Ngày 28-05-2015
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Toàn văn Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2015
J.B. Đặng Minh An dịch
11:31 28/05/2015
Anh chị em thân mến,

Khánh Nhật Truyền Giáo 2015 diễn ra trong bối cảnh của Năm Đời Sống Thánh Hiến, mang lại một động lực mạnh hơn nữa để cầu nguyện và suy tư. Vì, nếu như mỗi người đã được rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu bằng cách rao giảng đức tin họ đã được lãnh nhận như một ân sủng; thì điều này còn đúng đặc biệt hơn nữa đối với mỗi người nam nữ thánh hiến. Có một mối liên hệ rõ ràng giữa đời sống thánh hiến và sứ vụ truyền giáo. Ước muốn được theo Chúa Giêsu cận kề đã dẫn đến sự xuất hiện của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội. Ước muốn ấy đáp lại lời mời gọi của Chúa là vác thánh giá và theo Ngài, để bắt chước sự tận hiến của Ngài cho Chúa Cha, bắt chước sự phục vụ và tình yêu của Ngài, để đánh mất cuộc sống này cho sự sống mai hậu. Toàn bộ cuộc sống dương thế của Chúa Kitô đã có một đặc tính truyền giáo, cho nên, tất cả những ai theo Ngài một cách gần gũi cũng phải có phẩm chất truyền giáo này.

Chiều kích truyền giáo, là điều thuộc về bản chất của Giáo Hội, cũng là tính chất nội tại của mọi dạng thức đời sống thánh hiến, và không thể bỏ qua mà không làm mất đi hay làm biến dạng đặc sủng của đời thánh hiến. Là một nhà truyền giáo không phải là chuyện chiêu mộ tín đồ hay đơn thuần là chuyện chiến lược; truyền giáo là một phần trong “ngữ pháp” của đức tin, là một cái gì đó rất thiết yếu đối với những ai lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh đang thì thầm “Đến đây” và “Hãy đi”. Những người theo Chúa Kitô không thể không là các nhà truyền giáo, vì họ biết rằng Chúa Giêsu “đồng hành với họ, nói với họ, và cùng thở với họ. Họ cảm nhận được Chúa Giêsu sống động với họ ở giữa công cuộc truyền giáo “(Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 266).

Truyền giảng Tin Mừng là một niềm đam mê đối với Chúa Giêsu và đồng thời cũng là một niềm đam mê đối với dân Ngài. Khi chúng ta cầu nguyện trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu thẳm của tình yêu Ngài, là điều mang đến cho chúng ta nhân phẩm và nâng đỡ chúng ta. Đồng thời, chúng ta nhận ra rằng tình yêu tuôn chảy từ trái tim bị lưỡi đòng đâm thâu qua của Chúa Giêsu đang mở ra để ôm lấy Dân Chúa và toàn thể nhân loại. Chúng ta nhận ra lần nữa rằng Ngài muốn dùng chúng ta để lôi kéo đến gần hơn dân Ngài yêu dấu (x. thượng dẫn. 268) và tất cả những ai thành tâm tìm kiếm Ngài. Trong lệnh truyền của Chúa Giêsu “hãy đi”, chúng ta thấy các tình huống và những thách thức mới luôn hiện diện trong sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Tất cả các thành viên của Giáo Hội được mời gọi để rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá là mạng sống của họ. Cách riêng, những người nam nữ thánh hiến được yêu cầu lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần, Đấng kêu gọi họ ra đi đến các vùng ngoại vi, đến những ai mà Tin Mừng chưa hề được công bố.

Kỷ niệm lần thứ năm mươi sắc lệnh Ad Gentes (“Đến với Muôn dân”) của Công đồng Vatican II là một lời mời gọi tất cả chúng ta phải đọc lại tài liệu này và suy tư trên nội dung của sắc lệnh ấy. Sắc lệnh kêu gọi một động lực truyền giáo mạnh mẽ trong các định chế Đời Sống Thánh Hiến. Đối với các cộng đoàn chiêm niệm, Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Bổn Mạng của các nhà truyền giáo, xuất hiện trong một ánh sáng mới; Thánh Nữ nói với một sự hùng hồn thật mới mẻ và truyền cảm hứng cho sự suy tư trên các mối liên kết sâu sắc giữa đời sống chiêm niệm và sứ vụ truyền giáo. Đối với những cộng đoàn tích cực truyền giáo, động lực truyền giáo phát sinh từ Công Đồng đã được đáp lại với một sự cởi mở ngoại thường dành cho sứ vụ đến với muôn dân, và thường được đi kèm với một sự cởi mở với các anh chị em từ các vùng đất và các nền văn hóa mà chúng ta gặp gỡ trên bước đường truyền giáo, đến mức mà ngày hôm nay chúng ta có thể nói về một hiện trạng “Liên Văn Hóa” rộng rãi trong đời sống thánh hiến. Do đó, có một nhu cầu cấp thiết phải tái khẳng định rằng lý tưởng trung tâm của sứ vụ truyền giáo là Chúa Giêsu Kitô, và lý tưởng này đòi hỏi sự dâng hiến trọn bản thân cho việc loan báo Tin Mừng. Về điểm này không thể có sự thỏa hiệp nào, đó là, những người nhờ ân sủng của Thiên Chúa đã chấp nhận sứ vụ, thì được mời gọi để sống sứ vụ ấy. Đối với họ, việc công bố của Chúa Kitô trong nhiều vùng ngoại vi của thế giới trở thành con đường để theo Chúa Kitô, Đấng cao trọng hơn mọi hồi đáp vì bao nhiêu những gian truân và hy sinh của họ. Bất kỳ xu hướng nào đi chệch khỏi ơn gọi này, ngay cả khi bị thúc đẩy bởi vô số những lý do cao cả về mục vụ, hay bởi những nhu cầu của Giáo Hội hay nhân loại, đều không phù hợp với lời mời gọi của Chúa là phải hết mình trong sứ vụ Tin Mừng. Trong các cơ cấu truyền giáo, các nhà đào tạo được mời gọi chỉ ra rõ ràng và thẳng thắn kế hoạch sống và hành động này, cũng như để phân định ơn gọi truyền giáo đích thực. Tôi kêu gọi đặc biệt giới trẻ, những người có khả năng đưa ra những chứng tá dũng cảm và những hành động quảng đại, ngay cả khi những điều này đi ngược lại văn hóa đương đại: Các con đừng để ai cướp mất lý tưởng truyền giáo thật sự, và lý tưởng theo Chúa Giêsu qua việc trao ban toàn thể chính mình. Trong sâu thẳm của lương tâm các con, hãy tự hỏi tại sao các con đã chọn cuộc sống truyền giáo và sẵn sàng để chấp nhận cuộc sống ấy vì đó là một ân sủng của tình yêu dành cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Hãy nhớ rằng việc loan báo Tin Mừng là một điều cần thiết cho những ai yêu mến Thầy, trước khi đó là điều cần thiết cho những người chưa nghe biết đến Tin Mừng.

Hôm nay, sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội đang phải đối mặt với những thách thức trong việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi dân tộc là trở lại với cội nguồn của họ và bảo vệ các giá trị của nền văn hóa. Điều này có nghĩa là chúng ta cần hiểu biết và tôn trọng các truyền thống và các hệ triết học khác, và nhận ra rằng tất cả các dân tộc và các nền văn hóa có quyền được giúp đỡ từ bên trong truyền thống riêng của họ để bước vào mầu nhiệm sự khôn ngoan của Thiên Chúa và đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng và là sức mạnh biến đổi cho tất cả các nền văn hóa.

Trong sự phức tạp năng động này, chúng ta tự hỏi: “Người đầu tiên mà sứ điệp Tin Mừng phải được rao giảng là ai?”. Câu trả lời được tìm thấy rất nhiều trong Phúc Âm là rõ ràng: đó là những người nghèo, những người bé nhỏ và đau yếu, những người bị khinh rẻ hay quên lãng, những người không thể hồi đáp chúng ta (x Lc 14: 13-14). Việc Truyền Giảng Tin Mừng hướng ưu tiên đến những người chót nhất giữa chúng ta là một dấu chỉ của Vương quốc mà Chúa Giêsu đã mang lại: “Có một mối giây không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ rơi họ” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 48). Điều này phải được rõ ràng trước hết với tất cả những ai đón nhận cuộc sống thánh hiến. Với các lời khấn khó nghèo, họ chọn đi theo Đức Kitô với ưu tiên dành cho người nghèo của Ngài, không phải chuyện ý thức hệ, nhưng là trong cùng một cách mà Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo. Với cuộc sống giữa những người nghèo trong bối cảnh bất định của cuộc sống hàng ngày và với việc từ bỏ mọi thứ quyền lực, họ trở thành anh chị em của người nghèo, trong khi mang đến cho họ niềm vui của Tin Mừng và một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa.

Khi sống như những chứng nhân Kitô giáo và như dấu chỉ của tình yêu Chúa Cha giữa những người nghèo và bị thiệt thòi, người sống đời thánh hiến được mời gọi để thúc đẩy sự hiện diện của các tín hữu giáo dân trong sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Như Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Hàng giáo dân nên hợp tác trong công việc truyền giáo của Giáo Hội; như những chứng nhân và đồng thời như những khí cụ sống động, họ thông phần trong sứ vụ cứu độ của Giáo Hội” (Sắc Lệnh Đến với Muôn Dân, 41). Những nhà truyền giáo được thánh hiến cần phải quảng đại đón nhận những người sẵn sàng làm việc với họ, thậm chí khi họ chỉ có thể làm việc trong một thời gian hạn chế, để cho họ có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Họ đều là những anh chị em muốn chia sẻ ơn gọi truyền giáo nhận được từ bí tích Rửa Tội. Những tu hội và cơ cấu thừa sai đương nhiên phải là những nơi chào đón họ và cung cấp cho họ những hỗ trợ nhân bản, thiêng liêng và tông đồ.

Các hội dòng và cộng đoàn Truyền Giáo của Giáo Hội phải toàn tâm trong sứ vụ rao giảng cho những ai chưa biết đến Tin Mừng của Chúa Giêsu. Điều này nghĩa là các tổ chức này cần phải dựa vào các đặc sủng và sự dấn thân truyền giáo của các thành viên thánh hiến của mình. Nhưng những người nam nữ thánh hiến cũng cần một cấu trúc dịch vụ, một biểu hiện của sự quan tâm của Đức Giám Mục Roma, để đảm bảo sự hiệp thông, sự hợp tác và sức mạnh tổng hợp là một phần không thể thiếu của chứng tá truyền giáo. Chúa Giêsu coi sự hiệp nhất của các môn đệ của Ngài như một dấu chỉ để thế gian tin (xem Ga 17:21). Sự hội tụ này là không giống như chủ nghĩa pháp quy hay chủ nghĩa định chế hóa, ít nhiều bóp nghẹt sự sáng tạo của Thánh Linh, là Đấng linh hứng cho sự đa dạng. Nó là nhằm đem lại thành quả lớn hơn cho sứ điệp Tin Mừng và đề cao chính nghĩa hiệp nhất cũng là hoa trái của Chúa Thánh Thần.

Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo có một chiều kích hoạt động tông đồ phổ quát. Đó là lý do tại sao các Hội truyền giáo này cũng cần nhiều đoàn sủng của đời sống thánh hiến, để hướng đến những chân trời bao la của việc loan báo Tin Mừng và để có thể bảo đảm một sự hiện diện thích đáng trong bất cứ vùng đất nào họ được sai đến.

Anh chị em thân mến, một nhà truyền giáo đích thực phải say mê Tin Mừng. Thánh Phaolô đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Tin Mừng là nguồn mạch của niềm vui, sự giải thoát và ơn cứu độ cho tất cả mọi người nam nữ. Giáo Hội nhận thức ân sủng này, và vì thế Giáo Hội không ngừng loan báo cho mọi người về “điều đã có ngay từ đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt” (1 Ga 1: 1). Sứ vụ của những tôi tớ của Lời - tức là các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – là làm cho mọi người không trừ một ai được đi vào một mối liên hệ cá vị với Chúa Kitô. Trong toàn bộ các hoạt động truyền giáo đa dạng của Giáo Hội, tất cả các tín hữu đều được mời gọi sống cam kết khi chịu phép rửa đến mức viên mãn nhất, theo hoàn cảnh cá nhân mỗi người. Một lời đáp trả quảng đại cho ơn gọi phổ quát này có thể được đưa ra bởi những người nam nữ sống đời thánh hiến qua một đời sống cầu nguyện mãnh liệt và hiệp nhất với Chúa và hy tế cứu độ của Ngài.

Tôi xin phó thác cho Đức Maria - Mẹ của Giáo Hội và là mẫu gương của nhà truyền giáo - tất cả những người nam nữ trong mọi trạng huống của cuộc sống đang hoạt động để loan báo Tin Mừng, cho muôn dân hay ngay trên chính quê hương của họ. Tôi rộng ban Phép lành Tòa Thánh cho tất cả các nhà truyền giảng Tin Mừng.

Vatican, 24 tháng 5, 2015
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
+ Đức Giáo Hoàng Phanxicô
 
ĐTC tiếp kiến 17 Giám Mục Dominicana kêu gọi cổ võ hòa giải trong các gia đình
Lm. Trần Đức Anh OP
20:40 28/05/2015
VATICAN. ĐTC kêu gọi các GM cộng hòa Dominicana cổ võ hòa giải trong các gia đình và dành thời giờ nhiều hơn cho các Linh mục

Trên đây là nội dung bài huấn dụ ĐTC trao cho 17 GM Dominicana trong buổi tiếp kiến sáng ngày 28-5-2015, nhân dịp các vị về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Ngài nhận xét rằng ”hôn nhân và gia đình đang trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về văn hóa, nhưng không vì thế mà mất tầm quan trọng, trái lại càng cần thiết hơn nữa.. Ước gì trong Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp tới, không thiếu những nỗ lực hòa giải hôn nhân và gia đình, cũng như sự sống chung hòa bình. Điều cấp thiết là tăng cường việc giảng dạy giáo lý về lý tưởng hôn nhân Kitô và đời sống gia đình, trong đó bao gồm cả linh đạo làm cha làm mẹ trong tinh thần trách nhiệm. Trong việc mục vụ cần chú ý hơn về vai trò của người nam trong tư cách là chồng và là cha, cũng như trách nhiệm của họ đối với người vợ trong hôn nhân, gia đình và việc giáo dục con cái”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Tôi mời gọi anh em dành nhiều thời giờ và quan tâm hơn tới các linh mục, chăm sóc mỗi người trong họ, bênh vực họ khỏi những chó sói tấn công cả các mục tử... Trong các chủng viện cần quan tâm đến việc huấn luyện nhân bản, trí thức và tu đức, giúp chủng sinh gặp gỡ thực sự với Chúa, vun trồng sự dấn thân mục vụ và trưởng thành về tình cảm, để có khả năng đảm nhận đời sống độc thân LM và hoạt động trong tinh thần hiệp thông”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC khuyến khích các GM Dominicana tăng cường việc mục vụ cho những người di dân Haiti đến nước này để tìm điều kiện sống tốt đẹp hơn. ”Cần cộng tác với chính quyền dân sự để đạt tới giải pháp cho vấn đề những người nhập cư không có giấy tờ và những người bị phủ nhận những quyền căn bản của họ”.

ĐTC cho biết ngài am tường những cố gắng và quan tâm của các GM Dominicana đối với những vấn đề trầm trọng đang đè nặng trên dân chúng tại Mỹ châu la tinh như nạn buôn bán ma túy và buôn người, nạn tham ô hối lộ, bạo hành trong gia đình, lạm dụng và khai thác trẻ vị thành niên, tình trạng bất công xã hội.” Ngài viết: ”Do mối liên hệ mật thiết giữa việc loan báo Tin Mừng và thăng tiến nhân bản, toàn thể hoạt động của Giáo Hội là Mẹ phải tìm kiếm và chăm sóc thiện ích của những người kém may mắn nhất”.

Cộng hòa Dominicana chỉ rộng hơn 48 ngàn cây số vuông với trên 10 triệu dân cư, trong đó 88,5% là tín hữu Công Giáo, thuộc 2 giáo tỉnh với 11 giáo phận.

Từ đầu năm đến nay, ĐTC đã tiếp kiến được 15 Hội đồng GM Phi châu, trong đó có 2 HĐGM Á châu là Nhật Bản và Hàn quốc. Từ nay đến cuối năm, ngài còn tiếp các GM thuộc 5 quốc gia trong đó có Lettini, Bồ đào nha, Đức và Slovak (SD 28-5-2015)
 
Bài giảng tại Santa Marta: Chúng ta là loại Kitô hữu nào?
Đặng Tự Do
20:57 28/05/2015
Trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Năm 28 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phân tích bài Tin Mừng kể về câu chuyện người mù Bathimê đang ngồi ăn xin bên vệ đường khi Chúa Giêsu đi qua, và đã kêu xin Chúa chữa lành nhưng nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi. Bài Tin Mừng dẫn Đức Thánh Cha đến những suy tư về ba loại Kitô hữu khác nhau.

Trước hết là những Kitô hữu thờ ơ, những người chỉ quan tâm đến mối quan hệ riêng của họ với Chúa Giêsu, một mối quan hệ “khép kín và ích kỷ”. Đó là những người không nghe thấy tiếng kêu của những người khác.

Đức Thánh Cha nói:

“Nhóm người này, ngay cả ngày hôm nay, không nghe thấy tiếng kêu của biết bao người đang cần đến Chúa Giêsu. Đây là một nhóm những người dửng dưng: họ không nghe, họ nghĩ cuộc sống là dành riêng cho nhóm nhỏ của họ; họ hài lòng; họ ngoảng tai làm ngơ trước tiếng ồn ào của rất nhiều người đang cần đến ơn cứu rỗi, những người cần sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, những người cần Giáo Hội. Họ là những con người ích kỷ, họ sống cho bản thân mình mà thôi. Họ không thể nghe thấy tiếng nói của Chúa Giêsu.”

Tiếp đến là loại Kitô hữu làm câm nín những tiếng kêu cầu Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha nói tiếp “có những người nghe thấy tiếng kêu xin giúp đỡ này, nhưng lại muốn làm tắt đi tiếng kêu ấy” như các môn đệ xua các trẻ em đi nơi khác ‘để họ đừng làm phiền Thầy’. Họ hành xử như thể Ngài là Thầy của họ - Ngài dành riêng cho họ, không phải cho tất cả mọi người. Những người này xua đuổi khỏi Chúa Giêsu những người đang kêu gào, những người cần đức tin, những người cần ơn cứu rỗi. Trong nhóm này người ta tìm thấy những người kinh doanh, những người gần gũi với Ngài, những người ở trong đền thờ. Họ có vẻ ‘ngoan đạo’, nhưng Chúa Giêsu đã đuổi họ đi vì họ đã kinh doanh trong ngôi nhà của Thiên Chúa. Có những người ‘không muốn nghe thấy tiếng kêu cứu, nhưng thích chăm sóc cho doanh nghiệp của họ, và sử dụng người của Thiên Chúa, sử dụng cả Giáo Hội cho việc kinh doanh riêng của mình. Trong nhóm này có những Kitô hữu không đưa ra chứng tá nào.

“Họ là những Kitô hữu trên danh nghĩa, các Kitô hữu phòng tiếp tân, các Kitô hữu chỉ ở ngoài mặt nhưng đời sống nội tâm của họ không phải là Kitô, nhưng là thế gian. Những ai tự gọi mình là Kitô hữu nhưng sống trần tục đang xua đi những người kêu xin Chúa Giêsu giúp đỡ. Và tiếp đó là những người hà khắc, những người mà Chúa Giêsu đã quở trách vì đã đặt những gánh quá nặng trên lưng người dân. Chúa Giêsu đã dành toàn bộ chương thứ hai mươi ba của Thánh Matthêu để nói về họ: ‘những kẻ đạo đức giả’, Ngài nói ‘các ngươi bóc lột dân chúng’ Và thay vì đáp lại tiếng kêu của những người kêu cầu ơn cứu rỗi, họ xua đuổi họ đi.”

Cuối cùng là những Kitô hữu sống mạch lạc niềm tin Kitô của mình. Đó là “những người giúp đỡ những ai muốn đến gần Chúa Giêsu”. Đức Thánh Cha nói: “Có những nhóm Kitô hữu sống nhất quán với những gì họ tin tưởng, và họ giúp mang đến gần Chúa Giêsu những người đang kêu cầu, tìm kiếm ơn cứu rỗi, tìm kiếm ân sủng, tìm kiếm sức khỏe thiêng liêng cho linh hồn họ”

Đức Thánh Cha kết luận:

“Thật là tốt nếu chúng ta kiểm điểm lương tâm để xem chúng ta là các Kitô hữu xua đuổi mọi người xa Chúa Giêsu, hay là những người thu hút mọi người đến với Ngài vì chúng ta nghe thấy tiếng kêu xin của nhiều người đang tìm kiếm sự giúp đỡ cho phần rỗi của họ.”
 
Bài giảng tại Santa Marta: Những Kitô hữu trần tục không thể vừa có cả Thiên Đàng lẫn Thế Gian
Đặng Tự Do
22:38 28/05/2015
Thật đáng buồn khi thấy những Kitô hữu vừa muốn “theo Chúa Giêsu vừa muốn những sự thuộc về thế gian này”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba 26 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta. Ngài nhấn mạnh rằng Kitô hữu được mời gọi đưa ra sự chọn lựa quyết liệt trong cuộc sống: anh chị em không thể là một Kitô hữu “nửa vời”, muốn “cả thiên đàng lẫn thế gian”.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha trình bày những suy tư trên câu hỏi thánh Phêrô đưa ra với Chúa Giêsu: ông và các tông đồ sẽ được hồi đáp những gì khi theo Chúa Giêsu? Thánh Phêrô đã đưa ra câu hỏi này sau khi Chúa bảo người thanh niên giàu có hãy bán hết của cải của anh và phân phát cho người nghèo.

Một Kitô hữu không thể có cả thiên đàng lẫn thế gian; đừng để mình dính bén vào của cải

Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, Chúa Giêsu đã trả lời trái với sự mong đợi: Ngài không hứa ban giàu có cho các môn đệ, nhưng là hứa ban Nước Trời đi kèm với “bách hại và thập giá”.

“Vì thế khi một Kitô hữu dính bén vào của cải thế gian, người ấy đưa ra một ấn tượng rất xấu về người Kitô hữu muốn được cả hai: cả thiên đàng lẫn thế gian. Tiêu chí lựa chọn [của người môn đệ Chúa] chính xác là điều Chúa Giêsu đã nói: thập giá và bách hại, là từ bỏ mình và vác thánh giá mỗi ngày... Các môn đệ bị cám dỗ để vừa muốn theo Chúa nhưng lại muốn mặc cả. Cuộc mặc cả này kết thúc như thế nào đây?”

Đức Thánh Cha nhắc đến một đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu kể lại việc bà mẹ của hai tông đồ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu bảo đảm cho hai người con bà được hầu cận hai bên Ngài.

Đức Thánh Cha khôi hài rằng: “À! cho đứa này làm thủ tướng cho tôi - còn đứa kia làm bộ trưởng kinh tế… Bà đã chọn lợi lộc trần thế khi theo Chúa Giêsu”.

Đức Thánh Cha ghi nhận rằng khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống “tâm hồn các môn đệ được thanh tẩy, họ mới hiểu mọi sự. Theo Chúa Giêsu một cách nhưng không là sự đáp lại tình yêu và ơn cứu độ nhưng không của Ngài ban cho chúng ta”. Đức Thánh Cha cảnh cáo rằng “Khi ta muốn cùng đi cùng ở với cả Chúa Giêsu và thế gian, với cả sự khó nghèo và sự giàu sang thì đó là Kitô giáo nửa vời còn mải mê thu tích của cải đời này. Đó là tinh thần thế gian”

Sự giàu có, phù hoa và kiêu ngạo làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu

Lặp lại những lời của tiên tri Êlia, Đức Thánh Cha Phanxicô ám chỉ những kitô hữu loại này là người “khập khễnh trên hai chân” vì người ấy “không biết mình muốn gì”. Đức Thánh Cha khẳng định rằng để hiểu điều này, chúng ta phải nhớ điều Chúa nói “kẻ trước hết sẽ nên chót hết và người sau hết sẽ nên trước hết”, nghĩa là “ai tin hay ai là người cao trọng nhất” phải là “người tôi tớ và trở nên nhỏ bé nhất”.

“Theo Chúa Giêsu, theo quan điểm người ta thường tình, không phải là lựa chọn tốt vì đó là phục vụ như Ngài đã làm. Nếu Chúa ban cho anh chị em cơ hội trở nên người ‘trước hết’, thì anh chị em phải hành động giống như người chót hết, nghĩa là, phục vụ anh chị em mình. Và nếu Chúa ban cho anh chị em khả năng có nhiều của cải, thì anh chị em phải phục vụ, nghĩa là trao ban cho tha nhân. Có ba thứ, ba bước làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu là sự giàu có, phù hoa và lòng kiêu ngạo. Đó là tại sao ba điều này rất nguy hiểm! Sự giàu có ngay lập tức tạo nên hư danh và anh chị em nghĩ rằng mình quan trọng. Và khi anh chị em nghĩ mình quan trọng như thế thì anh chị em đánh mất đi cái đầu của mình và đánh mất chính mình”.

Một Kitô hữu trần tục là một dấu chỉ phản chứng.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Điều Chúa muốn nơi chúng ta là ‘lột sạch’ những bám víu trần tục. Chúa Giêsu đã mất nhiều thời gian mới làm cho các tông đồ hiểu được điều này ‘bởi vì họ không hiểu’. Chúng ta cũng phải xin Ngài dạy chúng ta “khoa học phục vụ này”, “khoa học về sự khiêm nhường, khoa học để trở nên chót hết hầu phục vụ anh chị em mình trong Giáo Hội”.

“Thật là buồn khi thấy một kitô hữu nửa vời cho dù đó là một giáo dân, một linh mục, hay một giám mục. Thật buồn khi anh chị em thấy một người vừa theo Chúa Giêsu vừa đam mê những sự thế gian. Và đây là một dấu chỉ phản chứng làm cho người ta xa Chúa Giêsu. Giờ đây, chúng ta tiếp tục cử hành Hy Tế Thánh Thể, trong khi suy gẫm về câu hỏi của Phêrô. ‘Chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy thì chúng con sẽ nhận được gì?’ Và hãy nghĩ về câu trả lời của Chúa Giêsu. Phần thưởng Ngài sẽ ban cho chúng ta là trở nên giống như Ngài. Đây là “ân thưởng” của chúng ta. Ân thưởng to lớn là được nên giống như Chúa Giêsu!”
 
Top Stories
Monsignor Tighe: Putting humanity at the heart of technology
Vatican Radio
11:44 28/05/2015
(Vatican 2015-05-28 ) “Good communication is always a human rather than a technical achievement.” That was at the heart of an address given by the Secretary of the Pontifical Council for Social Communications, Monsignor Paul Tighe, on Wednesday to the World Summit on the Information Society, during their 2015 session for High-Level Policy Statements, which is currently underway in Geneva, Switzerland.

Speaking to Vatican Radio following his speech, Monsignor Tighe said he wanted to stress that, it was important to avoid the presumption that “just because the technologies are there we are going to have a better sense of the unity of the human family or that solidarity and development are automatically going to happen.” He said that what he wanted to underline was the view taken by Pope Francis that, “ultimately, at heart is good communications and good communications is always a human rather than a technical achievement.”

Asked whether he thought that people should be thinking in terms of “responsible communications”, he said, the term was appropriate because he added, “I would be nervous if people thought that technology alone could achieve the goods that we want to achieve. It’s going to require responsible determination and choices by individuals.”

Looking to the future and addressing how the Vatican media and its multimedia platform can be at the forefront of “good communications”, the Council Secretary said, that “we need to make sure that we’re able to present our teachings our ideas, our perspectives in ways that are going to properly be present in a very different kind of environment. So, I think the challenge for us is always about trying to find ways of being able to speak about our core values…”

He also said that, “we are lucky in the Vatican to have so many very strong well prepared very highly motivated professional communicators and technicians”, I think it’s to ensure that we can find a way that we can all work together to be ever more powerfully the voice and the presence of the Church in the emerging digital arenas.”

World Summit on the Information Society continues through to May 29th.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo phận Thanh hóa bế mạc tháng hoa dâng Mẹ năm 2015
BTT GP Thanh Hóa
15:29 28/05/2015
Giáo phận Thanh hóa bế mạc tháng hoa dâng Mẹ năm 2015

Những ngày này Miền Trung đang hứng chịu đợt nắng nóng cao điểm. Ngày hôm nay, nóng tại Thanh hóa vượt ngưỡng 40 độ C. Bầu trời như một chảo lửa hập hập lan tỏa cái nóng khắp nơi. Nhưng cái nóng và nắng cháy da ấy không những không ngăn cản mà dường như càng đốt cháy hơn con tim nồng nàn của toàn giáo phận Thanh hóa dâng lên Mẹ. Gần 5.000 con hoa từ mọi nẻo đường của 51 giáo xứ của giáo phận, trước 6 giòa sáng, đã tập trung về Tòa giám mục và nhà thờ Chính Tòa Thanh hóa để cùng nhau ghóp sắc đua hương dâng lên Mẹ Maria.

Xem hình dâng hoa

Ngày dâng hoa giáo phận hôm nay càng vui hơn khi có sự hiện diện cao quý của Đức Tân Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng giám mục giáo phận Hà Nội. Đây chính là dịp để giáo phận Thanh hóa chào đón Đức Tân Hồng Y, thể hiện niềm vui mừng, kính trọng và tinh thần hiệp nhất của giáo phận Thanh hóa đối với Đức Tân Hồng Y, giáo tỉnh Hà Nội và Giáo Hội Hoàn vũ.

Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn sinh tại Đà Lạt ngày 01.04.1938. Học khóa đầu tiên Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt từ 1958 đến 1968. Thụ phong linh mục tại Đà Lạt ngày 21-12-1967. Ðược Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục ngày 19-10-1991. Thụ phong Giám mục tại Đà Lạt ngày 03-12-1991. Giám mục phó giáo phận Đà Lạt từ 1991 đến 1994. Giám Mục giáo phận Đà Lạt ngày 23-3-1994. Được bầu làm Chủ tịch HĐGM Việt nam liên tiếp hai nhiệm kỳ 2007-2010; 2010-2013 (đây cũng là những nhiệm kỳ Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh giữ chức vụ Phó Chủ tịch HĐGM Việt nam). Được Đức Thánh Cha Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Hà Nội ngày 13-05-2010. Ngày 14.2.2015, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxico đã vinh thăng Hồng Y cho Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn và bổ nhiệm ngài vào thành viên của thánh bộ Phúc âm hóa các dân tộc và Hội đồng giáo hoàng về Công lý và hòa bình.

Ngày hôm nay, trên đại tiền sảnh của Tòa giám mục Thanh hóa, ngoài các mục tử của giáo phận còn có sự hiện diện của các vị khách quý đến từ địa phận Phú Cường, Bà Rịa, Phát Diệm, Hà Nội, Sài Gòn: Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ - Chủ tịch Uỷ Ban Phụng Tự, nguyên giám mục Phú Cường; Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến - Phó chủ tịch Uỷ Ban Bác Ái Xã Hội - Caritas Vietnam, nguyên giám mục Phát Diệm; Cha Tổng Đại Diện giáo phận Bà Rịa Emanuel Nguyễn Hồng Sơn, Cha Giuse Maria Lê Quốc Thăng, Tổng thư ký UB Công Lý Hòa Bình trực thuộc HĐGM Việt Nam, Cha Giuse Đào Nguyên Vũ Tổng Thư Ký UB Mục vụ Di Dân trực thuộc HĐGM Việt Nam, quý cha giáo phận Hà Nội tháp tùng Đức Hồng Y….

Nhằm cổ vũ lòng sùng kính Đức Mẹ và phát triển các phong trào đạo đức bình dân, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh đã thiết lập Ngày dâng hoa cấp giáo phận hàng năm. Kể từ năm 2011 đến nay, năm nào ngày đang hoa cũng quy tụ được đông đảo bà con giáo dân thuộc đủ mọi thành phần tham dự. Năm 2014, con số tham dự, theo đăng ký chính thức của BTC, là 4700 con hoa. Năm nay: 4900 con hoa, trong số đó có hơn 1.000 em thiếu nhi. Đây cũng là kết quả nỗ lực động viên bà con giáo dân của quý cha chính xứ, phó xứ và HĐMV các giáo xứ trong giáo phận tham gia những hoạt động của giáo phận.

Ngày dâng hoa cấp giáo phận được chia thành ba phần: Dâng hoa, rước kiệu tôn vinh Mẹ Maria và kết thúc bằng Thánh lễ tạ ơn.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Chuyên gia Nguyễn Mạnh Hùng cảnh báo: Chiến tranh với Trung Quốc đang chờ ở Biển Đông
Phạm Trần
17:00 28/05/2015
CHUYÊN GIA NGUYỄN MẠNH HÙNG CẢNH BÁO: CHIẾN TRANH VỚI TRUNG QUỐC ĐANG CHỜ VIỆT NAM Ở BIỂN ĐÔNG

Lời người viết: Cường độ xung khích bằng lời nói giữa Việt Nam, Phi Luật Tân và Hoa Kỳ với quyết tâm bành trướng lãnh thổ mau chóng của Trung Quốc ở Biển Đông trong năm 2014 và 6 tháng đầu năm 2015 đã gia tăng hiểm họa chiến tranh có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.

Lý do vì Trung Quốc đã đặt Hoa Kỳ vá các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt Việt Nam và Phi Luật Tân, vào “tình trạng đã rồi” qua việc họ tấp nập ngày đêm tân tạo các bãi đá ngầm thành đảo có phòng tuyến quân sự ở khu vực Trường Sa. Trung Quốc còn dự tính thiết lập mạng lưới “nhận diện phòng không” để kiểm soát không lưu ở Biển Đông, sau khi dựng 2 ngọn Hải Đăng ở Gạc Ma và Châu Viên.

Việc làm của Trung Quốc không chỉ nhằm chặn đường tiến của Việt Nam ra Biển Đông mà còn đe dọa an ninh hàng hải huyết mạch của Thế giới.

Vậy Việt Nam phải làm gì để bảo vệ chủ quyền ?

Theo quan điểm của Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, một chuyên gia về Chính trị và Bang giao Quốc tế của Đại học George Mason thì “không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ”.

Trong cuộc Phỏng vấn riêng với chúng tôi (Phạm Trần), Giáo sư Hùng, một Học gỉa không thường trú của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quan hệ Quốc tế nổi tiếng ở Thủ đô Hoa Thịnh Đốn (CSIS, Center for Strategic&International Studies) còn thảo luận về mối quan hệ tay ba phức tạp trước tình hình Biển Đông giữa Việt Nam-Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Cuộc Phỏng vấn này được đài Truyền hình SBTN phát sóng trên toàn Bắc Mỹ vào lúc 11:00 PM tối Thứ Sáu, 29/05/2015, giờ miền Đông Hoa Kỳ, hay 8:00 PM giờ California.

Sau đây là toàn văn cuộc Phỏng vấn:

BIỂN ĐÔNG CĂNG THẲNG

Hỏi: Thưa Giáo sư, là Nhà nghiên cứu, ông thấy sự gia tăng cường độ hiềm khích giữa Việt Nam và Trung Quốc về tình hình Biển Đông trong thời gian gần đây như thế nào ?

Đáp: Rất căng thẳng và khó chịu, khởi đầu bằng việc Trung Quốc tuyên bố đường lưỡi bò năm 2009 đòi chủ quyển trên 80 phần 100 Biển Đông, và cao điểm là việc họ đem dàn khoang khổng lồ HD 981 vào thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của VN mùa Hè năm ngoái (từ ngày 02/05 đến 15/07/2014) dẫn đến các cuộc biểu tình bạo động chống các cơ sở thương mại của Trung Quốc tại Việt Nam.

Gần đây, họ gấp rút lấp biển, biến các đá ngầm thành các đảo nhân tạo có tiềm năng quân sự, tăng cường khả năng khống chế và kiểm soát của TQ trong một vùng quan yếu tại Biển Đông và chặn đường tiến của VN ra biển. Có người gọi việc làm này của TQ là việc xây dựng một “trường thành trên biển.”

Hỏi:Trong bối cảnh dân chúng Việt Nam nói với Quốc hội rằng họ rất bất bình trước việc Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo trên 7 bãi đá mà họ chiếm được của Việt Nam trong khu vực Trường Sa năm 1988, và đề nghị Chính phủ có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Theo ông thì Việt Nam có thể làm được gì vào lúc này ?

Đáp: TQ biến các đá chìm thành đảo là việc đã rồi, không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ.

Riêng đối với Việt Nam, việc cần làm là cố giữ các đảo đã có, làm áp lực để TQ ngưng xây thêm, và ngăn cản không cho TQ độc quyền kiểm soát, tuần tra, và khai thác trong vùng biển tranh chấp.

Tất cà những việc này, Việt Nam không thể làm một mình có hiệu quả, mà cần có thêm sự phối hợp với các nước ASEAN có cùng quyền lợi, nhất là sự trơ giúp của các nước lớn như Mỹ, Nhật, Ấn. v.v…

Hỏi: Đại sứ Mỹ ở Hà Nội Ted Osius nói rằng chiến lược bành trướng lãnh thổ ở Biển Đông của Bắc Kinh trong thời gian gần đây đã khiến cho Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội xích lại gần nhau hơn, tiêu biểu là Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ashton (Ash) Carter sẽ thăm Việt Nam nay mai và sẽ có tới 5 Ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN sẽ thăm Hoa Kỳ trong thời gian tới.

Tôi biết Giáo sư là người theo dõi các biến chuyển này rất chặt chẽ, vậy ông đánh giá các chuyến thăm cao cấp của hai nước Việt-Mỹ như thế nào và liệu Bắc Kinh có quan tâm không ?

Đáp: Các nhà lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, thường kêu gọi hai bên phải xây dựng niềm tin chiến lược. Những hoạt đông mà ông vừa kể là cốt để gia tăng niềm tin ấy, đặt căn bản cho sự hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn giữa hai nước.

Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ sau hội nghị Đối thoại Sanghri-La (tại Tân Gia Ba từ ngày 29 đến 31/5/2015), và của một phái đoàn các nhà lãnh đạo ủy ban quốc phòng của Thượng Viện Mỹ trước khi họ đi Sanghri-La chắc chắn là để chuẩn bị cho nội dung hợp tác quốc phòng Việt-Mỹ trong chuyến thăm Mỹ sắp tới của Tổng Bí Thư (Nguyễn Phú)Trọng.

Tiến trình này chắc chắn buộc TQ phải quan tâm.

(Chú thích: Trước khi đến dự Hội nghị Sanghri-La, Phái đòan Nghị sỹ Cộng hòa John McCain (Arizona), Chủ tịch Ủy ban Quân viện Thượng nghị Viện và thành viên cao cấp của Ủy ban, Nghị sỹ Dân chủ Jack Reed (Rhode Island) và 2 Nghĩ sỹ Cộng Hòa Joni Earnst (Iowa) và Dan Sullivan (Alska) đã gặp Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 27/5/2015.

Đài Tiếng nói Việt Nam ( VOV,Voice of Vietnam,) viết tại cuộc họp này: “Thượng Nghị sỹ John McCain và Đoàn bày tỏ quan tâm đặc biệt đến vấn đề an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở khu vực nói chung và những diễn biến gần đây ở Biển Đông nói riêng; khẳng định ủng hộ việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp ngoại giao, hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.”

Về phía ông Trọng, VOV cho biết: “ Về tình hình Biển Đông, Tổng Bí thư khẳng định lập trường kiên định của Việt Nam bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, trước hết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về Luật biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), tiến tới Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên ở biển Đông (COC); phản đối mọi hành vi coi thường luật pháp quốc tế, phá vỡ hiện trạng, đe dọa hòa bình và ổn định trong khu vực.”

DOC hay Declaration of Conduct là Thoả hiệp không có tính ràng buộc pháp lý giữa Trung Quốc với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ký tại Nam Vang (Kampuchia) năm 2002. Trung Quốc đã công khai vi phạn để dành phần thắng về cho mình ở Biển Đông. Và từ năm 2012, ASEAN và Trung Quốc đã họp nhiều lần để thảo luận đi đến ký kết Thỏa hiệp COC (Code of Conduct) có ràng buộc pháp lý, nước nào vi phạm sẽ bị trừng phạt. Nhưng Trung Quốc đã tìm mọi lý do để trì hõan, kể cả thi hành mánh khoé gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN và lập luận rằng tranh chấp trên Biển Đông là chuyện riêng giữa Trung Quốc với các nước có tranh chấp mà không liên hệ đến cả tập thể 10 nước ASEAN, hay các nước ngoài khu vực, ám chỉ Hoa Kỳ.

CHIẾN TRANH-NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Hỏi:Thưa Giáo sư, phần trên ông có nói đến tình hình "căng thẳng rất khó chịu" do những họat động xây dựng đảo của Trung Quốc ở Biển Đông và vị thế khó xử của Việt Nam và Hoa Kỳ, vậy ông có lo ngại sẽ xẩy một cuộc chiến tranh không ?"

Đáp: “Những đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây cất một cách gấp rút ở cách bờ biển TQ 600 hải lý (trên 1,000 cây số), nằm giữa Việt Nam, Phi Luật Tân, Brunei, Mã Lai Á, và Nam Dương. Hoa Kỳ quan tâm đến việc Trung Quốc xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo ở đây sẽ tăng cường mạnh mẽ khả năng của Trung Quốc kiểm soát và chế ngự một tuyến giao thông quan trọng ngay giữa Biển Đông, đe dọa trầm trọng tư do hang hải và quyền lợi của Mỹ.

Hơn nữa, theo luật quốc tế, không nước nào có chủ quyền trên đá chìm khi thủy triều lên, nếu chúng nằm ngoài lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế. Những đảo nhân tạo mà TQ đang xây nằm rất xa ngoài vùng đặc quyền kinh tế của TQ. Khi biến đá ngầm thành đảo, TQ đã thay đổi nguyên trạng một cách trầm trọng, áp đặt chủ quyền và nới rộng vùng kiểm soát của mình trên vùng biển tranh chấp. Nếu không bị chặn lại, TQ có thể dần dần biến toàn thể vùng biển ở trong khu vực đương lưỡi bò thành vùng biển của riêng mình.

Vì thế, Mỹ phản ứng bằng cách nêu rõ quan tâm của mình với TQ trong chuyến thăm TQ của Ngoại trương John Kerry, đồng thời cho phi cơ tuần thám hải quân P-8A Poseidon bay qua đảo nhân tạo của TQ, bất kể cảnh báo của TQ, để chứng tỏ Mỹ không công nhận chủ quyền của TQ trên những đảo ấy. Mặt khác, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ còn tuyên bố Mỹ dự tính gửi tầu hải quân đi sâu vào trong vùng 12 hải lý quanh đảo để xác định lập trường của mình.

Trước thái độ ấy, TQ đã chính thức đưa văn thư phản đối đòi Mỹ phải tôn trọng chủ quyền của TQ và tránh những hành động “khiêu khich.” Ngoại trương TQ Vương Nghị còn xác quyết “Quyết tâm bảo vệ chủ quyền và vẹn toàn lãnh thổ của TQ vững như đá và không thể lay chuyển.”

Hai lập trường đối nghịch này khi còn trong trạng thái các tuyên bố và cảnh báo cũng đủ gây căng thẳng, nhưng nếu được thực hiên bằng hành động nó sẽ tạo ra thế đối đầu quân sự ở trên không cũng như trên biển với rất nhiều rủi ro đi quá đà và dẫn đến xung đột. Chính vì thê mà Cựu Phó Giám Đốc Trung Ương Tinh Báo Mỹ, ông Mike Morell, cho rằng tình trạng đôi đầu này rất nguy hiểm và có thể dẫn đến chiến tranh Trung-Mỹ trong tương lai.

Hỏi: Cũng nhân tiện nói về các cuộc thăm nhau hữu nghị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, tôi muốn biết sự thẩm định của Giáo sư về chuyến thăm lịch sử lần đầu tiên đến Hoa Kỳ sắp tới của Tổng Bí thư CSVN Nguyễn Phú Trọng có thể nào được coi như “một canh bạc ngọai giao và an ninh chính trị” của đảng CSVN, sau khi ông Trọng đã gặp Chủ tịch Nhà nước-Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình hồi đầu tháng 4 vừa qua hay không ?

Đáp: Chuyến thăm Mỹ sắp tới của Tổng Bí Thư Đảng CSVN có tính cách lịch sử vì đây là lần đầu tiên một TBT ĐCSVN, công du Mỹ. Nó càng có tính cách lịch sử hơn nếu ông Trọng được ông Obama tiếp như lời nói úp mở của Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ hôm 19/5 tại Hà Nội rằng “TT Obama mong được tiếp TBT Trọng” ở Washington, DC, vì đây sẽ là lần đầu tiên người lãnh đạo quốc gia Mỹ tiếp người lãnh đạo một đảng cùa nước nhỏ, một biệt lệ trong nghi lễ ngoại giao của Mỹ.

Trong bối cảnh hiện nay tại Biển Đông và những cuộc viếng thăm Việt Nam dồn dập của các nhà lãnh đạo quốc phòng Mỹ --cả hành pháp lẫn lập pháp-- chuyến đi của ông Trọng sẽ bị coi là một thất bại nếu ông không tạo được bước tiến quyết liệt trong quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ.

Nếu ông thành công, thì việc mà Việt Nam rất mong muốn là chuyến công du Việt Nam của TT Obama cuối năm nay sẽ dễ thành sự thật.

TPP VÀ NHÂN QUYỀN-CÔNG ĐÒAN

Hỏi: Thưa Giáo sư, như ông biết là 12 nước, kể cả Hoa Kỳ và Việt Nam, đang cố gắng kết thúc đàm phán về Hiệp ước Thương mại xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP), nhưng có một số Dân biểu và Nghị sỹ trong Quốc hội Mỹ cho biết họ chưa sẵn sàng bỏ phiếu tán thành chừng nào Việt Nam còn tiếp tục đàn áp phi pháp người dân, chưa thả tù chính trị và chưa đồng ý cho phép công nhân được thành lập nghiệp đòan để bảo vệ quyền lợi.

Ông có nghĩ rằng Hiệp ước TPP đang gặp những khó khăn chính trị khó vượt qua giữa Mỹ và Việt Nam không ?

Đáp: Tình trạng nhân quyền ở VN là một nguyên nhân chống đối, nhưng nguyên nhân ấy không quan trọng bằng quyền lơi kinh tế của nghiệp đoàn lao động, một nguồn phiếu và tài chính quan trọng của các chính trị gia thuộc đảng Dân chủ.

TPP không phải chỉ là một vấn đề thuần kinh tế mà nó có tầm quan trọng chiến lược lơn đối với Mỹ. Thất bại trong việc hoàn tất hiệp ước TPP sẽ là một thất bại của nước Mỹ trong cuộc tranh giành ảnh hưởng kinh tế và chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc ở Á châu-Thái binh dương với hậu quả biến Mỹ thành một cường quốc hạng hai ở một khu vực có tầm quan trọng kinh tế và chiến lược bậc nhất thế giơi hiện nay và trong tương lai.

Tôi nghĩ rằng cuối cùng các chính trị gia Mỹ dù thiển cận, ích kỷ, và chịu áp lực cùa nhóm lơi ích đến đâu cũng nhận ra đâu là quyền lợi quốc gia quan trọng của nước Mỹ mà bỏ phiếu thông qua thủ tục phê chuẩn nhanh TPA (Trade Promotion Authority) và hiệp ước TPP.

Hỏi: Câu hỏi cuối cùng của chúng tôi với Giáo sư là vào tháng 9 tới đây, Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ thăm Hoa Kỳ, vậy ông kỳ vọng gì về chuyến đi này trong bối cảnh Hoa Kỳ đã công khai khó chịu trước kế họach trang bị quân sự mới và bành trướng Quốc phòng của Bắc Kinh ở Á Châu và Thái Bình Dương ?

Đáp: Nếu không có biến cố gì làm chuyến đi bị hủy hay trì hoãn, TQ sẽ tìm cách xoa dịu và ru ngủ Mỹ và hai bên sẽ tìm cách đạt được môt số thỏa thuận trong khung cảnh xây dựng một “quan hệ đại cường kiểu mới.”

Quốc hội CSVN sẽ họp phiên đặc biệt vào ngày 5/6/2015 để nghe Chính phủ tường trình về tình hình Biển Đông. Tuy nhiên, nếu chỉ nói để cho Quốc hội nghe mà không có thảo luận và không công khai thì có họp cũng như không.

Chuyện họp kín về tình hình Biển Đông đã xẩy ra vài lần tại Quốc hội trong qúa khứ, cũng như chuyện Quốc hội không dám đưa ra Nghị quyết lên án Trung Quốc khi nước này đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam tháng 5/2014 đã gây bất bình trong số đông Đại biểu Quốc hội và người dân.

Vậy liệu người dân có nên kỳ vọng gì vào phiên họp ngày 5/6 sắp tới của Quốc hội hay cứ tiếp tục cắn răng mà nghe Bộ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói rằng: “Trung Quốc đang tiến hành xây dựng đảo nhân tạo cần thiết trong khu vực chủ quyền và điều này không gây ảnh hưởng đến ai …Chúng tôi không giống như một số quốc gia khác tiến hành xây dựng trái phép trong khu vực của người khác. Chúng tôi chỉ xây dựng đảo ngay trên sân nhà của chúng tôi” ?

(Trích phát biểu ngày 08/03/1015 tại Bắc Kinh)

VÀO CUỘC BẰNG NƯỚC BỌT

Chính phủ CSVN đã không có “ăn miếng trả miếng” với tuyên bố của Vương Nghị mà để cho một số báo và cá nhân lên tiếng chống lại quan điểm tiếm nhận chủ quyền trắng trợn của họ Vương.

Mãi cho đến chiều ngày 27/5/ (2015), trong cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ, mới thấy Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn lên tiếng xác nhận: “ Hiện nay Trung Quốc đang công khai và ráo riết triển khai các hoạt động lấn biển, thi công các công trình với quy mô rất lớn trên tất cả các cấu trúc mà Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp ở Trường Sa của Việt Nam.”

Theo ông Tuấn: “ Đặc biệt hiện nay các hoạt động này diễn ra nhiều tại 5 địa điểm, cụ thể là Gaven khoảng 15 héc-ta, Gạc Ma khoảng 13,2 héc-ta, Châu Viên khoảng 24 héc-ta; Huy Gơ khoảng 9,2 héc-ta và lớn nhất là chữ Thập khoảng 180 héc-ta.

“Tất cả các đoàn đi Trường Sa thì đều phát hiện điều đó. Ba cấu trúc mà Trung Quốc xây dựng thành đảo là Gaven, Huy Gơ và GạcMa. Hiện nay hầu hết ở các điểm đó hầu hết họ tạo các luồng lạch để cho tàu đi vào.

Ở một số đảo họ xây công trình cao tầng, thí dụ như ở Huy Gơ và Gạc Ma có công trình cao bảy, tám tầng. Ngoài ra, họ xây dựng các công trình cao như đèn biển hoặc trung tâm hướng dẫn bay”.

Những tiết lộ của ông Tuấn không mới vì đã được một số báo chuyên về Quốc phòng của nước ngoài tiết lộ rồi.

Có khác chăng là Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam đã vào cuộc lên án việc làm của Trung Quốc mà đảng và nhà nước CSVN từ lâu vẫn ca ngợi “vừa là đồng chí vừa là anh em”, hay “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” !

Thứ trưởng Tuấn nói: “Các hành vi xâm lấn trái phép biển đảo của Việt Nam do phía Trung Quốc thực hiện đã diễn ra trong nhiều năm nay. Thứ trưởng Trương Minh Tuấn khắng định: “Việc làm của Trung Quốc là bất chấp phản ứng của ta và cộng đồng quốc tế.

Có thể nói tình hình Biển Đông chưa có xảy ra đụng độ, nhưng việc làm đó là một bước đi chiến lược của Trung Quốc để nhằm hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò, không loại trừ khống chế và kiểm soát toàn bộ phía Nam của Biển Đông. Thí dụ như vừa rồi họ ra lệnh cấm đánh bắt cá và cũng không loại trừ trường hợp họ tuyên bố vùng nhận dạng phòng không”.

(Trích báo Giáo dục Việt Nam, 27/05/2015)

Vậy Việt Nam sẽ làm gì để lấy lại niềm tin trong dân và sự tin cậy của các nước trong khu vực hay Hà Nội cứ tiếp tục “nói cho qua cầu” với hy vọng áp lực của Quốc tế sẽ ngăn chận các bước đi tiếp theo của Bắc Kinh ?

Nên biết Trung Cộng đã chiếm Hòang Sa của Việt Nam từ năm 1974 và đánh chiếm 8 bãi đã ỡ Trường Sa từ năm 1988 mà đảng CSVN chưa làm gì để chiếm lại hay ít ra ngăn chận Trung Cộng không thể biến bãi thành đảo như đang diễn ra ở vùng Trường Sa.

Vì lãnh đạo Việt Nam đã không làm gì cả nên biển đảo Việt Nam cứ mất dần vào tay Trung Quốc như ai cũng đã thấy.

Bằng chứng, như chuyên gia Nguyễn Mạnh Hùng cảnh giác về việc Trung Quốc hình thành các đảo nhân tạo “không ai, kể cả Mỹ, có thể đảo ngược tình thế trừ khi sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với TQ, mà Thứ trưởng Trương Minh Tuấn vẫn cứ đề nghị hoang tưởng: “Trong thời gian tới chúng tôi rất mong muốn các cơ quan báo chí tiếp tục tuyên truyền về chiến lược biển của Việt Nam đến năm 2020, tuyên truyền về mô hình phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền trên biển.”

Ông nói: “ Tôi rất mong các cơ quan báo chí có những tin bài sắc bén, có lý lẽ và thuyết phục để đấu tranh với Trung Quốc trước những hoạt động lấn biển vi phạm DOC và Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982”. (trích báo Giáo dục Việt Nam, 27/05/2015)

Đề nghị của ông Tuấn sẽ như khua trống thùng rỗng chỉ đủ nghe cho Bộ Thông tin và Truyền Thông và Ban Tuyên giáo đảng. Nhà nước “bành trướng và bá quyền” Bắc Kinh ở cách xa thủ đô Hà Nội tới 2,322 cây số, và phải mất 4 giờ bay thẳng mới tới nơi thì làm sao Lãnh tụ Tập Cận Bình nghe thấu ?

Rõ là chuyện chỉ biết “nói cho xong chuyện” mà quên rằng kẻ thù đã đến sau lưng. -/-

Phạm Trần

(05/015)
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
“Sứ điệp từ Trời”: trái nghịch với đức tin Công giáo
Phạm Huy Thông
11:05 28/05/2015
Ngay trong phiên họp thường niên lần I năm 2015 của Hội đồng GMVN, Ủy ban Giáo lý Đức tin đã ra một Thông cáo đề ngày 14-4-2015. Thông cáo do Đức Cha Chủ tịch Giuse Nguyễn Năng ký có sự phê chuẩn của Đức TGM Chủ tịch Hội đồng GMVN Phao lô Bùi Văn Đọc. Thông cáo kết luận: “Các tín hữu Công Giáo sẽ không đọc, không phổ biến và không rao giảng các “Sứ điệp từ trời”. Ngay lập tức trang mạng sudieptutroi.net đã lên tiếng phản bác cho rằng Thông cáo trên hoàn toàn vô giá trị và đó chỉ là sự hợp thức hóa cho một linh mục dòng Đa Minh, Giuse L.V.S, vốn không ưa nhóm “Sứ điệp từ trời”. Có linh mục như Đa Minh Đ.T còn chia sẻ ngày 6-5-2015 rằng: “Các con của Chúa đang bị bách hại một cách vô cùng bất công qua Thông cáo ngày 14-4-2015 của Ủy ban Giáo lý Đức tin”. Một số người tín hữu tỏ ra hoang mang lo lắng. Vậy thực hư câu chuyện là như thế nào?

1. Vài lời về nhóm “Sứ điệp từ Trời”

Vào thàng 11- 2010 ở châu Âu xuất hiện “Sứ điệp từ Trời”. Tác giả của Sứ điệp này ẩn danh và xưng mình là Maria Divine Mercy (Maria Tông đồ Lòng Chúa thương xót). Theo báo chí, bà là doanh nhân Công Giáo sống ở thành phố Dublin của Ailen. Bà nói rằng, bà được Thiên sứ Gabriel sai công bố các Ấn bí mật trong sách Khải Huyền của thánh Gioan. Bà công bố các điều bà cho là “mặc khải” đó bằng cách viết ra các “Sứ điệp từ Trời”. Tính đến đầu tháng 4-2015, bà đã cho công bố 1330 Sứ điệp. Các Sứ điệp này được tập hợp thành “The book of Truth” (Sách Sự Thật), đã in ra 3 tập, có cả bản dịch tiếng Việt (ảnh trên). Nội dung của cuốn sách có mấy nội dung chính: Cảnh báo thế giới tội lỗi; Kêu gọi loài người thống hối ăn năn; Tiên báo ngày Chúa quang lâm trở lại. Nhóm này có Facebook mang tên “Jesus to Mankind” ( Chúa Giêsu đối với nhân loại) với 17.000 thành viên. Tại Việt Nam cũng có trang website của nhóm này và một số giáo xứ cũng đã có hội đòan mang tên “Hội cầu nguyện Mân Côi” để cổ vũ cho “Sứ điệp từ Trời”.

Bà Maria cho rằng, những Sứ điệp hay cuốn “Sách Sự Thật” là do chính Thiên Chúa là tác giả. Bà chỉ là người chấp bút. Trong Sứ điệp đề ngày 12-11-2010, bà viết, Thiên Chúa nói với bà: “ Con phải dồn hết tâm lực để viết cuốn sách. Cuốn sách này sẽ cải biến cuộc đời nhiều người, sẽ cứu rỗi các linh hồn…Con là người viết. Ta là tác giả. Con đừng ngạc nhiên và choáng ngợp vì đây là trách nhiệm thiêng thánh và con là người được chọn để làm việc cùng Ta. Con sẽ phải dành 3 tháng để hoàn tất Lời Ta. Ta muốn con xuất bản cuốn sách đó cho toàn thế giới. Cuốn sách đó phải được phổ biến rộng khắp, đầy sức mạnh và được hàng triệu người đọc như cuốn Kinh Thánh vậy”.

Sau khi nhóm này bị một số Giám mục, TGM, thần học gia lên tiếng phê phán, bà Maria đã tung ra nhiều Sứ điệp với lời lẽ đe dọa. Sứ điệp ngày 26-5-2013 viết: “ Những kẻ gây tổn thương cho Người nhiều nhất là những kẻ nói rằng luôn yêu mến Người, nhưng giờ đây lại nghi ngờ những lời phán truyền qua các ngôn sứ được Thiên Chúa tuyển chọn. Những ai cậy nhờ Mẹ, Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, Mẹ Chí Thánh của Thiên Chúa làm nơi ẩn náu nhưng lại thốt ra những lời ghê tởm thì làm cho Mẹ khổ đau đến tột cùng. Những ai khoe khoang về phương pháp có tính học thuật trong việc tuân theo lời Kinh Thánh của Thiên Chúa và lại dùng phương pháp này để chối bỏ lời của Ta được ban cho nhân loại ngày nay thì các con đã phạm trọng tội. Tội của các con là tội kiêu ngạo. Nói một cách đơn giản nhất là các con đã xúc phạm Ta”.

2. Trái nghịch đức tin Công Giáo

Đọc các “Sứ điệp từ Trời” thấy đằng sau những lời có vẻ huyền nhiệm, thánh thiêng có rất nhiều nội dung sai lại với giáo lý đức tin Công Giáo. Sứ điệp cho rằng, chỉ có Kinh Thánh mới là chân lý và mặc nhiên chối bỏ huấn quyền của Tòa thánh. Thật ra, điều này không mới vì từ thế kỷ XVI, M. Luther của Tin Lành đã có ý tưởng đó. Trong Sứ điệp ngày 25-12-2010 viết: “ Bất kỳ giáo lý nào không bắt nguồn từ Kinh Thánh mà lại tự nhiên cho là có thẩm quyền công bố chân lý thì đều là dối trá. Đây là tội chống lại Ta (Đức Giêsu) và là sự nhạo báng nặng nề đối với Ta và Chúa Cha hằng hữu của Ta”. Sứ điệp ngày 13-9-2011 viết tiếp: “ Đừng bao giờ cho phép mình thừa nhận bất kỳ sự thật nào khác ngoài những điều có trong Kinh Thánh”.

Các Sứ điệp cũng đưa ra những nội dung giải thích sai lầm về mục đích nhập thể của Chúa Giêsu. Sứ điệp ngày 24-12-2010 tuyên bố rằng: “ Việc Ta đến trần gian đã được sắp đặt như một cơ hội cuối cùng để thức tỉnh trần gian, ngõ hầu cho mọi người nhận ra rằng Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Vai trò của Ta là để chỉ cho các con con đường lên trời, nhờ vào giáo huấn và cái chết của Ta trên Thập giá”. Như vậy, sứ vụ của Ngôi Hai Thiên Chúa không phải là cứu rỗi thế gian mà chỉ ra con đường lên trời thôi.

Nhóm Sứ điệp này cũng liên tục đưa ra những cảnh báo đau khổ của thế giới theo thuyết ngàn năm. Trong Sứ điệp ngày 20-5-2011 viết: “ Nhiều bối rối của thế giới liên quan đến biến cố này. Nhiều người tin rằng, cuộc quang lâm của Ta tức ngày tận cùng của thế giới đang đến. Nhưng không phải như vậy, thay vào đó, cuộc quang lâm của Ta có nghĩa là thời kỳ cuối của Satan và bè lũ của hắn, những kẻ đã tạo ra những đau khổ không kể xiết trên thế giới và sẽ bị trục xuất khỏi Trái đất trong vòng 1.000 năm”.

Nhóm Sứ điệp cũng phổ biến nhiều luân lý sai lạc với giáo lý Công Giáo. Chẳng hạn, đã cào bằng mọi hình thức cướp đi sinh mạng của người khác, bất kể trong trường hợp nào. Sứ điệp ngày 26-1-2012 ghi: “ Ngươi không được giết người khác. Điều này không có ý nói về sự tự vệ nhưng về bất kỳ trường hợp nào khác. Không ai được biện minh cho việc giết người, dù phá thai, hành hình hay trợ tử. Không người nào được phép”. Như vậy, hành vi của người linh ngoài trận mạc, của người thi hành án tử hình với kẻ giết người là như nhau cả sao?

Nhóm Sứ điệp cũng phê phán nặng nề hình thức rước lễ trên tay đã phổ biến trên thế giới trong phụng vụ của người Công Giáo. Sứ điệp ngày 6-7-2011 nói: “ Bí tích Thánh thể Chí thánh phải được đón nhận trên lưỡi và không được đón nhận một cách ô nhơ bởi tay con người. Tuy nhiên, điều này cũng chính là những gì các tôi tớ đã được thánh hiến của Ta đang thực hiện. Các luật lệ này không được thông qua Ta trong thần khí”.

Về Bí tích Hòa giải, nhóm này cũng đưa ra các chỉ dẫn không đúng. Sứ điệp ngày 9-7-2012 viết: “ Đối với người Công Giáo các con phải lãnh nhận Bí tích hòa giả hai tuần một lần, nếu các con muốn tiếp tục được sống trong ân sủng”. Rõ ràng, điều này không theo giáo lý Công Giáo. Giáo Hội buộc người tín hữu phải xưng tội, rước lễ trong mùa Phục sinh, còn khuyên người tín hữu luôn sám hối, hòa giải với Chúa chứ không định lịch “hai tuần một lần” như nhóm Sứ điệp tuyên truyền. Nhóm này cũng đưa ra những điều kiện để được tha tội không như giáo lý Giáo Hội Công Giáo vẫn rao dạy. Sứ điệp ngày 9-7-2012 viết: “ Người nào đọc kinh đặc biệt (do nhóm Sứ điệp chỉ dẫn) trong 7 ngày liên tục thì được ơn xá giải mọi tội lỗi… Kinh đọc đặc biệt khác để xin ơn tha tội cho những người chết trong tình trạng mắc tội trọng”.

Đặc biệt, nhóm Sứ điệp đưa ra nhiều tuyên bố không đúng về đấng kế vị Phêrô. Khi Đức Bênêdictô XVI tuyên bố từ nhiệm ngày 11-2-2013, nhóm Sứ điệp lập tức tố cáo một “âm mưu đen tối của giáo triều Rôma” : “ Mẹ kêu gọi tất cả các con của Mẹ ở khắp mọi nơi hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, ngài đang gặp nguy cơ bị trục xuất ra khỏi Tòa thánh ở Rôma. Ngài là vị đại diện Thánh của Giáo Hội Công Giáo đang bị thù ghét ở nhều nơi trong Tòa thánh” (Sứ điệp ngày 20-3-2013). Sứ điệp ngày 26-5-2013 còn kết luận rằng: “ Giáo hoàng Bênêdicto đã kết thúc vai trò đại diện Chúa Kitô và sau đó là vị Giáo hoàng giả”. Như vậy nhóm Sứ điệp đã nghi ngờ sự kế vị hợp pháp của Giáo hoàng đương nhiệm Phanxicô đồng thời không chấp nhận việc có Giáo hoàng Benedicto XVI hưu trí. Sứ điệp ngày 22-7-2013 viết: “Chỉ có một chủ chăn của Giáo Hội trên trái đất được Con Mẹ trao quyền. Ngươi vẫn cứ phải là Giáo hoàng cho đến chết. Bất cứ ai khác, đều là kẻ giành quyền trên ngai Tòa thánh Phêrô, đều là kẻ mạo danh”.

Chính vì những quan điểm sai lạc trên đây, nên nhiều nhà nghiên cứu thần học, giáo lý cũng như các đấng bản quyền các nơi đã ra các tuyên bố lên án nhóm này là lạc giáo, rối đạo như các Đức TGM Demis Hart (Úc), Fabro (London), Scephensecta (Slovakia), Mark Colegnige (Úc)… Ngay chính tại Tổng giáo phận Dublin, nơi bà Maria sinh sống, Đức TGM Diarmuid Martin sau khi đã tiến hành điều tra về nhóm Sứ điệp đã ra tuyên bố ngày 16-4-2014: “ Nay TGM Diarmuid Martin khẳng định rằng, các sứ điệp này cũng như các thị kiến đi kèm không được chuẩn nhận và nhiều điều trong các sứ điệp đi ngược lại với thần học Công Giáo. Vậy không được phổ biến các sứ điệp này trong các hội đoàn thuộc Hội thánh Công Giáo”.

Như vậy, không còn nghi ngờ gì về nhóm Sứ điệp này nữa và Thông cáo của Ủy ban Giáo lý Đức tin thuộc Hội đồng GMVN ngày 14-4-2015 là hoàn toàn chính xác.

Hà Nội, cuối tháng Hoa năm 2015
 
Văn Hóa
Viết về thần tượng Giêsu
Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.
09:35 28/05/2015
Viết về Thần Tượng Giêsu

Tôi có thể có một thần tượng để yêu mến. Nhưng tôi không thể chọn một thần tượng phàm nhân để tôn thờ và phó thác trọn cuộc đời, bởi họ không thể cho tôi những điều cao quý, không là nền tảng cho toàn bộ đời sống và sự hiện hữu của tôi. Tôi cần một thần tượng xứng danh là Vị Thần của tình yêu, là Chúa Tể của vạn vật. Đấng ấy là Thiên Chúa vô hình, nhưng cũng là con người hữu hình, có tên gọi là Giêsu! Nhưng thực ra, trước khi tôi chọn Người làm thần tượng, chính Người đã liên lỉ đi tìm, thúc bách tôi và chọn tôi rồi.

Có rất nhiều bạn trẻ bị “hớp hồn” bởi muôn vàn hào nhoáng bên ngoài của nhiều minh tinh màn bạc. Tài năng và hình ảnh của họ (Big Bang, Bi Rain, hay Sơn Tùng M-TP…) đã chiếm lĩnh được tâm trí của giới tuổi teen. Nhiều bạn trẻ muốn bắt chước cung cách sống của họ với hy vọng mình nên giống họ, giống trong cách ăn mặc, nói năng và có ngày cũng được vinh quang như họ. Không ít bạn liều mình đánh đổi tất cả để được ngắm nhìn, đụng chạm và tôn thờ thần tượng nhân loại ấy. Nhiều bạn trẻ say mê đến cuồng nhiệt cách quá đáng, bất chấp tất cả để chạy theo thần tượng đến nỗi đánh mất chính mình! Rồi đến khi thần tượng ấy sụp xuống, cái còn lại trong lòng chỉ là những hụt hẫng với buồn đau.

Quanh bạn và tôi có một Thần Tượng nổi tiếng không bao giờ lu mờ hay sụp đổ: Thần Tượng Giêsu! Phải, Giêsu luôn là Thần Tượng tuyệt vời trên tất cả thần tượng trần gian. Tuy hát không hay như những ca sĩ nổi danh, nhưng Lời Người phán ra là ngọn đèn soi cho ta bước đến bến bờ hạnh phúc. Tuy không có những biệt tài như các nghệ sĩ lừng danh, nhưng Người làm biết bao phép lạ diệu kỳ. Không hào nhoáng như các minh tinh màn bạc, nhưng Người đã khơi dậy men muối của tình yêu và sức sống trong tâm hồn mỗi người. Đặc biệt, Người có tình yêu thương, quyền năng và ơn cứu độ cho bất cứ ai tin vào Người. Đó là mỗi món quà thánh thiêng mà bất cứ ai cũng cần.

Fan hâm mộ của Giêsu là những ai dám từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người đến cùng. Vậy từ bỏ để đi theo Thần Tượng Giêsu, fan yêu mến Người sẽ được gì? Người bảo đảm cho họ: “…ngay ở đời này, nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau.” (Mc 10,28-31). Quả thực, khi theo Thần Tượng của mình, tôi tin chắc rằng Người hằng yêu thương tôi bởi Người đã hiến dâng mạng sống mình để cứu tôi, và hiện tại mỗi ngày Người luôn cận bên tôi để soi sáng cho tôi, củng cố tôi, giải thoát tôi. Đó là những ân huệ vô giá mà Thần Tượng Giêsu đã ưu ái cho danh người hâm mộ của mình.

Tôi tin rằng mình chẳng bao giờ hối tiếc khi chọn bước theo Thần Tượng Giêsu. Lý do là vì nơi Người có tình yêu và sự sống vĩnh hằng. Cho dẫu cuộc sống quanh tôi có nhiều thần tượng đang được nhiều fan cuồng nhiệt tán dương, nhưng chọn Giêsu làm Thần Tượng là chọn lựa khôn ngoan và phải đạo! Khôn ngoan vì chính Ngài là Chúa Tể muôn loài và tuyệt đối yêu thương; phải đạo vì Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống. Nếu ai cũng thành tâm chọn Giêsu làm lẽ sống cho cuộc đời, trái đất sẽ ngập tràn hạnh phúc. Có Giêsu rồi, ta có thể sống một đời sống Kitô hữu thánh thiện và nhiều niềm vui. Bạn có muốn là một fan ngưỡng mộ và hết lòng yêu mến Thần Tượng Giêsu không? Đừng ngần ngại đến để ngỏ lời với Người, bạn nhé!

Lạy Chúa Giêsu, chúng con thiết tha xin Người thôi thúc nhiều bạn trẻ sáng suốt lựa chọn đúng hướng đi cho cuộc đời. Xin ban cho người trẻ ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để họ biết phân biệt đâu là thần tượng đích thực để họ bước theo. Xin đừng để chúng con chạy theo quyến rũ của hào nhoáng bên ngoài mà quên mất những giá trị vững bền, xem nhẹ đời sống nội tâm. Được như thế, chúng con có thể nhận ra Người chính là Thần Tượng duy nhất để chúng con tin yêu và tôn thờ. Amen.

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thân Cò Lặn Lội
Nguyễn Đức Cung
21:27 28/05/2015
THÂN CÒ LẶN LỘI
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Cảm ơn em cò
Đã san sẻ cùng tôi gánh đời lận đận
Khi yêu thương - khi buồn giận
Lúc đậu cành mềm - lúc đi đón cơn mưa
Sương sớm nắng trưa
Cò vẫn ở bên tôi chia dưa sớt muối
Con cò yếu đuổi
Vẫn đảm đang trời tối chưa nằm.
(Trích thơ của Lê Phú Hải)
 
VietCatholic TV
Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 21/05 - 27/05/2015: Câu chuyện Đức Giêsu hiện ra ở Biển Hồ Tibêria
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
02:09 28/05/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Kitô hữu phải luôn nghĩ đến ngày vĩnh biệt cuộc đời

Trong bài giảng thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta sáng thứ Ba 19 tháng Năm, Đức Thánh Cha nói nhiều người dân Rohingya ở Miến Điện, các tín hữu Kitô và người Yazidis tại Iraq đã buộc phải nói lời chia tay với những ngôi nhà của họ. Cuộc đời của chúng ta đều được đánh dấu bằng những lời tạm biệt và vĩnh biệt có tầm quan trọng khác nhau. Mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về sự vĩnh biệt cuối cùng của chúng ta khỏi cuộc sống này và ý nghĩa của sự phó thác trong tay Chúa.

Bài giảng Đức Thánh Cha Phanxicô được cảm hứng từ những lời chia tay của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc thương khó và cái chết, và tiếng khóc của Thánh Phalô trên bãi biển với những người tiễn ngài lên Giêrusalem.

Dựa trên hai sự kiện này, Đức Thánh Cha đã nói về những lời tạm biệt và vĩnh biệt ghi dấu trong cuộc đời mỗi người chúng ta ra sao, và chúng ta nên đối diện với những biến cố này như thế nào.

Cuộc sống của chúng ta trong cõi nhân sinh này được tạo thành bởi cơ man những lời tạm biệt và vĩnh biệt lớn nhỏ, trong đó không thiếu những chia tay đẫm lệ và tan nát tâm can.

Đức Thánh Cha nói:

“Ngày hôm nay đây, chúng ta hãy nghĩ đến những người Rohingya tội nghiệp ở Miến Điện. Khi rời bỏ vùng đất của mình để trốn chạy sự đàn áp, họ không biết điều gì sẽ xảy ra với họ. Và họ đã phải ở trên thuyền hàng tháng trời. Họ đến một thị trấn, người ta cho họ thực phẩm và nước uống và bảo họ đi chỗ khác đi. Đó là một lời từ biệt. Lời chia tay hiện sinh này đang diễn ra trong thời đại chúng ta. Chúng ta cũng hãy suy nghĩ về những lời chia tay của các Kitô hữu và người Yazidis Iraq, là những người tin rằng họ không còn có thể quay trở lại vùng đất của họ vì họ đã bị đuổi khỏi những ngôi nhà thân yêu của mình. Điều này đang xảy ra ngay bây giờ.”

Đức Giáo Hoàng nói có những chia tay nhỏ như khi một người mẹ ôm đứa con trai sắp ra chiến trường và rồi có cái vĩnh biệt sau cùng khi một người rời khỏi thế giới này. Ngài nhận xét rằng chia tay là một chủ đề được khám phá nhiều trong nghệ thuật và trong những bài hát.

“Tôi đang nghĩ đến một điều đó là trung đoàn Alpini của Ý, khi sĩ quan chỉ huy tạm biệt những người lính của mình, đến di chúc của viên sĩ quan này. Tôi đang nghĩ đến cái chia tay lớn của tôi, khi tôi không nói ‘hẹn gặp lại nhé’, ‘tạm biệt’, nhưng là ‘vĩnh biệt’. Hai bài đọc đều dùng chữ ‘addio’ (chia tay theo nghĩa cuối cùng). Thánh Phaolô phó thác mọi sự cho Thiên Chúa, và Chúa Giêsu trao phó các môn đệ Người vẫn còn trên dương thế này cho Chúa Cha. ‘Họ không thuộc về thế gian này.. xin Cha gìn giữ họ’. Chúng ta chỉ nói ‘vĩnh biệt’ tại thời điểm của những chia tay sau cùng, khi chia tay cuộc sống này hay là vĩnh viễn không còn trông thấy nhau.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói tiếp rằng mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về ngày vĩnh biệt cuối cùng của mình hay ngày mình qua đời và tự vấn lương tâm của chúng ta, như Chúa Giêsu và Thánh Phaolô đã làm.

“Tôi sẽ để lại cho đời cái gì? Cả Chúa Giêsu và thánh Phaolô trong hai bài đọc đều thực hiện một loại xét mình: ‘Tôi đã làm điều này, điều nọ và điều kia. .. Và tôi đã làm được những gì? Sẽ tốt cho tôi để tưởng tượng ra bản thân mình tại thời điểm đó. Chúng ta không biết khi đó sẽ xảy ra những gì, nhưng khi đó những thành ngữ như ‘gặp lại sau nhé’, ‘mong sớm gặp lại’, ‘ngày mai gặp lại nhé’, ‘tạm biệt’... sẽ trở thành ‘vĩnh biệt’ – addio. Liệu tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để phó thác mọi sự cho Thiên Chúa, để tín thác nơi Ngài, để nói với Chúa những lời của đứa con đặt mình trong tay Cha?”

Đức Thánh Cha kết luận bài giảng của ngài với lời cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần dạy chúng ta biết làm thế nào để nói lời vĩnh biệt và thật sự phó thác cho Thiên Chúa ở cuối cuộc đời của chúng ta.

2. Hãy để cái nhìn của Chúa Giêsu thay đổi tâm hồn chúng ta

Mỗi người trong chúng ta nên xin Chúa Giêsu đoái nhìn chúng ta và bảo cho chúng ta biết chúng ta cần phải làm những gì để thay đổi con tim mình và ăn năn những tội lỗi đã phạm. Chúng ta nên suy nghĩ xem Chúa Giêsu đang nhìn chúng ta với một lời mời gọi, với một sự tha thứ hay với một sứ mệnh. Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra nhận xét trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 22 tháng 5 tại nhà nguyện Santa Marta.

Lấy cảm hứng từ các bài Tin Mừng trong ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày những suy tư của ngài trên ba cách thức khác nhau mà Chúa Giêsu đã đưa mắt nhìn Tông Đồ Phêrô. Ba ánh mắt khác nhau ấy bao gồm ánh mắt của sự lựa chọn, ánh mắt của sự tha thứ và ánh mắt trao ban sứ vụ.

Đức Thánh Cha nhắc lại bài Phúc Âm đã tường thuật ra sao về việc Tông Đồ Anrê nói với anh mình là ông Phêrô rằng họ đã gặp được Đấng Thiên Sai và đưa ông đến gặp Đức Giêsu. Chúa Kitô nhìn ông và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Phêrô (Kêpha) có nghĩa là Đá. Đức Thánh Cha nói Phêrô đã rất nhiệt tình sau cái nhìn đầu tiên ấy của Chúa Giêsu và muốn theo Chúa chúng ta ngay.

Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

“Nhưng mà sau đó, vào buổi tối trước khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Phêrô đã chối Chúa ba lần và khi Chúa Giêsu quay lại và nhìn thẳng vào ông sau khi ông chối Chúa lần thứ ba, Phêrô đã bật khóc.”

“Phúc âm của Thánh Luca nói: ‘Ông Phêrô khóc lóc thảm thiết’. Nhiệt tình theo Chúa Giêsu trước đó đã biến thành nỗi đau, vì ông đã phạm tội: Ông đã phủ nhận từng biết Chúa. Cái nhìn ấy của Chúa Giêsu đã thay đổi con tim của Phêrô, còn nhiều hơn cả cái nhìn trước đó. Sự thay đổi đầu tiên là được có một tên mới và một ơn gọi mới. Trong khi ánh mắt thứ hai của Chúa Giêsu là một cái nhìn thay đổi con tim ông và hình thành sự hoán cải cho tình yêu”.

Đức Thánh Cha nói tiếp rằng cái nhìn thứ ba Chúa Giêsu dành cho Phêrô là cái nhìn giao phó sứ vụ. Khi Ngài hỏi ông ba lần ông có mến Chúa không trước khi giao phó nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của Ngài. Đức Thánh Cha lưu ý rằng Phúc Âm đã mô tả ông Phêrô cảm thấy buồn ra sao khi Chúa Giêsu hỏi ông tới ba lần cùng một câu hỏi đó.

Đức Thánh Cha giải thích như sau:

“Buồn vì Chúa Giêsu hỏi ông tới ba lần ‘Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?’ và ông đáp lại: ‘Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.’ Chúa Giêsu đáp lại: ‘Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.’ Đây là cái nhìn thứ ba, cái nhìn giao phó sứ vụ. Cái nhìn thứ nhất là cái nhìn lựa chọn khơi dậy một lòng nhiệt thành muốn theo Chúa; cái nhìn thứ hai là cái nhìn thứ tha khơi dậy lòng ăn năn vào thời điểm của một tội lỗi nghiêm trọng là chối Chúa; cái nhìn cuối cùng là cái nhìn sứ vụ: ‘Hãy chăm sóc chiên con của Thầy’, ‘Hãy dưỡng nuôi đoàn chiên của Thầy’”

Đức Thánh Cha mời gọi cộng đoàn hãy suy nghĩ về cái nhìn của Chúa Giêsu dành cho chúng ta hôm nay.

“Cả chúng ta cũng nên suy tư xem ánh mắt nào Chúa Giêsu dành cho tôi ngày hôm nay là gì? Chúa Giêsu đang nhìn tôi như thế nào đây? Với một lời mời gọi? hay với một sự tha thứ? Hay với một sứ mệnh? Trên con đường Ngài đã vạch ra, tất cả chúng ta đang được Chúa Giêsu đưa mắt nhìn. Ngài luôn luôn nhìn chúng ta với tình yêu. Ngài kêu gọi chúng ta một điều gì đó, Ngài tha thứ cho chúng ta cho một cái gì đó và Ngài trao ban cho chúng ta một sứ mệnh. Chúa Giêsu đang ngự trên bàn thờ. Xin cho mỗi người trong chúng ta biết nghĩ rằng: 'Lạy Chúa, Chúa ở đây, giữa chúng con. Xin đoái nhìn đến con và cho con biết con phải làm gì: làm sao con ăn năn những sai lầm của con, tội lỗi của con; con cần sự can đảm nào để đi tiếp trên con đường mà Chúa đã vạch ra ban đầu.”

3. Câu chuyện Đức Giêsu hiện ra ở Biển Hồ Tibêria

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Bài chia sẻ của Đức Thánh Cha Phanxicô “Hãy để cái nhìn của Chúa Giêsu thay đổi tâm hồn chúng ta” mà Hà Thu và Kim Thúy vừa trình bày đề cập đến câu chuyện Chúa Giêsu hỏi Thánh Phêrô 3 lần “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” mặc dù thánh nhân đã trả lời “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Bối cảnh câu chuyện này là biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ ngài ở Biển Hồ Tibêria mà Như Ý xin được thuật hầu quý vị và anh chị em sau đây:

Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư? “ Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó! “ Vừa nghe nói “Chúa đó! “, ông Simôn Phêrô vội rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây! “ Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn! “ Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai? “, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? “ Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không? “ Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không? “ Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không? “ Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.”

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Hãy thả lưới xuống bên phải. Thánh Phêrô và các môn đệ là những ngư phủ lành nghề, họ đã làm việc vất vả cả đêm mà không bắt được gì cả. Tuy nhiên, từ bờ biển, Đức Kitô ra lệnh cho họ và khi họ làm theo sự chỉ dẫn của Người, họ đã bắt được một mẻ cá lớn.

Khi chúng ta có những khả năng và năng khiếu thì chúng ta nên vận dụng chúng. Tuy nhiên, những nỗ lực làm việc tông đồ sẽ không sinh hoa kết quả nếu chúng ta không hành động theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Vì vậy, bất cứ khi nào chúng ta đảm nhận một việc gì, trước hết hãy hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Ngài muốn chúng con làm gì?” hay “Lạy Chúa, Ngài muốn chúng con nói gì?”

Chúng ta hãy tìm kiếm thánh ý Chúa dành cho chúng ta là gì như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói hôm thứ Sáu 22 tháng 5.

“Chúng ta nên suy tư xem ánh mắt nào Chúa Giêsu dành cho tôi ngày hôm nay là gì? Chúa Giêsu đang nhìn tôi như thế nào đây? Với một lời mời gọi? hay với một sự tha thứ? hay với một sứ mệnh? Lạy Chúa, Chúa ở đây, giữa chúng con. Xin đoái nhìn đến con và cho con biết con phải làm gì: làm sao con ăn năn những sai lầm của con, tội lỗi của con; con cần sự can đảm nào để đi tiếp trên con đường mà Chúa đã vạch ra ban đầu.”

4. Kitô hữu được mời gọi để nên một

Vết thương của Chúa Giêsu là “giá” mà Ngài đã phải trả cho Giáo Hội được hiệp nhất mãi mãi với Ngài và với Chúa Cha. Kitô hữu ngày nay được kêu gọi để xin ơn hiệp nhất và chiến đấu chống lại tất cả “tinh thần chia rẽ, chiến tranh, và ghen tị.”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ sáng Thứ Năm 21 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng “lời cầu nguyện lớn của Đức Giêsu” là Giáo Hội được hiệp nhất - là các Kitô hữu được “nên một” như Chúa Giêsu với Chúa Cha. Trình bày những suy tư của ngài trên các bài đọc trong ngày, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa cộng đoàn trở lại không khí của bữa tiệc ly - không lâu trước khi Đức Kitô trao ban cho chính Ngài trong cuộc Thương Khó. Nhắc lại lời nói nghiêm trọng mà Đức Kitô ủy thác cho các Tông Đồ, Đức Thánh Cha cảnh báo chúng ta chống lại các chước cám dỗ của thế gian là sấp mình thờ lạy “người cha khác” là ma quỷ, là đứa gian trá và gây chia rẽ.

Sau đó, Đức Thánh Cha đã trình bày 3 điểm chính là Giá của sự hiệp nhất, Các khuôn mặt của sự chia rẽ và Đoàn kết là ân sủng, không phải là “chất keo”

Giá của sự hiệp nhất

Đức Thánh Cha nhận xét rằng thật an ủi khi nghe Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha rằng Ngài không muốn chỉ cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài mà thôi nhưng còn cho cả những ai sẽ tin vào Ngài “thông qua lời của các môn đệ” Ngài. Đó là một cụm từ quen thuộc, nhưng Đức Giáo Hoàng nhận định rằng lời ấy có một giá trị đặc biệt đáng chú ý đến.

“Có lẽ, chúng ta không chú ý đủ đến những lời này: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho tôi! Điều này thực sự là một nguồn mạch đem lại sự tự tin cho chúng ta. Người cầu nguyện cho tôi, Người cầu nguyện cho tôi. .. Tôi tưởng tượng ra hình ảnh khi Chúa Giêsu đứng trước mặt Chúa Cha trên Thiên Đàng. Ngài cầu nguyện cho chúng ta, Ngài cầu nguyện cho tôi và những gì Chúa Cha thấy là vết thương, là giá Chúa Giêsu đã phải trả cho chúng ta. Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi với những vết thương của Ngài, và với trái tim đầy thương tích của Ngài và Ngài sẽ tiếp tục làm như vậy.”

Các khuôn mặt của sự chia rẽ

Chúa Giêsu cầu nguyện “cho sự hiệp nhất của dân Ngài, cho Giáo Hội.” Nhưng Chúa Giêsu biết rằng “tinh thần của thế gian” là “tinh thần của chia rẽ, chiến tranh, ghen tị, ganh ghét ngay cả trong gia đình, ngay cả trong cộng đoàn tôn giáo, thậm chí trong các giáo phận trong toàn thể Giáo Hội: đó là sự cám dỗ lớn. “Đó là điều dẫn chúng ta đến với ngồi lê đôi mách, gán cho nhau những nhãn hiệu, chụp mũ người khác. Đó là những thái độ và hành vi mà chúng ta được mời gọi để xa lánh”

“Chúng ta phải nên một, chỉ được là một mà thôi, như Chúa Giêsu và Chúa Cha là một. Điều này chính xác là một thách thức đối với tất cả các Kitô hữu chúng ta: đó là không chiều theo sự chia rẽ giữa chúng ta, không để cho tinh thần chia rẽ, cho ma quỷ là cha của mọi điều dối trá hiện diện giữa chúng ta. Hãy tiếp tục tìm kiếm sự hiệp nhất. Tất cả mọi người đều có những khác biệt với người khác, nhưng chúng ta phải cố gắng để sống trong tình hiệp nhất. Chúa Giêsu có tha thứ cho anh chị em không? Ngài tha thứ cho tất cả mọi người. Sao chúng ta không tha thứ cho nhau? Chúa Giêsu cầu nguyện để chúng ta hiệp nhất, nên một. Và Giáo Hội có nhu cầu rất lớn cho lời cầu nguyện hiệp nhất này”

Đoàn kết là ân sủng, không phải là “chất keo”

Đức Thánh Cha Phanxicô nói đùa rằng một Giáo Hội được gắn kết lại với nhau bằng “chất keo” đơn giản là không tồn tại - Bởi vì sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta “là một ân sủng của Thiên Chúa” và là “một cuộc đấu tranh” vất vả để giành được chiến thắng trên trái đất này. “Chúng ta phải có chỗ cho Chúa Thánh Thần, để chúng ta được biến đổi để nên một như Chúa Cha trong Chúa Con”

“Một lời khuyên khác Chúa Giêsu đã trối lại trước khi Ngài lìa xa các môn đệ là hãy ở lại trong Ngài” Và Ngài xin cho chúng ta ân sủng là tất cả chúng ta ở lại trong Ngài. Và này đây Ngài chỉ cho chúng ta thấy tại sao: ‘Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con’ nghĩa là ở mãi với Chúa Giêsu, trong thế giới của Ngài, luôn ở lại trong Ngài ‘để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của con’”

5. Sứ mệnh giáo dục con cái của các gia đình

Các cộng đoàn kitô được mời gọi cống hiến sự yểm trợ cho sứ mệnh giáo dục của các gia đình, trước hết bằng Lời Chúa. Một nền giáo dục tốt trong gia đình là cột sống của thuyết nhân bản. Nếu nền giáo dục gia đình tìm lại được sự nâng đỡ cần thiết, nhiều điều sẽ được thay đổi một cách tốt đẹp hơn cho những bậc cha mẹ đang hoang mang và cho những con cái đang thất vọng.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ Tư hàng tuần hôm 20 tháng Năm. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý về sứ mệnh giáo dục con cái của các gia đình. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha ứng khẩu nói như sau: Anh chị em thân mến, hôm nay tôi muốn chào đón anh chị em vì thấy có biết bao nhiêu gia đình. Xin chào các gia đình. Chúng ta tiếp tục suy tư về gia đình, về đặc tính nòng cốt của gia đình hay ơn gọi tự nhiên của gia đình là giáo dục con cái, để chúng lớn lên trong tinh thần trách nhiệm đối với chính mình và đối với tha nhân. Điều mà chúng ta đã nghe từ đầu từ thư của thánh Phaolô thật là hay đẹp: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa. Hỡi các người cha, đừng làm cho con cái bực tức để chúng không ngã lòng” (Cl 3,20-21). Đây là một luật khôn ngoan: người con được giáo dục lắng nghe cha mẹ và vâng lời cha mẹ. Cha mẹ đừng ra những lệnh truyền khiến con cái ngã lòng.

Thật thế con cái phải lớn lên từng bước một, mà không chán nản. Nếu anh chị em là cha mẹ mà nói với con cái như thế này: Chúng ta hãy leo lên cái thang nhỏ này và cầm tay chúng từng bước một cho chúng leo, thì mọi chuyện xuôi chảy.

Nhưng nếu anh chị em nói: “Con hãy đi lên”- “Nhưng con không thể”. “Đi lên đi, nói chẳng nghe gì hết cả”. Điều này là làm cho con cái nản lòng đấy: vì chúng ta đòi hỏi ở con cái điều chúng không có khả năng làm. Vì vậy tương quan giữa cha mẹ và con cái phải là một sự khôn ngoan, và quân bình. Con cái hãy vâng lời cha mẹ, vì điều này đẹp lòng Thiên Chúa. Và cha mẹ đừng khiến con cái nản lòng, bằng cách đòi hỏi nơi chúng điều chúng không thể làm. Chúng ta cần hướng dẫn con cái lớn lên trong tinh thần trách nhiệm đối với mình và đối với tha nhân.

Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Xem ra là một nhận xét hiển nhiên, nhưng cả thời này nữa cũng không thiếu các khó khăn. Giáo dục khó khăn đối với các cha mẹ chỉ trông thấy con cái vào ban chiều, khi trở về nhà mệt mỏi vì công việc: những người may mắn có công ăn việc làm! Lại càng khó khăn hơn đối với các cha mẹ ly thân, nặng nề vì điều kiện này của họ: tội nghiệp họ đã có các khó khăn, họ chia tay và biết bao lần đứa con bị bắt như con tin, và người cha nói xấu người mẹ và người mẹ nói xấu người cha, và người ta gây ra đau khổ. Và Đức Thánh Cha khuyên các cha mẹ chia lìa như sau:

Đừng bao giờ, đừng bao giờ lấy đứa con như là con tin! Anh chị em đã chia tay vì biết bao nhiêu khó khăn và bao nhiêu lý do, cuộc sống đã cho anh chị em thử thách này, nhưng con cái không phải là những người mang gánh nặng của sự chia lìa ấy, ước chi chúng đừng bị dùng như các con tin chống lại người phỗi ngẫu, ước chi chúng lớn lên nghe thấy cha mẹ nói tốt về nhau ngay cả trong trường hợp họ không còn sống chung với nhau! Đối với các cha mẹ ly thân, đó là một điều rất là quan trọng và rất khó, nhưng họ có thể làm được.

Nhưng nhất là câu hỏi giáo dục như thế nào? Đâu là truyền thống mà ngày nay chúng ta phải thông truyền cho con cái chúng ta?

Các nhà trí thức có óc phê bình đủ loại đã khiến cho các cha mẹ phải im lặng bằng hàng ngàn cách, để bảo vệ các thế hệ trẻ khỏi các nguy hại – thật sự hay suy đoán – của nền giáo dục trong gia đình. Gia đình bị tố cáo là duy độc tài, dễ dãi, thủ cựu, đàn áp tình cảm gây ra các xung đột.

Thật thế, ngày nay có một sự gẫy đổ giữa gia đình và học đường. Khế ước giáo dục ngày nay đã bị bẻ gẫy, và như thế liên minh giáo dục của xã hội với gia đình đã bước vào khủng hoảng, bởi vì sự tin tưởng lẫn nhau đã bị soi mòn. Có nhiều triệu chứng. Chẳng hạn nơi trường học các tương quan giữa cha mẹ và thầy cô bị tấn kích. Đôi khi xảy ra các căng thẳng và không tin tưởng lẫn nhau; và các hậu qủa rơi trên con cái. Đàng khác số những người gọi là chuyên viên gia tăng; họ chiếm vai trò của cha mẹ, cả trong các khía cạnh thân tình nhất của việc giáo dục: trên cuộc sống tình cảm, trên cá tính và sự phát triển, trên các quyền lợi và bổn phận, các chuyên viên muốn biết mọi sự; các mục đích, các lý do, các kỹ thuật. Và các cha mẹ buộc phải lắng nghe, học hỏi và thích nghi. Bị lấy mất đi vai trò của mình họ thường trở thành lo lắng và chiếm hữu thái quá đối với con cái họ, tới độ không bao giờ sửa dậy chúng: “Bạn không thể sửa dậy con”.

Họ hướng tới chỗ càng ngày càng tín thác con cái cho các chuyên viên, kể cả những khiá cạnh tế nhị và riêng tư nhất trong cuộc sống của chúng, và tự đặt mình vào một góc: Như thế ngày nay các cha mẹ gặp nguy cơ tự loại mình ra khỏi cuộc sống của con cái.

Và điều này rất nghiêm trọng! Ngày nay có những trường hợp loại này. Tôi không nói là nó luôn luôn xảy ra, nhưng có xảy ra. Bà giáo ở trường la rầy đứa bé và viết giấy cho cha mẹ. Tôi còn nhớ một giai thoại cá nhân. Có một lần, khi tôi học lớp tư tiểu học, tôi đã nói một từ xấu với bà giáo, và bà giáo, một người đàn bà rất giỏi, đã cho gọi mẹ tôi đến. Ngày hôm sau bà đến trường và hai người nói chuyện với nhau, và tôi được gọi vào. Trước mặt bà giáo mẹ tôi đã rất dịu dàng giải thích điều tôi đã làm và bảo tôi xin lỗi bà giáo. Tôi đã làm và tôi hài lòng tự nhủ: câu chuyện đã kết thúc tốt đẹp. Nhưng đó chỉ là chương thứ nhất! Khi tôi về nhà thì bắt đầu chương thứ hai… Anh chị em có thể tưởng tượng ngày nay nếu bà giáo mà làm như thế, thì ngày hôm sau cả cha mẹ hay một trong hai người đến la rầy bà giáo, bởi vì các chuyên viên nói rằng không được la rầy trẻ em như vậy. Mọi chuyện đã thay đổi! Tuy nhiên các bậc cha mẹ không đuợc tự loại mình khỏi việc giáo dục con cái.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Hiển nhiên là định hướng này không tốt: nó không hài hòa, không đối thoại, thay vì tạo thuận tiện cho sự cộng tác giữa gia đình và các tổ chức giáo dục khác, học đường, chỗ chơi thể thao thể dục… nó chống lại sự cộng tác.

Làm sao chúng ta lại đi đến điểm này? Chắc chắn là các bậc cha mẹ, hay đúng hơn vài mô thức giáo dục trong qúa khứ chắc chắn đã có vài hạn hẹp. Nhưng cũng đúng thật là có các sai lầm mà chỉ cha mẹ được phép làm, bởi vì họ có thể bù trừ chúng một cách mà không ai khác có thể làm được. Đàng khác, chúng ta biết rõ, cuộc sống đã trở nên hà tiện thời giờ để nói, để suy tư, để đối chiếu với nhau. Nhiều cha mẹ bị bắt cóc bởi công ăn việc làm - cha mẹ phải làm việc - và các lo toan khác, bối rối bởi các đòi hỏi mới của con cái và sự phức tạp của cuộc sống hiện tại – nó là như thế và chúng ta phải chấp nhận như nó là - và họ như thể bị tê liệt vì sợ sai lầm. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ liên quan tới việc nói mà thôi. Trái lại một chủ thuyết đối thoại hời hợt bề ngoài không đưa tới một cuộc gặp gỡ thực sự của trí óc và con tim. Chúng ta hãy tự hỏi: “Chúng ta có tìm hiểu con cái mình đang thực sự ở đâu trên con đường của chúng không? Linh hồn chúng thực sự ở đâu, chúng ta có biết không? Và nhất là chúng ta có muốn biết điều đó không? Chúng ta có xác tín rằng trên thực tế chúng không đợi chờ gì khác không?

Các cộng đoàn kitô được mời gọi cống hiến sự nâng đỡ cho sứ mệnh giáo dục của các gia đình, và làm điều đó trước hết bằng Lời Chúa. Tông đồ Phaolô nhắc nhớ sự hỗ tương bổn phận giữa cha mẹ và con cái, khi viết trong thư gửi tín hữu Côlôxê: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa: Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3,20-21). Nền tảng của tất cả là tình yêu thương mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, tình yêu thương “không thiếu kính trọng, không tìm tư lợi, không nóng giận, không chú ý tới điều ác đã nhận… tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả” (1 Cr 13,5-6). Cả trong các gia đình tốt lành nhất cũng cần phải chịu đựng lẫn nhau, và cần nhiều kiên nhẫn lắm để chịu đựng nhau! Nhưng cuộc sống là như thế. Cuộc sống không được làm trong phòng thí nghiệm, nhưng trong thực tế. Chính Chúa Giêsu cũng đã phải đi qua nền giáo dục gia đình, và đã lớn lên trong tuổi tác, khôn ngoan và ơn thánh (x. Lc 2,40.51-52).

Cả trong trường hợp này nữa ơn thánh của tình yêu Chúa Kitô thành toàn điều được khắc ghi trong bản tính nhân loại. Chúng ta có biết bao nhiêu gương mẫu tuyệt diệu của các cha mẹ kitô tràn đầy khôn ngoan! Các vị cho thấy rằng một nền giáo dục gia đình tốt là cột sống của thuyết nhân bản. Sự giãi toả của nó trong xã hội là tài nguyên cho phép bù lại các thiếu sót, các thương tích, các trống rỗng của thiên chức làm cha làm mẹ liên quan tới các người con kém may mắn. Sự giãi tỏa đó có thể làm các phép lạ đích thật. Và trong Giáo Hội các phép lạ ấy xảy ra mỗi ngày!

Và Đức Thánh Cha kết luận bài giáo lý như sau: Tôi cầu mong Chúa ban cho các gia đình kitô đức tin, sự tự do và lòng can đảm cần thiết cho sứ mệnh của mình. Nếu nền giáo dục gia đình tìm lại được niềm kiêu hãnh là tác nhân của xã hội, thì nhiều điều sẽ thay đổi tốt đẹp hơn, đối với các cha mẹ đang hoang mang và đối với những con cái đang thất vọng. Đã đến giờ các cha mẹ trở về từ sự đi đầy của mình – bởi vì họ đã tự đẩy ải mình khỏi việc giáo dục con cái - và lãnh lấy vài trò giáo dục của mình một cách tràn đầy. Chúng ta hy vọng rằng Chúa ban cho các cha mẹ ơn này: đó là đừng tự đầy ải mình khỏi việc giáo dục con cái. Và chỉ có tình yêu, sự hiền dịu và lòng kiên nhẫn mới có thể làm được điều này.
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 21/05 – 27/05/2015: Chân Phước Tổng Giám Mục Oscar Romero
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
00:37 28/05/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu cởi mở đón nhận các hồng ân của Chúa Thánh Linh, và để cho các hồng ân ấy triển nở qua các hoa trái trong cuộc sống bác ái cụ thể, chống lại tội lỗi, thực thi các công trình công lý và hòa bình.

Trên đây là nội dung bài giảng thánh lễ ngài cử hành lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật 24 tháng 5 tại Đền thờ Thánh Phêrô, nhân lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, trước sự tham dự của 9 ngàn tín hữu.

Đồng tế với Đức Thánh Cha có 40 Hồng Y và 50 Giám Mục tại Tòa Thánh cùng với 250 linh mục. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn được ca đoàn “Mater Ecclesiae”, Mẹ Giáo Hội, gồm 80 ca viên, và Ca đoàn Ionica đông phương gồm 100 người, phụ trách.

Đầu thánh lễ, Đức Thánh Cha đã làm phép nước và rảy trên các tín hữu, nhắc nhớ bí tích rửa tội, đồng thời cầu xin Chúa canh tân nội tâm để có thể luôn trung thành với Chúa Thánh Linh, Đấng được ban cho chúng ta như hồng ân:

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

Lời Chúa, đặc biệt là trong ngày hôm nay, nói với chúng ta rằng Thánh Thần hoạt động trong con người và trong các cộng đoàn được tràn đầy Thánh Linh: Ngài hướng dẫn đến trọn vẹn chân lý (Ga 16,13), canh tân trái đất (Tv 103), và ban các hoa trái của Ngài (Gl 5,22-23).

Chúa Giêsu hứa với các môn đệ rằng khi Ngài trở về cùng Chúa Cha, thì Thánh Linh sẽ đến, Người sẽ hướng dẫn họ “đến chân lý trọn vẹn” (Ga 16,13). Chúa Giêsu gọi Thánh Linh là “Thần chân lý” và giải thích cho họ rằng hoạt động của Thánh Linh là dẫn đưa họ ngày càng vào sâu hơn trong sự hiểu biết những gì mà chính Ngài, Đức Messia, đã nói và đã làm, đặc biệt là cái chết và sự sống lại của Ngài. Với các Tông Đồ là những người không có khả năng chịu đựng biến cố gây vấp phạm là cuộc khổ nạn của Thầy mình, Thánh Linh ban cho họ một chìa khóa mới để đọc biến cố, hầu dẫn đưa họ đến sự thật và vẻ đẹp của biến cố cứu độ. Các môn đệ, thoạt đầu là những người nhát sợ và hoang mang, ẩn kín trong nhà Tiệc Ly để tránh những âm hưởng của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, nay họ không còn hổ thẹn vì là môn đệ của Chúa Kitô nữa, không run rẩy trước các tòa án loài người. Nhờ Chúa Thánh Linh mà họ được ban tràn đầy, họ hiểu “trọn vẹn chân lý”, nghĩa là hiểu rằng cái chết của Chúa Giêsu không phải là một sự thất bại, nhưng là biểu hiện tột đỉnh Tình Yêu của Thiên Chúa, Tình Yêu chiến thắng sự chết trong cuộc Phục Sinh của Ngài, và tôn vinh Chúa Giêsu như Đấng Hằng Sống, là Chúa, là Đấng Cứu Chuộc loài người, cứu chuộc lịch sử và thế giới. Và thực tại này mà họ là nhân chứng, trở thành Tin Mừng cần được loan báo cho mọi người.

Do đó, “Thế giới đang cần những người nam nữ không khép kín, nhưng tràn đầy Thánh Linh. Sự khép kín đối với Thánh Linh không những là một sự thiếu tự do, nhưng còn là tội lỗi. Có bao nhiêu cách thức khép kín đối với Chúa Thánh Linh trong sự ích kỷ, tìm kiếm tư lợi, trong thái độ vụ luật cứng nhắc - như thái độ của các nhà thông luật mà Chúa Giêsu gọi là những kẻ giả hình -, trong sự quên lãng những điều Chúa Giêsu đã dạy, trong cách sống cuộc sống Kitô không phải như một sự phục vụ, nhưng như một sự tìm kiến tư lợi riêng, v.v. Thế giới đang cần lòng can đảm, hy vọng, đức tin, lòng kiên trì của các môn đệ Chúa Kitô. Thế giới đang cần hoa trái của Thánh Linh: “yêu thương, vui mừng, an bình, quảng đại, từ nhân, tốt lành, trung thành, dịu dàng, tự chủ” (Gl 5,22). Hồng ân Thánh Linh đã được ban dồi dào cho Giáo Hội và mỗi người chúng ta, để chúng ta có thể sống với niềm tin chân chính và lòng bác ái cụ thể, để chúng ta có thể gieo vãi những hạt giống hòa giải và an bình. Được Thánh Linh và nhiều hồng ân của Chúa củng cố, chúng ta có thể chiến đấu không nhân nhượng chống lại tội lỗi và sự hư hỏng, kiên nhẫn tận tụy thi hành những công việc công lý và hòa bình”

2. Đức Thánh Cha kêu gọi chú ý đến tình cảnh những người tị nạn Rohingya ở Á Châu

Sau khi cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật Hiện Xuống, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng trong đó ngài bày tỏ mối quan tâm đặc biệt trước hoàn cảnh của những người tị nạn trong Vịnh Bengal và biển Andaman ở Đông Nam Á.

Dưới áp lực của các quốc gia trên thế giới, từ ngày 10 tháng 5 vừa qua hơn 3,600 người Hồi Giáo Rohingya ở Miến Điện đã được đón vào các trại tị nạn sau khi đã lang thang hàng mấy tháng trời trong các vùng biển của Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Khoảng một nửa trong số họ đi thẳng từ Rohingya. Một nửa còn lại đã chạy sang Bangladesh nhưng rồi bị xua đuổi đi. Chính quyền các nước trong vùng bị cáo buộc đã xua đuổi họ đi nơi khác sau khi cho họ một ít lương thực và nước uống.

Hàng ngàn người được Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ghi nhận là vẫn đang tiếp tục lang thang trên biển trong những điều kiện tuyệt vọng.

Đức Thánh Cha nói:

“Tôi đánh giá cao những cố gắng của những nước sẵn sàng đón nhận những người tị nạn ấy đang gặp bao nhiêu đau khổ và nguy hiểm trầm trọng. Tôi khuyến khích cộng đồng quốc tế cung cấp cho họ những trợ giúp nhân đạo cần thiết”.

3. Đức Thánh Cha tiếp kiến tổng tu nghị dòng Phanxicô

Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các tu sĩ dòng Phanxicô sống trọn tinh thần hèn mọn và huynh đệ, thông truyền lòng thương xót, hòa giải và an bình.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 26 tháng 5, dành cho 200 tham dự viên Tổng tu nghị dòng Anh em Hèn mọn Phanxicô, nhóm tại Assisi từ ngày 10-5 đến 7-6 tới đây. Trong số các vị có một người Việt là cha Inhaxio Nguyễn Duy Lâm, Bề trên tỉnh dòng Việt Nam. Đức Thánh Cha nói:

“Trong những ngày suy tư và cầu nguyện, anh em để cho mình được 2 yếu tố thiết yếu trong căn tính của anh em hướng dẫn, đó là hèn mọn và huynh đệ.

- “Sự hèn mọn kêu gọi ta sống và cảm thấy mình là bé nhỏ trước mặt Thiên Chúa, hoàn toàn tín thác nơi lòng thương xót vô biên của Chúa. Viễn tượng thương xót là điều không thể hiểu được đối với những người không nhận mình là “hèn mọn”, nghĩa là bé nhỏ, túng thiếu và tội lỗi trước mặt Chúa. Hễ chúng ta càng ý thức điều này, thì chúng ta càng gần ơn cứu độ; hễ chúng ta càng xác tín mình là người tội lỗi, thì chúng ta càng sẵn sàng được cứu độ..

Đức Thánh Cha nhận xét rằng: “Đặc tính hèn mọn cũng có nghĩa là ra khỏi mình, ra khỏi những cái khung và quan điểm cá nhân của mình; là đi xa hơn những cơ cấu, những tập tục và an ninh, để chứng tỏ sự gần gũi cụ thể với người nghèo, người túng thiếu, người ở ngoài lề, trong thái độ chia sẻ và phục vụ đích thực”.

- Đức Thánh Cha nhấn mạnh chiều kích huynh đệ là điều thiết yếu thuộc về chứng tá Tin Mừng. “Trong Giáo Hội nguyên thủy, các tín hữu Kitô sống tình hiệp thông huynh đệ đến độ trở thành dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp nhất và bác ái, đầy sức thu hút. Dân chúng ngạc nhiên khi thấy các tín hữu Kitô hiệp nhất như vậy trong tình thương, sẵn sàng trao ban và tha thứ cho nhau, liên đới trong tình thương xót, tử tế, giúp đỡ lẫn nhau, đồng tâm chia sẻ vui buồn, đau khổ, và những kinh nghiệm sống. Gia đình dòng tu của anh em cũng được kêu gọi diễn tả tình huynh đệ cụ thể ấy, qua sự phục hồi sự tín nhiệm lẫn nhau trong những tương quan với nhau, để thể giới thế và tin, nhìn nhận rằng tình thương của Chúa Kitô chữa lành những vết thương và làm cho hiệp nhất”.

Cũng trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha khẳng định rằng “Trong viễn tượng vừa nói, điều quan trọng là phục hồi ý thức mình là người mang lòng từ bi thương xót, hòa giải và an bình. Anh em sẽ thực thi ơn gọi và sứ mạng này tốt đẹp nếu anh em luôn luôn là một dòng tu “đi ra ngoài”. Vả lại điều này cũng đáp ứng đoàn sủng của anh em.

Theo Đức Thánh Cha, những lời nhắn nhủ của thánh Phanxicô về sự sống chung hòa hợp, tránh tranh cãi, không đoán xét người khác, dịu dàng, an bình, khiêm tốn, dịu dàng, khiêm nhường, ăn nói liêm chính với mọi người...”vẫn còn rất thời sự ngày nay, đó là lời ngôn sứ về tình huynh đệ và sự hèn mọn đối với thế giới chúng ta.. Thật là điều rất quan trọng khi sống đời sống Kitô và tu trì không để mình bị mất hút trong những tranh biện và nói hành nói xấu, vun trồng một cuộc đối thoại thanh thản với mọi người, dịu hiền, từ nhân, khiêm tốn, dùng những phương thế nghèo hèn, loan báo an bình và sống tiết độ, hài lòng với những gì được trao tặng. Điều này cũng đòi phải dấn thân quyết liệt trong sự minh bạch, sử dụng của cải hợp với luân lý đạo đức và liên đới, có lối sống điều độ và từ bỏ.”

Đức Thánh Cha cảnh giác rằng “Nếu anh em quyến luyến của cải và giàu sang của thế gian này, thì anh em đặt an ninh của mình nơi những của ấy, và chính Chúa sẽ tước bỏ anh em khỏi tinh thần thế tục để bảo tồn gia sản quí giá là sự hèn mọn và thanh bần mà anh em được kêu gọi sống, qua thánh Phanxicô. Hoặc anh em là những người tự nguyện thanh bần và hèn mọn, hoặc anh em rốt cục sẽ bị tước bỏ”

4. Đức Hồng Y Kurt Koch: Triển vọng đối thoại tay ba Công Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo vẫn còn xa vời

Hội nghị kéo dài 3 ngày “Nostra Aetate - Kỷ niệm 50 năm đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo với Do Thái giáo và Hồi giáo” đã kết thúc hôm thứ Năm 21 tháng 05 năm 2015 tại Ðại học Công Giáo Hoa Kỳ ở thủ đô Washington. Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Hiệp nhất Các Tín Hữu Kitô, cũng là người đặc trách về đối thoại với người Do Thái, là Ðức Hồng Y Kurt Koch- đã tham dự Hội nghị này. Ngài nói rằng Tuyên ngôn Nostra Aetate là một mốc quan trọng trong quan hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và các tôn giáo khác.

Tuyên ngôn Nostra Aetate, nghĩa là “Trong Thời Đại Chúng Ta”, bàn về quan hệ Giáo Hội Công Giáo với các tôn giáo không phải là Kitô đã được Công Đồng Chung Vatican II thông qua với 2221 phiếu thuận và 88 phiếu chống và đã được Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục công bố ngày 28 tháng 10 năm 1965.

Trong diễn từ của ngài, Ðức Hồng Y Kurt Koch lưu ý rằng mặc dù Giáo Hội tiến hành các cuộc đối thoại song phương với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo và Hồi giáo, hiện nay vẫn còn là quá sớm để tham gia vào một cuộc đối thoại “tay ba” giữa ba tôn giáo độc thần.

“Chúng ta hiện không có đối thoại tay ba và đối với chúng tôi vẫn còn quá sớm để thực hiện điều này vì đôi khi chúng ta đề cập đến một Abraham đại kết - điều này rất rõ ràng - là một vấn đề hay đấy. Nhưng mặt khác, chúng ta có một lối giải thích rất khác nhau về Abraham và chúng ta không thể phủ nhận vấn nạn đó. Và trong cuộc thảo luận liên tôn, điều rất quan trọng là chúng ta cũng phải giải quyết sự khác biệt trong giải thích về Abraham”.

Khi được hỏi là liệu các nhà lãnh đạo Hồi giáo và Do Thái giáo có cởi mở để tham gia một cuộc đối thoại như thế hay không và liệu điều đó có thể mở đường cho việc cải thiện quan hệ giữa ba tôn giáo hay không, Ðức Hồng Y Koch trả lời như sau:

“Chúng tôi hy vọng có thể đi theo đường hướng này trong tương lai, nhưng trong mỗi tôn giáo đều có sự chống đối. Chúng ta có các nhà lãnh đạo Hồi giáo cởi mở và các nhà lãnh đạo Kitô giáo cởi mở, nhưng chúng ta cũng có sự chống đối trong cả ba tôn giáo. Ngay cả trong Giáo Hội Công Giáo vẫn có sự chống đối Tuyên ngôn Nostra Aetate. Đây cũng là những nhóm chống đại kết, chống đối thoại liên tôn, chống tuyên ngôn tự do tôn giáo. Và tôi nghĩ rằng họ chỉ là thiểu số. Chúng ta phải tiến bước trên nền tảng của Công đồng Vatican II với thẩm quyền cấp cao của Giáo Hội Công Giáo và chúng ta không thể phủ nhận ảnh hưởng rất quan trọng này”.

5. Thánh lễ phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero

Thánh lễ tuyên phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám mục Oscar Romero hôm thứ Bẩy 23 tháng Năm đã thu hút 250,000 người.

Thánh lễ đã diễn ra tại quảng trường Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc ở San Salvador, thủ đô của El Salvador, lúc 10 giờ sáng giờ địa phương. Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng Trưởng Bộ Phong Thánh, đã thay mặt Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ này và đọc nghị định tuyên phong Chân Phước cho Đức Tổng Giám Mục Romero.

Trong thánh lễ còn có 7 vị Hồng Y, 90 Giám Mục và hơn 1,000 linh mục tham dự, cùng với một số nguyên thủ quốc gia, trong đó có tổng thống Ecuador và tổng thống Panama.

Các nghi lễ thực ra đã bắt đầu vào tối thứ Sáu tại quảng trường trước nhà thờ chánh tòa San Salvador với thánh lễ do Đức Hồng Y Oscar Rodriguez Maradiaga cử hành. Tiếp theo đó là đêm thắp đuốc và cầu nguyện.

Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero sinh ngày 15/08/1917 trong một gia đình có 8 người con. Ngài được thụ phong linh mục tại Rôma vào ngày 04/04/1942.

Sau khi thụ phong linh mục cha Romero tiếp tục ở lại Roma để theo học chương trình tiến sĩ thần học. Nhưng vì cuộc nội chiến tại El Salvador và Giáo Hội tại nước này thiếu linh mục, ngài được gọi về nước.

Và trong hơn 20 năm sau đó, ngài làm cha xứ và thư ký cho Tòa giám mục San Miguel. Năm 1970, cha Oscar Romero được tấn phong giám mục và làm phụ tá cho Đức Cha Chavéz, Tổng Giám Mục San Salvador và ngày 23/02/1977, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của San Salvador.

Ngày 12/03/1977, một linh mục dòng Tên, là cha Rutilio Grande – một trong những linh mục đầu tiên được ngài truyền chức và là một người can đảm đấu tranh cho những người nghèo – bị sát hại.

Chứng kiến cảnh một linh mục can đảm đấu tranh cho người nghèo bị giết hại như vậy, Ðức cha Romero đã phản ứng rất mạnh. Ngài đã ra lệnh đóng cửa trường học do Giáo Hội điều hành trong ba ngày và đình hoãn mọi thánh lễ trên toàn quốc trong tuần lễ kế tiếp, ngoại trừ một thánh lễ đặc biệt tại nhà thờ chính tòa San Salvador.

Trong bài giảng tại thánh lễ đặc biệt đó cũng như trong các thánh lễ các Chúa Nhật tiếp theo, ngài đã lên tiếng tố cáo những tội ác, bất công do giới cầm quyền gây nên.

Để phản đối việc chính phủ liên quan đến hay thinh lặng trước các vụ bắt bớ, giết hại, ngài đã không tham dự lễ nhậm chức của tân tổng thống của nước này. Ngài tuyên bố: “Giáo Hội không được đo lường bằng sự hỗ trợ của chính phủ mà bằng chính tính trung thực, tinh thần cầu nguyện theo tinh thần Tin Mừng, lòng tin tưởng, sự chân thành và công lý, nhất là khi Giáo Hội chống lại các lạm dụng”.

Một cử chỉ khác được coi là mạnh dạn là việc ngài quyết định cho mở cửa chủng viện tại trung tâm thủ đô San Salvador và ngày thứ hai Phục Sinh năm 1978 để đón tiếp bất cứ nạn nhân nào của các vụ bạo động. Hàng trăm người vô gia cư, đói rách và bị hành hung đã đến chủng viện.

Và một quyết định nữa nói lên việc ngài toàn tâm toàn lực đấu tranh cho công lý, cho người nghèo là việc ngài cho ngưng xây cất nhà thờ Chính tòa San Salvador. Ngài nói: “Khi nào chiến tranh chấm dứt, những người đói khổ được ăn uống đầy đủ và trẻ con được giáo dục, lúc đó chúng ta sẽ tiếp tục xây cất nhà thờ chính tòa”.

Chính vì sự cương quyết và can đảm đó, ngài đã trở thành cái gai trong mắt những người có quyền, có thế lực tại El Salvador. Ngài luôn bị đe dọa, luôn phải đối diện với nguy hiểm. Biết vậy, ngài vẫn không im lặng, hay tìm một nơi khác an toàn. Chiều ngày 24/3/1980, Đức Cha Romero cử hành Thánh lễ cầu hồn cho thân mẫu của một người bạn tại nguyện đường của một bệnh viện ở thủ đô San Salvador. Ngài bị bắn chết ngay sau bài giảng nẩy lửa của mình.

Chính phủ El Salvador ngoài những lời xin lỗi chung chung không có bất cứ cố gắng nào nhằm đưa ra ánh sáng vụ giết hại Đức Tổng Giám Mục Romero. Cho đến nay, kẻ nào đã bắn hạ ngài vẫn còn là một điều bí mật.

Thiếu tá Alvaro Rafael Saravia, người được cho là đã trực tiếp nhúng tay vào vụ sát hại Đức Tổng Giám Mục Romero đã được khéo léo dàn xếp cho di cư sang Mỹ vào giữa thập niên 1980 để chạy tội nhưng y bị bắt và bị đưa ra tòa. Trước tòa án tại California, Alvaro Rafael Saravia không nói một lời nào nhằm bác bỏ hay công nhận trách nhiệm của mình trước cáo buộc đã giết hại Đức Cha Romero. Y cũng không thèm mướn luật sư cãi lại. Tòa án tại California đã trưng ra những bằng cớ không thể phủ nhận được về vai trò trực tiếp giết hại Đức Cha Romero của ông Saravia, và vai trò ông này trong Biệt Đội Tử Thần El Salvador cũng như liên hệ giữa ông này và cố đại tá Roberto D'Aubuisson, người đã thành lập đảng ARENA. Tòa đã truyền cho ông Saravia phải đền cho thân nhân Đức Cha Romero 10 triệu Mỹ Kim.

Đại tá Roberto D'Aubuisson được báo chí El Salvador cho rằng là người đã ra lệnh cho thiếu tá Alvaro Rafael Saravia bắn chết Đức Cha Romero. Tuy nhiên, con trai ông này cũng lấy tên Roberto vừa đắc cử thị trưởng một thành phố lớn tại El Salvador, cũng có mặt trong buổi lễ phong Chân Phước và đưa ra những phát biểu như thể họ hàng nhà Aubuisson không liên can gì tới cái chết của Đức Tổng Giám Mục.

6. Những giờ sau cùng của Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero

“Trước lệnh giết người do ai đó ban ra, luật pháp của Thiên Chúa ‘Ngươi chớ giết người!’ phải thắng thế. Không một người lính nào có nghĩa vụ phải tuân theo một lệnh lạc chống lại luật pháp của Thiên Chúa ... nhân danh dân tộc đau khổ này, dân tộc mà tiếng kêu than của họ bay tới trời cao càng ngày càng thống thiết hơn, tôi van xin anh em, tôi khẩn cầu anh em, và tôi ra lệnh cho anh em nhân danh Thiên Chúa, ngưng ngay tức khắc sự đàn áp này”.

Những lời này, được phát trực tiếp trên đài phát thanh riêng của ngài trên toàn thể lãnh thổ, có lẽ là những lời nổi tiếng nhất của Đức Tổng Giám mục Oscar Romero. Những lời ấy đã được thốt ra từ bục giảng của nhà thờ chính tòa Thánh Tâm ở thủ đô San Salvador vào ngày Chúa Nhật 23 tháng 3 năm 1980. Đó là một lời cầu xin chân thành gửi đến các thành viên của lực lượng an ninh chính phủ và biệt đội tử thần là những kẻ đã bắn giết và tàn sát những người nghèo và những người bị tước đoạt ruộng đất ở El Salvador - những người nam nữ chỉ có một tội duy nhất là dám đòi hỏi một sự chia sẻ công bằng hơn về đất đai và tài nguyên của đất nước.

Nhưng, những lời ấy cũng là bản án tử hình cho Đức Tổng Giám Mục Romero. Thật vậy, chưa đầy 24 giờ sau khi thốt ra những lời này ngài đã phải chết.

Đức Cha Romero thừa biết lập trường kiên quyết bảo vệ người nghèo sẽ chỉ có một kết quả là cái chết. Trong một chuyến thăm Rôma vào cuối tháng Giêng năm 1980, ngài đã nói với cha Lucas Moreira Neves, tổng thư ký của Bộ Giám Mục, rằng chẳng bao lâu nữa ngài sẽ bị ám sát. Tòa Thánh đề nghị một chức vụ trong giáo triều Rôma để ngài tạm xa những căng thẳng gần như không thể chịu nổi đang ngày một gia tăng trong một đất nước Trung Mỹ nhỏ bé. Ngài đã từ chối.

Hôm thứ Hai ngày 24 tháng 3, ngài trở về sau một chuyến đi trưa tại La Libertad trên bờ biển với một nhóm nhỏ các sinh viên Opus Dei, và đi thẳng vào một tu viện Dòng Tên tại Santa Tecla, để tìm cha Segundo Azcue, là cha giải tội của ngài để xưng tội.

Ngài nói với cha Segundo Azcue:

“Tôi muốn được sạch mọi tội lỗi khi tôi ra trình diện trước mặt Thiên Chúa”.

Bí tích Hoà Giải ngắn ngủi đã kết thúc lúc 5 giờ chiều. Lúc 5:30, ngài đã có mặt tại nhà mình, trong cộng đoàn các nữ tu dòng Camêlô ở Bệnh viện Divine Providence ở San Salvador, để chuẩn bị cử hành thánh lễ cầu nguyện cho Doña Sarita, là mẹ của anh Jorge Pinto, một người bạn và là chủ biên của nhật báo El Independiente. Tòa soạn của anh Jorge Pinto vừa bị đặt bom nổ tung chỉ một vài tuần trước đó.

Bạn bè và các cố vấn thân cận nhất của Đức Cha Romero đã rất lo lắng. Các chi tiết của buổi cử hành phụng vụ đã xuất hiện trên báo chí quốc gia. Họ đã khuyên ngài giấu đi đừng ghi tên ai cử hành thánh lễ, nhưng ngài đã khăng khăng yêu cầu tên của ngài phải được viết công khai trên thông cáo báo chí.

Thánh lễ bắt đầu ngay lúc 6h chiều tại nhà nguyện của bệnh viện, với sự tham dự của các nữ tu, gia đình và bạn bè của Doña Sarita. Sau này, nghĩ lại mọi người đều thấy tính chất tiên tri của những bài đọc trong ngày. Chẳng hạn như bài Phúc Âm theo Thánh Gioan (Ga 12: 23-26)

“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. .. Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

Áp dụng Lời Chúa vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải chịu, ngài chia sẻ với cộng đoàn: “Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta. .. Bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, người ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì dù chết đi, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài”.

Cũng trong bài chia sẻ cuối cùng ấy, ngài cũng xác tín: “Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong lòng người dân Salvador của tôi”. Kết thúc bài chia sẻ, ngài tới giữa bàn thờ chuẩn bị dâng bánh rượu, đồng hồ chỉ 6 giờ 24 phút. Lúc đó, ngài nhận thấy một chiếc Volkswagen màu đỏ áp sát cửa nhà nguyện. Khi Đức Cha chồm tới chiếc đĩa thánh trên bàn thờ thì một phát súng duy nhất vang lên. Ngài quỵ xuống sàn phía sau bàn thờ ngay dưới chân một cây thánh giá lớn, bất tỉnh, máu chảy ra từ miệng, mũi và tai ngài.

Bên trong nhà nguyện nhỏ xảy ra hỗn loạn. Một nhiếp ảnh gia người đã được ký hợp đồng để chụp những hình ảnh của buổi lễ lặng lẽ biến mất.

Đức Tổng Giám Mục đã được nhanh chóng khiêng lên một chiếc xe tải gần đó và đưa vội vã đến bệnh viện Policlínica. Lễ phục của ngài đẫm máu máu. Trong vòng vài phút sau khi đến đó, ngài thở hơi cuối cùng. Dường như điều này chính xác là những điều Đức Tổng Giám mục Romero đã tiên liệu.

Cái chết của ngài khi đang chuẩn bị đọc những lời truyền phép rất long trọng trong thánh lễ đã đưa ra một ví dụ hùng hồn về một vị thánh nhân, một mục tử thánh thiện đã đưa ra một chứng tá sống động cho những lời này của Chúa Giêsu “Này là Mình Ta sẽ bị nộp vì anh em”.

7. Tập Cận Bình nói: Trung quốc chống lại các “ảnh hưởng của ngoại bang” trên các tôn giáo tại quốc gia này

Ngày 24 tháng 5 là ngày thế giới cầu nguyện cho tự do tôn giáo tại Trung quốc. Để răn đe những người Công Giáo ủng hộ việc trung thành với Tòa Thánh, hôm thứ Tư 20 tháng Năm, Tập Cận Bình, chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 2012, và cũng kiêm luôn chủ tịch nhà nước Trung Quốc từ năm 2013- nói rằng các tôn giáo ở Trung Quốc phải “độc lập với các ảnh hưởng của ngoại bang”.

“Chúng ta phải quản lý các vấn đề liên quan đến tôn giáo theo các quy định của pháp luật và tuân thủ nguyên tắc độc lập để điều hành các nhóm tôn giáo theo cách riêng của mình”. Y mạnh mẽ kêu gọi “những nỗ lực tích cực mới phải được thực hiện để hội nhập các tôn giáo vào con đường xã hội chủ nghĩa.”

Từ năm 1957, nhà nước Trung Quốc đã tìm cách kiểm soát Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Lục thông qua Hội Công Giáo Yêu Nước, là tổ chức thường xuyên gây căng thẳng với Tòa Thánh bằng các vụ tấn phong và bổ nhiệm giám mục trái phép.

Cùng ngày Tập Cận Bình đưa ra nhận xét trên, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên tiếng xin anh chị em trên toàn thế giới cầu nguyện cho người Công Giáo tại Trung Quốc “sống hiệp nhất trong tinh thần với Đá Tảng Phêrô, trên đó Giáo Hội được thiết lập”.

8. Đức Hồng Y Filoni: Hành động quân sự tương xứng là cần thiết để cứu các Kitô hữu Iraq và Syria

Sau thắng lợi vang dội tại Ramadi, Iraq hôm Chúa Nhật 17 tháng Năm, hôm thứ Tư 20 tháng Năm, quân khủng bố Hồi Giáo IS lại chiếm được thành phố Palmyra của Syria nơi có những di tích La Mã cổ kính nhất. Cuộc chiến tại Palmyra đã bắt đầu từ ngày 13 tháng Năm. Sau gần một tuần chống trả quyết liệt, quân đội Syria trung thành với tổng thống Bashar al-Assad đành phải rút lui. Bọn khủng bố IS rõ ràng không phải là một đám giặc cỏ, chúng thực sự có thể đánh bại các quân đội chính quy đồng thời trên nhiều mặt trận khác nhau.

Trước những diễn biến này, Đức Hồng Y Fernando Filoni, người đã hai lần thay mặt của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Iraq để an ủi các nạn nhân của quân khủng bố Hồi Giáo IS đã dành cho Rome Reports một buổi phỏng vấn.

Theo Đức Hồng Y, đã đến giờ phải có những hành động cân xứng, lời nói và ý định tốt thôi thì chưa đủ để bảo vệ người dân ở Trung Đông.

Ngài nói:

“Chúng ta cần có những hành động chính trị và quân sự tương xứng. Đây không phải là giết kẻ giết người. Không bao giờ nên như thế, nhưng là cơ chế phòng vệ cần thiết.”

Đức Hồng Y Filoni đã là sứ thần ở Baghdad từ năm 2001 đến năm 2006. Ngài biết rõ quốc gia này và hiểu rằng các giáo phái là cội rễ của sự căng thẳng này. Ngài nhấn mạnh rằng người ta cần phải coi các Kitô hữu là những công dân đầy đủ chứ không chỉ giới hạn trong việc dung tha cho họ ở chính quê hương của họ.

Ngài nói tiếp:

“Mọi người nói với tôi, ‘Kitô hữu là những người dân bản xứ gốc gác ở đây và họ có quyền được sống ở đó’. Luật pháp cần phải minh định điều này. Một trong những vấn đề lớn ở Iraq là quyền cá nhân không dựa vào pháp luật. Tất cả mọi thứ được diễn giải theo luật Hồi Giáo. Điều này thật là nguy hiểm. “

Trong hai chuyến đi của mình, Đức Hồng Y đã đến thăm người tị nạn Kitô hữu. Ngài nói từng bước, nhu cầu vật chất bên ngoài của họ đang được đáp ứng. Nhưng những vấn đề bên trong khác vẫn còn đó.

Đức Hồng Y kể:

“Trong chuyến viếng thăm của tôi, nhiều người nói với tôi rằng, ‘Đức Hồng Y không giải quyết nổi vấn đề của chúng con đâu, nhưng bây giờ chúng con cảm thấy chúng con không cô đơn”

Theo Đức Hồng Y, ở những nước mà Hồi Giáo là tôn giáo chính, người Hồi giáo phải thúc đẩy việc chung sống hoà bình và tự do tôn giáo.

“Nếu không có khoa phê bình lịch sử trong đó dấy lên câu hỏi thánh chiến có nghĩa là gì, thì liệu chúng ta có nên hiểu thánh chiến nghĩa là việc dùng kiếm và bạo lực để chinh phục hay không? Hay chúng ta nên định nghĩa nó là sự cải đạo? là mọi người phải có quyền truyền bá tôn giáo, nhưng cũng có quyền từ chối một tôn giáo? “

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần bày tỏ mong muốn đi thăm Iraq. Đức Hồng Y Filoni nói một chuyến đi như vậy sẽ thúc đẩy niềm hy vọng của các Kitô hữu bị bách hại. Tuy nhiên, tình hình an ninh đang xấu đi đến mức đó là điều không thể được.

9. Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho Công Giáo tại Trung Quốc

Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi cầu nguyện cho các tín hữu Công Giáo tại Trung Quốc và cổ võ tham gia buổi canh thức cầu nguyện cho tự do tôn giáo do Hội Đồng Giám Mục Italia đề xướng.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 20 tháng 5, tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha nói:

“Ngày 24 tháng 5 này, với lòng sùng mộ, các tín hữu Công Giáo tại Trung Quốc khẩn cầu Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu Kitô, được tôn kính tại Đền thánh Đức Mẹ Xà Sơn (Sheshan) ở Thượng Hải. Nơi pho tượng được đặt trên Đền Thánh, Đức Mẹ giơ cao Chúa Con, giới thiệu Người cho thế giới, với đôi tay rộng mở, như một cử chỉ yêu thương và từ bi. Cả chúng ta cũng sẽ khẩn cầu Mẹ Maria phù giúp các tín hữu Công Giáo tại Trung Quốc luôn luôn là những chứng nhân đáng tin cậy về tình yêu thương xót của Chúa giữa lòng dân tộc của họ và sống hiệp nhất trong tinh thần với Đá Tảng Phêrô, trên đó Giáo Hội được thiết lập”.

Đức Thánh Cha nói thêm:

“Hội Đồng Giám Mục Italia đã đề nghị rằng trong các giáo phận, nhân buổi canh thức áp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta nhớ đến bao nhiêu anh chị em lưu vong hoặc bị sát hại chỉ vì họ là Kitô hữu. Tôi cầu mong buổi cầu nguyện ấy gia tăng ý thức rằng tự do tôn giáo là một nhân quyền bất khả nhượng, gia tăng sự nhạy cảm về thảm trạng của các tín hữu Kitô bị bách hại trong thời đại chúng ta ngày nay và chấm dứt được tội ác không thể chấp nhận ấy”.

Trong thư gửi các tín hữu Công Giáo tại Trung Quốc công bố hồi năm 2007, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã đề nghị toàn thể Giáo Hội chọn ngày 24 tháng 5 hàng năm, lễ Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu, làm ngày cầu nguyện cho Giáo Hội tại Hoa Lục.

Trong những năm qua, vào ấy này, nhà cầm quyền Trung Quốc thường cấm cản không cho các tín hữu Công Giáo từ những nơi khác ở Trung Quốc đến Đền Thánh Đức Mẹ Xà Sơn ở ngoại ô Thượng Hải để hành hương và cầu nguyện kính Đức Mẹ.

Riêng giáo phận Thượng Hải, sau khi Đức Cha Alois Kim Lỗ Hiến qua đời ngày 3-5-2013 qua đời lúc 97 tuổi, Giáo phận này không có chủ chăn chính thức. Đức Giám Mục Phụ Tá Tadeo Mã Đại Thanh (Ma Daqin), vì tuyên bố ngưng hoạt động cho Giáo Hội Công Giáo yêu nước vào cuối buổi lễ thụ phong Giám Mục, nên ngài bị Nhà Nước Trung Quốc quản thúc tại Đại chủng viện Xà Sơn và không cho ngài thi hành sứ vụ thánh

10. Đại diện Tòa Thánh kêu gọi rút ra bài học từ dịch Ebola

Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, Đức Tổng Giám Mục Zygmunt Zimowski, kêu gọi cộng đồng quốc tế rút ra bài học từ nạn dịch Ebola ở miền tây Phi châu.

Trong bài tham luận hôm 20 tháng 5 tại Hội đồng quản trị của tổ chức sức khỏe thể giới, OMS, nhóm tại Genève từ ngày 18 đến 26 tháng 5, Đức Tổng Giám Mục Zimowski nói: “Nạn dịch Ebola ở miền Tây Phi là một thảm trạng về con người và sức khỏe công cộng chứng tỏ cần cấp thiết phát triển những hệ thống y tế bền bỉ trên thế giới, nhất là tại những vùng quê và miền sâu miền xa. Các nước có lợi tức thấp vẫn còn bị thương tổn vì những bệnh truyền nhiễm và dịch tễ, họ có hệ thống y tế rất yếu kém cần được can thiệp cấp thiết”.

Hôm 20 tháng 5, trong ngày Đức Tổng Giám Mục Zimowski người Ba Lan phát biểu, tổ chức Sức khỏe thế giới công bố một phúc trình về tình trạng bệnh dịch Ebola, theo đó chỉ trong vòng 1 tuần lễ, con số những người bị nhiễm Ebola ở nước Sierra Leone và Guinea đã tăng gấp 4 lần, từ 9 lên 35 người, và vùng bị nhiễm bệnh lan rộng.

Mặc dù Ebola vẫn còn tại các nước đó, nhưng con số người nhiễm bệnh và thiệt mạng vì bệnh này đã giảm sút đáng kể từ khi nó bộc phát ở Guinea hồi năm 2013. Hôm 9 tháng 5, Tổ chức Sức khỏe thế giới tuyên bố nước Liberia được giải thoát khỏi dịch Ebola.

Theo thống kê công bố hôm 20 tháng Năm, dịch Ebola bắt đầu từ năm 2013 đã làm cho gần 27 ngàn người nhiễm bệnh (26.969) trong đó có 11.135 người bị thiệt mạng, phần lớn ở 3 nước Guinea, Sierra Leone và Liberia.

Trong bài tham luận, Đức Tổng Giám Mục Zimowski kêu gọi tái đặt ưu tiên cho việc đầu tư vào sức khỏe và cần có sự dấn thân dài hạn của các chính phủ và các tổ chức quốc tế để hỗ trợ các hệ thống y tế và sự săn sóc sức khỏe trên thế giới, nhờ đó cải tiến sự đối phó qui mô đối với sự bộc phát của bệnh tật.

Đức Tổng Giám Mục cũng nhấn mạnh đến sự chênh lệch quá lớn trong hệ thống sức khỏe hoàn cầu, giữa dân chúng tại thành thị và những người dân ở miền quê; một nửa số dân tại miền quê không được săn sóc cơ bản về sức khỏe. Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Zimowski kêu gọi cấp thiết giải quyết sự chênh lệch này và các tổ chức quốc tế và kế hoạch phát triển cần đảm bảo cho dân chúng quyền được bảo vệ về xã hội và sức khỏe”. Ngài cũng đề cao tầm quan trọng của các tổ chức tư nhân, vô vị lợi, trong đó có cả các tổ chức Công Giáo. Theo thống kê năm 2013 của Giáo Hội, có 116,185 cơ sở y tế Công Giáo trên thế giới

11. Đức Thánh Cha cám ơn các thân nhân cảnh sát Italia tử nạn

Sáng ngày 21 tháng Năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến 600 thân nhân các nhân viên cảnh sát Italia tử nạn hoặc bị thương nặng trong khi thi hành phận sự.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có vị chỉ huy trưởng cảnh sát Italia. Lên tiếng trong dịp này, Đức Thánh Cha cám ơn và đề cao sứ mạng của cảnh sát bao hàm tinh thần tôn trọng nghĩa vụ và kỷ luật, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, và nếu cần, hiến mạng sống cho việc bảo vệ trật tự công cộng, tôn trọng luật pháp, bênh vực dân chủ, và chống lại các tổ chức tội phạm và khủng bố. Ngài cũng nói rằng:

“Sứ mạng của anh chị em đòi phải có can đảm cứu giúp những người lâm nguy và chặn đứng kẻ gây hấn. Cộng đồng mang ơn anh chị em vì họ có thể sống trong trật tự ổn định và tránh được sự đàn áp của những kẻ bạo hành và tham nhũng... Một cuộc sống dân thân trên mặt trận ấy và qui hướng vào những lý tưởng đó, có một giá trị lớn trước mặt Chúa, và mỗi hy sinh được đón nhận vì lòng yêu mến thiện ích, thì sẽ được Chúa thưởng công”.

Đức Thánh Cha cũng xác tín rằng “Chỉ nhờ chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta mới có thể tìm được sức mạnh để tha thứ và niềm an ủi, vì cả những thập giá của chúng ta cũng được cứu rỗi nhờ thập giá của Chúa, và vì thể mỗi hy vọng và mỗi thảm trạng sẽ tìm được nơi Chúa sự cứu chuộc và đền bù”.

12. Kitô hữu Coptic Ai Cập xao xuyến trước án tử hình dành cho cựu Tổng thống Mohamed Morsi

Hôm thứ Bẩy 16 tháng Năm, tòa án tối cao Ai Cập đã tuyên án tử hình tổng thống bị lật đổ Mohamed Morsi trong một phiên tòa diễn ra dưới sự bảo vệ nghiêm nhặt của cảnh sát và quân đội. Mohamed Morsi được đưa ra tòa trong một cũi sắt kiên cố để đề phòng mọi bất trắc.

Án tử hình Mohamed Morsi, người đã gây ra bao nhiêu đau khổ cho các tín hữu Kitô Ai Cập, không làm cho họ vui mừng nhưng lại dìm cộng đoàn Kitô hữu nước này vào những mối âu lo cho an ninh của họ.

Thật vậy, bản án tử hình dành cho Mohamed Morsi đã khơi dậy những phản ứng mạnh mẽ ở Ai Cập và các nước khác, bắt đầu từ Thổ Nhĩ Kỳ. Nhóm Huynh Đệ Hồi giáo, mặc dù đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, đã cùng các tổ chức Hồi giáo tổ chức các cuộc biểu tình đông đảo và đe dọa sẽ “trả đũa”.

Đức Cha Anba Kyrillos William, Giám Mục Công Giáo nghi lễ Coptic của giáo phận Assiut cho thông tấn xã Fides biết như sau: “Phản ứng của nhiều người Hồi Giáo bao gồm những lời lẽ kích động bạo lực, trong khi đa số dân chúng có lẽ hài lòng với phán quyết này. Mọi người vẫn chưa quên những đau khổ phải chịu đựng khi Morsi làm tổng thống.”

Án tử hình dành cho Morsi còn phải chờ đợi quyết định chung thẩm của Đại Giáo Trưởng Al-Azhar vào ngày 2 tháng Sáu tới đây. Trước phiên tòa này, tòa án tối cao Ai Cập cũng đã tuyên án tử hình 26 thành viên của nhóm Huynh Đệ Hồi giáo nhưng Đại Giáo Trưởng Al-Azhar đã giảm hình phạt xuống còn tù chung thân.

Đức Cha Anba Kyrillos William nói thêm “Án tử hình dành cho Morsi đặt ra một vấn đề lương tâm với Kitô hữu Ai Cập: Giáo Hội tôn trọng sự độc lập của ngành tư pháp, nhưng Giáo Hội tin rằng sự sống là một quyền bất khả xâm phạm của một người, và mạnh mẽ phản đối án tử hình. Thực tế là án tử hình vẫn là loại hình phạt vẫn được suy tư trong trật tự pháp luật Ai Cập “.

Đức Cha nhận xét dí dỏm rằng có một câu chuyện thật là đầy biểu tượng: “Tôi nhớ khi cựu Tổng thống Hosni Mubarak đã bị kết án tù chung thân, Nhóm Huynh đệ Hồi giáo, lúc đó đang nắm quyền, đã nằng nặc đòi hỏi phải có một phiên tòa mới để kết án tử hình ông ta.”

13. Tình hình các tín hữu Kitô Iraq

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Rome Reports hôm 21 tháng 5, Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Hội Đông Phương là người vừa viếng thăm Iraq một vài tuần trước đây cho biết:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất muốn đến thăm đất nước này. Thật vậy, vùng Lưỡng Hà Địa này là vùng đất đã được đích thân thánh Tôma Tông Đồ đến truyền giáo vào thế kỷ thứ nhất. Nhưng bây giờ người ta đang có những nỗ lực để loại trừ mọi dấu vết Kitô Giáo trong vùng này. Sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng là một khích lệ rất lớn cho các tín hữu Kitô”.

Tuy nhiên, khi được hỏi về thời gian một chuyến viếng thăm như thế có thể được thực hiện, Đức Hồng Y Sandri nhận định rằng rất khó đưa ra một thời biểu chính xác trong tình hình hiện nay sau nhiều chiến thắng vang dội của quân khủng bố Hồi Giáo IS.

Thật vậy, thưa quý vị và anh chị em,

Hôm Chúa Nhật 17 tháng 5, tại Iraq quân khủng bố Hồi Giáo IS đã chiếm được thành phố Ramadi là thủ phủ của tỉnh Al Abar chỉ cách thủ đô 110 km. Một số lượng lớn chiến xa, xe cơ giới và đạn dược đã lọt vào tay quân khủng bố. Hơn 25,000 dân bỏ chạy về Baghdad. Đến ngày thứ Tư 20 tháng 5 họ mới được quân Iraq cho vượt qua cầu bắc ngang sông Euphrates để vào thành Baghdad.

Trong khi đó, quân đội nổi tiếng là thiện chiến của Syria cũng phải bỏ chạy khỏi Palmyra vào đêm thứ Tư rạng ngày thứ Năm 21 tháng 5. Hiệu ứng bỏ chạy cũng diễn ra trong các khu vực lân cận. Do đó, quân khủng bố giờ đây đã chiếm được hơn ½ nước Syria. Chính phủ Syria giờ đây mất toàn bộ quyền kiểm soát biên giới Iraq và Syria.

Tại Qaryatayn, gần thành phố Homs nơi một số dân chúng Palmyra đang tá túc sau khi bỏ chạy khỏi thành phố này thì một linh mục Công Giáo đã bị bắt cóc tại ngay tu viện của ngài.

Cha Jacques Mourad, bề trên tu viện Mar Elias, đã bị bắt giữ bởi một nhóm khủng bố Hồi Giáo chưa thể xác định được. Tu viện này đã được tái thiết bởi nhà truyền giáo dòng Tên người Ý là cha Paolo Dall'Oglio, là người đã bị bắt cóc vào tháng Bảy năm 2013 và vẫn biệt vô âm tín.

Cha Mourad gần đây đã bày tỏ lo ngại về hoạt động thánh chiến trong vùng. Trong tuần vừa qua tu viện đã đón nhiều người tị nạn từ Palmyra.

Trong khi đó, Đức Cha Antoine Audo, thuộc Dòng Tên, là Giám Mục Công Giáo nghi lễ Chanđê tại Aleppo nói với thông tấn xã Catholic News Service: “Chúng tôi đang mất dần niềm hy vọng.”

“Bây giờ tình hình của chúng tôi là rất xấu, rất khó khăn. Chúng tôi không có điện, không có nước. 80% người dân ở Aleppo không có việc làm. Tôi biết họ không có tiền để tồn tại”

Đức Cha cho biết hai phần ba trong số 150,000 Kitô hữu Aleppo đã rời thành phố. Về tình hình trong mấy ngày qua, Đức Cha Audo nói “Chúng tôi bị đánh bom hàng ngày. Tôi có thể bị đánh bom trên đường phố, trong nhà thờ, trong tòa giám mục, trong trường học. Chúng tôi không biết tại sao và mấy trái bom này ở đâu mà ra”.