Myklebust, chủ tịch hội đồng quản trị của Gram Car Carriers, một công ty vận chuyển phương tiện hàng đầu, nói với ấn phẩm Trade Winds rằng Biển Đỏ “lần đầu tiên sau 30 năm không có hãng vận tải xe hơi”.

Ngành năng lượng cũng cảnh báo rằng sự gián đoạn có thể ảnh hưởng đến nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên hóa lỏng cho Âu Châu; 13% LNG của lục địa đi qua Biển Đỏ.

Ngành vận tải biển muốn Brussels giúp đỡ.

“Đã đến lúc Liên Hiệp Âu Châu phải hành động. Sotiris Raptis, tổng thư ký Hiệp hội chủ tàu Cộng đồng Âu Châu cho biết, những người đi biển đang gặp nguy hiểm đến tính mạng của họ và điều đó không nên xảy ra. “Khi người Âu Châu phải đối mặt với sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng của họ, chúng tôi cần sử dụng hết tất cả các công cụ sẵn có để giải quyết tình hình, bao gồm cả hoạt động hải quân”.

Liên Hiệp Âu Châu dự kiến công bố chiến lược kiểm soát Biển Đỏ vào ngày 19/2. Trong khi đó, ngày càng nhiều quốc gia thành viên cử tàu chiến tuần tra khu vực.

Kể từ tháng 11 đã xảy ra hơn 30 cuộc tấn công vào tàu bè của Houthis, một nhóm chiến binh được Iran hậu thuẫn, cho biết họ đang hành động để hỗ trợ Hamas trong cuộc chiến chống lại Israel.

Raptis cho biết: “Đây là một cấp độ khác so với nạn cướp biển mà các công ty vận tải biển không thể tự mình giải quyết”.

Bất chấp sự hiện diện ngày càng tăng của hải quân ở Biển Đỏ, các công ty vận tải lớn như Maersk, Hapag-Lloyd và Công ty Vận tải Địa Trung Hải đang tránh tuyến đường này.

“Nếu chúng tôi có thể có thêm ba đến bốn tàu hải quân trong khu vực, tôi nghĩ khả năng bảo vệ sẽ khá cao. Nhưng việc giảm căng thẳng thực sự có thể cần một số nỗ lực ngoại giao từ bên cạnh để tránh bạo lực gia tăng thêm nữa”, Martin Kröger, nhà lãnh đạo hiệp hội các chủ tàu Đức, cho biết.

Kröger cho biết, các cuộc tấn công cũng khiến việc đi thuyền qua Biển Đỏ trở nên cực kỳ tốn kém do giá bảo hiểm tăng cao, điều này có thể cần đến sự can thiệp của chính phủ.

“Vương quốc Anh đã rất tích cực trong việc giảm phí bảo hiểm cho các tàu buôn ở hành lang Ukraine. Có thể có chỗ cho các cuộc đàm phán về phí bảo hiểm Biển Đỏ,” ông nói.

3. Liên Hiệp Âu Châu nhóm họp để thảo luận về việc tài trợ cho Ukraine

Đại diện của các quốc gia thành viên Liên Hiệp Âu Châu đã gặp nhau tối Thứ Ba, để thảo luận về việc tài trợ cho Ukraine khi áp lực ngày càng gia tăng buộc Viktor Orbán phải nhượng bộ và đồng ý với gói 4 năm trị giá 50 tỷ euro trên bàn đàm phán.

Các trợ lý của Orbán cho biết hôm thứ Hai rằng họ hiện đã sẵn sàng chấp nhận ý tưởng lấy 50 tỷ euro ra khỏi tổng ngân sách Liên Hiệp Âu Châu, là điều mà họ đã ngăn chặn vào tháng 12.

Không rõ liệu các đề xuất mới nhất của Hung Gia Lợi, được đệ trình vào thứ Bảy, có khác với những đề xuất trên bàn một tuần trước hay không, trong đó Orbán đòi phải bỏ phiếu hàng năm về gói này hay có những đánh giá giữa kỳ.

Cả hai đề xuất này đều không được áp dụng ở thủ đô Liên Hiệp Âu Châu. Một nhà ngoại giao cho biết: “Rất khó có khả năng Hung Gia Lợi sẽ có một lựa chọn khác để phủ quyết khoản tiền này, dù là bốn lần hay một lần”.

Điều đó nói lên rằng, vẫn có niềm tin rằng một thỏa thuận có thể đạt được.

Một nhà ngoại giao cho biết một vụ rò rỉ trên tờ Financial Times hôm thứ Hai rằng các quốc gia thành viên Liên Hiệp Âu Châu có thể rút tiền tài trợ từ Hung Gia Lợi để buộc Orbán phải chấp nhận.

Một người khác cho biết thời điểm rò rỉ trông giống như một chiến lược nhằm gây áp lực lên Orbán và bảo đảm rằng anh ta không đi chệch hướng với thỏa hiệp hiện đang được môi giới.

“Orbán đang làm cho Âu Châu trông yếu đi. Cần phải làm gì đó”, một nhà ngoại giao cho biết, lưu ý đến thực tế là Hung Gia Lợi sẽ đảm nhận chức chủ tịch luân phiên của Liên Hiệp Âu Châu vào tháng 7.

“Nó không thể tiếp tục như thế này được,” một người khác nói.

4. Hỏa tiễn đất đối không Patriot của Mỹ đã cứu Ukraine khỏi băng giá mùa đông như thế nào

Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “How America's Patriot SAMs Saved Ukraine from Winter Freeze”, nghĩa là “Hỏa tiễn đất đối không Patriot của Mỹ đã cứu Ukraine khỏi băng giá mùa đông như thế nào.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Ukraine gần như sắp vượt qua được một mùa đông ném bom nữa của Nga, chuẩn bị sống sót sau một đợt tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay không người lái khác của Mạc Tư Khoa nhằm đánh sập mạng lưới năng lượng quốc gia và khiến Kyiv phải khuất phục.

Mùa đông bắn phá thứ hai của Điện Cẩm Linh bắt đầu vào tháng 9, nhắm vào một quốc gia Ukraine đã dành phần lớn thời gian trong sáu tháng trước đó để chuẩn bị.

Các kho dự trữ nhiên liệu đã đầy, các hầm trú ẩn phòng không đã được khảo sát, cơ sở hạ tầng bị tàn phá trong mùa đông trước đã được sửa chữa, và chiếc ô phòng không của đất nước đã được tăng cường bởi các hệ thống vũ khí mới của Mỹ.

Trong một cuộc phỏng vấn độc quyền với Newsweek, Bộ trưởng năng lượng Ukraine đã ghi nhận sự chuẩn bị này giúp đất nước có khả năng phục hồi trong mùa đông. “Chúng tôi sắp kết thúc mùa đông rồi; Vài ngày nữa là tháng Hai,” German Galushchenko nói. “Vì vậy, chúng tôi khá tự tin.”

Galushchenko giải thích: “Năm nay, chúng tôi không có - ít nhất là ở giai đoạn này - một số tác động đáng kể của việc pháo kích đối với cơ sở hạ tầng năng lượng”. “Quân xâm lược vẫn tiếp tục pháo kích và tất nhiên, tác động giờ đây nhiều hơn đối với các khu vực gần chiến trường, nơi họ sử dụng hỏa tiễn S-300, pháo binh và các cuộc không kích.”

Đối với Kyiv và các địa điểm chiến lược khác tương đối xa mặt trận, hệ thống hỏa tiễn đất đối không Patriot do Mỹ sản xuất quả là một ơn trời. Các hỏa tiễn đánh chặn của họ đã chứng tỏ có thể tiêu diệt các hỏa tiễn siêu thanh Kinzhal đang bay tới, thứ mà Tổng thống Vladimir Putin từng ca ngợi là “bất khả chiến bại”.

“ Hệ thống phòng không đã trở nên mạnh mẽ hơn nhiều”, Galushchenko nói về hệ thống phòng thủ mùa đông của Ukraine. “Năm trước, chúng tôi không có nhiều hệ thống. Ví dụ, chúng tôi không có Patriots.”

“Họ đã sử dụng loại vũ khí phức tạp này—Kinzhal—và họ tấn công cơ sở hạ tầng năng lượng bằng loại vũ khí này. Và chúng tôi, ở giai đoạn đó, không có hệ thống nào có thể bắn hạ Kinzhal. Giờ đây, các hệ thống Patriot đã thể hiện tính hiệu quả của chúng trong vấn đề đó và đó là một điểm rất quan trọng.”

Bộ trưởng nói thêm, mùa đông năm ngoái có nghĩa là “các cuộc tấn công ngày đêm nhằm vào cơ sở hạ tầng năng lượng”. Năm nay, các cuộc tấn công của Nga ít thường xuyên hơn và ít tàn khốc hơn.

Ukraine hiện có ít nhất 3 khẩu đội Patriot. Hai khẩu đội đầu tiên đến từ Mỹ và Đức vào mùa xuân năm 2023. Berlin cam kết chiếc thứ ba được triển khai vào tháng 12 năm 2023. Wall Street Journal đưa tin vào cuối tháng 12 rằng Ukraine có 5 khẩu đội đang hoạt động.

Số lượng và vị trí chính xác của chúng vẫn được giữ bí mật quân sự chặt chẽ. Một hệ thống Patriot có thể đang được sử dụng ở chế độ di động, được triển khai đến nhiều địa điểm khác nhau tương đối gần mặt trận để phục kích máy bay Nga.

Nhưng vai trò chính của Patriot vẫn là bảo vệ cơ sở hạ tầng quan trọng và các trung tâm dân cư lớn. Phát ngôn nhân của Lực lượng Không quân Ukraine, ông Yurii Ihnat, nói với Newsweek trong tháng này rằng “chỉ có Patriot” mới có thể bắn hạ hỏa tiễn Kinzhal mà Mạc Tư Khoa ưa thích dành cho các mục tiêu tĩnh có giá trị cao.

Ihnat nói, ngay cả những cải tiến gần đây đối với các loại vũ khí tiên tiến như pháo sáng nhằm đánh lạc hướng hỏa tiễn đánh chặn cũng không giúp được gì cho chúng.

Andriy Yermak, nhà lãnh đạo văn phòng Tổng thống Volodymyr Zelenskiy, phát biểu tại một sự kiện của Viện Hòa bình Hoa Kỳ vào tháng 12 rằng thành công của Ukraine với các khẩu đội Patriot đã vạch trần “những lời nói dối” của Putin về loại vũ khí tiên tiến nhất của Mạc Tư Khoa.

Yermak nói: “Trước khi người Ukraine bắt đầu sử dụng Patriot, không ai có thể chắc chắn rằng Patriot sẽ phá hủy được loại hỏa tiễn nào”. “Patriot của bạn đã phá hủy mọi thứ.”

Tuy nhiên, sau tất cả thành công của họ, vẫn còn những lo ngại về chi phí và tính sẵn có của hỏa tiễn đánh chặn Patriot, đơn giá của loại hỏa tiễn này có thể lên tới 4 triệu Mỹ Kim. Tờ Kyiv Post đưa tin các xạ thủ Ukraine có thể bắn từ 8 đến 10 hỏa tiễn cùng một lúc trong các cuộc oanh tạc của Nga, nhanh chóng tiêu hao kho vũ khí của Kyiv.

Mỹ đang tìm kiếm các tuyến đường cung cấp mới. Vào tháng 12, Nhật Bản đã đồng ý gửi hỏa tiễn đánh chặn tới Mỹ để giải phóng kho dự trữ của Mỹ để có thể sử dụng ở Ukraine. Nhà sản xuất Patriot Boeing đang có kế hoạch mở rộng khả năng sản xuất của mình lên hơn 30% để đáp ứng nhu cầu mới, trong khi NATO cũng đang xếp hàng mua 1.000 hỏa tiễn mới.

Galushchenko cho biết việc tiếp tục cung cấp hỏa tiễn là rất quan trọng trong việc theo đuổi an ninh và chiến thắng của Ukraine. Ông nói: “Mức độ cung cấp các hỏa tiễn và hệ thống phòng không hiện đại này không chỉ quan trọng đối với chiến tranh mà còn quan trọng đối với người dân Ukraine “.

“Đó không chỉ là vấn đề trên chiến trường và mức độ hiệu quả của chúng tôi ở tiền tuyến, mà còn là vấn đề làm sao người dân bình thường có thể cảm thấy điều kiện an toàn và bình thường; để không để họ làm chúng ta đau khổ.”

5. Reuters đưa tin Bộ trưởng Quốc phòng Slovakia, Robert Kaliňák, cho biết họ muốn thảo luận về việc mua hệ thống phòng thủ hỏa tiễn Patriot từ Mỹ như một phần trong kế hoạch dài hạn nhằm bảo vệ không phận của mình.

Kaliňák, phát biểu trên chương trình tranh luận Chúa Nhật của đài truyền hình nhà nước RTVS, cho biết Slovakia sẽ tìm cách sử dụng mức chiết khấu cho việc mua trực thăng tấn công mà nước này nhận được từ Mỹ vào năm ngoái.

Việc giảm giá được đưa ra sau khi Bratislava gửi các chiến đấu cơ MiG-29 đã nghỉ hưu và hệ thống phòng không S-300 tới Ukraine.

Kalinak nói: “Chúng tôi đã mở ra cuộc tranh luận về việc liệu có thể sử dụng mức giảm giá này cho hệ thống Patriot hay không.

Bratislava đã nhận được lời đề nghị của Hoa Kỳ vào năm ngoái cho 12 máy bay trực thăng Bell AH-1Z Viper mới với mức chiết khấu 2/3, với một phần giá được chi trả theo chương trình tài trợ quân sự nước ngoài của Hoa Kỳ sau khi nước này gửi các chiến đấu cơ cũ của mình tới Ukraine.

Lời đề nghị được đưa ra trước khi chính phủ mới bao gồm Kalinak lên nắm quyền vào tháng 10 năm 2023. Chính phủ của thủ tướng Robert Fico đã tạm dừng cung cấp viện trợ quân sự cho Ukraine từ các kho dự trữ chính thức.

Kaliňák nói rằng trong khi các máy bay trực thăng đang được thảo luận nhằm mục đích tấn công, thì ưu tiên của Slovakia phải là phòng thủ và đặc biệt là phòng không.

Quốc gia này giáp Ukraine và là một phần trong nỗ lực của NATO nhằm củng cố sườn phía đông của nước này. Slovakia hiện có hệ thống Patriot của Ý đóng quân tại nước này, dự kiến sẽ ở lại đến tháng 4.

Kaliňák cho biết Slovakia cũng đang đàm phán với Ba Lan và Israel về các hệ thống phòng không tầm ngắn và tầm trung.

6. Truyền hình nhà nước Nga thảo luận về ý tưởng liên minh quân sự Nga với Iran, Trung Quốc

Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Russian Military Alliance with Iran, China Floated on State TV”, nghĩa là “Truyền hình nhà nước Nga thảo luận về ý tưởng liên minh quân sự Nga với Iran, Trung Quốc” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Một vị khách trên đài truyền hình nhà nước Nga đã đưa ra ý tưởng về việc Nga thành lập một liên minh quân sự với Trung Quốc, cũng như Iran và Bắc Hàn.

Một đoạn clip về nhận xét đã được chia sẻ trong một bài đăng trên X, vào thứ Hai bởi Anton Gerashchenko, cố vấn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Ukraine. Vị khách, không được nêu tên, đã phát biểu trên kênh truyền hình nhà nước Russia-1, nơi ông xuất hiện cùng với người dẫn chương trình Vladimir Solovyov, một trong những nhân vật nổi bật nhất trong giới truyền thông được Điện Cẩm Linh hậu thuẫn.

“Các nhà tuyên truyền Nga thảo luận về việc liệu liên minh quân sự Nga-Trung có thể thành lập trong tương lai gần hay không”, Gerashchenko viết trong chú thích kèm theo video. “Họ muốn đưa Iran và Bắc Hàn vào liên minh. Nhưng họ không lạc quan lắm về điều đó, và Solovyov có vẻ không vui.”

“Tôi muốn quay lại câu hỏi về liên minh quân sự Nga-Trung, cũng như việc đưa các nước như Iran và Bắc Hàn vào liên minh này,” vị khách truyền hình nhà nước bắt đầu.

Ông nói: “Tôi muốn lưu ý rằng, nhìn chung, người Trung Quốc hoàn toàn không muốn chính thức hóa bằng bất kỳ cách nào mối quan hệ quân sự, chính trị và kinh tế hiện có giữa Trung Quốc và Liên bang Nga, vốn khá gần gũi với bất kỳ tiêu chuẩn quốc tế nào”.

Putin đã phủ nhận mọi ý định thành lập liên minh quân sự với Trung Quốc, mặc dù hai nước vẫn duy trì mối quan hệ chặt chẽ trong suốt cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine và tuyên bố quan hệ đối tác “không giới hạn” vào tháng 2 năm 2022, vài ngày trước khi chiến tranh bắt đầu. Vào tháng 11 năm 2023, nhà lãnh đạo Nga ca ngợi sự hợp tác quân sự “công nghệ cao” với Trung Quốc.

Vị khách truyền hình nhà nước cho biết: “Những gì Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa nói về mức độ hợp tác chưa từng có giữa hai nước chúng ta là hoàn toàn đúng”. “Có lẽ điều này đã không xảy ra kể từ tháng 2 năm 1950, khi Hiệp ước Hữu nghị và Tương trợ với Trung Quốc được ký kết”.

Ông nói: “Dưới thời đồng chí Stalin, trình độ cũng ngang bằng với bây giờ. Hơn nữa, vào thời điểm đó đang xảy ra chiến tranh ở Bắc Hàn, nơi quân đội của chúng ta và Trung Quốc kề vai sát cánh chống lại một đối phương chung. Nhưng rồi những vấn đề nghiêm trọng nảy sinh, như chúng ta đã biết, và liên minh này tan rã.”

Vị khách nói rằng Trung Quốc “rõ ràng không hề tìm cách tạo ra bất kỳ hệ thống liên minh nào”.

Ông nói thêm: “Người Trung Quốc không cần nó và có một số lý do nhất định cho việc này. Một liên minh quân sự là cần thiết để tiến hành chiến tranh. Đó là mục đích duy nhất mà loại hiệp ước này được ký kết. Người Trung Quốc sẽ không gây chiến với Mỹ, với một phương Tây đoàn kết, bất chấp những vấn đề và mâu thuẫn rất nghiêm trọng trong mối quan hệ giữa họ”.

Sam Etheridge, viết cho tổ chức tư vấn độc lập, Viện Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia, đã xuất bản bài bình luận vào tháng 5 năm 2023 nói rằng mặc dù việc Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh hình thành một cấu trúc phòng thủ tập thể kiểu NATO là khó có thể xảy ra, nhưng chính sách liên minh của Trung Quốc có thể được điều chỉnh hoặc bỏ đi nếu nó phù hợp với lợi ích của Trung Quốc.

Phân tích cho biết: “Cả hai nước đã thể hiện sự linh hoạt trong quá khứ khi hoàn cảnh quốc tế đã thay đổi”. “Phương Tây nên chuẩn bị cho kịch bản này và hiểu điều gì đang thúc đẩy hai nước xích lại gần nhau, đặc biệt khi áp lực liên tục chống lại Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa dường như là điều chắc chắn”.

7. Nhà lãnh đạo công ty hạt nhân nhà nước Nga Rosatom có kế hoạch gặp nhà lãnh đạo Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, Rafael Grossi, tại Nga vào giữa tháng 2, hãng tin Interfax đưa tin.

Alexei Likhachev, giám đốc điều hành Rosatom, cho biết ông sẽ thảo luận các vấn đề an ninh hạt nhân với Grossi, cũng như sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia ở Ukraine.

Nga đã chiếm nhà máy Zaporizhzhia, nhà máy lớn nhất ở Âu Châu, ngay sau khi xâm chiếm Ukraine vào năm 2022 và IAEA đang giám sát sự an toàn của nhà máy này khi tình trạng thù địch tiếp diễn trong khu vực.

8. Hàng triệu Mỹ Kim dầu thô của Nga bị mắc kẹt trên biển

Tờ Newsweek có bài tường trình nhan đề “Millions Worth of Russian Oil Stranded at Sea Because of Payment Impasse”, nghĩa là “Dầu trị giá hàng triệu Mỹ Kim của Nga bị mắc kẹt trên biển vì bế tắc thanh toán.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Các tàu chở dầu chở 10 triệu thùng dầu của Nga đang mắc kẹt ngoài khơi Nam Hàn, theo báo cáo, do các lệnh trừng phạt làm tổn hại đến khả năng của Mạc Tư Khoa trong việc nhận thanh toán cho xuất khẩu chính của nước này.

Khoảng 1,3 triệu tấn dầu thô loại Sokol đã trôi dạt trên biển trong nhiều tuần qua do những bất đồng trong thanh toán khiến người mua ngần ngại, theo Reuters. Một thùng Sokol được giao dịch ở mức 77 Mỹ Kim vào hôm thứ Hai, có nghĩa là khoảng 770 triệu Mỹ Kim giá trị xuất khẩu của Nga đã bị mắc kẹt trong tình trạng lấp lửng.

Số dầu này được sản xuất trong 45 ngày của dự án Sakhalin-1, một liên doanh của ExxonMobil. Tập đoàn dầu khí đa quốc gia của Mỹ đã rời Nga sau cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine của Vladimir Putin vào tháng 2 năm 2022, và những khó khăn trong việc bán dầu thô loại Sokol là một thách thức đối với Mạc Tư Khoa sau các lệnh trừng phạt do phương Tây áp đặt.

Để đáp trả các lệnh trừng phạt của phương Tây, Mạc Tư Khoa đã chia thế giới thành các quốc gia “thân thiện” và “không thân thiện”, đưa ra mức giá ưu đãi cho dầu khí trước đây, trong đó Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước được hưởng lợi chính.

Tuy nhiên, Ấn Độ thanh toán bằng đồng tiền riêng của mình, đồng rupee, không được tự do chuyển đổi và được lưu trữ tại các ngân hàng Ấn Độ. Những hạn chế của đất nước đối với dòng vốn có nghĩa là doanh thu trị giá khoảng 1 tỷ Mỹ Kim mỗi tháng không thể quay trở lại Nga.

Việc Nga thúc đẩy sử dụng đồng nhân dân tệ của Trung Quốc làm tiền tệ thay vào đó đã bị New Delhi phản đối, giáng một đòn mạnh vào mục tiêu của Putin nhằm tránh né đồng đô la Mỹ và thoát khỏi nền kinh tế toàn cầu do phương Tây dẫn đầu.

Vấn đề thanh toán đã làm trì hoãn việc vận chuyển Sokol tới Tập đoàn Dầu mỏ Ấn Độ, gọi tắt là IOC, khiến nhà máy lọc dầu lớn nhất Ấn Độ phải mua thêm dầu từ Ả Rập Saudi. Một nguồn tin của IOC nói với Reuters rằng công ty không mong đợi sớm nhận được bất kỳ lô hàng Sokol nào do bất đồng về thanh toán. Newsweek đã gửi email cho Indian Oil Corp để bình luận vào hôm thứ Hai.

Vào tháng 12, Bloomberg đưa tin rằng gần 5 triệu thùng dầu thô loại Sokol đã không đến được các nhà máy lọc dầu của Ấn Độ và các tàu chở dầu đang phải dừng hoạt động cách điểm đến của họ hàng dặm. Cơ quan này không nêu rõ nguyên nhân tạm dừng nhưng cho biết có thể là do các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với các tàu chở dầu thô của Nga vi phạm giới hạn giá 60 Mỹ Kim do G7 quốc gia áp đặt.

Nga đã tìm cách giải quyết những hạn chế này thông qua các tàu “ma” vi phạm lệnh trừng phạt, được bảo hiểm ở các quốc gia không thuộc phương Tây và tắt hệ thống nhận dạng tự động của họ để tránh bị theo dõi.

Marcus Fishburn, giám đốc, nhà lãnh đạo bộ phận tranh chấp và điều tra tại công ty tư vấn rủi ro địa chính trị và mạng S-RM, nói với Newsweek rằng cơ cấu sở hữu và quản lý các tàu này đã được tổ chức lại, thường thông qua các công ty vỏ bọc, để che giấu mối liên hệ của họ với Nga. Fishburn cho biết thêm, dầu thô của Nga cũng được trộn với dầu từ những nơi khác, một lần nữa để che giấu nguồn gốc của nó.

Fishburn cho biết: “Điều này đang xảy ra ở Singapore và Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như trên biển thông qua việc chuyển hàng từ tàu này sang tàu khác, điều này rất khó khăn cho cảnh sát”. “Chừng nào Nga còn tiếp tục tìm được người trung gian và người mua để tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch ngầm của mình thì giá trị thực sự của doanh thu từ dầu mỏ sẽ vẫn khó nắm bắt được”.

9. Bộ năng lượng Nga đề nghị lệnh cấm bay trên không phận các cơ sở năng lượng của Nga

Nhật báo Vedomosti đưa tin hôm thứ Hai rằng Bộ năng lượng Nga đã đề xuất hạn chế các chuyến bay qua các cơ sở năng lượng của Nga, sau một loạt các cuộc tấn công liên quan đến Ukraine trong tháng này nhằm vào cơ sở hạ tầng dầu mỏ.

Tờ báo cho biết, theo kế hoạch, chỉ những máy bay được triển khai để bảo vệ các cơ sở năng lượng và máy bay của các quan chức hàng đầu của Nga hoặc của các quan chức nước ngoài đến thăm mới được phép bay trong các khu vực được chỉ định.

Thống đốc khu vực Mikhail Yevrayev cho biết lực lượng phòng không Nga đã ngăn chặn một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái hôm thứ Hai nhằm vào nhà máy lọc dầu Slavneft-Yanos ở thành phố Yaroslavl, phía đông bắc Mạc Tư Khoa.

Đây là vụ mới nhất trong một loạt các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái tương tự vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga trong những tuần gần đây, một số trong đó đã làm gián đoạn hoạt động sản xuất nhiên liệu. Các quan chức Ukraine cho biết Kyiv đứng đằng sau một số vụ tấn công.

Cuộc chiến kéo dài gần hai năm của Nga ở Ukraine đang trở thành một cuộc chiến tiêu hao sau sự chậm trễ trong việc hỗ trợ tài chính và quân sự của phương Tây cho Kyiv và không có những thay đổi đáng kể trên chiến trường trong nhiều tháng.

Công ty năng lượng Novatek NVTK.MM của Nga đã đình chỉ một số hoạt động tại một nhà ga xuất khẩu nhiên liệu khổng lồ ở Biển Baltic vào ngày 21 tháng 1 sau khi một vụ hỏa hoạn bắt đầu do truyền thông Ukraine cho là một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái.

Hai ngày trước đó, một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái đã tấn công một kho dầu ở khu vực Bryansk phía tây nước Nga, giáp biên giới Ukraine, khiến Mạc Tư Khoa đổ lỗi cho Kyiv. Điều đó xảy ra sau một cuộc tấn công một ngày trước đó vào một cảng dầu ở Biển Baltic của Nga mà các quan chức Nga cho biết đã không thành công.
 
Cẩn thận: Những thị kiến mà các vị thánh Công Giáo nhận được cho thấy hỏa ngục không trống rỗng
VietCatholic Media
17:53 30/01/2024


1. Những thị kiến mà các vị thánh Công Giáo nhận được về hỏa ngục

Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, có bài viết nhan đề “What is hell like? Check out these visions received by Catholic saints”, nghĩa là “Hỏa Ngục là như thế nào? Hãy xem những thị kiến mà các vị thánh Công Giáo nhận được”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.

Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, nhiều vị thánh và chân phước đã mô tả Hỏa Ngục trông như thế nào và thậm chí chính xác nơi mà “những tín hữu Kitô Hữu xấu” sẽ bị đặt vào, dựa trên những thị kiến và thông điệp mà các ngài nhận được trong cuộc đời.

Cấu trúc Hỏa Ngục

Thánh Têrêsa Ávila, một tiến sĩ của Giáo hội, kể trong cuốn “Tự truyện” của mình rằng khi Chúa chỉ cho cô thấy Hỏa Ngục, đối với cô, dường như cô đang ở trong một “lối vào mà đối với tôi giống như một con hẻm rất dài và hẹp, giống như một Lò rất thấp, tối và hẹp: Đối với tôi, sàn nhà giống như bùn, có mùi dịch bệnh”.

Thánh Frances thành Rôma cũng ở ngay lối vào Hỏa Ngục. Theo lời chứng của cha giải tội của cô, Cha Juan Mattiotti, ở đó cô “đã nhìn thấy một vực thẳm vô cùng lớn lao và khủng khiếp”. Ngoài ra, còn có một tấm biển cảnh báo: “Đây là Hỏa Ngục, nơi không có sự nghỉ ngơi, an ủi hay hy vọng”.

Theo lời kể của Chân phước Anne Catherine Emmerich, Hỏa Ngục mà cô nhìn thấy có “hình dạng của một tòa nhà rộng lớn, tối tăm, được chiếu sáng bằng ánh sáng kim loại”. Emmerich nói rằng nó có lối vào với “những cánh cửa lớn màu đen có khóa và chốt”. Nhưng các thiên thần đã đánh gục họ và đối phương đã tôn thờ Chúa Kitô khi Ngài xuống Hỏa Ngục.

Chân phước nói rằng có những nhà tù, hang động, sa mạc và hồ nước dẫn đến “sự ghê tởm và kinh hoàng”. Thánh Faustina Kowalska nói rằng trong Hỏa Ngục “có những hang động và hố tra tấn, nơi mỗi loại đau đớn khác nhau”.

Những đau khổ theo Chúa Cha

Điều bất thường trong cuộc đời của một số vị thánh là chính Chúa Cha trực tiếp nói chuyện với họ. Một trường hợp rất đặc biệt là trường hợp của Thánh Catarina Siena, một tiến sĩ của Giáo Hội. Trong tác phẩm “Đối thoại”, thánh nữ thuật lại rằng Chúa Cha hằng hữu đã chỉ cho thánh nữ bốn cực hình chính của Hỏa Ngục, từ đó phát sinh ra mọi nỗi đau khác.

Theo thánh nhân, Chúa Cha nói rằng nỗi đau khổ đầu tiên là những linh hồn bị kết án bị tước đoạt khỏi Ngài. Điều này khiến họ đau đớn đến mức họ thà chịu lửa và những cực hình tàn khốc để có thể nhìn thấy Ngài. Nỗi thống khổ này khơi dậy nỗi đau khổ thứ hai, đó là nỗi đau của sâu bọ lương tâm, vì họ nhận thức được rằng do lỗi của mình mà họ không thể ở bên Ngài.

Nỗi đau thứ ba là sự hiện ra của ma quỷ bởi vì “khi nhìn thấy chúng, họ biết mình rõ hơn, nghĩa là họ biết rằng vì lỗi của họ nên họ đáng bị như thế”, Chúa Cha Hằng Hữu đã mạc khải cho cô. Hơn nữa, nơi ma quỷ, những linh hồn này nhìn thấy hình dáng của chính mình khủng khiếp đến mức “lòng người không thể tưởng tượng được”.

Nỗi đau thứ tư là lửa. Chúa Cha nói với Mẹ rằng linh hồn là phi vật chất và không thể bị tiêu hao, nhưng Ngài, trong công lý thiêng liêng của mình, đã “cho phép nó bị đốt cháy trong đau khổ, làm khổ nó và không tiêu hủy nó”. Sau đó, Ngài nhấn mạnh rằng lửa khiến linh hồn đau khổ vô cùng, dưới nhiều hình thức khác nhau và tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội lỗi.

Hỏa Ngục của những 'Kitô hữu xấu'

Trong “Truyền thuyết vàng” của Chân phước Santiago de la Vorágine kể rằng một ngày nọ, Tu viện trưởng Macarius, một chiến binh chống quỷ vĩ đại, đã tìm thấy một hộp sọ. Thánh nhân sau khi cầu nguyện với Chúa, đã hỏi hộp sọ là của ai và linh hồn của ông ở đâu.

Hộp sọ trả lời rằng nó thuộc về một người đàn ông ngoại đạo và linh hồn của anh ta đang ở dưới đáy Hỏa Ngục. Sau đó, vị trụ trì hỏi anh ta về người ở dưới đó. Chiếc đầu lâu cho ông biết rằng phía dưới là linh hồn của những “Kitô hữu xấu” bởi vì “trong suốt cuộc đời, họ đã coi thường máu của Chúa Kitô mà họ đã được cứu chuộc”.

Cầu nguyện, hy sinh có thể giúp tội nhân ăn năn, tránh Hỏa Ngục

Vào ngày 13 tháng 7 năm 1917, Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ Fátima là Jacinta, Francisco Marto và Lucia dos Santos. Hai vị trước hiện đã được phong thánh và vị sau đã được tuyên bố là bậc đáng kính.

Đức Mẹ kêu gọi các em “hy sinh cho các những người tội lỗi, và thường xuyên nói, đặc biệt là khi hy sinh: Lạy Chúa Giêsu, đây là vì lòng yêu mến Chúa, để các tội nhân hoán cải và để đền tạ vì những xúc phạm chống lại Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”..”

Tiếp theo, các em nhìn thấy hình ảnh về Hỏa Ngục như Lucia kể lại sau này: “Những tia sáng dường như xuyên qua trái đất và chúng tôi thấy đó như một biển lửa. Chìm trong ngọn lửa này là ma quỷ và các linh hồn trong hình dạng con người, giống như những cục than hồng cháy trong suốt, tất cả đều là đồng đen hoặc cháy xám, bồng bềnh trong đám cháy, lúc này được bốc lên không trung bởi những ngọn lửa phát ra từ bên trong họ cùng với những đám khói lớn đang rơi xuống quay trở lại mọi phía như những tia lửa trong đám cháy lớn, không có trọng lượng hay thăng bằng, giữa những tiếng la hét, rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, khiến chúng tôi kinh hoàng và run rẩy vì sợ hãi. Chắc hẳn cảnh tượng này đã khiến tôi phải hét lên, như mọi người nói rằng họ đã nghe thấy tôi la lên. Có thể phân biệt các con quỷ bởi chúng trông giống những con vật đáng sợ, đen và trong suốt như than cháy.

“Kinh hoàng và như muốn cầu xin sự giúp đỡ, chúng tôi ngước nhìn Đức Mẹ, Mẹ nói với chúng tôi một cách tử tế và buồn bã: 'Các con đã thấy Hỏa Ngục nơi linh hồn của những tội nhân khốn khổ đi đến. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ. Nếu những gì Mẹ nói với các con được thực hiện, nhiều linh hồn sẽ được cứu và sẽ có hòa bình.'“

Sau đó, Đức Mẹ nói với các em: “Khi các con đọc kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm hãy nói: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn. Amen”.

Sau này, khi Jacinta bị bệnh nặng, em đã chia sẻ nhiều điều sâu sắc, trong số đó: “Tội lỗi khiến hầu hết các linh hồn phải sa hỏa ngục là tội lỗi xác thịt”.


Source:Catholic News Agency

2. Một giám mục Trung Quốc chịu chức do Tòa Thánh bổ nhiệm

Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết ngày 25 tháng Giêng vừa qua, đã diễn ra lễ truyền chức giám mục cho cha Tađêô Vương Dược Thắng (Wang Yuesheng), mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm ngày 16 tháng Mười Hai năm 2023, trong khuôn khổ hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Đức Cha Vương được bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Trịnh Châu (Zhengzhou), tỉnh Hà Nam.

Đức Cha Vương Dược Thắng năm nay 58 tuổi, sinh ngày 27 tháng Hai năm 1966, tại Chu Mã Điếm (Zhumadian), Hà Nam, theo học triết và thần học tại Đại chủng viện Trung Nam (1897-1993), thụ phong linh mục ở Hán Khẩu ngày 17 tháng Mười năm 1993. Đã làm cha sở Trịnh Châu và từ tháng Mười Hai năm 2011, làm cha sở tại khu Huệ Tế (Huiji) ở Trịnh Châu.

Hãng tin Asia News cho biết thêm rằng Đức tân giám mục Vương Dược Thắng là Chủ tịch Hội Công Giáo yêu nước ở tỉnh Hà Nam, được đảng chỉ định từ lâu làm Giám quản Giáo phận Trịnh Châu, từ lâu không có giám mục, sau khi Đức Cha Faustino Tissot, thừa sai người Ý bị nhà nước Trung Quốc trục xuất năm 1953.

Lễ truyền chức giám mục cho Đức Cha Vương do Giám mục Thẩm Bân (Shen Bin) của Giáo phận Thượng Hải chủ phong. Vị giám mục này do nhà nước Trung Quốc đơn phương thuyên chuyển về Thượng Hải và Tòa Thánh đã phản đối việc này. Hai giám mục phụ phong là Đức Cha Trương Ngân Lâm (Zhang Yinlin), Giám mục Giáo phận An Dương (Anyang) và Đức Cha Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), Giám mục Giáo phận Chu Thôn (Zhoucun) và là vị đã tham dự Thượng Hội đồng Giám mục hồi tháng Mười năm ngoái, 2023.

Đức Cha Vương được thụ phong hai năm, sau cuộc truyền chức giám mục trước đây tại Vũ Hán, ngày 08 tháng Chín năm 2021.

3. Sáu nữ tu tại Haiti được trả tự do

Sáu nữ tu Dòng thánh Anna tại Haiti bị bắt cóc hôm 19 tháng Giêng vừa qua cùng với hai người khác, đã được trả tự do tại thủ đô Port-au-Prince.

Đức Tổng Giám Mục Max Leroys Mesidor của giáo phận sở tại và cũng là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Haiti đã xác nhận tin trên đây và nói rằng “Chúng tôi cám tạ Thiên Chúa và cám ơn sự hỗ trợ của anh chị em”.

Trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật, ngày 21 tháng Giêng vừa qua, Đức Thánh Cha cũng đã tha thiết kêu gọi trả tự do cho những người bị bắt cóc và ngài cầu nguyện cho sự hòa hợp xã hội tại Haiti cũng như kêu gọi chấm dứt nạn bạo lực gây nên bao nhiêu đau khổ tại đất nước Haiti.

Sáu nữ tu và hai người khác đi trên xe buýt đã bị nhóm võ trang chặn đường bắt cóc. Họ đòi Giáo hội phải trả tiền chuộc mạng ba triệu Mỹ kim. Từ lâu, Haiti đã bị tệ nạn các băng đảng bất lương hoành hành và chính quyền quá yếu không thể tái lập an ninh tại nước này. 1.000 binh sĩ của Liên Hiệp Quốc, đa số là người Kenya bên Phi châu, chuẩn bị được gửi sang thi hành sứ vụ bảo hòa tại Haiti.
 
Thánh Ca
TV 127
Lm. Thái Nguyên
01:25 30/01/2024

 
Ngày Xuân bên Chúa
Lm. Thái Nguyên
01:26 30/01/2024

 
Thắp nén hương lòng
Lm. Thái Nguyên
01:27 30/01/2024
 
TV 103
Lm. Thái Nguyên
01:29 30/01/2024

 
Ví như
Lm. Thái Nguyên
01:30 30/01/2024





 
Xuân hồng ngày mới
Lm. Thái Nguyên
01:31 30/01/2024

 
Công Cha Nghĩa Mẹ
Phạm Trung
01:34 30/01/2024
 
Dâng Chúa ngày xuân
Lm. Thái Nguyên
01:24 30/01/2024