Ngày 13-04-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá 14/4/2019 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
03:31 13/04/2019
Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)

Xướng: Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương".

Xướng: Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

Xướng: Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

Xướng: Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!"

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Luca.

Khi ấy, tất cả công nghị đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:

S. "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua".

C. Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng:

S. "Ta không thấy người này có tội gì".

C. Nhưng họ cố nài rằng:

S. "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây".

C. Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.

Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ:

S. "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".

C. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên:

S. "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi".

C. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:

S. "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!"

C. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:

S. "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi".

C. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.

Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu. Ðám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng:

J. "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"

C. Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng:

J. "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".

C. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng:

S. "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn".

C. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói:

S. "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi".

C. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái". Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:

S. "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".

C. Ðối lại, tên kia mắng nó rằng:

S. "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?"

C. Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:

S. "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

C. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

J. "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha".

C. Nói đoạn, Người trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:

S. "Ông này quả thật là người công chính".

C. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.

Ðứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến.
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:38 13/04/2019

138. Ân thưởng của vương miện thắng lợi thì không nhìn nơi chốn hoàn cảnh, nhưng nhìn ở hành vi nhân ái mà thôi.

(Thánh Athanasius)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


--------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:42 13/04/2019
86. SỢ CHÌM XUỐNG SÔNG

Có người nọ bình thường rất sợ nước, từ trước đến nay không bao giờ ngồi thuyền.

Một hôm cần phải ngồi thuyền mới có thể qua sông, anh ta sợ rơi xuống nước mà chết, bèn nhờ người ta lấy dây buộc chặt anh ta trên thuyền và dặn đi dặn lại đôi ba lần:

- “Phải qua đến bờ rồi mới mở dây ra nhé.”

Sau khi đến bờ, anh ta hỏi người bên cạnh:

- “Lúc trở về anh có còn ngồi thuyền để qua sông không ?”

Mọi người nói:

- “Phải ngồi thuyền chứ.”

Người ấy nói:

- “Nếu vậy thì tôi sẽ thêm tiền để thuê vài người khiêng luôn cả thuyền, để khi trở về thì đừng có buộc chặt nữa !”

(Tiếu phủ)

Suy tư 86:

Không qua cầu, không qua đò, không qua thuyền thì không thể qua sông khô ráo, đó là chuyện đương nhiên của nhân loại.

Không qua đau khổ thì không thể có vinh quang, không qua cái chết thập giá thì không thể phục sinh, đó là chân lý của Ki-tô giáo, bởi vì chân lý là chính Đức Chúa Giê-su và Ngài đã làm như thế: đã đi qua đau khổ, chết trên thập giá và sống lại vinh quang.

Ki-tô hữu là những người bước đi theo sau Đức Chúa Giêsu, là những người học nơi Ngài cách chịu đau khổ và hy sinh, cho nên cuộc sống của họ cũng toả sáng lên niềm tin yêu trong đau khổ, mĩm cười trong hy sinh và hân hoan trong niềm hy vọng phục sinh với Đức Chúa Giê-su.

Người không có đức tin thì coi đau khổ là một sự trừng phạt của ông trời, người có đức tin nửa vời thì coi đau khổ là một trừng phạt và sự trừng phạt là thử thách của Thiên Chúa, nhưng người có đức tin thật thì coi sự đau khổ là một ân sủng đặc biệt và là tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ, để họ ngày càng trở nên giống Đức Chúa Giê-su hơn...

Không ngồi thuyền thì không thể qua sông rộng lớn, không qua cầu thì không thể qua được bờ bên kia.

Cũng vậy, không ai có thể nên thánh mà không qua đau khổ và thử thách, người hân hoan giang tay đón nhận đau khổ và thử thách vì yêu mến Chúa là người đang bước vào cửa nên thánh vậy !

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Nét hồn nhiên của Chúa
Sơn Ca Linh
10:14 13/04/2019
Chút cảm nhận về Lễ Lá – khai mạc tuần thánh

Thích quá đi thôi,
Những cành lá xanh, gần gũi, dung dị tự thuở nào,
Vừa che mát, vừa biểu cảm tấm tình đơn sơ chân chất.

Chúa cũng thích mà,
Chỉ một “chú lừa con”, đâu cần lọng vàng, cờ quạt.
Những cành lá xanh, đủ rồi, cho một cuộc “Giá Lâm” !
“Hổng phải sao”, 33 năm trước, nơi hang lừa máng cỏ tối tăm,
Ngài đã đến, đã bỏ ngai trời giáng thế.

Rồi suốt 30 năm,
Cái đục, cái cưa, cái chàng, cái búa…,
Kiếp thợ mộc nghèo, nào “Thượng Đế có từ nan” !
3 năm rao giảng, hết lên bắc lại xuống nam,
Đôi chân đất, nhiều phen đói lòng, khô khát…!
Bên bờ giếng Samari : “Chúa mà xin nước !”
Trên thuyền Phêrô, “ngủ gà ngủ gật”, thấy mà thương !

Chim sẻ trên cây, cánh huệ bên đường,
Hèn chi, Ngài đã mượn làm “dụ ngôn phó thác” !
Vì đã hiểu, quyền lực, giàu sang…chẳng qua là cỏ rác,
Nên Chúa hồn nhiên yêu chuộng kiếp sống nghèo.

Nên đến cuối đường,
phụ nữ, trẻ em, bọn cùng đinh…vung cành là vang reo:
“Hoan hô Đấng Nhân Danh Chúa mà đến” !
Chúa hồn nhiên bởi mang cả tấm lòng yêu mến,
Sẵn sàng cho đi và tha thứ bao dung.
Chúa hồn nhiên, kề môi nhấp chén thập giá cay nồng,
Để trọn lễ dâng, lễ tình yêu cứu độ.

Với chú lừa con, với những cành thiên tuế,
Tuần Thánh lại về,
để lại một lần con được thấy “Chúa hồn nhiên” !

Sơn Ca Linh
Lễ Lá 2019
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng tĩnh tâm cuối cùng trong Mùa Chay trước giáo triều Rôma ngày 12/4/2019 của cha Cantalamessa
J.B. Đặng Minh An dịch
03:06 13/04/2019
Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 12 tháng Tư, 2019, tại nhà nguyện Redeemoris Mater, trước sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô, và đông đảo các vị trong giáo triều Rôma, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô Capuchin, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng đã trình bày bài giảng thứ Năm cũng là bài giảng cuối cùng trong chương trình tĩnh tâm Mùa Chay của giáo triều Rôma.

Chủ đề của bài thuyết giảng tuần này được trích từ một câu trong thư thứ nhất của Thánh Phaolô gởi dân thành Côrinhtô: “Thiên Chúa đã chọn những gì thế gian cho là điên dại để hạ nhục những kẻ khôn ngoan” (1 Cô 1:27)

Bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ:
Thiên Chúa đã chọn những gì thế gian cho là điên dại để hạ nhục những kẻ khôn ngoan
Cha Raniero Cantalamessa, dòng Phanxicô Capuchin, giảng thuyết viên Phủ Giáo Hoàng
Bản dịch sang Việt ngữ: J.B. Đặng Minh An

Thánh Gioan và Thánh Phaolô: Hai quan điểm đa dạng về Mầu nhiệm Chúa Kitô

Trong Tân Ước và trong lịch sử thần học, có những điều không thể hiểu được nếu chúng ta không tính đến một sự kiện cơ bản, đó là có hai cách tiếp cận mầu nhiệm Chúa Kitô khác biệt nhưng bổ sung cho nhau: cách tiếp cận của Thánh Phaolô và của Thánh Gioan.

Thánh Gioan nhìn mầu nhiệm Chúa Kitô từ quan điểm Nhập thể. Đối với thánh nhân, Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, là sự mạc khải tối cao của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu là Đấng mà không qua Người không ai có thể đến với Chúa Cha. Ơn cứu rỗi bao gồm nơi việc nhận ra rằng Chúa Giêsu “đã hóa thành nhục thể” (x. 2 Ga 7) và tin rằng Ngài “là Con Thiên Chúa” (1 Ga 5: 5). “Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.” (1 Ga 5:12). Trung tâm của tất cả mọi thứ, như chúng ta có thể thấy, là “con người” của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người.

Điểm đặc biệt trong quan điểm này của Thánh Gioan nổi bật lên khi chúng ta so sánh với quan điểm của Thánh Phaolô. Đối với Thánh Phaolô, trọng tâm không phải là con người của Chúa Kitô, được hiểu như một thực tại bản thể học, nhưng là công việc của Chúa Kitô, mầu nhiệm vượt qua, cái chết và sự phục sinh của Người. Ơn cứu rỗi không quá tập trung ở điểm tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể nhưng hệ tại nơi niềm tin vào Chúa Giêsu, “Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4:25). Sự kiện trung tâm không phải là biến cố Nhập thể nhưng là mầu nhiệm Vượt qua.

Sẽ là một sai lầm chết người khi xem điều này như một sự phân đôi trong chính nguồn gốc Kitô giáo. Bất cứ ai đọc Tân Ước mà không có thành kiến đều hiểu rằng đối với Thánh Gioan, biến cố Nhập thể được xem xét từ quan điểm của mầu nhiệm Vượt qua khi cuối cùng Chúa Giêsu sẽ tuôn đổ Thần khí của Ngài lên nhân loại (xem Ga 7:39), cũng như hiểu rằng đối với Thánh Phaolô, mầu nhiệm Vượt qua bao gồm trong và dựa trên mầu nhiệm Nhập thể. Đấng đã hạ mình vâng phục cho đến chết, thậm chí là chết trên thập tự giá, là Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa,” có địa vị ngang hàng với Thiên Chúa (xem Phil 2: 5ff). Công thức về Chúa Ba Ngôi trong đó Chúa Giêsu Kitô được đề cập cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần là một xác nhận rằng đối với Thánh Phaolô, công việc của Chúa Kitô có ý nghĩa từ ngôi vị của Ngài.

Những điểm nhấn khác nhau trong các trụ cột của mầu nhiệm này phản ánh con đường lịch sử mà đức tin nơi Chúa Kitô đã phát triển sau lễ Phục sinh. Thánh Gioan phản ánh giai đoạn nâng cao của đức tin nơi Chúa Kitô, hơn là lúc bắt đầu tiến trình biên soạn Tân Ước. Ngài đang ở cuối một quá trình trở về những nguồn mạch mầu nhiệm Chúa Kitô. Chúng ta có thể lưu ý điều này khi quan sát nơi bốn Tin Mừng bắt đầu. Thánh Máccô bắt đầu Tin Mừng của ngài với Bí tích Rửa tội của Chúa Giêsu tại sông Giócđan; Thánh Matthêu và Thánh Luca, là những người đến sau, lùi lại một bước và bắt đầu với những trình thuật kể về Chúa Giêsu sinh bởi Đức Maria đồng trinh; Thánh Gioan, người viết cuối cùng, đã tạo ra một bước nhảy vọt quyết định hơn nữa và đặt sự khởi đầu của sự kiện Chúa Kitô không còn theo thời gian nữa nhưng là vĩnh cửu: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1: 1).

Lý do cho sự thay đổi chú ý này là rõ ràng. Đức tin khi đó đã tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp, vốn quan tâm đến chiều kích bản thể hơn là chiều kích lịch sử. Điều quan trọng trong văn hóa Hy Lạp không phải là sự mở ra các sự kiện cho bằng nền tảng của các sự kiện ấy (arche). Ngoài bối cảnh văn hóa này, còn có sự xuất hiện những dấu chỉ đầu tiên của lạc giáo Docet [dókēsis (Hy Lạp)] đặt ra những nghi vấn chung quanh thực tại Nhập thể. Tín lý Kitô giáo về hai bản thể hiệp nhất nơi Chúa Kitô sau này gần như hoàn toàn dựa trên quan điểm của Thánh Gioan về Ngôi Lời nhập thể.

Điều quan trọng là phải tính đến điều này để hiểu sự khác biệt và bổ sung của thần học Đông phương và Tây phương. Hai quan điểm của Thánh Phaolô và Thánh Gioan khi hợp nhất với nhau (như chúng ta thấy trong kinh Tin Kính của Công Đồng Nicê - Constantinốp) bảo tồn các điểm nhấn khác nhau của chúng giống như các dòng sông chảy vào nhau nhưng bảo tồn được các màu sắc khác nhau của dòng nước trong một thời gian dài. Thần học và linh đạo Chính Thống Giáo chủ yếu dựa trên Thánh Gioan; Thần học và linh đạo Tây phương (đặc biệt là Tin lành) chủ yếu dựa vào Thánh Phaolô. Bên trong truyền thống Hy Lạp, trường phái Alexandria nghiêng về Thánh Gioan, còn trường phái Antiôkia nghiêng về Thánh Phaolô hơn. Trong trường phái thứ nhất, ơn cứu rỗi hệ tại nơi việc thần thánh hóa bản thân [divinization – apotheosis (Hy Lạp), nhờ ân sủng Chúa, người tín hữu được thánh hóa nên giống thần thánh hơn – chú thích của người dịch] và trong trường hợp thứ hai, ơn cứu rỗi hệ tại nơi sự bắt chước Chúa Kitô.

Thập giá, sự Khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa

Giờ đây tôi muốn minh họa tất cả những điều này có nghĩa là gì trong cuộc tìm kiếm thiên nhan của Thiên Chúa hằng sống. Vào cuối những bài suy niệm trong Mùa Vọng, tôi đã nói về Chúa Kitô của Thánh Gioan, ngay lúc Ngài hóa thành nhục thể, đã đưa sự sống đời đời vào thế giới. Vào cuối những bài suy niệm trong Mùa Chay này, tôi muốn nói về Chúa Kitô của Phaolô, Đấng trên thập giá, đã thay đổi vận mệnh của nhân loại. Chúng ta hãy lắng nghe ngay văn bản mà chúng ta sẽ suy tư trong đó viễn cảnh Thánh Phaolô xuất hiện rõ ràng nhất:

Thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. (1 Cô 1: 21-25)

Thánh Tông đồ đã nói về một sự đổi mới trong hành động của Thiên Chúa, về một sự thay đổi trong cách tiếp cận và phương pháp. Thế gian không hiểu làm thế nào để nhận ra Thiên Chúa trong sự huy hoàng và khôn ngoan nơi kỳ công sáng tạo của Ngài, vì vậy Ngài quyết định mạc khải chính mình theo một cách thế ngược lại, thông qua sự bất lực và sự điên rồ của thập tự giá. Chúng ta không thể đọc lời khẳng định này của Thánh Phaolô mà không nhớ câu nói này của Chúa Giêsu: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11:25).

Chúng ta diễn giải sự đảo ngược các giá trị như thế nào đây? Luther đã nói về một sự mặc khải của Thiên Chúa “sub contraria specie”, nghĩa là, thông qua điều ngược lại với những gì thường được mong đợi nơi Ngài [1]. Ngài đầy quyền thế nhưng Ngài mạc khải chính mình trong sự bất lực, Ngài khôn ngoan nhưng lại bộc lộ bản thân trong sự dại dột, Ngài là vinh quang nhưng mạc khải bản thân trong sự điên rồ, Ngài giàu có nhưng bộc lộ mình trong cảnh cơ bần.

Thần học biện chứng trong nửa đầu thế kỷ trước đã đưa viễn cảnh này đến một kết luận cực đoan. Theo Karl Barth, giữa mô thức thứ nhất và thứ hai của sự biểu lộ chính mình của Thiên Chúa không có một sự liên tục mà là một sự đột phá [2]. Đó không phải là vấn đề về một sự kế thừa chỉ là tạm thời, như giữa Cựu Ước và Tân Ước, nhưng là một vấn đề liên quan đến một sự đối lập về bản thể học. Nói cách khác, ân sủng không xây dựng trên tự nhiên nhưng ngược lại; nó chạm vào thế giới “theo cách mà tiếp tuyến chạm vào vòng tròn”, nghĩa là, nó cọ sát với thế giới nhưng không thấm vào nó như men thẩm thấu vào trong một cục bột. Theo chính Barth, đây là điểm khác biệt duy nhất khiến ông không thể tự gọi mình là người Công Giáo; tất cả những dị biệt khác dường như không mấy quan trọng khi so sánh. Ông đặt analogia fidei - nghĩa là sự đối lập của lời Chúa chống lại tất cả những gì thuộc về thế giới – đối kháng với analogia entis, nghĩa là sự hòa hợp giữa thế giới và ân sủng.

[Analogia (tiếng Hy Lạp) ban đầu là một thuật ngữ toán học có nghĩa là “tỷ lệ” và được các nhà triết học mượn để chỉ mối quan hệ giữa các khái niệm có những phần tương đồng nhưng cũng có những phần dị biệt. Khái niệm triết học analogia entis được dùng để chỉ một một cách tiếp cận với Thiên Chúa, theo đó thế giới do Chúa tạo ra mang đến cho chúng ta, qua những điểm tương đồng, một phương thế để hiểu được Thiên Chúa. Không có những tương đồng như thế, Thiên Chúa trở nên hoàn toàn không thể biết được, không thể tưởng tượng ra được. Trích thuật lời Thánh Thomas Aquinas “Nihil est in intellectu quod non sit prius in sensu” không có gì trong tâm trí chúng ta mà không đến trước hết từ các giác quan, các nhà triết học tin rằng analogia entis là phương tiện để tâm trí có thể vươn tới sự chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Nhưng Karl Barth quyết liệt bác bỏ analogia entis, cho rằng đó là “quỷ kế của tên Phản Kitô”. Ông chủ trương rằng chúng ta nhận biết Thiên Chúa qua Lời Chúa được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần trở thành đức tin của chúng ta (analogia fidei). Đối với Barth, analogia fidei có nghĩa là chúng ta thủ đắc một ngôn ngữ thần học, trong đó Thiên Chúa chứ không phải con người đã mang đến ý nghĩa cho các từ ngữ. Chú thích của người dịch]

Trong thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là tình yêu), Đức Bênêđíctô XVI mô tả hậu quả của tầm nhìn khác biệt này về phương diện tình yêu [3]. Barth viết: “Nơi mà tình yêu Kitô giáo đi vào, luôn luôn ngay lập tức bắt đầu những tranh cãi không ngớt giữa chính nó và mọi tình yêu khác.... Chỉ có thể có xung đột chứ không thể có thỏa hiệp giữa tình yêu Kitô giáo và điều khác với điều này.” Ngược lại Đức Bênêđíctô XVI viết:

Eros và agape - tình yêu đi lên và đi xuống - không bao giờ tách biệt nhau hoàn toàn… Đức tin Thánh Kinh không tạo nên một thế giới bên cạnh hay một thế giới nghịch lại với hiện tượng nguyên thủy của con người là tình yêu, nhưng đón nhận con người trọn vẹn, can thiệp vào sự tìm kiếm tình yêu của họ để thanh luyện và từ đó khai mở cho họ những chiều kích mới.

Sự đối lập triệt để giữa thiên nhiên và ân sủng, giữa sáng tạo và cứu chuộc, đã được làm dịu đi trong các tác phẩm sau này của Barth và bây giờ không còn những người ủng hộ nữa. Do đó, chúng ta có thể tiếp cận đoạn văn này từ vị Tông Đồ với sự an tâm hơn để hiểu những gì sự đổi mới của thập giá của Chúa Kitô thực sự bao hàm.

Trên thập tự giá, Thiên Chúa tỏ mình ra, vâng, “dưới hình thức trái ngược”, nhưng đó là trái với những gì con người luôn nghĩ về Thiên Chúa, chứ không phải là trái với những gì Thiên Chúa thực sự là. Thiên Chúa là tình yêu và trên thập giá chúng ta đã có biểu hiện tột cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Theo một nghĩa nào đó, chỉ ở đây, trên thập tự giá, Thiên Chúa mới tiết lộ “thân phận thực sự của mình”, thực sự như Ngài là. Thư Côrinhtô thứ nhất về ý nghĩa của thập tự giá Chúa Kitô cần phải được đọc dưới ánh sáng của một văn bản khác từ thánh Phaolô trong Thư gửi các tín hữu thành Rôma:

Khi chúng ta không có sức làm được gì, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì loại người vô đạo chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi (Rm 5: 6-8)

Nhà thần học Byzantine thời trung cổ Nicholas Cabasilas (1322-1392) cung cấp cho chúng ta chìa khóa tốt nhất để hiểu sự đổi mới trong thập giá của Chúa Kitô bao gồm những gì. Ông viết:

Có hai điều mạc khải về Ngài là Đấng yêu thương và khiến Ngài chiến thắng - thứ nhất là bất cứ khi nào có thể, Ngài làm điều thiện cho đối tượng mình yêu; thứ hai là nếu cần, Ngài sẵn sàng chịu đựng những điều khủng khiếp đối với Ngài và chấp nhận chịu đựng đau đớn. Trong số hai điều này, điều thứ hai xem ra là một bằng chứng lớn hơn về tình bạn so với điều thứ nhất. Tuy nhiên, điều đó là không thể đối với Thiên Chúa vì [với địa vị Thiên Chúa,] Ngài không chịu tổn hại.... Sự vĩ đại trong tình yêu của Ngài không nên bị che giấu, nhưng Ngài nên đưa ra bằng chứng về tình yêu vĩ đại tột cùng ấy, và để thể hiện tình yêu tột cùng này.. Ngài đã nghĩ ra cách tự trút bỏ mình và thực hiện điều đó, cũng như tạo ra phương thế này [tức là bản tính nhân loại của Chúa Kitô] để Ngài có thể chịu đựng những điều khủng khiếp và những đau đớn. Khi Ngài chứng minh bằng những điều Ngài phải chịu đựng rằng Ngài thực sự yêu thương vô cùng, Ngài đưa loài người.. về với chính mình.” [4]

Trong sáng tạo, Thiên Chúa lấp đầy chúng ta với những ân sủng, nhưng trong nhiệm cục cứu chuộc, Người đã chịu đau khổ vì chúng ta. Mối quan hệ giữa hai điều này là một tình yêu sinh ơn ích đã trở thành tình yêu chịu đau khổ.

Nhưng điều gì đã xảy ra trên thập giá của Chúa Kitô lại có tầm quan trọng đến mức biến thập giá thành thời khắc được xem là đỉnh cao sự mặc khải của Thiên Chúa hằng sống trong Kinh Thánh? Con người theo bản năng tìm kiếm Thiên Chúa theo dòng quyền lực. Danh hiệu đi kèm với danh Thiên Chúa hầu như luôn luôn là “toàn năng”. Nhưng ở đây, vào đầu sách Tin Mừng, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng sự bất lực tuyệt đối của Thiên Chúa trên thập giá. Tin Mừng chỉ ra rằng sự toàn năng thực sự của Thiên Chúa là sự bất lực hoàn toàn trên đồi Canvê. Thu hút sự chú ý đến bản thân mình đòi hỏi chút nỗ lực nào đó, nhưng cần rất nhiều sức mạnh để bước sang một bên, để loại bỏ chính mình. Thiên Chúa Kitô giáo là sức mạnh vô hạn của việc che giấu chính mình này!

Do đó, lời giải thích cuối cùng là: trong mối liên kết bất khả phân ly tồn tại giữa tình yêu và sự hạ mình. Ngài đã hạ mình xuống và vâng lời cho đến chết (Phil 2: 8). Ngài tự hạ mình, khiến Ngài phụ thuộc vào đối tượng tình yêu của mình. Tình yêu là khiêm nhường bởi vì, tự bản chất, nó tạo ra một sự phụ thuộc. Chúng ta thấy điều này, ở quy mô nhỏ hơn, trong những gì xảy ra khi hai người yêu nhau. Chàng trai, theo nghi lễ truyền thống, quỳ xuống trước một cô gái trẻ để xin đón nhận bàn tay của nàng, đang thực hiện hành động khiêm nhường triệt để nhất trong cuộc đời anh ta; anh ta đang tự biến mình thành kẻ ăn mày. Cứ như thể anh ấy đang nói “một mình tôi không sống nổi; tôi cần đến em”. Sự khác biệt cơ bản là sự phụ thuộc của các tạo vật vào Chúa được nảy sinh thuần tuý từ tình yêu mà Người dành cho họ, trong khi sự phụ thuộc vào nhau của các tạo vật phát sinh từ nhu cầu họ dành cho nhau.

Henri de Lubac viết rằng “Sự mạc khải tình yêu này đã lật ngược tất cả những gì thế giới đã từng nghĩ về bản tính Thiên Chúa” [5]. Tôi tin rằng Thần học và khoa chú giải Kinh thánh vẫn còn lâu mới đề cập hết được mọi hệ quả của việc này. Một trong những hệ quả của điều này là khi Chúa Giêsu chịu đựng nhục hình tàn bạo như vậy trên thập tự giá, Ngài không làm như thế chủ yếu để trả khoản nợ không thể trả được của con người. (Trong câu chuyện ngụ ngôn về hai người đầy tớ trong Mátthêu 18:24-27, Ngài đã giải thích trước rằng khoản nợ 10,000 yến vàng đã được tôn chủ hào phóng tha cho!) Không, Chúa Giêsu chết vì bị đóng đinh để tình yêu của Thiên Chúa có thể đến với nhân loại ở điểm xa nhất con người đã đến trong cuộc nổi loạn chống lại Ngài, cụ thể là, cái chết. Ngay cả cái chết bây giờ cũng có tình yêu của Thiên Chúa. Trong cuốn sách về Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đức Bênêđíctô XVI đã viết:

Thực tại của sự ác, không thể đơn giản là lờ đi, đó là sai lầm, không thể để nó ở đó. Nó phải được giải quyết; nó phải được khắc phục. Chỉ như thế mới là một lòng thương xót thực sự. Và thực tế là Chúa hiện đang đối đầu với chính cái ác bởi vì con người không có khả năng làm điều đó, điều này cho thấy lòng nhân lành vô điều kiện của Thiên Chúa [6].

Động lực truyền thống của việc vạch trần tội lỗi vẫn giữ nguyên tất cả giá trị của nó, như chúng ta có thể thấy, nhưng nó không phải là động lực cuối cùng. Động lực tối thượng là lòng nhân lành vô điều kiện của Thiên Chúa, là tình yêu của Ngài.

Chúng ta có thể xác định ba bước trên hành trình đức tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Giáo hội. Lúc đầu chỉ có hai sự kiện trần trụi: “Ngài đã chết; Ngài đã sống lại”. Phêrô khóc trước đám đông vào ngày Lễ Ngũ Tuần, “anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại” (Tđcv 2: 23-24). Trong giai đoạn thứ hai, câu hỏi là “Tại sao Người chết và tại sao Người đã sống lại?” và câu trả lời là lời tuyên cáo: “Đức Giêsu chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.” (Rm 4:25). Vẫn còn một câu hỏi nữa: “Tại sao Người chết vì tội lỗi của chúng ta? Điều gì đã khiến Người làm điều đó?” Câu trả lời - Thánh Phaolô và Thánh Gioan đều nhất trí về điểm này - đó là vì Người yêu thương chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Con Thiên Chúa là Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2:20) và Thánh Gioan viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13: 1).

Đáp trả của chúng ta

Đâu là phản ứng của chúng ta đối với mầu nhiệm mà chúng ta vừa suy ngẫm và phụng vụ sẽ tái hiện cho chúng ta trong Tuần Thánh? Phản ứng đầu tiên và cơ bản là đức tin. Không chỉ là bất kỳ loại đức tin nào, mà là đức tin chúng ta thủ đắc từ những gì Chúa Kitô đã đạt được cho chúng ta, đó là đức tin “chiếm lấy Nước Trời bằng sức mạnh” (Mt 11:12). Tông đồ Phaolô kết luận thư Côrintô mà chúng ta đã bắt đầu bằng những lời này:

Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô Giêsu trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự công chính, và ơn cứu chuộc của chúng ta “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.” (1 Cô 1: 30-31)

Những gì Chúa Kitô đã trở thành “cho chúng ta”, đó là sự công chính, thánh thiện, ơn cứu chuộc - thuộc về chúng ta; còn nhiều hơn là nếu chúng ta đã tự mình đạt được! Tôi không bao giờ mệt mỏi nhắc lặp lại những gì Thánh Bernard đã viết về điều này:

Tôi tự tin nhận lấy cho mình (thậm chí đoạt lấy!) những gì tôi thiếu từ lòng tràn đầy thương xót của Chúa.... Công đức của tôi, do đó, đến từ lòng thương xót của Chúa. Tôi chắc chắn sẽ không thiếu công đức chừng nào Chúa không thiếu lòng thương xót. Nếu lòng thương xót của Chúa dồi dào, thì tôi được phong phú về công đức.... Có lẽ tôi sẽ hát về sự công chính của tôi chăng? “Lạy Chúa, chỉ mình Ngài chính trực công minh”. [Xem Tv 71:16]. Đó cũng là sự công chính của con, vì kìa, Chúa đã trở thành cho con sự công chính đến từ Thiên Chúa [xin xem 1 Cô 1:30][7].

Chúng ta không nên để Phục Sinh trôi qua mà không thực hiện, hoặc đổi mới, một cú thay đổi táo bạo đời sống Kitô hữu được đề xuất cho chúng ta bởi Thánh Bernard. Thánh Phaolô thường khuyến khích các Kitô hữu “cởi bỏ con người cũ của mình” và “mặc lấy Chúa Kitô” [8]. Hình ảnh cởi ra và mặc lấy không minh định một tiến trình đơn thuần là khổ hạnh, bao gồm việc từ bỏ một số “quần áo” nhất định, và thay vào đó bằng những quần áo mới, nghĩa là, từ bỏ những tính hư nết xấu và đạt đến những phẩm hạnh. Nhưng, trên hết, đó là một tiến trình được thực hiện thông qua đức tin. Một người nào đó đến trước một cây thánh giá và, như một hành động của đức tin, trao lại cho Chúa Kitô tất cả tội lỗi của mình, tất cả những rắc rối trong quá khứ và hiện tại, giống như một người nào đó cởi bỏ quần áo cũ và ném những miếng giẻ bẩn thỉu đó vào lửa. Sau đó, mặc quần áo lại nhưng với sự công chính mà Chúa Kitô giành được cho chúng ta và nói, giống như người thu thuế trong đền thờ “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!” và người đó về nhà “được công chính hóa” (xem Lc 18: 13-14). Đó sẽ thực sự là “cử hành lễ Vượt qua”, khi thực hiện “hành trình băng qua” thánh thiện này!

Lẽ tự nhiên, không phải mọi thứ kết thúc ở đây. Từ chiếm hữu được chúng ta cần chuyển sang bắt chước. Như triết gia Søren Kierkegaard đã chỉ ra cho những người bạn Luther của mình, Chúa Kitô không chỉ là “ân sủng của Thiên Chúa để chấp nhận thông qua đức tin”, mà Ngài còn là “gương mẫu để chúng ta bắt chước trong cuộc sống” [9]. Tôi muốn nhấn mạnh một điểm cụ thể là chúng ta hãy tìm kiếm việc bắt chước cách hành động của Chúa, đó là điểm được được Cabasilas làm nổi bật khi phân biệt giữa một tình yêu nhằm thủ lợi và một tình yêu đau khổ.

Trong kỳ công sáng tạo của Ngài, Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu của Người dành cho chúng ta bằng cách lấp đầy chúng ta với những ân sủng: bên ngoài chúng ta, đó là thiên nhiên tráng lệ, và bên trong chúng ta là tất cả những ân sủng khác: trí thông minh, trí nhớ, tự do. Nhưng điều đó vẫn không đủ đối với Người. Nơi Chúa Kitô, Thiên Chúa muốn chịu đau khổ với chúng ta và cho chúng ta. Một cái gì đó tương tự đã xảy ra sau đó trong mối quan hệ giữa các tạo vật. Khi tình yêu nảy nở, người ta ngay lập tức cảm thấy cần phải thể hiện điều đó bằng cách tặng quà cho người mình yêu. Đó là những gì các cặp đính hôn với nhau thường làm. Tuy nhiên, chúng ta biết điều gì xảy ra tiếp theo: sau khi họ kết hôn, những hạn chế, khó khăn và những dị biệt tính tình bộc lộ ra. Tặng quà không còn đủ nữa; để tiến lên và giữ cho cuộc hôn nhân được tồn tại, cặp vợ chồng cần phải học cách “gánh chịu những gánh nặng của nhau” (Gal 6: 2), để chịu đựng với và cho người phối ngẫu. Đây là cách eros [tình ái], không nhạt dần, trở thành agape, tình yêu tự hiến chứ không chỉ là tình yêu vì cần thiết. Đức Bênêđíctô XVI, trong thông điệp đã được trích dẫn, diễn đạt như thế này:

Cho dù khởi đầu eros còn mang tính chất ham muốn và vươn lên - hấp dẫn vì hứa hẹn hạnh phúc – nhưng khi đến với người khác, con người sẽ không luôn hướng về mình, mà luôn ước muốn đem lại hạnh phúc cho người khác, luôn chăm sóc đến họ, tự hiến chính mình và muốn hiện diện cho họ. Đó là lúc agape xen vào trong họ, nếu không như thế, con người sẽ bị hụt hẫng và đánh mất chính bản chất của mình. Ngược lại, con người không còn khả năng sống đơn thuần trong tình yêu ban tặng và đi xuống. Con người không thể cho mãi, họ cũng phải đón nhận. Ai muốn ban tặng tình yêu thì chính họ cũng được lãnh nhận tình yêu. (số 7)

Việc bắt chước cách hành động của Chúa không chỉ áp dụng cho hôn nhân và các cặp vợ chồng; theo một nghĩa khác, nó áp dụng cho tất cả mọi người, đặc biệt là những tu sĩ tận hiến chúng ta. Tiến bộ, trong trường hợp của chúng ta, bao gồm việc tránh xa việc làm quá nhiều việc cho Chúa Kitô và Giáo hội để có thể chịu đau khổ vì Chúa Kitô và Giáo hội. Những gì xảy ra trong đời sống tu trì là những gì xảy ra trong hôn nhân, và chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này, vì đời sống tu trì cũng liên quan đến một cuộc hôn nhân: đó là cuộc hôn nhân với Chúa Kitô.

Có lần Mẹ Teresa ở Calcutta đang nói chuyện với một nhóm phụ nữ và khuyên họ mỉm cười với chồng. Một người trong số họ phản đối: “Mẹ à, Mẹ nói thế vì Mẹ chưa từng kết hôn và Mẹ chẳng biết gì về chồng con”. Mẹ Teresa đã trả lời bà ấy “Bạn đã nhầm. Tôi cũng đã kết hôn và tôi bảo đảm với bạn rằng đôi khi tôi cũng không dễ dàng mỉm cười với người phối ngẫu của mình.” Sau khi Mẹ Teresa qua đời, mọi người phát hiện ra vị thánh này muốn ám chỉ điều gì trong những lời này. Khi theo đuổi ơn gọi phục vụ những người nghèo nhất trong số những người nghèo, Mẹ đã thực hiện công việc của mình với sự nhiệt tình dành cho Người phối ngẫu thiêng liêng của Mẹ, thiết lập các công trình gây kinh ngạc cho cả thế giới.

Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, niềm vui và sự nhiệt tình nhạt dần, và Mẹ chìm vào một đêm tối theo đuổi Mẹ đến hết cuộc đời. Mẹ đâm ra nghi ngờ liệu mình còn có đức tin hay không, đến nỗi khi nhật ký riêng của Mẹ được xuất bản sau khi chết, một người nào đó hoàn toàn không biết gì về những vấn đề tâm linh, thậm chí đã nói về “sự vô thần của Mẹ Teresa”. Sự thánh thiện ngoại thường của Mẹ Teresa nằm trong thực tế rằng Mẹ đã sống theo cách này trong sự im lặng tuyệt đối với mọi người, che giấu sự hoang vắng bên trong của mình bằng một nụ cười không thay đổi. Ở Mẹ chúng ta thấy ý nghĩa của việc đi từ làm những điều cho Chúa đến việc đau khổ cho Chúa và cho Giáo hội.

Đó là một mục tiêu khá khó khăn, nhưng may mắn thay, Chúa Giêsu không những đã chỉ ra cho chúng ta ví dụ về loại tình yêu mới này trên thập giá; mà Ngài còn ban ân sủng cho chúng ta để biến nó thành của riêng chúng ta, để chiếm hữu nó thông qua đức tin và các bí tích. Do đó, trong Tuần Thánh, tiếng kêu của Giáo hội phát ra từ con tim của chúng ta: “Adoramus te, Christe, et benedicimus tibi, quia per sanctam crucem tuam redemisti mundum.” Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô, vì Chúa đã dùng thánh giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.

Kính chúc Đức Thánh Cha, các vị lãnh đạo đáng kính và anh chị em một lễ Phục sinh vui vẻ và thánh thiện!

1. Xem Martin Luther, On the Bondage of the Will [De servo arbitrario], trans. J. I. Packer and O. R. Johnston (Grand Rapids: Baker Academic, 2012), trang 101ff; xem WA, 18, trang 633, và WA 56, các trang 392, 446-447.
2. Karl Barth, Church Dogmatics, Vol. 4, Part 2: The Doctrine of Reconciliation, trans. Thomas Forsythe Torrance (New York: T & T Clark, 2004), p. 736. The incompatibility of human love and divine love is the theme of Anders Nygren, Agape and Eros, trans. Philip S. Watson (Philadelphia: Westminster Press, 1953), original Swedish, Eros och Agape, 1930.
3. Benedict XVI, Deus caritas est, nos. 7-8.
4. Nicholas Cabasilas, The Life in Christ, VI, 3, trans. Carmino J. DeCatanzaro (Crestwood, NY: St. Vladimir’s Seminary Press, 1974), trang 163.
5. Henri de Lubac, History and Spirit: The Understanding of Scripture by Origen, trans. Anne Englund Nash (San Francisco: Ignatius Press, 2007), trang 277.
6. Joseph Ratzinger [Benedict XVI], Jesus of Nazareth, Part II (San Francisco: Ignatius Press, 2011), trang 133.
7. St. Bernard of Clairvaux, Bài giảng về Diễm Tình Ca, 61, 4-5 (PL 183, 1072).
8. xem Col 3:9; Rom 13:14; Gal 3:27; Eph 4:24.
9. Søren Kierkegaard, Diary X1, A, 154 (1849).


Source:Cantalamessa
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đại Hội Giới Trẻ Giáo Phận Đà Nẵng năm 2019
Tôma Trương Văn Ân
21:00 13/04/2019
Nhân Ngày Lễ Lá, Ngày Giới trẻ thế giới, thứ bảy 13 / 4 / 2019, tại Giáo xứ An Sơn, Giáo hạt Tam Kỳ, thuộc địa bàn hành chính xã Bình An, Huyện Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam. Ban Mục vụ giới trẻ Giáo Phận Đà Nẵng đã tổ chức ngày Đại Hội Giới trẻ. Đại hội đã quy tụhơn500các bạn trẻ và sinh viên trong toàn Giáo phận đến tham dự. Với chủ đề của Đại Hội: “ Ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới” (2 Cr 5:17) trích Sứ điệp Mùa chay 2019, của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô.

Xem Hình

Mở đầu Ngày Đại hội là cuộc rước Kiệu Thánh Giá trọng thể.Thánh giá là biểu tượng của niềm tin Ki-tô Giáo,là nguồn sức sống và nguồn hy vọng của người tín hữu. Cha Phanxico Xavie Nguyễn Ngọc Hiến, Đặc trách Mục vụ Giới trẻ Giáo phận đã có lời chào Cha Antôn Nguyễn Thanh Vũ, Quản xứ An Sơn; Cha Phê-rô Phan Tấn Khánh, Phó Giám Đốc Đại Chủng Viện- Huế. Quý Cha đặc trách giới trẻ các Giáo hạt, Quý Cha đồng hành. Cha Phanxico Xavie đã giới thiệu và nêu ý nghĩa của ngày Đại Hội: “ Ngày các bạn trẻ hội tụ gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau để học hỏi Sứ Điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 2019 tại Panama“ và Cha đã tuyên bố khai mạc Đại Hội lúc 14 giờ.

Sau tiết mục múa đồng diễn: Tự hào Là Người Công Giáo, với giai điệu sôi động và ca từ mời gọi Người tín hữu đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa luôn đồng hành trong mọi biến cố của cuộc đời, yêu thương và phục vụ anh chị em. Các bạn trẻ đã được học hỏi Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhân ngày Giới trẻ tổ chức tại Panama, do Cha Phê-rô Phan Tấn Khánh, Phó Giám đốc Đại Chủng Viện Huế dẫn giải và giảng thuyết.

Sau giờ học Sứ điệp, các Ban trẻ đã suy nghắm 14 Chặng Đường Thánh Giá có các bạn hóa trang hoạt diễn lại hình ảnh và sự việc sống động của các nhân vật, gây ấn tượng mạnh, giúp mỗi người tham dự suy ngắm hiệp thông và cảm nhận tình yêu Thiên Chúa bao la xót thương mỗi người, để mỗi người biết hối lỗi quay về với Thiên Chúa là Cha đang luôn chờ đón người con yêu thương trở về, hoạt cảnh thật sống động. 14 Chặng Đường Thánh Giá của Giáo xứ An Sơn đi quanh một ngọn đồi thấp ngay sau nhà thờ của Giáo xứ, vừa kịp hoàn thành để phục vụ cho Đại Hội.

Cao điểm của Ngày Đại Hội là Thánh lễ Lá, Bổn mạng của Giới trẻ, khai mạc Tuần Thánh, tưởng niệm cuộc Vượt qua của Đức Giê-su Ki-tô, do Đức Cha Giuse, Giám mục Giáo phận Chủ sự. Trong bài giảng và huấn từ, Đức Cha mời các ban trẻ đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha: “ Ngày Lễ Lá, mỗi Giáo phận tổ chức Ngày Giới Trẻ Giáo Phận” và Đức Cha mời các bạn trẻ: “ cần phân định và định hướng tâm hồn, xây dựng văn minh tình thương, văn minh của sự sống” …….Cần có tâm tư hiệp nhất và yêu thương, Can đảm quay trở về với Chúa khi lỡ lầm.

Một chương trình ca múa và hoạt ca diễn nguyện gồm 10 tiết mục được khai màn lúc 19 giờ, với Chủ đề của ngày Đại Hội thu hút tuổi sôi động, năng động của các bạn trẻ. Một chương trình đa dạng về nghệ thuật, mang thông điệp yêu thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người và mỗi người biết chia sẻ yêu thương cho anh em. Mỗi người biết nhận lỗi và hối lỗi trở về làm hòa với Thiên Chúa và với anh em.

Xin tình yêu và lòng xót thương của Thiên Chúa tác động mỗi người, để mỗi người biết đáp trả tình yêu Chúa bằng sự vâng nghe lời Chúa, và yêu thương anh chị em xunbg quanh. Xin cho các bạn trẻ gieo niềm ước mơ tốt đẹp, những lý tưởng cao đẹp, lòng quảng đại bao dung, những mục đích lớn lao. Xin cho các bạn trẻ biết xây dựng hạnh phúc và tương lai trên nền tảng là sự yêu mến lề luật Thiên Chúa và yêu mến mọi người.

Tôma Trương Văn Ân

AN SƠN, MẢNH ĐẤT THẮM ĐẨM MÁU CÁC ANH HÙNG TUẨN ĐẠO

Giáo xứ An Sơn được ơn Đức tin do các Linh mục Hội Thừa Sai Pari truyền giảng năm 1625, là một trong những xứ đạo đầu tiên tại Việt Nam. Nhà nguyện đầu tiên bằng tranh, tre ở một khu đồi gọi là núi Cháy cách nhà thờ mới bây giờ khoảng 600 m về phía Tây( bên kia đường cao tốc hiện nay). Sau ba linh mục người Pháp là một linh mục người Việt đến làm mục vụ, gọi là cố Du.Về sau, cố Sơn thay cố Du và dời nhà nguyện đến vị trí sau nhà thờ mới bây giờ. Sau thời kỳ bách hại đạo, lĩnh vực Tôn giáo có phần tự do hơn, Ngài lại dời nhà nguyện một lần nữa về tọa lạc trước sân nhà thờ giáo xứ hiện nay. Nhà thờ được làm bằng gỗ, lợp ngói khang trang. Khi nhà thờ hoàn thành, cố Sơn trưng bày một tấm bia lưu niệm bằng gỗ, trên đó có khắc chữ Nho: “ Nhất thiên bát bách thập ngũ niên ” dịch là (1815).

Giáo xứ An Sơn qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, vào ngày 10/10/1885 với trận Hà Đông ( phủ Tam Kỳ ) quân Văn Thân đã sát hại trên 60 người giáo dân bằng cách thiêu sống hoặc ném xuống giếng. Sau thời gian này, khi yên ổn, giáo dân trở về cải táng, các hài cốt lúc đó chỉ còn lại tro và xương.Hiện nay trong địa bàn giáo xứ có 5 ngôi mộ tử đạo. Một ngôi mộ gồm 36 hài cốt bị thiêu cháy ( số này bị trói vào một nhà hương hội rồi phóng hỏa ). Các hài cốt này được táng nhiều trong khuôn viên trước nhà thờ nên gọi là Gò Thánh.Năm 1978, cha G.B Nguyễn Bá Vi chuyển về cải táng sau nhà thờ. Còn lại 3 mộ khác chôn các hài cốt được hốt lên ở các giếng như: Giếng Cát, Giếng ông Lành, rồi đem chôn ở các gò đất: Gò Cam, Gò Cây Trâm, Núi Họ, thường gọi là “mả liếp”. Ngoài ra còn một số ngôi mộ ở giáo họ An Trường, ngôi mộ này cũng chôn nhiều người như vậy. Hiện nay còn lại 1 giếng còn nguyên vẹn ngay giữa cánh đồng trước nhà thờ An Sơn.

Vào ngày 16/7/1999, giáo dân đã di dời một số hài cốt ở các ngôi mộ kể trên về an táng cạnh hang đá Đức Mẹ. Đặc biệt khi hài cốt ngôi mộ ở núi họ, giáo dân phát hiện thêm đươc 15 hài cốt được chôn theo thứ tự trong một “mả liếp” dài 5 m. Những hài cốt được an táng cạnh hang đá Đức Mẹ, hiện nay được cha Dôminico Trần Công Danh xây dựng đài và đặt bia tưởng niệm.

Nhà thờ và Giáo xứ An Sơn xứng đáng là một trong những địa điểm hành hương về nguồn của người tín hữu Công Giáo Việt Nam.

Tôma Trương Văn Ân

Tài liệu tham khảo: Lịch sử Giáo xứ An Sơn, Giáo phận Đà Nẵng.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Xem Lại Các Hành Động Đang Khi Hát Kinh Vinh Danh Trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh
Lm Giuse Phạm Đình Ái, SSS
09:46 13/04/2019
LTS: Vietcatholic nhận được một số bài nghiên cứu về Phụng Vụ của LM. Giuse Phạm Đình Ái, SSS. Ngài là thành viên của Ủy Ban Phụng Tự trực thuộc HĐGM Việt Nam. Vietcatholic sẽ lần lượt đăng những bài nghiên cứu này trong mục Tài Liệu - Sưu Khảo. Kính mong qúy độc giả theo dõi.

XEM LẠI CÁC HÀNH ĐỘNG ĐANG KHI HÁT KINH VINH DANH TRONG THÁNH LỄ VỌNG PHỤC SINH

Nghi thức “Canh thức Vượt qua” trong Sách lễ Rôma (bản tiếng Việt 1992) nêu rõ:

Sau bài đọc cuối cùng trích Cựu Ước cùng với đáp ca và lời nguyện thì đốt nến trên bàn thờ và linh mục xướng kinh “Vinh danh”. Mọi người cùng đọc hay hát tiếp. Trong lúc đó kéo chuông hoặc đánh chiêng trống, tuỳ theo thói quen địa phương (số 31).

Văn kiện hướng dẫn của Bộ Phụng tự Thánh có tên là “Thư Luân Lưu Về Việc Chuẩn Bị Và Cử Hành Đại Lễ Phục Sinh” (Paschalis Sollemnitatis), tại số 87, chỉ nói đơn giản như sau:

Sau bài đọc cuối cùng trích từ Cựu Ước, cùng với đáp ca và lời nguyện thì linh mục xướng kinh Vinh danh; trong lúc đó, kéo chuông hay đánh chiêng trống, v.v. tuỳ vào phong tục địa phương.

Từ hai hướng dẫn cụ thể trên đây, chúng ta nhận thấy chỉ có hai hành động cần được thực hiện từ lúc cộng đoàn bắt đầu hát kinh Vinh danh mà thôi:

• Thứ nhất, đó là bắt buộc phải đốt nến bàn thờ,vì ánh sáng của những ngọn nến bàn thờ vào thời điểm này tượng trưng cho nhiệm cục cứu độ [mang tính bí tích] đến với nhân loại mà trọng tâm của nhiệm cục này là cử hành Thánh Thể;

• Thứ hai, đó là tuỳ chọn việc kéo chuông [hoặc đánh chiêng trống], nhằm diễn tả niềm vui của biến cố Chúa phục sinh, và vì đây là thực hành được giữ lại cho đến nay theo sau tập tục kéo dài suốt 400 năm qua nằm trong quy định của Sách lễ Rôma thời kỳ tiền Công đồng [Vatican II].

Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao nhiều nhà thờ lại có thêm những hành động khác nữa như: trải khăn bàn thờ; đem hoa ra chưng; tháo bỏ các tấm che ảnh tượng thánh. Bài viết này sẽ chỉ ra cho chúng ta thấy có nên giữ lại những thực hành này hay không?

1] TRẢI KHĂN BÀN THỜ

Theo nghi thức phụng vụ hiện nay, chẳng có chỉ dẫn nào dạy để bàn thờ trống trong thánh lễ Vọng Phục sinh ngay từ đầu buổi cử hành cho đến khi hát kinh Vinh danh thì mới mang khăn bàn thờ ra trải.

Thông thường, bàn thờ phải được phủ bằng khăn bàn thờ khi cử hành thánh lễ. Chỉ có hai trường hợp, theo thực tế và thực hành, không trải khăn bàn thờ cho tới thời điểm được quy định là phải trải khăn bàn thờ, đó là: [i] Bàn thờ chuẩn bị được làm phép hay cung hiến; [ii] Cử hành phụng vụ thứ Sáu Tuần Thánh.

Đối với bàn thờ chưa được cung hiến, sau các phần nghi thức: Phụng vụ Lời Chúa – Kinh cầu các thánh – Đặt xương thánh vào bàn thờ - Lời nguyện cung hiến – Xức dầu bàn thờ - Xông hương bàn thờ - thì mấy tá viên lấy khăn lên lau bàn thờ (vì mới được xức dầu), và nếu có, trải lên một tấm khăn không thấm nước, rồi trải khăn bàn thờ, và tùy nghi có thể đưa hoa lên trưng bày. Cũng để chân nến có nến lên như khi cử hành Thánh Lễ đòi buộc, và nếu cần phải đặt cả thánh giá nữa.

Đối với bàn thờ chưa được làm phép, thì trong nghi thức làm phép nhà thờ, sau Lời nguyện Tín hữu và sau khi vị chủ sự (ĐGM) huấn dụ tín hữu, bàn thờ sẽ được làm phép rất đơn giản với lời nguyện ngắn (Benedictus es, Deus), tiếp theo là việc rảy nước thánh và xông hương bàn thờ. Đến thời điểm này, bàn thờ mới được phủ khăn bàn thờ và tuỳ nghi trang hoàng hoa nến như phải có để bước vào phần Phụng vụ Thánh Thể, và nếu cần thì đặt thánh giá cho xứng hợp.

Trong cử hành phụng vụ thứ Sáu Tuần Thánh: việc lột khăn bàn thờ là một dấu hiệu riêng biệt của cử hành thứ Năm Tuần Thánh cho nên sau các nghi lễ của thánh lễ Tiệc Ly, chúng ta lột hết khăn trên bàn thờ ám chỉ Chúa Giêsu bị lột áo trước khi chịu đóng đinh (theo cách hiểu ngày xưa). Hành động này như muốn báo trước cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cũng như diễn tả Chúa Kitô bị chính các môn đệ của mình bỏ rơi. Thánh giá cũng được lấy đi khỏi nhà thờ hay che bằng một tấm vải màu đỏ hoặc màu tím, nếu chưa được phủ từ chiều thứ Bảy ngay trước Chúa Nhật V mùa Chay. Cũng che các tượng ảnh thánh khác nếu chưa được thực hiện. Đối với những ảnh tượng thánh có thể di chuyển hay chân nến, chúng ta có thể dời chúng đi chỗ khác (mang vào trong phòng thánh). Tất cả những việc làm này làm cho không gian và bầu khí trong cung thánh trở nên khác biệt, trống trải và thâm trầm hơn, tiếp nối cách tương ứng với nghi thức phụng vụ của ngày hôm sau (tức thứ Sáu Thánh) với bàn thờ trống (không thánh giá, không nến, không khăn bàn).

Bản văn hướng dẫn trong Sách lễ Rôma đề cập đến việc đốt nến trên bàn thờ vào thời điểm xướng kinh Vinh danh (số 31) không có nghĩa là bấy giờ mới đem nến từ nơi khác đến và đốt lên nhưng hàm ý rằng nến (chưa đốt) và chân nến đã được đặt sẵn ở trên bàn thờ [hay gần bàn thờ] rồi và chỉ cần tiến hành châm lửa từ cây nến phục sinh mà đốt cho chúng thôi. Những chân nến và cây nến đặt trên bàn thờ như thế hẳn là chúng đã ở trên khăn bàn thờ[đã được trải ra trước khi cử hành Canh thức Vượt qua rồi] đúng như hướng dẫn về “Chúa Nhật Phục Sinh - Canh Thức Vượt Qua”trong sách Nghi Thức Tuần Thánh. Ở phần “Những đồ cần chuẩn bị trước”, sách này nói rằng: Trên bàn thờ chính – thánh giá và chân nến + khăn trải bàn thờ.

Như vậy, trong thánh lễ Vọng Phục sinh, hãy trải khăn bàn thờ trước khi cử hành phụng vụ cùng với những cây nến chưa đốt trên bàn thờ [hay gần bàn thờ] chứ không thể đợi đến khi xướng kinh Vinh danh mới mang khăn bàn thờ ra trải và mới mang nến ra đốt.

2] ĐEM HOA RA CHƯNG

Căn cứ vào hai văn kiện nêu trên, tức Nghi thức “Canh thức Vượt qua” của Sách lễ Rôma (số 31) và “Thư Luân Lưu Về Việc Chuẩn Bị Và Cử Hành Đại Lễ Phục Sinh” (số 87), chúng ta hiểu ngay rằng không nhất thiết đem chưng hoa vào thời điểm cộng đoàn hát kinh Vinh danh ngoài việc đốt nến và có thể cho rung chuông (chuông [nhỏ] ở cung thánh và chuông [lớn] trên tháp chuông) nếu có tục lệ này.

Tuy nhiên, khi nói về việc chưng hoa cho bàn thờ, sách Lễ nghi Giám mục đã xác định rằng hoa không được sử dụng trang hoàng bàn thờ từ thứ Tư lễ Tro cho đến kinh Vinh danh của lễ Vọng Phục sinh, cũng không sử dụng trong cử hành cho tín hữu đã qua đời, trừ ra trong ngày Chúa Nhật thứ IV mùa Chay, lễ trọng và lễ kính (số 48).

Như vậy, chúng ta có hai chọn lựa: [i]Một là chưng hoa trước khi cử hành Vọng Phục sinh, nhất là những thánh đường cho chưng hoa vừa nhiều vừa phức tạp tại không ít vị trí trong cung thánh lẫn ngoài cung thánh chứ không chỉ tập trung tại bàn thờ với ý thức rằng trong dịp long trọng của cao điểm Tam nhật Vượt qua này, toàn bộ nhà thờ nên ngập tràn hương hoa và trang hoàng phải thật rực rỡ cho xứng với ngày lễ cũng như làm cho khuôn mặt của ngày lễ có sự khác biệt đáng kể so với những ngày khác; [ii] Hai là chọn thời điểm mang hoa ra bàn thờ đang khi hát kinh Vinh danh trong thánh lễ Vọng Phục sinh. Tuy nhiên, chọn lựa thứ hai này chỉ nên áp dụng cho những thánh đường nào có số lượng bình hoa không nhiều; chúng cũng không nặng nề và cồng kềnh phức tạp đến nỗi phải cần đến nhiều người cũng như phải hì hục khiêng ra. Lý do là vì chúng ta cần bảo đảm tính thẩm mỹ và sốt sắng nghiêm trang của cử hành phụng vụ bằng cách hạn chế đến mức tối đa sự đi lại trên cung thánh. Vì muốn tránh đi những di chuyển không cần thiết trên cung thánh như thế, nên không những tại Vatian, mà hầu hết các quốc gia ngày nay, dù chưng ít hoa hay nhiều hoa, đều đã chọn cách thực hành thứ [i], tứcchưng hoa trước khi cử hành Canh thức Vượt qua.

3] BỎ CÁC TẤM CHE ẢNH TƯỢNG THÁNH

Ở đây, chúng ta cần phân biệt hai đối tượng: thánh giá và ảnh tượng thánh. Theo tác giả Elliott, tập tục che thánh giá và ảnh tượng thánh liên quan nhiều đến phương diện tâm lý học tôn giáo, bởi vì thực hành này giúp chúng ta dễ dàng tập trung vào các yếu tố cao trọng của công trình cứu độ của Chúa Kitô.

• Đối với thánh giá, trong nghi thức hiện nay, chúng ta không thể tiến hành việc gỡ bỏ tấm vải che thánh giá trong lễ Vọng Phục sinh (đang khi hát kinh Vinh danh) vì đúng ra chúng phải được gỡ bỏ rồi. Thật vậy, nếu chúng ta có cho che phủ thánh giá trước đó, chẳng hạn từ Chúa Nhật thứ V mùa Chay (trước kinh Chiều I) hay từ sau thánh lễ Tiệc Ly(không cần phủ đàng thánh giá hay ảnh thánh trên cửa kính màu), thì bắt buộc chúng ta phải bỏ khăn phủ thánh giá, không còn che thánh giá nữa sau nghi thức tưởng niệm Cuộc Thương Khó Chúa ngày thứ Sáu Tuần Thánh nhằm chuẩn bị cho cử hành lễ Vọng Phục sinh và làm sâu sắc thêm ý nghĩa cho ngày lễ này. Sau một thời gian thánh giá bị che phủ, các tín hữu như cảm thấy “đói và khát thánh giá”. Tới ngày thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta sẽ lại thấy thánh giá trong một tâm thế khác hẳn khi linh mục chủ sự lần lượt mở khăn che thánh giá, nâng cao thánh giá lên và kêu gọi mọi người kính thờ thánh giá. Với nghi thức này, từ sau cử hành phụng vụ thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta phải gỡ bỏ khăn phủ thánh giá đi. Điều này cũng phù hợp với chỉ dẫn của Bộ Phụng Tự cho ngày hôm sau, tức ngày thứ Bảy Tuần Thánh, khi khuyên: “Nên trưng bày trong nhà thờ hình ảnh Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá, hoặc táng xác trong mồ, hoặc xuống ngục tổ tông minh hoạ mầu nhiệm ngày thứ Bảy Tuần Thánh, cũng như hình ảnh Đức Mẹ Sầu Bi, để giáo dân suy niệm và cầu nguyện.” Thật phi lý và chậm trễ khi đã bước qua cử hành thánh lễ Vọng Phục sinh rồi, đang khi hát kinh Vinh danh cũng như cho rung chuông để reo vui kính mừng biến cố Chúa sống lại từ cõi chết, chúng ta mới đi gỡ bỏ tấm vải che, đôi khi một cách rất “kịch tính”, để lộ ra tượng/ ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đanh trên thánh giá vốn thuộc về cử hành của ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Giả như lúc đó hiển hiện ra ảnh / tượng Chúa phục sinh thì có lẽ hợp lý và hợp cảnh hơn. Tuy nhiên, như được trình bày ngay dưới đây, ngay cả với ảnh / tượng Chúa phục sinh, chúng ta cũng phải cởi bỏ vải che phủ ra trước khi bắt đầu cử hành phụng vụ Canh thức Vượt qua.

• Đối với các ảnh tượng thánh khác, bao gồm cả ảnh/ tượng Chúa phục sinh, không như thánh giá, sau nghi thức thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta vẫn có thể che phủ. Tuy nhiên, chỉ nên che phủ cho tới trước lúc bắt đầu cử hành Vọng Phục sinh. Không nên chậm trễ gỡ bỏ các tấm vải / màn che phủ như thế vào thời điểm hát kinh Vinh danh trong thánh lễ Vọng Phục sinh vì những lý do sau: [[i] Thứ nhất: theo nghi lễ hiện nay, những hành động trên cung thánh đang khi cử hành thánh lễ cần đơn giản, nhẹ nhàng, không quá cầu kỳ, phức tạp, tránh di chuyển nhiều trên cung thánh và làm xáo trộn việc cử hành; [[ii] Thứ hai: đây là thực hành từ thời tiền Công đồng Vatican II và thuộc về hình thức ngoại thường của thánh lễ, tức thánh lễ Misa được cử hành theo nghi thức Sách Lễ Rôma ban hành năm 1962 hay Sách Lễ của thánh Gioan XXIII. Theo đó, trong hình thức ngoại thường, thời điểm hát kinh Vinh danh trong thánh lễ Vọng Phục sinh được nhấn mạnh một cách đặc biệt hơn là trong hình thức thông thường đến độ cần phải có hành động “khác thường”, tức là những người chịu trách nhiệm phòng thánh tiến hành gỡ bỏ những gì che phủ các ảnh tượng thánh trong nhà thờ. Đang khi đó, tại hầu hết các nhà thờ ở Việt Nam, chúng ta cử hành Canh thức Vượt qua theo hình thức thông thường.

Thay lời kết

Những hành động phải làm đang khi hát kinh Vinh danh trong thánh lễ Vọng Phục sinh được giảm thiểu và đơn giản hơn vì những lý do sau:

• Thứ nhất, do ý hướng muốn đơn giản hoá cử hành phụng vụ đêm Vọng Phục sinh so với những nghi lễ phụng vụ trước kia, kể cả nghi lễ phụng vụ canh tân của Đức Giáo Hoàng Piô XII liên quan đến Lễ nghi Cử hành Tam Nhật Thánh (năm 1951) và Lễ nghi Cử hành Tuần Thánh (năm 1955);

• Thứ hai, muốn tránh đi những di chuyển không cần thiết trên cung thánh khiến cử hành phụng vụ bớt trang nghiêm sốt sắng;

• Thứ ba, trong thánh lễ Vọng Phục sinh, thời điểm xướng kinh Vinh danh không phải là lúc kết thúc mùa Chay hay chấm dứt Tam nhật Vượt qua, cũng không phải là thời khắc bắt đầu thánh lễ Vọng Phục sinh như nhiều người đến nay vẫn lầm tưởng để rồi dồn nhiều hành động vào thời gian này. Theo các nhà phụng vụ, đây là một quan niệm đã lỗi thời và không còn đứng vững, bởi vì trong ấn bản Sách lễ Rôma lần thứ III (năm 2002), thay vì khởi sự cử hành Canh thức Vượt qua bằng lời chào của vị chủ tế thì nay Hội Thánh yêu cầu phải bắt đầu bằng dấu thánh giá như mọi thánh lễ khác để chỉ ra rằng toàn bộ cử hành Canh thức Vượt qua phải được nhìn như một thể thống nhất và là một cử hành Thánh Thể từ những lời đầu tiên trong nghi thức phụng vụ. Theo đó, thời điểm xướng kinh Vinh danh và cộng đoàn hát tiếp cùng với một số hành động kèm theo cho thấy đây là giao điểm của lịch sử cứu độ từ các bài đọc Cựu Ước chuyển sang các bài đọc Tân Ước cũng như vui mừng loan báo về một cao điểm khác của cử hành phụng vụ trong đêm cực thánh này.

Bởi vậy, đang khi hát kinh Vinh danh, không tiến hành trải khăn bàn thờ, không gỡ bỏ các tấm che [tượng / ảnh thánh giá, Chúa phục sinh hay các thánh] mà phải trải khăn bàn thờ cũng như gỡ bỏ các tấm che ảnh tượng thánh trước giờ cử hành Canh thức Vượt qua. Vào thời điểm này, chúng ta chỉ: đốt nếnvà cho đổ chuông (lớn và nhỏ). Còn hoa, tốt nhất hãy sắp xếp chúng trước giờ cử hành Canh thức Vượt qua và nên sử dụng số lượng hoa nhiều hơn mọi cử khành khác trong năm phụng vụ.

Lm Giuse Phạm Đình Ái, SSS
 
Đức Bênêđíctô XVI: Có phải đám đông hoan hô Chúa vào thành đòi đóng đinh Ngài sau đó?
Đặng Tự Do
18:44 13/04/2019
Nhiều người cho rằng chính đám đông đã từng hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem sau đó chỉ ít ngày đã đòi đóng đinh Chúa vào thập giá. Trong cuốn “Jesus of Nazareth” – “Chúa Giêsu thành Nagiarét”, Đức Bênêđíctô XVI lập luận rằng không phải như thế. Ngài viết:

Tất cả ba Tin Mừng Nhất Lãm, cũng như Tin Mừng theo Thánh Thánh Gioan, đều nói rất rõ rằng cảnh chào đón Chúa Giêsu như Đấng Messia đã diễn ra khi Ngài vào thành Giêrusalem và những người tham gia trong đoàn rước này không phải là cư dân của thành Giêrusalem, mà là những đám đông đi theo Chúa Giêsu và vào Thành Thánh với Ngài.

Điểm này được thể hiện rõ nhất trong trình thuật của Thánh Matthêu, thông qua đoạn văn ngay sau việc dân chúng tung hô Hosanna, Hoan hô con vua David: “Khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ‘Ông này là ai vậy?’ Dân chúng trả lời: “Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy.” (Mt 21: 10-11)

Mọi người đã nghe nói về nhà tiên tri từ Nazareth, nhưng Ngài dường như không có bất kỳ tầm quan trọng nào đối với dân thành Giêrusalem và người dân ở đó không biết Ngài.

Đám đông tỏ lòng tôn kính với Chúa Giêsu tại cửa ngõ vào thành phố, do đó, không phải là đám đông mà sau đó đã đòi đóng đinh Ngài.


Theo phong tục từ ngàn xưa, Chúa Nhật Lễ Lá tưởng niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem, được cử hành với một đám rước long trọng, trong đó các tín hữu bắt chước những người Do Thái xưa cầm các nhành lá chào đón Chúa trong khi tung hô “Hosanna”.

Đức Bênêđíctô XVI giải thích từ ngữ này như sau:

Ban đầu từ này có ý nghĩa là một lời kêu cứu khẩn cấp. Hosanna có nghĩa là: Hãy đến trợ giúp chúng tôi! Các tư tế lặp lại lời hô này một cách tha thiết vào ngày thứ bảy của Lễ Lều, trong khi đi bảy lần xung quanh bàn thờ tế lễ, như một lời cầu nguyện khẩn cấp để cầu xin cho có mưa.

Nhưng khi Lễ Lều dần dần thay đổi từ một lễ cầu xin thành một lễ ngợi khen tán tụng Chúa, thì tiếng kêu cứu khi xưa cũng biến thành tiếng hò reo tưng bừng trong mừng rỡ hân hoan.

Vào thời Chúa Giêsu, từ này cũng mang âm hưởng mong chờ Đấng Messia. Trong lời tung hô Hosanna, chúng ta tìm thấy một biểu hiện của những cảm xúc phức tạp của những người Do Thái chào đón Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài: Họ vui mừng ca ngợi Thiên Chúa với niềm hy vọng rằng giờ của Đấng Thiên Sai đã đến, và đồng thời mong mỏi rằng vương quyền David và qua đó vương quyền của Thiên Chúa đối với dân Israel sẽ được tái lập.



Source:National Catholic Register
 
Văn Hóa
Vài nét nhận định về tình hình tôn giáo ở Thái Lan
Lm Trần Công Nghị
08:14 13/04/2019
Tôi đã thăm Thái Lan mấy lần và lần nào cũng có những cảm nhận mãnh liệt và rất đa dạng về đất nước Chùa Vàng. Một quốc gia có thể nói là thanh bình, dân chúng hiền hòa, kinh tế phát triển. Chỉ trừ trong vài thập niên gần đây tình hình chính trị bất ổn do quân đội đảo chính 2 lần truất phế gia định họ Taskin và dân chúng vẫn còn phân hóa mạnh. Nhưng dù thế nào chăng nữa thì dân chúng Thái rất kính mến vị Vua mới qua đời của họ và người Thái sùng đạo Phật.

Năm ngoái và tháng 12 (tức bốn tháng trước đây) khi đi du lịch Thái Lan lại gặp ngay mấy người quen – dù ở ngay Los Angeles với nhau mà ít khi gặp mặt, nhưng không ngờ lại gặp nhau bên đất Thái, tay bắt mặt mừng và có những ngày du lịch với nhau lý thú.

Hình ảnh Chùa dành cho Vua Bhumipol

Hình ảnh thăm đảo Samui

Hình ảnh đi thăm một làng cổ xưa với nếp sống truyền thống lâu đời

Đầu tiên chúng tôi tới thăm đảo du lịch của Thái là đảo Samui (tiếng Thái gọi là Koh Samui). Cảnh sắc ở đây đẹp như những tấm hình quảng cáo hay áp phích cho lịch, nên thơ và mơ mộng, đây là hòn đảo nổi tiếng nhất của Thái Lan vì một số lý do. Thứ nhất bờ biển được bao quanh với làn nước trong xanh, nhiều bãi cho lướt sóng và lặn biển xem cá mầu, chèo thuyền kayak,... hay chỉ đơn giản là thư giãn.

Thứ đến, khắp nơi có các quán ăn và nhà hàng đặc sản, nơi du khách có thể tìm thấy một thế giới ẩm thực được chế biến từ các sản phẩm địa phương và hải sản tươi sống cũng như các món ăn Thái chính thống. Nhiều tuyến phố sôi động với các quán bar, cửa hàng, chợ búa và spa.

Và nữa là: Bước ra khỏi thế giới sôi động đó du khách nếu muốn cũng có thể lại bước ngay vào khu rừng rậm rạp, xuyên qua đồi núi để đi bộ đến những ngôi đền cổ và thác nước nguyên sơ và những ngôi làng cổ kính, nơi du khách có thể trải nghiệm lòng hiếu khách thực sự của người Thái.

Với cảnh quan thơ mộng và cuộc phiêu lưu trên đảo từ các chuyến du ngoạn bằng thuyền đến những chuyến đi bộ tự nhiên, du khách sẽ sớm bị Koh Samui mê hoặc.

Thị trấn Nathon trên đảo thu hút khách du lịch là các cửa hàng bằng gỗ kiểu Trung Quốc cổ, bán một loạt hàng hóa bí truyền, bao gồm rất nhiều vàng. Quà lưu niệm mua ở đây cũng sẽ rẻ hơn đáng kể so với những nơi khác trên đảo. Khách sạn rẻ và phong phú, nhưng ít khách du lịch có nhu cầu ở lại qua đêm, chủ yếu nhắm vào thị trường địa phương.

Laem Chabang cách Pattaya khoảng 25 km về phía bắc và phía nam thành phố Chonburi. Đây là cảng lớn nhất của Thái Lan. Cảng chiếm 21.041 ha, và có khả năng xử lý các tàu lớn nhất. Phần lớn vận chuyển quốc tế đến Thái Lan đi qua Laem Chabang.

Laem Chabang là một thành phố cảng Nakhon ở tỉnh Chonburi, Thái Lan. Tính đến năm 2006, dân số 61.801 người. Thị trấn đã lớn lên xung quanh cảng, nhưng cũng là một điểm dừng chính trên đường cao tốc ven biển nối Pattaya và Bangkok qua Hình ảnh Chùa dành cho Vua Đường Hwy 3. Thị trấn cũng nổi tiếng với việc lưu trữ một cộng đồng hưu trí Nhật Bản với các cửa hàng đặc sản hướng tới họ.

Vài nét về Thái Lan

Thái Lan, được gọi là Siam cho đến năm 1932, là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á (và một trong số ít trên thế giới) chưa bao giờ bị xâm chiếm bởi một cường quốc châu Âu. Thủ đô Bangkok, phản ánh tình trạng độc đáo của đất nước. Nó đã chấp nhận tính hiện đại theo các điều kiện riêng của nó như là chỗ ngồi của một chế độ quân chủ yêu quý có niên đại từ thế kỷ 13. Tại thành phố này, các ngôi chùa Phật giáo và cung điện mạ vàng cùng tồn tại với sự nhộn nhịp của một trong những đô thị lớn của châu Á. Sự tương phản giữa ánh sáng mặt trời phản chiếu mầu vàng dọc theo sông Chao Phraya, chạy qua khu đô thị, và đèn neon rộn rang tại trung tâm thành phố có thể làm du khách chóng mặt say sưa.

Có vài nơi trên thế giới, nơi bạn có thể dành buổi sáng tham quan bảo tháp có từ hàng thế kỷ, ăn trưa tại một trong những nhà hàng được trao giải thưởng sao Michelin hàng đầu thế giới và sau đó mua sắm quần áo tơ lụa dệt tinh xảo. Và bất cứ nơi nào du khách khám phá, họ sẽ bị ấn tượng bởi sự chào đón nồng nhiệt của dân Thái. "Vùng đất của những nụ cười" có thể là một câu châm ngôn và khẩu hiệu tiếp thị du lịch, nhưng nó cũng là một biệt danh phù hợp cho Thái Lan.

Nhiều khu vực lịch sử quan trọng nhất của đất nước không xa Bangkok. Đó chính là cựu kinh đô Ayutthaya, thủ đô cũ của Thái Lan, là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận với những di tích Phật giáo đầy ấn tượng. Thị trấn Chachoengsao có từ thế kỷ 16 được biết đến với nhiều ngôi chùa, trong đó có Wat Saman Rattanaram với bức tượng thần Ganesha dài 72 mét.

Cho dù đi du lịch bằng thuyền, xe buýt hoặc tuk-tuk (một xe taxi có động cơ ba bánh) để khám phá đền đài, cung điện và chợ của Bangkok, du khách hãy sẵn sàng chấp nhận được cả hai: sự hỗn loạn và quyến rũ cùng một lúc.

Tôn giáo ở Thái Lan

Tôn giáo chính được thực hành ở Thái Lan là Phật giáo, nhưng có một dòng chảy mạnh mẽ từ Ấn Độ giáo với một lớp người brahmin có chức năng tư tế cũng có ảnh hưởng. Gần đây có nhiều người Thái gốc Trung hoa cũng thực hành các tôn giáo dân gian Trung Quốc, bao gồm Đạo giáo. Phong trào tôn giáo Trung Quốc Yiguandao (tiếng Thái: Anuttharatham) lan sang Thái Lan vào những năm 1970 và nó đã phát triển rất nhiều trong những thập kỷ gần đây để xung đột với Phật giáo; báo cáo cho biết mỗi năm có chừng 200.000 người Thái ccải đạo sang tôn giáo khác. Một cộng đồng Hồi giáo quan trọng, chủ yếu được thành lập bởi người Mã Lai Thái Lan, có mặt đặc biệt là ở các khu vực phía Nam.

Phật giáo: 94,50%
Đạo Hồi: 4,29%
Kitô giáo: 1,17%
Ấn Độ giáo: 0,03%
Không tín ngưỡng: 0,01%

Theo dữ liệu điều tra dân số chính thức, hơn 90% người Thái theo Phật giáo. Tuy nhiên, đời sống tôn giáo của đất nước phức tạp hơn so với thống kê nêu trên. Mặt khác, một bộ phận lớn người Hoa gốc Thái đã giữ lại tập tục của tôn giáo dân tộc Trung Quốc, bao gồm Đạo giáo, Nho giáo và các tôn giáo khác của Trung Quốc.

Phật giáo tại Thái Lan

Phật giáo ở Thái Lan phần lớn thuộc trường phái Theravada, tuân thủ truyền thống Theravada. Các ngôi chùa Phật giáo ở Thái Lan được đặc trưng bởi các bảo tháp vàng cao, và kiến trúc Phật giáo của Thái Lan tương tự như ở các nước Đông Nam Á khác, đặc biệt là Campuchia và Lào, có chung một di sản văn hóa và lịch sử với Thái Lan.

Hồi giáo ở Thái Lan

Theo điều tra dân số năm 2015, Thái Lan có 2.892.311 người Hồi giáo, tương đương 4,29% tổng dân số. 2.227.613 trong số những người Hồi giáo này tập trung ở khu vực phía Nam của đất nước, nơi họ chiếm tới 24,33% dân số. Hồi giáo là nhóm tôn giáo lớn thứ hai ở Thái Lan với tỷ lệ 4% đến 5% dân số. Các tỉnh cực nam của Thái Lan - Pattani, Yala, Narathiwat và một phần Songkhla và Chumphon - có dân số Hồi giáo lớn, bao gồm cả dân tộc Thái và Malay.

Kitô giáo ở Thái Lan

Kitô giáo được giới thiệu bởi các nhà truyền giáo châu Âu ngay từ những năm 1550, khi lính Bồ Đào Nha và giáo sĩ của họ đến Ayutthaya. Trong lịch sử, họ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa Thái Lan, đặc biệt là trong các tổ chức giáo dục và xã hội. Tính đến năm 2015, Kito giáo chỉ có hơn 1% dân số Thái Lan, nhưng họ có ảnh hưởng lớn về giáo dục trường học và y tế. Kitô hữu, chủ yếu là người Công Giáo, chỉ chiếm hơn 1% dân số.

Tôn giáo dân gian.

Nhiều người Thái và Isan thực hành các tôn giáo bản địa đặc biệt, đặc trưng bởi sự thờ cúng các vị thần và tổ tiên địa phương.

Tự do tôn giáo ở Thái Lan

Luật pháp Thái Lan quy định quyền tự do tôn giáo và chính phủ thường tôn trọng quyền này trong thực tế. Tuy nhiên, chính phủ chính thức giới hạn số lượng các nhà truyền giáo nước ngoài có thể làm việc trong nước, mặc dù các nhà truyền giáo chưa đăng ký có mặt với số lượng lớn và được phép sống và làm việc tự do.

Lm John Trần Công Nghị
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Lễ Lá
Nguyễn Đức Cung
08:55 13/04/2019
LỄ LÁ
Ảnh của Nguyễn Đức Cung

Vào Thành trọng vọng uy nghi,
Mọi người nhảy múa, lối đi đền đài.
Áo choàng cành lá trải dài,
Hoan hô vang dậy, Thiên Sai vào đời.
Nhân danh chúc tụng Chúa Trời,
Bình an dưới thế, gọi mời thiện tâm.
Khởi đầu sứ mệnh âm thầm,
Bước vào Tuần Thánh, hương trầm tỏa lan
(KD)
 
Thánh Ca
Thánh Ca: Maria Mẹ Của Con – Trình bày: Ca Sĩ Như Ý
VietCatholic
03:50 13/04/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây