Ngày 14-06-2017
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Những Tên Gọi Tầm Thường
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
02:08 14/06/2017
Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa

Những Tên Gọi Tầm Thường

1. Đất, nước, đá

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7).Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25;5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.

Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Ai cập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10).

Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu (Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.

Như vậy, lịch sử sáng tạo,lịch sử cứu độ quyện đan với những cái tên gọi tầm thường: Đất, Nước, Đá.

2. Bánh và rượu

Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.

Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.

Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giảng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.

Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người. Chính vì thế, khi dâng Bánh, dâng Rượu, Giáo Hội thay cho toàn thể con người để tôn vinh Thiên Chúa: Chúc tụng Chúa là Chúa tể càn khôn… Chúa đã rộng ban cho chúng con Bánh này là hoa màu ruộng đất và lao công của con người… Chúng con dâng lên Chúa để trở nên Bánh nuôi sống chúng con… Chúc tụng Chúa là Chúa Tể càn khôn, vì Chúa đã rộng ban cho chúng con Rượu này là rượu bởi cây nho và lao công của con người… Chúng con dâng lên Chúa để trở thành của uống thiêng liêng cho chúng con.

Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.

“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử.Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường, và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.

3. Lương thực thần thiêng

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.

Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn 20 thế kỷ qua. Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.

Thánh thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả,sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?”( Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).

Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.

Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh thể.

Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người.Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.

Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.

Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên. Thánh Thể, suối nguồn tình yêu của cuộc sống Giáo Hội là trường học của tình bác ái và liên đới. Ai nuôi mình bằng Bánh của Chúa Kitô thì người ấy sống những điều tầm thường hàng ngày một cách phi thường trong tin yêu.

Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.

 
Bánh hằng sống
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
02:14 14/06/2017
Chúa Nhật Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô
Đnl 8,2-3.14b-16a 1Co 10,16-17 Ga 6, 51-58

Bánh hằng sống

Con người muôn thời luôn ước mong có một cuộc sống trường sinh bất tử.Do đó, có nhiều Vị Vua đã tốn rất nhiều công sức, đầu tư cho các nhà bác học, các nhà nghiên cứu y khoa tìm ra thuốc trường thọ. Nhiều Vị Vua đã tàn nhẫn hy sinh biết bao nhiêu sinh mạng để nghiên cứu hầu có thể kéo dài sự sống.Tuy nhiên, tất cả đều vô vọng, tất cả đều mơ hồ. Không có một viên thuốc cải lão hoàn sinh nào được bào chế. Một Tần Thủy Hoàng xưa, một Nursultan Nazarbayev, tổng thống nước Kazakhtan nay, đã truyền lệnh cho các nhà khoa học tìm ra thuốc trường sinh bất lão. Tất cả đều chỉ là một giấc mơ hão huyền…

Trần gian không thể nào tìm được thuốc cải lão hoàn sinh, nhưng Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta thứ thuốc, thứ bánh trường sinh. Manna khi xưa, Thiên Chúa ban cho dân Israen trong sa mạc chỉ giúp nuôi họ trong cuộc hành trình tiến vào đất hứa. Nhưng, bánh hằng sống mà Ngài hứa ban sẽ cho chúng ta sự sống đời đời. Thịt của Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ có sự sống đời đời . Chúa đã xác định rõ ràng như thế trong Tin mừng thánh Gioan 6,32.51 :” Bánh Môisen ban tặng các ngươi chẳng phải là bánh từ trời xuống…Ta là bánh hằng sống từ trời xuống.Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta “.Có nhiều người đã tin vào Ngài, nhưng cũng có môn số môn đệ rút lui không đi theo Ngài vì họ cho rằng lời nói ấy thật chói tai….Chúng ta phải trở lại Nhà Tiệc Ly mới hiểu được điều Chúa hứa ban, thánh Máccô viết :” Đang khi họ đồng bàn với nhau, Chúa Giêsu cầm một miếng bánh tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói :” Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta”. Đoạn Ngài cầm lấy chén lên, tạ ơn Chúa, rồi trao cho họ “ Tất cả hãy cầm lấy mà uống. Đây là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người. Máu này để ký giao ước với Thiên Chúa “. Thánh Luca đã diễn tả lại sự kiện trên như sau :” Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ “( Lc 24, 30 ). Diễn tiến này xẩy ra y hệt trong bữa Tiệc ly Chúa đã làm. Thực tế, Chúa Giêsu đã cho các Kitô hữu muôn thời cảm nghiệm được chính Mình Máu Chúa ban cho họ sự sống đời đời. “ Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống “ hoặc “ Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài “ ( Ga 3,16 ), để cứu độ trần gian, để cứu vớt mọi người, như là Bánh nuôi sống tất cả. Vâng, Chúa đã nuôi nhân loại, nuôi con người bằng “ Bánh trường sinh “, bằng “ Bí Tích Thánh Thể “. Mình Máu của Chúa là lương thực nuôi sống con người, là thuốc trường sinh mà con người, loài người vẫn mong tìm kiếm. Vâng, Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích Tình Yêu, Chúa trao ban cho nhân loại, cho mỗi người. Bánh Hằng Sống không chỉ nuôi sống chúng ta đời, nhưng còn là nguồn lực khích lệ, an ủi, động viên chúng ta để chúng ta vượt thắng những thử thách, khó khăn, phong ba bão táp để tiến về Quê trời.

Chúng ta, để được sống sự sống đời đời thì không chỉ tin Chúa, nhưng còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Chúa đã Nhập Thể làm người, đã chết để cứu chuộc chúng ta và đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Người. Nên, Chúa sống lại về trời và ban Thánh Thần cho chúng ta để chúng ta có sức sống mới, để chúng ta được sống nhờ Ngài cũng như Chúa sống nhờ Chúa Cha.

Chính vì thế, mỗi lần chúng ta rước lễ là chúng ta đón nhận chính thân xác sống động của Chúa Giêsu. Đấy cũng chính là Đức Giêsu đã được sinh ra nơi Hang Đá Bêlem. Đấy cũng chính là Đức Giêsu đã chết trên thập giá nơi đồi Canvê và đấy cũng chính là Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.

Vâng, Chúa Giêsu đã long trọng cử hành Bí Tích Thánh Thể tại Emmaus mà Ngài đã tiên báo tại Cana, đã hứa ban tại Capharnaum và đã thiết lập tại Giêrusalem. Ngày nay và cho mãi đến muôn đời, Chúa luôn ngự trong Bí Tích Thánh Thể và ở trong Nhà Tạm để chờ đón chúng con.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con Bánh Bởi Trời, Bánh Hằng Sống để nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con luôn biết mến yêu Bí Tích kỳ diệu:” Bí Tích Tình Yêu, Bí Tích Ban Sự Sống vĩnh cửu là chính Mình và Máu Đức Kitô “. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Manna trong sa mạc xưa và Thịt Máu của Chúa Giêsu khác nhau thế nào ?
2.Ai đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể ? Ở đâu ? và vào lúc nào ?
3.Bí Tích Thánh Thể là gì ?
4.Rước Mình Máu Thánh là tiếp nhận ai ?
 
Suy niệm Lễ Mình Máu Thánh Chúa
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08:53 14/06/2017
Thịt Máu Chúa Là Của Nuôi Hồn

Suy niệm Lễ Mình Máu Thánh Chúa Năm – A

( Ga 6, 51-59 )

Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh. Thế nên, người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao lâu có thể. Một trong những thứ đó là "Bánh" mà phụng vụ lễ Mình Máu Thánh Chúa năm A đề cập đến : bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.

Manna của ăn trong sa mạc

Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, "Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn" (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa.

Thật đáng ngưỡng mộ, Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói : "Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng" (Tv 77, 25). Nhưng cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).

Bánh Giêsu

Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống đời đời, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố : "Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6, 51 ). Người dẫn chứng : "Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết", khiến họ tranh luận với nhau: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được? " (Ga 6, 52). Họ không vượt qua được nguồn gốc trần thế của Chúa Giêsu, vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.

Thế giới ngày nay có rất nhiều người đói và cần bánh. Có người cam chịu chết đói, chết vì cô đơn, vì thiếu hy vọng, nhưng cũng có nhiều người cần đến Chúa Giêsu. Có ba cái đói và ba phương thế để chuyển hóa ba loại bánh : bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.

Bánh Giêsu là bánh quan trọng nhất. Nếu không có Chúa Giêsu, chúng ta không thể sống như lời Chúa nói "Không có Thầy, anh em không thể làm gì được" (Ga 15,5). Tuy nhiên, Chúa muốn nuôi dưỡng những người đói khát. Có lẽ Chúa nghĩ rằng đó là một cách tốt để mạc khải và biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhưng Chúa cũng muốn trở thành bánh cho chúng ta, để nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình dương thế, ngõ hầu chúng ta được ở lại trong tình yêu của Chúa mà được sống đời đời. Người khuyên chúng ta phải tìm kiếm và sống trong Người. Khi nuôi dưỡng những kẻ đói khát, Chúa chỉ cho chúng ta tình yêu tự hiến của Chúa trong Bí tích Thánh Thể : "Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời" (Ga 6,58). Theo thánh Augustinô thì "khi chúng ta ăn Chúa Kitô, là chúng ta ăn sự sống (…), thật vậy, giả như, anh em tự tách mình ra không ăn thịt và uống máu Chúa nữa, anh em sẽ không có sự sống".

Muốn sống đời đời, hãy ăn Bánh Giêsu

Xưa kia Chúa Giêsu mời gọi những người Do thái, giờ đây Chúa bảo chúng ta hãy đến mà ăn cho no uống cho thỏa. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người : "Là Bánh Hằng Sống" (Ga 6,51).

Thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời : "Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 54) và hơn thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy : "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6, 56). Chúa Giêsu là bánh bởi trời xuống làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.

Thánh Thể thần lương vượt thế trần

Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang.

Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.

Lạy Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, xin cho con biết ra đi tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Suy Niệm Lễ Mình Máu Thánh Chúa
Lm. Anthony Trung Thành
10:04 14/06/2017
Suy Niệm Lễ Mình Máu Thánh Chúa – Năm A

Vào năm 1263, một Linh Mục người Đức cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ kính thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên cha thấy Mình Thánh Chúa không còn là hình tấm bánh trắng, mà đã biến thành Thịt và Máu thật sự ngay trước mắt cha và toàn thể giáo dân. Những giọt Máu Thánh loang ra thấm ướt tấm khăn thánh lớn trải trên bàn thờ. Cha vội nhanh tay gấp khăn lại, nhưng hễ vừa gấp tới đâu thì Máu Thánh lại thấm ra tới đó, tất cả qua 25 lần vải trắng. Vừa xúc động vừa kính sợ, cha không thể tiếp tục dâng Thánh Lễ được nữa. Sự việc kỳ lạ này sau đó được cha đích thân xin yết kiến và tâu trình lại với Đức Giáo Hoàng Urbano. Đức Giáo Hoàng liền cử ngay một vị Giám Mục đến rước Mình Thánh Chúa cùng với tấm khăn đẫm Máu Thánh về Tòa Thánh, đặt ở Nhà Thờ Chính Tòa cho giáo dân đến tôn kính. Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Thánh Cha ra sắc dụ thiết lập Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu trong toàn Giáo Hội Công Giáo (Nguồn câu chuyện: Sưu Tầm trên Internet).

Hôm nay, chúng ta mừng trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong bảy Bí tích chính Đức Giêsu đã thiết lập, chúng ta thường gọi là Bí tích Tình yêu. Bởi vì, không có một tình yêu nào cao qúy hơn thế nữa. Thánh Augustinô khẳng định rằng: “Dầu Thiên Chúa quyền phép vô cùng, cũng không thể cho ta điều gì hơn nữa, dầu Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng cũng không biết cho ta điều gì hơn nữa, và dầu Thiên Chúa giàu có vô cùng cũng không còn có gì cho ta hơn nữa.” Thánh Bênađô cũng nói: “Thánh thể là tình yêu vượt trên mọi tình yêu trên trời dưới đất.” Vì thế, Bí tích Thánh Thể đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao bài hát ra đời. Chẳng hạn, trong bài hát CÙNG THỜ LẠY CHÚA, có đoạn: “Cùng thờ lạy Chúa, trong phép Thánh thể nhiệm mầu, ân tình cao sâu, ngàn đời ai hiểu được đâu, Chúa trở nên Bánh thánh, lương thực nuôi muôn dân;” hay trong bài hát THÁNH THỂ CAO SIÊU, có đoạn: “Qua Thánh thể cao siêu con ngợi ca tình yêu của Chúa, một tình yêu bao la vời vợi, tình yêu có từ bao đời...”

Thật vậy, vì yêu thương nhân loại nên Đức Giêsu đã lập nên phép Thánh Thể để ở lại với nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Trong bữa tiệc ly, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.” Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén Máu Thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19-20; Mt 26, 26 -28; Mc 14, 22 -24; ICor 11, 23 -25 ).

Bí tích Thánh Thể trở nên nguồn mạch và tột đỉnh của mọi sinh hoạt Hội Thánh. Vâng lệnh Đức Giêsu, Hội Thánh không những cử hành mà mời gọi mọi thành phần tham dự, yêu mến và tôn thờ Bí tích Thánh Thể. Đồng thời, Thánh Thể là của ăn chính của linh hồn, cho nên Hội Thánh mời gọi mọi Kitô hữu năng dọn mình rước lễ và rước lễ mỗi ngày. Nhưng để rước lễ nên cần phải biết dọn mình. Thánh Phaolô nói: “Ai nấy hãy tự xét mình rồi hãy ăn” (1Cr 2,28). Về thể xác: phải ăn mặc sạch sẽ, thái độ phải nghiêm trang, giữ chay thánh thể đúng theo luật. Về phần linh hồn: phải trong trạng thái ân sủng, tức là phải sạch tội trọng; có lòng tin; có lòng khiêm nhường như viên sĩ quan trong Tin mừng thánh Mathêu: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con” (Mt 8,8); phải có lòng ước ao được rước Chúa vào lòng “Như Nai rừng khao khao nguồn nước, hồn con khát Chúa trời…” (Tv 41).

Nếu có được những điều kiện trên thì rước lễ sẽ được những ơn ích trọng đại sau đây:

Thứ nhất, được tăng thêm ơn thánh hóa. Khi chúng ta lãnh các Bí tích: Thêm sức, Giao hòa, Xức dầu, Truyền chức thánh và Hôn phối, chúng ta cũng được tăng thêm ơn thánh hóa. Nhưng khi nhận lãnh Bí tích Thánh Thể chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa nhiều nhất, vì không phải chúng ta chỉ lãnh thêm ơn thánh hóa mà là lãnh nhận chính Đấng ban ơn thánh hóa, là chính nguồn mạch ơn phúc.

Thứ hai, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Đức nguyện Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “Khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì thì chúng ta biến nó trở nên thịt máu của chúng ta, nhưng khi chúng ta ăn Thịt và Máu Chúa Giêsu thì ngược lại, chính Chúa Giêsu biến đổi chúng ta thành chi thể của Ngài nhờ đó chúng ta được ở lại trong Ngài.” Đồng thời, Đức Giêsu sẽ sống trong chúng ta, như Ngài đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở trong người ấy” (Ga 6,56). Khi đó, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Thứ ba, được hiệp nhất với anh chị em tín hữu trong Hội Thánh. Bởi vì, chúng ta cùng chia sẻ một lương thực là cùng chia sẻ một sự sống, nên chúng ta hiệp thông và hiệp nhất với nhau, như Thánh Phaolô đã khẳng định trong bài đọc 2 hôm nay: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Do đó, khi chúng ta được hiệp nhất với Đức Giêsu thì chúng ta cũng được hiệp nhất với nhau.

Thứ tư, được tha các tội nhẹ. Hằng ngày chúng ta phạm nhiều tội nhẹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Có những tội nhẹ vô tình nhưng cũng có những tội nhẹ cố tình. Những tội nhẹ này không những không ngăn trở chúng ta rước lễ, mà chính việc rước lễ sẽ tha các tội đó cho chúng ta.

Thứ năm, giúp bảo vệ chúng ta khỏi phạm tội trọng. Việc rước lễ như là tấm lá chắn ngăn chúng ta phạm tội trọng. Công đồng Trentinô đã nói: “Việc rước Chúa là một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng.”

Thứ sáu, bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (x. Ga 6,54). Đức Giêsu không nói người ấy “sẽ được sống muôn đời” nhưng Ngài nhấn mạnh người ấy “được sống muôn đời.” Còn việc bảo đảm sẽ được sống lại sau này thì chính Đức Giêsu đã khẳng định: “...Tôi sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết” (x. Ga 6,54). Như vậy, phép Thánh Thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau, nghĩa là bây giờ nhờ rước Chúa, chúng ta có đời sống ân sủng, sau khi chết, linh hồn chúng ta được hạnh phúc trường cửu, và ngày tận thế thân xác chúng ta sẽ được đồng vinh hiển cùng với linh hồn.

Rước lễ được nhiều ơn ích như thế. Vậy mà, trong thực tế đời sống đạo, vẫn có nhiều người bỏ rước lễ. Họ bỏ rước lễ có thể do thái độ lãnh đạm, thờ ơ hay kiêu ngạo. Cũng có thể, họ bỏ rước lễ vì sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể nên họ mặc cảm, tự ti, sợ sệt vì tội lỗi của mình mà không ăn năn thống hối để rước lễ. Nhưng dầu có vịn vào lý do nào đi chăng nữa thì: Bỏ rước lễ là khinh dễ, xúc phạm đến tình yêu và làm trái lệnh Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Ai không ăn thịt con người và uống máu Ngài thì không có sự sống nơi mình.” (Ga 6,53); Bỏ rước lễ là coi thường Giáo Hội vì Giáo Hội là kẻ sắm, bảo quản, ban phát Thánh Thể cho chúng ta; Bỏ rước lễ trong những trường hợp sau đây là lỗi luật của Giáo Hội: trong vòng một năm không rước lễ, khi hấp hối và nguy tử (có cơ hội mà không rước lễ); Bỏ rước lễ cũng có thể trở thành gương mù gương xấu: Cha mẹ bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho con cái. Thầy cô giáo lý viên bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho học sinh. Người lớn bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho trẻ em...; Người xưng mình là Kitô hữu, tin Chúa Giêsu, mà bỏ rước lễ thì tự phản lại lí lịch của mình và làm người ta hồ nghi về bản chất kitô hữu của mình.

Bên cạnh nhiều người bỏ rước lẽ thì lại có những người rước lễ không nên như: rước lễ khi còn mắc tội trọng; rước lễ khô khan khi không dọn mình trước, cám ơn sau; không có thái độ khiêm tốn, cung kính khi lên rước lễ hay trước Thánh Thể Chúa...

Còn thái độ của của chúng ta lâu nay đối với Bí tích Thánh Thể như thế nào? Có siêng năng tham dự thánh lễ không? Có siêng năng dọn mình rước lễ sốt sắng không? Hay chúng ta lại lười biếng bỏ rước lễ? Rước lễ trong khi mắc tội trọng?

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương nên Chúa lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế, xin cho mỗi người chúng con biết năng dọn mình rước lễ sốt sắng để được những ơn Chúa ban qua Bí tích Tình Yêu này. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các bổ nhiệm mới tại Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Sự Sống cho thấy tính đa dạng trong quyết định của Đức Phanxicô
Vũ Văn An
00:20 14/06/2017
Theo tin của Catholic News Services, sau khi mở rộng phạm vi và ban hành qui chế mới cho Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Sự Sống, Đức Phanxicô vừa bổ nhiệm các thành viên mới cho cơ quan cố vấn này, bao gồm các khoa học gia, các giáo sư và chuyên viên y khoa lẫn đạo đức học xuất thân từ hậu cảnh tôn giáo và thế tục.

Bẩy thành viên là người Hoa Kỳ và Gia Nã Đại, trong đó có Bác Sĩ Kathleen M. Foley, một nhà thần kinh học tại Trung Tâm Ung Thư Tưởng Niệm Sloan ở New York, và Bác Sĩ William F. Sullivan, một y sĩ gia đình và đạo đức học ở Toronto, người hiện giữ chức chủ tich Hiệp Hội Đạo Đức Sinh Học Quốc Tế tại Canada.

Trong một tuyên bố phát hành sau cuộc công bố ngày 13 tháng Sáu, Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, chủ tịch Hàn Lâm Viện, nói rằng việc bổ nhiệm các giáo sĩ, khoa học gia và chuyên viên y khoa, vừa đạo vừa đời, sẽ đem lại cho Giáo Hội và thế giới một “viễn kiến sâu sắc và khôn ngoan trong việc phục vụ sự sống con người, nhất là sự sống yếu ớt nhất và ít được bảo vệ nhất”.

Ngài cho biết "trong số các vị này, có một số vị không phải là người Công Giáo, hoặc thuộc các tôn giáo khác hoặc không có tôn giáo nào cả, một dấu hiệu cho thấy việc bảo vệ và cổ vũ sự sống con người không có phân rẽ và chỉ có thể được bảo đảm qua cố gắng chung”.

Việc bổ nhiệm lần này bao gồm Giáo Sĩ Do Thái Giáo Fernando Szlajen, người Á Căn Đình nhiều kinh nghiệm lâu dài về đạo đức sinh học, và mục sư Anh Giáo Nigel Biggar, hiện đang giảng dạy thần học mục vụ và luân lý tại Đại Học Oxford.

Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher của Sydney, giáo sư đạo đức sinh học và luân lý, và Đức Hồng Y Willem Eijk của Utrecht, Hòa Lan, nguyên bác sĩ y khoa làm việc tại bệnh viện của Đại Học Amsterdam, trước khi đi tu làm linh mục, cũng đã được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào Hàn Lâm Viện.

Được Đức Gioan Phaolô II thành lập năm 1994, Giáo Hoàng Hàn Lâm Viện Sự Sống có nhiệm vụ bảo vệ và cổ vũ “giá trị của sự sống con người và phẩm giá của nó”.

Tháng Mười Một năm 2016, Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành qui chế mới cho Hàn Lâm Viện để mở rộng phạm vi hoạt động và tìm tòi của nó liên quan đến các vấn đề sự sống.

Qui chế mới nói thêm rằng việc bảo vệ sự sống của Hàn Lâm Viện phải bao gồm “việc chăm sóc phẩm giá của con người nhân bản trong các giai đoạn khác nhau của cuộc sống” cũng như “việc cổ vũ phẩm chất của sự sống con người bắng cách tích hợp giá trị vật chất và tinh thần của nó nhằm tiến tới một ‘sinh thái nhân bản’ chân chính, một sinh thái giúp ta tái khám phá sự quân bình nguyên thủy của tạo thế giữa con người nhân bản và toàn thể vũ trụ”.

Các thành viên mới được Đức Phanxicô bổ nhiệm xuất thân từ 27 quốc gia khác nhau, trong đó có Ý, Tây Bna Nha, Nhật Bản, Tunisia, Do Thái và Burkina Faso.

Việc bổ nhiệm lần này cũng bao gồm 13 thành viên vốn đã phục tại Hàn Lâm Viện trước khi ban hành qui chế mới.

Năm vị lãnh đạo Hàn Lâm Viện trước đây cũng đã được Đức Phanxicô bổ nhiệm làm thành viên danh dự đó là Đức Hồng Y Carlo Caffarra, Tổng Giám Mục hưu trí của Bologna, Ý, và Birthe Lejeune, phó chủ tịch của qũy lập ra để tôn kính chồng bà là Jerome Lejeune, chủ tịch đầu tiên của Hàn Lâm Viện.

Đức Tổng Giám Mục Paglia nói rằng các thành viên danh dự “đại diện cho lịch sử hàn lâm viện và sự đam mê đối với sự sống con người mà chúng ta phải biết ơn”.

Chính nhờ “công trình tiên khởi của rất nhiều vị nam nữ sáng chói mà ngày nay, với sự bổ nhiệm các hàn lâm sĩ mới, định chế của chúng ta tiếp tục phục vụ sự sống của mình với một năng lực canh tân”.

Ngoài hai thành viên Foley và Sullivan, các thành viên khác phát xuất từ Hoa Kỳ cà Gia Nã Đại là: Carl Anderson, hiệp sĩ tối cao của Hội Hiệp Sĩ Columbus; John Haas, chủ tịch, Trung Tâm Đạo Đức Sinh Học Toàn Quốc, Philadelphia; Bác Sĩ Daniel Sulmasy, giáo sư đạo đức sinh học của Đại Học Georgetown; John Keown, giáo sư đạo đức học Kitô Giáo của Đại Học Georgetown; và Đức Cha Noel Simard của Valleyfield, Quebec, phát ngôn viên của Hội Đồng Giám Mục Gia Nã Đại về các vấn đề đạo đức sinh học liên quan tới an tử.

Các thành viên của Hàn Lâm Viện có nhiệm kỳ 5 năm, có thể được tái bổ nhiệm. Tư cách thành viên sẽ chấm dứt khi hàn lâm sĩ tới 80 tuổi.
 
Đằng sau thù hận và bạo tàn là một trái tim không được yêu thương.
Bùi Hữu Thư
17:00 14/06/2017
Ngày 14/6/2017: VATICAN CITY (CNS) – Đức Thánh Cha nói trong buổi yết kiến chung: Bạo tàn và thù hận thường là dấu hiệu của một người không hạnh phúc và cảm thấy mình không được yêu thương và chăm sóc.

Ngài nói: “Trong thế giới ngày nay, con người, nhất là trẻ em và thanh thiếu niên, thường cảm nhận rằng, trừ khi “họ khỏe mạnh, hấp dẫn và xinh đẹp, thì không ai đếm xỉa gì đến họ.”

"Khi một thiếu niên không được hay không cảm thấy được yêu thương, thì bạo tàn có thể xẩy ra. Sau bao nhiêu hình thức hận thù xã hội và bạo lực, luôn luôn có một trái tim không ai biết tới.”

Mặc dầu trời nóng lên tới gần 90 độ F, có gần 12,000 khách hành hương đội các nón và che các cây dù đủ mầu đã hoan hô và vẫy chào khi Đức Thánh Cha tiến vào quảng trường Thánh Phêrô.

Đức Thánh Cha Phanxicô dành một lát để chào những người bệnh tật đang theo dõi buổi yết kiến bên trong sảnh đường vì thời tiết Rôma quá nóng.

Đức Thánh Cha nói với đám đông trong quảng trường: “Họ đang ở bên trong sảnh đường Phaolô VI và chúng ta đang ở ngoài này. Nhưng chúng ta cùng gần gũi với nhau, chúng ta được liên kết bởi Chúa Thánh Thần, vì Ngài luôn luôn kết hiệp chúng ta."

Trong diễn từ, Đức Thánh Cha chú trọng đến niềm hy vọng chắc chắn về việc cảm nhận chúng ta được yêu mến như những người con cái của Thiên Chúa.

Ngài nói: “Khi con người không cảm thấy mình được yêu thương, thì họ có nguy cơ bị sa lấy vào “sự nô lệ gớm ghê” là tin rằng tình yêu chỉ dựa trên sắc diện bề ngoài hay khả năng xứng đáng. Hãy thử tưởng tượng xem trong một thế giới có tất cả mọi người đều nài xin cho có những lý do để thu hút sự chú ý của người khác, và không một ai muốn yêu một người khác cách nhưng không. Dường như đây là một thế giới của nhân lọai, nhưng thực ra đây là hỏa ngục.”

Ngài tiếp: “Cảm nghĩ mình cô đơn thường đưa đến ‘nhiều hành vi thù ghét người khác’. Cảm nghĩ này chỉ vượt thắng được khi có kinh nghiện rằng tình yêu đã cho đi và được tiếp nhận.”

“Thiên Chúa không bao giờ cần phải có lý do mới yêu thương con cái của Người, và có tình yêu vô điều kiện với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa còn không trói buộc sự quảng đại của Người với sự hoán cải của chúng ta; mọi sự đều là kết quả của tình yêu Thiên Chúa.”

Nhắc đến thời kỳ ngài là Tổng Giám Mục tại Buenos Aires, Argentina, Đức Thánh Cha nói ngài đã thấy tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trên gương mặt của các bà mẹ khi họ đến thăm con cái đang bị tù đầy trong các trại giam.

"Tôi nhớ đến biết bao nhiêu bà mẹ trong tổng giáo phận của tôi đã phải xếp hàng để vào khám đường. Có biết bao nhiêu bà mẹ đã không thấy xấu hổ. Con cái họ ở trong tù, nhưng vẫn là con của họ, và họ chịu đau khổ vì bị xỉ nhục.”

"Chỉ có tình yêu này của một người cha và một người mẹ mới có thể giúp ta hiểu được tình yêu Thiên Chúa.” Ngài tiếp: “không có tội lỗi nào, hay chọn lựa sai lầm nào có thể xóa bỏ tình yêu đó.”

Đức Thánh Cha Phanxicô hỏi đám đông: “Có thần dược nào có thể thay đổi một người không hạnh phúc?”

Đám đông trả lời: “Tình yêu.”

Đức Thánh Cha nói: "Tốt lắm, thật là tốt! Niềm hy vọng Kitô chỉ có được khi nhận biết rằng ‘Chúa Cha yêu thương chúng ta bất kể chúng ta ra sao. Người luôn luôn yêu chúng ta, tất cả mọi người chúng ta, dù chúng ta tốt hay xấu.”

Bùi Hữu Thư
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh Lễ Kỷ Niệm 100 năm Mẹ hiện ra ở Fatima lần II tại Nam Úc
Vietcatholic - Adelaide
18:56 14/06/2017


Adelaide, South Australia: Vào lúc 6 giờ 30 chiều, thứ Ba 13/06/2017. Thánh đường giáo xứ Thánh Maximilian Kolbe Ottoway Nam Úc lại có dịp quy tụ các tín hữu từ nhiều vùng khác nhau quanh khu vực Ottoway gồm các sắc tộc Úc, Ba Lan, Phi Luật Tân và đông đảo tín hữu VN về tham dự thánh lễ và chầu Thánh Thể đánh dấu 100 năm ngày Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn chiên là: Lucia dos Santos, Franciso Marto và Jacinta Marto lần thứ hai vào ngày 13/06/1917 tại Fatima, Bồ Đào Nha (Portugal).

Đây là lần thứ hai Giáo xứ Ottoway hiệp thông cùng Giáo Hội toàn cầu và nhiều giáo xứ trong TGP Adelaide tổ chức Thánh Lễ, chầu Thánh Thể, lần chuỗi Mân Côi để các tín hữu có cơ hội đón nhận ơn toàn xá trong dịp kỷ niệm long trọng biến cố lịch sử này.

Buổi chiều Nam Úc đang xuống dần, ánh nắng nhạt nhòa của một ngày mùa đông đang chìm dần vào những màn sương đêm bao trùm vạn vật, lạnh gía… nhưng vẫn không làm nản lòng người tín hữu hiện diện trong những dịp trọng đại này. Thánh đường đã quy tụ đông đảo quý tín hữu của nhiều sắc tộc hợp thành một cộng đoàn cầu nguyện dưới bóng mẹ Fatima êm đềm và thánh thiện …Bài ca nhập lễ bằng tiếng Ba Lan vang vọng như mời gọi mọi người kết hợp với Chúa trong bàn tiệc thánh sắp được diễn ra. Cha chủ tế cùng với các chị em phụ nữ, tha thướt với những tà áo dài VN mang những bó hoa tươi tiến dâng lên ngai toà mẹ Fatima như một cử chỉ tạ ơn Đức Mẹ trong dịp đặc biệt.

XEM HÌNH

Cha chánh xứ Marek Ptak chủ tế thánh lễ bằng tiếng Anh và cộng đoàn phụng vụ hiệp thông qua những lời nguyện cầu, thánh nhạc, bằng 3 ngôn ngữ: Tiếng Anh, Ba Lan và tiếng Việt. Thánh Lễ diễn ra trong bầu khí trang nghiêm nhịp nhàng, mọi người hiệp dâng thánh lễ một cách trọn vẹn và sốt sáng.

Cha chủ tế công bố tin mừng của Thánh Marcô: “Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại?” Và Đức Giêsu cũng nhắn nhủ rằng: “Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên Trời".

Qua bài Tin Mừng cha chủ tế đã diễn giải về lòng tín thác và sự trung thành của con cái Thiên Chúa cần phải thực thi những điều Chúa truyền dạy.

Cũng nhân dịp này Ngài nhắc đến biến cố Fatima và sứ điệp Đức Mẹ Maria nhắn nhủ với con cái loài người: Cách nay 100 năm, tại Fatima ánh sáng của ơn cứu rỗi đã được đốt lên một lần nữa cho Giáo Hội và cho thế giới. Giữa đệ Nhất (1914-1918) và đệ Nhị thế chiến (1939-1945), sứ điệp Fatima đã được đề cao với sức mạnh cưú thoát Giáo Hội và cả nhân loại. Khởi đi từ ngày 13 tháng 5 năm 1917, trong khi chăn cừu trên đồi Cova da Iria, ba trẻ em đã được diễm phúc thấy Đức Mẹ Maria hiện ra với các em, và sau đó Đức Mẹ còn hiện ra tất cả sáu lần, mỗi lần đều vào ngày 13 mỗi tháng. Đức Mẹ đã truyền cho các em ba sứ điệp: Cải Thiện Đời Sống, Lần Chuỗi Mân Côi, Dâng Mình Cho Trái Tim Mẹ để thế giới được hòa bình.

Thánh lễ được tiếp nối với nhũng lời nguyện cầu, lời nguyện hiệp thông và phụng vụ thánh thể được diễn tiến trong tâm tình yêu mến, hiệp nhất.

Sau thánh lễ là phần chầu Thánh Thể; Mình Thánh Chúa được đặt trong mặt nhật hào quang giữa cộng đoàn với lòng tôn kính phụng thờ, những bài thánh ca, ngợi khen Thiên Chúa trầm bổng bằng những ngôn ngữ khác nhau nhưng cùng nói lên một tâm tình yêu mến tôn thờ. Trong giờ chầu Thánh Thể cộng đoàn cùng hòa chung lời kinh mân côi, năm chục mùa thương dâng kính Mẹ, tiếng cầu kinh sốt sáng bên Thánh Thể và dưới bóng mẹ hiền đã có sức mạnh xoa dịu những truân chuyên của cuộc sống vất vả đời thường của bao người có lòng tin tưởng cậy trông

Được biết, tại nhà thờ giáo xứ Ottoway, Nam Úc đã khai mạc chương trình kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima vào ngày 13/5 vừa qua. Trong buổi khai mạc, cộng đoàn VN đã cùng giáo xứ tổ chức việc rước kiệu và dâng hoa thật lòng trọng đã được các cộng đoàn sắc tộc bạn nhiệt liệt tán dương và giúp cho sinh hoạt giáo xứ thêm sinh động và sốt sáng nhất là trong những dịp đặc biệt.

Theo thông tin của ban mục vụ giáo xứ thì chương trình sẽ được tiếp nối trong tất cả những ngày 13 hàng tháng cho đến ngày 13/10/2017 nhằm giúp cho người tín hữu thêm lòng sùng kính Đức Mẹ, thực hành sứ điệp Fatima và nhất là được lãnh nhận ơn toàn xá khi tham dự thánh lễ, giờ chầu thánh thể, cùng nhau lần chuỗi mân côi hay giờ cầu nguyện để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Trong điều kiện này người tín hữu phải viếng Đức Mẹ Fatima với lòng sùng mộ, ở bất cứ nhà thờ, nhà nguyện hay nơi xứng hợp nào có trưng bày tượng công khai, trong những ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra, tức vào ngày 13 mỗi tháng từ tháng Năm đến tháng Mười 2017. Những ai muốn lãnh ân toàn xá cũng phải đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

Kết thúc giờ chầu cộng đoàn cùng dâng lên trước ngai tòa Đức mẹ bài ca quen thuộc “Lời Mẹ nhắn nhủ” để hồi tưởng lại biến cố Fatima cách nay đúng 100 năm, mà tạ ơn Thiên Chúa và Mẹ Maria.

Thánh lễ và giờ chầu, lần chuỗi, cầu nguyện kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra lần thứ hai tại Fatima của giáo xứ Ottoway đã kết thúc vào lúc 8 giờ 00 tối cùng ngày.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Góp Ý Nhân Đọc Cuốn “Lịch Sử Giáo Phận Vinh”
Nguyễn Đức Cung
09:05 14/06/2017
Góp Ý Nhân Đọc Cuốn “Lịch Sử Giáo Phận Vinh” (2)


NGUYỄN ĐỨC CUNG

II.- MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TIÊU CHÍ VÀ NỖ LỰC BIÊN KHẢO CUỐN “LỊCH SỬ GIÁO PHẬN VINH”.

Như đã nói ở trên, Lời Giới Thiệu của ĐGM Nguyễn Thái Hợp là một bức cẩm nang chứa đựng những tiêu chí rất rành mạch, rõ ràng giúp cho ban chủ biên nắm vững các yêu cầu về chất lượng, nội dung, đường hướng, nhận định, phương pháp để biên soạn bộ “Lịch sử Giáo Phận Vinh” gồm hai cuốn mà chúng ta mới có được cuốn đầu. Có một số tiêu chí được đấng bản quyền đề ra như vậy khi biên tập cuốn lịch sử này, những người phụ trách sẽ nhìn thấy rõ con đường đi trải dài trước mặt mà mạnh dạn dấn bước, và với tinh thần làm việc tập thể giữa những người có khả năng tương đối đồng đều, có niềm tin mãnh liệt vào công việc được giao cho, thành quả đưa tới cũng là điều tất yếu.

21.- Một cuốn lịch sử đầy đủ và hiện đại: Ước mơ đã thành tựu.

Một sử gia người Pháp, Fustel de Coulanges có nói “Sans document, sans l’histoire”. (Không có tài liệu thì không có lịch sử). Thật vậy, khi một sử gia đã chọn được một đề tài thì việc họ phải tiến hành tiếp theo đó là sưu tầm sử liệu. Đối với việc biên soạn cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh”, ban chủ biên chắc chắn là những người đi vào một khu rừng đã được khai quang, không phải vất vả đào gốc, chặt cành vì trước họ có nhiều người đã viết về đề tài này, chẳng hạn như Lm Cao Vĩnh Phan từng viết cuốn sử cũng nhan sách như thế với 606 trang, Lm Trương Bá Cần với cuốn sách cùng tên, cũng với số trang tương tự; ngoài ra bản thư tịch đã cung cấp cho độc giả rất nhiều tài liệu ngoại quốc hay tiếng Việt có liên quan gần xa đến giáo phận Vinh, cho nên việc sưu tầm tài liệu chắc chắn là không khó, nhất là trong thời đại ngày nay. Khi bắt tay vào công việc chắc chắn ông Vương Đình Chữ và những vị cộng sự viên đã có thể tiếp cận với nhiều tài liệu, sử liệu liên hệ đến đề tài muốn viết. Tuy nhiên theo lời một giáo sư dạy sử ở bậc đại học, Linh mục Nguyễn Phương (1921-1993) “sử liệu chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của việc chép sử. Sự thực, nó chỉ là vật dụng cho sử gia dùng, mặc dầu nó là những vật dụng rất quan trọng và rất cần thiết. Một khi có nó rồi, sử gia không phải vụ vào chính nó, không phải dừng lại với tính cách vật chất của nó? Cái mà sử gia lấy làm quý giá ở nơi nó chính là nội dung của nó, nghĩa là cái chứng tích nó chứa đựng về thời sự quá khứ.” (Nguyễn Phương, Phương pháp Sử học, Phòng nghiên cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1964, trang 66-67). Việc thực hiện một cuốn lịch sử đầy đủ như lòng mong ước của ĐGM Nguyễn Thái Hợp cũng như vị tiền nhiệm của ngài, Đức Cố Giám Mục Phêrô Trần Xuân Hạp quả thật đã thể hiện qua cuốn sách chúng ta có trong tay. Chữ “đầy đủ” ở trong Lời Giới Thiệu của đấng bản quyền muốn nói lên rằng so với các cuốn sách viết về lịch sử Giáo phận Vinh trước đây, cuốn nầy đã đạt tới tiêu chí đầy đủ xét về lượng cũng như về phẩm. Đầy đủ xét về lượng có nghĩa là các nhà biên tập thận trọng trong việc sử dụng các tư liệu, cẩn án sử liệu theo đúng phương pháp sử, cân nhắc việc dùng tư liệu để đạt tới sự thật lịch sử, tiếp cận được với tất cả mọi tài liệu khi trường hợp cho phép, như đã sử dụng các kho văn khố ở trong nước và nhất là ở ngoại quốc. Chẳng hạn, khi viết về việc ông Đỗ Công Viễn người làng Bồng Trung, huyện Vĩnh-Lộc, tỉnh Thanh Hóa gia nhập đạo Công Giáo, các vị trong ban chủ biên đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu để đối chiếu và cô đọng các sự kiện trong mạch văn ngắn gọn nhờ đó loại bỏ được một chi tiết có sai lầm thí dụ như trong tài liệu của Lm Nguyễn Hồng viết niên hiệu Chính-Tự thay vì Chính Trị tức niên hiệu thứ hai của Lê Anh-Tôn, sau niên hiệu Thiên-hựu và ăn từ 1558 đến 1571. Sách của Lm Nguyễn Hồng trang 23, viết niên hiệu này sai cả đoạn chính văn lẫn cả cước chú. Điều này cũng nói lên phẩm chất của cuốn sách mặc dù toàn bộ cuốn sách chỉ là một khối sử liệu tu soạn tức là sử liệu gián tiếp chứ không phải sử liệu tiên nguyên.

Để đánh giá công trình của một cuốn sách biên khảo, thói quen của chúng tôi là nhìn vào bản thư lục hay còn gọi là thư mục. Xem vào thư lục tức là theo dõi số các sách báo và tài liệu được tham khảo, người đọc thấy đó là những tài liệu nòng cốt cho đề tài được nêu ra qua cuốn sách, không nhiều mà cũng không ít, dĩ nhiên vì là sách viết về lịch sử của một giáo phận nên những tác phẩm được coi là phần tài liệu, tư liệu căn bản do các giáo sĩ và các nhà nghiên cứu nước ngoài viết trước đây không thể vắng bóng; lạ một điều là không thấy bộ Việt Nam Giáo Sử gồm hai cuốn cũng đã được in đi in lại nhiều lần của Lm Phan Phát Huồn, CssR, vốn là một trong những tác phẩm tiên khởi viết bằng tiếng Việt về lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong đó chứa đựng khá nhiều tài liệu căn bản và có ích khi cần tham khảo. Ngoài ra bản thư lục cũng không thấy nhắc tới Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ tức Bulletin Des Amis du Vieux Hué chắc chắn cũng sẽ có rất nhiều bài viết cần thiết phải tham khảo khi viết về Giáo phận Vinh. Công trình của một cuốn sách còn được thể hiện và định giá qua bản danh mục (thường ghi danh từ riêng) cũng gọi là sách dẫn (index, gồm danh từ riêng, lý thuyết, học thuyết) hay bảng chỉ dẫn thường được đặt cuối tác phẩm ghi lại tên riêng của các nhân vật được đề cập tới, hoặc địa danh, tên gọi các biến cố, các học thuyết, triết thuyết, chủ đề, chủ điểm v.v… Bản danh mục nói chung sẽ giúp ích cho đọc giả tìm một cách dễ dàng tên một nhân vật nào đó có liên hệ tới một vấn đề hay một sự kiện hoặc một chuỗi sự kiện mình muốn biết, muốn hiểu chẳng hạn. Việc thiết lập bản danh mục đối với nhiều tác giả Việt Nam là một việc làm chưa mấy quen thuộc nhưng đối với những người được huấn luyện chuyên ngành sử học, nhất là các tác giả ngoại quốc, thì đó là một việc cần làm và phải làm. Sự vắng bóng một bản danh mục trong cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” của ông Vương Đình Chữ có lẽ phần nào chưa đáp ứng lại tiêu chí “hiện đại” do ĐGM Nguyễn Thái Hợp đề ra trong lời giới thiệu chăng? Thực hiện bản danh mục thật sự tốn nhiều thì giờ và công phu nhưng nếu đã viết được một tác phẩm giá trị như cuốn sách mà chúng ta cầm trong tay hôm nay thì việc hình thành một bản danh mục là điều cần làm và nên làm góp phần hoàn chỉnh giá trị toàn bích cho nó. Cuốn sách do ông Vương Đình Chữ chủ biên không có bản danh mục, thật là điều đáng tiếc. Ước mong trong dịp sách được tái bản, ban chủ biên lưu tâm đến vấn đề này và chịu khó bổ sung.

Cicero (106-43 trước CN) vốn là chính khách và là hùng biện gia cổ La mã đã đưa ra một quan điểm dứt khoát đó là: “Luật đầu tiên của lịch sử là không được nói gì mà không đúng với sự thật, và không có gì thật mà không nói đến.” (Primam esse historiae legem, ne quid falsi dicere audeat, ne quid very non audeat). Đây là một quy luật đã trở thành khuôn vàng thước ngọc cho nghệ thuật viết sử hướng dẫn qua biết bao thời đại làm cho một tác phẩm sử học trở nên có giá trị mà những nhà biên soạn cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” chắc cũng đã được nhắc nhở khi khởi đầu công việc của mình. Những vấn đề thoạt xem có vẻ “nhạy cảm” nhưng cũng được người chủ biên đề cập tới dưới ngòi bút rất thanh thản, nhẹ nhàng, mặc dù qua sự dẫn chứng nhờ các tài liệu ngoại quốc viết từ trước, thí dụ sự tranh chấp giữa các giáo sĩ Dòng Tên với Hội Thừa Sai Paris. Cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh” viết về cuộc tranh chấp đó như sau: “Như trên đã trình bày, các thừa sai Dòng Tên là những nhà truyền giáo đầu tiên đến hoạt động trên vùng đất Nghệ Tĩnh, đã khai sinh và hình thành các giáo đoàn ở đây mà con số theo báo cáo ngày 03-10-1676 đã lên đến 186 xóm đạo. Tuy nhiên dựa vào đặc quyền của chế độ Bảo trợ, các thừa sai Dòng Tên đã không nhìn nhận quyền của các Đại diện Tông tòa được Tòa thánh cử sang Việt Nam mà không thông qua sự chuẩn nhận của Vua Bồ Đào Nha. Việc không nhìn nhận này đưa đến thái độ bất hợp tác và chống đối, chẳng những giữa các thừa sai với nhau mà còn giữa các linh mục triều và Dòng, cũng như giữa các cộng đoàn của hai bên.” (trang 91). Ở trang 110, sách này viết tiếp: “Như trên đây chúng ta đã thấy sự chống đối của các thừa sai Dòng Tên đối với các Đại diện Tông tòa và các thừa sai của Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris. Sự chống đối này lan tỏa đến tận các giáo dân, gây nên nhiều chia rẽ và bài xích lẫn nhau. Các giáo dân theo các thừa sai Dòng Tên không nhìn nhận thẩm quyền của Đức Cha Lambert và các linh mục do ngài phong chức. Họ cho rằng sắc phong của Đức Cha là giả mạo, thậm chí còn cho rằng Đức Cha Lambert là một kẻ lạc giáo bị đuổi khỏi nước Pháp và sang đây để tiếp tục gieo rắc lầm lạc.”

Viết về sự tranh chấp giữa Đại điện Tông tòa với các giáo sĩ Dòng Tên cùng những hậu quả của việc này chính là nói đến thử thách đức tin mà Giáo phận Vinh đã trải qua trong những thập kỷ hậu bán thế kỷ 17. Đây là một vấn đề quan trọng đã giúp cho Giáo Phận Vinh vượt thắng nhiều khó khăn thử thách đề bành trướng và phát triển trong các thế kỷ về sau. Chúng tôi thấy các tác giả cuốn sách chưa làm nổi bật tranh chấp đó trong lãnh vực ba tỉnh Nghệ-Tĩnh-Bình giữa các giáo sĩ Dòng Tên với các thừa sai Pháp cũng như giữa các nhóm giáo dân thuộc ảnh hưởng của hai phe. Cuốn sách này chỉ đề cập lướt qua mà không nói rõ đến cuộc tranh chấp đó, diễn tiến cùng kết quả của nó có liên hệ đến tương lai của việc truyền giáo ở Việt Nam về sau. Hơn nữa, cuộc tranh chấp không chỉ là vấn đề quyền hành mà còn có vấn đề lễ nghi tôn giáo ở Trung Hoa, tức nghi lễ Đông Phương, thí dụ bái lạy người chết, ăn của cúng v.v… Vấn đề quyền hành nói ở đây tức là quyền hành của Đức Giám Mục, nhân viên của Bộ Truyền-Giáo đối với các giáo sĩ Thừa-Sai. Nếu vấn đề quyền hành đã chóng kết thúc thì trái lại vấn đề lễ nghi Trung Hoa kéo dài đến năm 1939. Theo Lm Phan Phát Huồn “Chúng ta biết các Cha dòng Tên đến giảng đạo ở Trung Hoa trước hết, các giáo sĩ vì lòng sốt sắng và cũng vì có óc não sáng suốt muốn cho dân Trung-Hoa dễ tòng-giáo nên các Ngài không lên án việc cúng tế Đức Khổng Tử và Ông Bà ông Vãi vì theo quan niệm của các giáo sĩ dòng Tên lúc làm những việc ấy người ta không có ý nhận Đức Khổng Tử hoặc ông Bà ông Vãi là đấng toàn-năng, nhưng chỉ có ý kính nể bề ngoài và tỏ lòng biết ơn báo hiếu. Nhưng các linh mục khác như các linh mục dòng Đa Minh, dòng Phanxicô, và các thừa sai Pháp cho đó là một việc dị đoan…” (Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, quyển I, trang 196).

Về bí tích rửa tội chẳng hạn, các cha dòng Tên cũng đã được phép của Đức Giáo Hoàng Alexandre VII bỏ một số chi tiết thí dụ đưa muối vào miệng người tân tòng và xức dầu trên ngực họ vì sợ dân chúng xôn xao và sẽ làm cho các ông chồng của các bà (tân tòng) sinh ghen tuông. Nhưng dù giáo sĩ Marquez (dòng Tên) đã ngăn cản, cha Chevreuil (Thừa sai Pháp) đến Hải Phố năm 1664 cũng vẫn làm tất cả mọi điều phép bí tích truyền phải làm v.v…

Một vấn đề khác khá tế nhị là việc một số thừa sai Pháp chống đối Đức Giám Mục Louis Pineau Trị (trang 418-426) cũng được các vị biên soạn ghi nhận một cách trung thực, công bình theo nhãn quan của người chép sử.

Tuy đây là một cuốn sách viết về lịch sử một giáo phận nhưng bằng những nét khái quát cho nên để nhìn ra tính cách đầy đủ của cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh”, chúng tôi đếm được 116 đầu sách chính được kê trong thư tịch, 5 văn khố chính là nơi được ban chủ biên tới tham khảo trong đó hai văn khố chính mà một là của MEP ở Paris và một của Bộ Hải Ngoại Pháp ở Villeneuve Paris, văn khố của Bộ Truyền Giáo, Trung Tâm Văn Khố hải ngoại ở Aix-en-Provence và cuối cùng là Văn khố Tòa Giám Mục Xã Đoài cùng với 14 bộ báo và tạp chí. Ngoài ra phải nói về phần cước chú (footnote) là phần được ghi nhận từ đầu đến cuối cuốn sách rất chi li, khoa học với tên tác giả in chữ đứng và tên tác phẩm in nghiêng, tất cả có 1582 mục chú thích. Tính cách hiện đại nằm ở trong lối ghi cước chú, tuy nhiên vì là cuốn sách viết cho đại chúng nhiều hơn là cho giới nghiên cứu sử học cho nên những điều cốt yếu cần nói thì đã được viết trong phần chính văn, còn cước chú ở dưới chỉ là để xác minh điều đã được nói hoặc dẫn ra tư liệu được nhắc tới. Tuy nhiên về kỹ thuật cước chú cuốn sách chúng tôi sẽ nói ở phần sau.

22.- Trong vòng xoáy của lịch sử: Nỗ lực nào để vượt qua những rào cản?

Nhìn vào một tổ chức chính trị như đảng CSVN, với biết bao lợi thế nắm trong tay từ khi họ có được chính quyền năm 1945, đã dành nhiều sự chú ý, tiền bạc, phương tiện và nhân lực, cùng với sách lược đấu tranh để viết lịch sử đảng bộ từng tỉnh, từng khu vực, từng đơn vị ngành nghề, từ nhỏ đến lớn, từ địa phương đến trung ương, xét ra cũng là một nỗ lực đáng khen vì sẽ có ích cho giới nghiên cứu sử học, tuy nhiên chúng ta thấy các công trình nghiên cứu của họ thật có giả có, hư có thực có lẫn lộn đan xen và dĩ nhiên tình trạng đó ít khi qua mặt được những người từng được huấn luyện để viết sử với phương pháp sử học, và thời gian đã cho người ta có nhiều kinh nghiệm để đọc và để đánh giá những loại sử phẩm được viết ra như thế. Khi đọc cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh” (LSGPV) do ông Vương Đình Chữ chủ biên với sự cộng tác của các Lm và giáo dân như Lm Gioan Baotixita Nguyễn Khắc Bá, Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương, Lm. Antôn Nguyễn Thanh Tịnh, Ông Giacôbê Võ Văn Hậu, Ông Antôn Lê Phiến, với lời giới thiệu rất trang trọng của Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp và lời bạt đầy văn chương và chất liệu đức tin của Giáo sư Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương, tôi như mường tượng có một cuộc “chạy đua” giữa hai thế lực, hai sức mạnh đó là giữa hữu thần và vô thần : tôn giáo cũng viết sử và đảng cũng viết sử. Tôn giáo hay nói rõ hơn Công Giáo đã viết sử và viết sử từ lâu không chỉ bằng ngòi bút mà cả bằng máu kể từ khi Đức Ki-Tô chịu chết trên thập giá rồi đến hàng hàng lớp lớp biết bao vị thánh tử đạo đã đổ máu đào để viết nên trang sử đức tin trong suốt hơn 20 thế kỷ qua. Và càng viết sử, nhất là viết sử bằng máu, đạo Công Giáo càng phát triển, và sinh sôi nảy nở khắp mọi nơi, đúng như lời văn sĩ Tertulianus (155-222) từng nói : “Máu tử đạo là hạt giống làm nảy sinh các Ki-Tô hữu”.(Semen est sanguis christianorum! Apologeticus 50, 13). Mục đích của bài viết này không phải là để so sánh hai trường phái viết sử hữu thần và vô thần mặc dù những người viết cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” đều cố gắng nhằm đạt đến chân lý lịch sử, bởi vì họ là những người luôn luôn tâm niệm rằng sử học phải hàm chứa sự thật và hơn nữa được thúc đẩy bởi sự thật vì “sự thật sẽ giải phóng anh em” (Gioan 8, 32). Bởi vậy trong các sử phẩm Công Giáo, những cuốn viết về lịch sử Giáo Hội chẳng hạn, không một tác giả nào dám đưa vào đó những tư liệu ngụy tạo, hư cấu hay gian dối. Tên tuổi của những tác giả Công Giáo như Henri-Daniel Rops chẳng hạn với bộ Histoire de L’Église hoặc gần chúng ta, những tác phẩm của Alexandre de Rhodes, của Adrien Launay, của Leopold Cadière v.v… sở dĩ được mọi người trọng vọng là vì họ biết tôn trọng chân lý lịch sử, và cũng bởi vì như Cicero (106-43) từng nói : “Historia magistra vitae” (Lịch sử là ông thầy của cuộc đời). Giá trị của người trí thức, của người làm thầy là ở chỗ họ dám sống và chết vì sự thật, vì chân lý. Một nhà viết sử của chế độ VNCH vừa mới qua đời cách đây không lâu, Tạ Chí Đại Trường, trong cuốn sách nhỏ Những bài văn sử, (Văn học xb, 1999, trang 153) đã có tiết lộ: “Trong lần phát biểu ở Đại học Paris VII năm 1988, chính Văn Tạo, Viện trưởng Viện Sử Học đã nói: “Chúng tôi không viết sử để làm công trình sử học mà là để góp phần xây dựng chế độ mới.” (Dẫn từ Hugues Tertrais của Nguyễn Thế Anh, “Historical Research in VN : a Tentative History”, trong Journal of Southeast Asian Studies, số tháng 3.1995).- Quan điểm “không viết sử để làm công trình sử học” có nghĩa là không cần tôn trọng sự thật, và “để góp phần xây dựng chế độ mới” có nghĩa là nếu cần trong một sử phẩm các tố chất hư cấu, ngụy tạo, bôi bác sự thật cũng có thể được sử dụng vì mục đích tối hậu chỉ là để “xây dựng chế độ mới”. Năm ngoái, tôi được đọc tin tức trên mạng cho biết GS Văn Tạo nay đã về hưu và sống ở Hà Nội cũng đã có đưa ra đề nghị nên dựng một tượng đài cho hai triệu người dân Bắc Việt chết trong trận đói Ất-dậu 1945. Đây là một ý kiến hay chắc cũng để góp phần xây dựng chế độ nhưng không chắc có được chính quyền để tâm tới. Xin được khen giáo sư Phan Huy Lê vì trước đây đã từng can đảm “giải mã” thần tượng Lê Văn Tám khi ông công khai nói rằng đó chỉ là chuyện hư cấu do nhà sử học Trần Huy Liệu tiết lộ cho ông trước khi Trần Huy Liệu mất! Tôi rất tâm đắc về những lời sau đây của một nhà hoạt động cho phong trào dân chủ hiện ở Pháp khi ông viết : “Muốn có ích, nghĩa là muốn làm một nguồn kinh nghiệm cho phép rút ra những bài học chung cho dân tộc, lịch sử phải chính xác và đầy đủ. Lịch sử là một tài liệu để làm việc. Lịch sử không đầy đủ và không chính xác có nghĩa là chúng ta làm việc trên một tài liệu vừa thiếu vừa sai. Như thế làm sao có thể rút ra những kết luận đúng đắn?” (Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Quốc Ăn Năn, Paris 2001, trang 118).

Nhà văn Nguyễn Văn Lục đã dựa trên một số sách giáo khoa sử lớp 10, 11, 12 mà nhận định rằng: “Cảm tưởng chung khi tôi đọc các sách giáo khoa sử lớp 10, 11 là nội dung các sách sử này bàng bạc chủ nghĩa Mác mà không có Mác. Mang chủ nghĩa ấy một cách gián tiếp áp đặt lên các chế độ nông nô và phong kiến là một cách suy diễn bằng loại suy (analogic/analogie) phiến diện và ngụy tạo. Chế độ nông nô là hình thức sơ đẳng của mối tương giao người - người, rất gần với các định luật thiên nhiên theo đó cá lớn nuốt cá bé, nhưng lại rất xa vời với ý thức về sự bóc lột, về ý thức tranh đấu giai cấp. Nó chưa có điều kiện chín mùi để hình thành một nhận thức đầy đủ về ý niệm bóc lột, về mối tương giao ông chủ - thằng ở theo nghĩa là một cặp đối kháng tranh đấu một mất một còn. Vì thế, không thể nào mang ý thức hệ Mác-xít chín mùi, thành quả của nhận thức biện chứng, hiểu sâu xa bản chất sự bóc lột để giải thích tính cách tương tự hay tính cách *mở đầu* cuộc đấu tranh giai cấp giữa giầu nghèo.”

Sự khẳng định của tác giả Nguyễn Văn Lục thật rất rõ ràng: “Phải xác định rõ ràng Mác là Mác, bắt đầu từ đó và dừng lại đó. Đi lui về trước Mác hay tham vọng đi xa về sau đều tỏ ra bất cập và lúng túng. Chủ thuyết Mác đã tỏ ra thất bại khi áp dụng vào các nền kinh tế đương đại và tỏ ra bất cập, hời hợt khi dùng để giải thích chế độ nông nô và phong kiến. Sách giáo khoa Sử, lớp 10, lớp 11 đã dựa vào các chế độ xã hội để minh chứng cho những khung lý thuyết của mình. Vì thế, nó đã giản lược lịch sử con người vào lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp. Bằng chứng là đã có các cuộc đấu tranh trong các chế độ nông nô và các chế độ phong kiến, rồi phóng chiếu ý thức giai cấp bóc lột và từ đó đưa ra chiêu bài giải phóng con người ra khỏi các giai cấp bóc lột ấy. Đó là một lối phóng chiếu phi thực không thích hợp cho chế độ xã thôn, gia tộc Việt Nam. Vì thế, nó không lột tả được tinh thần cũng như nếp sống bản địa của người Việt Nam. Nó cũng không nêu bật được từng thời kỳ, từng bước đi gian nan dành lấy quyền sống của tổ tiên chúng ta trong việc bảo vệ đất nước và bảo vệ nếp sống Việt tính.”

Trong sách giáo khoa Sử lớp 12, Nguyễn Văn Lục chỉ xét đến phần viết về cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1954 mà đã thấy có rất nhiều thiếu sót, thí dụ: Không một chữ về Khu tự vệ Phát Diệm vốn giữ một vai trò nhất định và quyết định, không một chữ đả động đến các lục lượng giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam vốn gây khó khăn cho người Pháp không ít, nhất là không một chữ cho cuộc kháng chiến Nam Bộ, mở đầu cuộc kháng chiến trên toàn quốc trong suốt những năm bị người Pháp chiếm đóng, phía chính quyền Quốc gia với Quốc trưởng Bảo Đại, với các đời Thủ tướng như Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu… đã cộng tác chiến đấu bên cạnh người Pháp, nhưng sách sử lớp 12 không hề nhắc tới, dù một dòng. 35 trang sách dành cho cuộc chiến tranh Việt Pháp Bảo Đại không được nhắc tới một lần nào. Và ông Nguyễn Văn Lục đã phải than lên: “Thật là hiếp đáp lịch sử quá đáng.”

Trong một tiểu mục có tên Về những con số ảo, con số bịp bợm, cũng trong bài viết đó, nhà văn Nguyễn Văn Lục lột trần cách viết sử gian dối của nền giáo dục Cộng sản: “Chúng ta hãy đọc mà xem:

-Trong 4 tháng mùa khô 1965-1966, trên toàn miền quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu 104000, trong đó có 42500 lính Mỹ, 3500 chư hầu, bắn rơi và phá hủy 1430 máy bay, phá hủy 600 xe tăng và xe bọc thép, 1310 ô tô.

-Bước vào mùa khô 1966-1967, mùa khô thứ hai, trên toàn miền, dân quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 151000 dịch trong đó có 68200 lính Mỹ, 5540 chư hầu, bắn rơi và phá hủy 1231 máy bay (xin so sánh hai con số máy bay ở trên và ở dưới), phá hủy 1627 xe tăng và xe bọc thép, 2107 ô tô.

-Trong dịp Tổng tấn công tết Mậu Thân sách sử đã đưa ra những con số sau đây: Trong đợt I, không đầy hai tháng, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 147.000 địch (con số này ít hơn con số địch bị thiệt hại trong mùa thứ hai là 151.000). Có nghĩa là con số 147.000 địch là con số thêm vào, trong số 43.000 lính Mỹ.

-Cuộc tiến công chiến lược 1972, trong đó có cuộc tiến công Quảng Trị. Kết quả sau gần 3 tháng chiến đấu, cuối tháng 6/1972, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20 vạn quân ngụy, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn đến hơn 1 triệu dân.

Nếu làm một tổng kết cả bốn đợt thì có khoảng 500.000 địch bị loại khỏi vòng chiến. Gần một nửa quân số chiến đấu ở miền Nam?

Đặc biệt không thấy nói đến số quân nhân bị tử thương trong dịp 30-4-1975. Nhưng một điều quá đặc biệt không kém là không có ghi số tổn thất của binh đội cộng sản dù chỉ một người cũng không có.” (Nguyễn Văn Lục, Sử phi sử, Trang điện tử Đàn Chim Việt, 07.02.2007).

Việc viết đúng sự thật trong một sử phẩm sẽ giúp cho nhiều thế hệ đọc vào sống đúng sự thật. Trong tác phẩm viết về tiểu sử Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, có tên Witness To Hope, thần học gia người Mỹ, George Weigel, đã nêu lên kinh nghiệm của Đức Giáo Hoàng Ba Lan để đối phó với chủ nghĩa cộng sản, Ngài cũng như nhiều linh mục Ba Lan trong thực tế đã xây dựng các mạng lưới chống lại chủ thuyết cộng sản (tạm dịch): “ bằng cách giáo dục một thế hệ người Ba Lan đặt tất cả niềm tin của mình vào tôn giáo và luân lý trong sự thật để có thể đương đầu lại với nền văn hóa dối trá của cộng sản.” (Like many other Polish priests, he was creating de facto networks of resistance to raise up a generation of Poles who could resist the communist culture of the lie with the truth of their religious and moral convictions.- George Weigel, Witness to hope, The biography of Pope John Paul II, 1920-2005, Nhà xb. Harper Perennial, 2005, trang 120).

Bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ dân tộc Myanmar từng nói : “Thành thật là chính sách tốt nhất” (Honesty is the best policy, trích từ cuốn The voice of hope, ghi lại các cuộc trao đổi với ký giả Alan Clements, Seven Stories Press, New York, 2008, trang 57) và “Dối trá là hành vi cạn kiệt sinh lực” (Deceiving is an exhausting activity, Sđd, trang 58).

Trong diễn văn nhậm chức vào ngày 20-01-2009, Tổng Thống Obama của Hoa Kỳ từng cảnh cáo các chế độ độc tài trên thế giới: “Đối với những người bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng tiếng nói đối lập, hãy biết rằng quý vị đang đi ngược dòng lịch sử…” (To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissident, know that you are on the wrong side of history…)

Lịch sử một tôn giáo cũng có những đòi hỏi như vậy nghĩa là phải chính xác và đầy đủ, bởi vì một cuốn sách như “Lịch sử Giáo phận Vinh” viết đầy đủ mang tính cách hiện đại sẽ là một tài liệu tập huấn quý báu chẳng những cho hàng ngũ chủng sinh, giáo sĩ mà còn cho cả giáo dân, không chỉ Giáo phận này mà còn cho cả các giáo phận khác vì sẽ đọc thấy trong đó biết bao tấm gương tu đức, hy sinh, quả cảm, những con người từ xa đến đây hoặc lớn lên trên mảnh đất này có chung một lý tưởng đó là truyền bá, sống và giữ gìn đức tin, phát triển đạo thánh Chúa. Mỗi trang sách của tác phẩm này ngoài việc chứa đựng các biến cố lịch sử, cung cấp cho người đọc những bài học quý báu của quá khứ, còn phải là trang sách cầu nguyện dẫn đưa tâm hồn người đọc vươn cao.

23.- Theo yêu cầu khắt khe của nghề viết sử: Thách đố vậy nhưng đáp ứng nào?

ĐGM Nguyễn Thái Hợp có viết về một số quan điểm thông thường của sử học như sau: “Thông thường, lịch sử được hiểu như sách chép việc đã qua. Tuy nhiên, lịch sử không đơn thuần chỉ chép lại quá khứ của thể chế chính trị hay của xã hội loài người, mà còn tìm cách dựng lại quá khứ. Sứ vụ đích thực của sử học cũng không phải chỉ nhằm khôi phục những sự trạng đã qua để biết sinh hoạt và cơ cấu xã hội thời xưa, mà còn muốn xác định nguồn gốc của chúng và tìm ra những mối liên hệ, tương tác giữa các sự kiện, với hy vọng khám phá được quy luật chi phối sự biến thiên trong quá trình phát triển của một thời đại hay một quốc gia nào đó. Tự cổ chí kim, sự kiện lịch sử vẫn được coi là những sự thật khách quan, tồn tại độc lập với ý thức và ý muốn của người đọc hay người viết sử. Dựa trên nền tảng đó, người ta cho rằng lịch sử là, hay ít nhất, phải là khách quan. Do đó, ngay từ thời cổ đại, nhiều bậc thức giả đã đề cao giá trị và vai trò giáo dục của lịch sử. Theo văn hào Cicéron, “lịch sử là thầy cuộc sống” (historia magistra vitae) giúp chúng ta vươn tới “ánh sáng của sự thật” (lux veritatis). Chính vì vậy, người viết sử phải tuân thủ kỷ luật sắt: không viết điểu giả dối và dám nói tất cả sự thật.” (trang 16-17).

Các ý kiến trên đây cũng không khác gì một số quan điểm về sử học của giới nghiên cứu sử ở đại học và trong các sách vở có tính hàn lâm. Nhưng trước hết thử tìm hiều về hai chữ “lịch sử”.

Lịch sử 歷 史 là gì? Theo Linh mục Nguyễn Phương “lịch 歷 có nghĩa là đã qua và sử 史 có nghĩa là những gì miệng nói hay tay làm. Nói chung lịch sử 歷史 chỉ về các việc người ta đã làm cũng như những lời người ta đã nói. Nhìn kỹ hơn một tý vào cách dùng thông thường của tiếng đó, chúng ta có thể thấy nó bao hàm ba ý nghĩa, khi thì nhấn mạnh vào tính cách đã qua của sự việc, nghĩa là nhấn mạnh vào chữ lịch, và lịch sử bấy giờ là những việc làm và lời nói thuộc về phạm vi quá khứ; khi thì nhấn mạnh vào sự nó đã được lưu lại cho đến ngày nay nhờ người xưa đã bỏ công ghi chép lại (ký 記 là ghi chép), và lịch sử bấy giờ đồng nghĩa với tiếng sử ký 史 記 (ký là ghi chép); sau hết, có khi lại nhấn mạnh vào việc tìm tòi thời sự quá khứ, bởi vì muốn biết sự thật đã qua, người ta phải khó nhọc từ bỏ thế giới hiện tại để lùi về khoảng thời gian không còn nữa với những điều kiện riêng của nó, nhiều khi rất khác với các điều kiện hiện tại, và bấy giờ lịch sử có ý nghĩa giống như tiếng sử học 史 學.

Trong các ngôn ngữ Tây phương, những tiếng chỉ về lịch sử, chỉ có tiếng Đức Geschichte, bởi động từ geschehen (xảy ra) là chỉ có nghĩa “sự việc xảy ra” và không bao hàm ý kiến ghi chép tìm tòi, còn các tiếng khác, như tiếng Hy lạp istoria, hay tiếng La-mã historia, hay sau đó, tiếng Pháp histoire và tiếng Anh history đều gồm tóm ba ý nghĩa vừa nói.” (Sách đã dẫn, trang 21).

Trong cuốn “Nhập môn Phương pháp Sử học”, (Sài gòn, 1974, trang 3) Giáo sư Nguyễn Thế Anh cũng đưa ra một số định nghĩa và cho rằng các danh từ lịch sử, sử ký, sử học thường bị hiểu lầm và thường được sử dụng lẫn lộn.

Ý muốn xác định nguồn gốc những sự trạng đã qua mà tác giả Lời Giới Thiệu vừa nêu ra ở trên, nói theo ngôn từ sử học đó là xác định những mối dây nhân quả tức là đem ra ánh sáng những tương quan xưa nay chưa được nói đến giữa hai sự kiện, cũng gợi cho chúng tôi một số suy nghĩ. Theo Lm Nguyễn Phương “muốn thấy rõ hơn về tương quan nhân quả nên có một quan niệm rành mạch về nguyên nhân. Trong những khoa học riêng, như lịch sử, nguyên nhân cần phải tìm là nguyên nhân gần, nguyên nhân gây sự, chứ không phải tìm nguyên nhân xa, nguyên nhân của sự vật, như trong những khoa học chung như triết lý. Quan niệm về nguyên nhân cũng không phải là dễ phân tích. Nguyên nhân là bất cứ cái gì mà vì ảnh hưởng của nó đã làm cho một sự vật trước kia chưa có, và bây giờ có, hay là làm cho sự vật đó trước đã có dưới một hình thức nào đó, và nay đổi sang một hình thức khác. Trong lịch sử, khi nói đến nguyên nhân, người ta hiểu là những động cơ có những hiệu lực vừa nói. Đó là những động cơ hiệu lực, nghĩa là hoạt động của nó mang lại kết quả. Trường hợp chỉ là những gì giúp sức vào công việc của nguyên nhân.” (Nguyễn Phương, Sđd, trang 156).

Thật ra không phải bây giờ người ta mới có quan niệm về nhân quả trong lịch sử mà ngay từ những ngày đầu khi mới khai sinh môn học này người ta đã từng tìm hiểu để lý giải về nhân quả. Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã cho biết trường hợp của Polybe : “Polybe, người tỉnh Mégalopolis (vào khoảng 200-120 trước t.l.), đã là chứng nhân và là sử gia của sự bành trướng cường lực của La-Mã sau khi thắng Carthage. Có thể nói Polybe là sử gia thời Thượng cổ đã có một phương pháp gần giống như phương pháp sử học ngày nay. Sử mà ông ta viết được căn cứ trên những dữ kiện xác thực; Polybe không muốn chỉ là một nhà biên niên sử, mà đã đặt một vấn đề và đã cố gắng giải quyết vấn đề này: tại sao chỉ trong vòng nửa thế kỷ (từ 220 đến 168 trước t.l.), người La Mã đã có thể trở thành bá chủ miền Địa-trung-hải? Bằng cách nào và với một thể chế chính trị nào? Polybe vượt quá sự tường thuật các biến cố, để đi tìm những liên hệ giữa các nguyên nhân và hậu quả. Ông cho thấy là tình trạng quân bình trong hiến pháp La Mã giữa ba thể chế quân chủ, quí tộc và dân chủ, đã giải thích cho sức mạnh và sự thắng lợi của La Mã.” (Nguyễn Thế Anh, Sách đã dẫn, trang 13).

Trong cuốn Petit Larousse illustré (1987), tiểu sử của Polybe được ghi lại như sau:

“Polybe, historien grec, né à Mégalopolis (Arcadie) [v. 200-v.125/120 av. J.C.]. Il fit partie, après Pydna (168), des mille otages livrés aux Romains et vécut seize ans à Rome. Ses Histoires, par le souci qu’il a d’analyser méthodiquement les faits et d’en rechercher les causes, le classent parmi les grands historiens grecs.” (page 1612).

Tạm dịch:

“Polybe, sử gia Hy lạp, sinh ở Mégalopolis (Arcadie) (vào khoảng 200-125/120 trước Chúa Giêsu). Sau Pydna (168), ông là một thành phần trong hàng nghìn con tin bị giao vào tay người La Mã và đã sống 16 năm ở Rô-ma. Tác phẩm của ông, Bộ Sử Ký, nhờ vào sự trăn trở suy tư mà ông đã phân tích được một cách có phương pháp các sự kiện lịch sử và tìm tòi được các nguyên nhân của chúng; nhờ vậy ông đã được liệt vào hàng một trong những sử gia lớn của Hi lạp.

Trong tác phẩm bất hủ Sử Ký, Tư Mã Thiên đã viết về cái dũng của người viết sử trong câu chuyện như sau:

“Vào thời Xuân Thu, sau khi tướng quốc nước Tề là Thôi Trữ giết vua Tề là Trang Công để thâu tóm quyền lực, bèn gọi Thái sử Bá đến ra lệnh:

-Ông phải viết rằng Tiên Vương chết vì bị bệnh nặng.

Thái sử Bá nói:

-Lịch sử không thể ghi chép hồ đồ. Viết theo sự thật là bổn phận của Thái sử.

Thôi Trữ không ngờ Thái sử Bá dám chống lệnh, nổi giận:

-Ông định viết thế nào?

Thái sử Bá đáp:

-Tôi viết xong rồi, ông sẽ biết ngay thôi.

Thôi Trữ cầm lên đọc thấy rõ:

-Hạ ngũ nguyệt Thôi Trữ thích quân (nghĩa là vào tháng 5 mùa hạ, Thôi Trữ giết vua).

Thôi Trữ nói:

-Ông phải viết khác đi, nếu không ta giết ông.

Thái sử Bá lắc đầu:

-Giết thì giết, tôi không thể viết khác.

Thôi Trữ liền chém đầu Thái sử Bá.

Thái sử Trọng là em trai Thái sử Bá, nghe tin anh bị giết liền đến thay chức vụ của anh. Thôi Trữ kinh ngạc vì thấy Trọng vẫn viết đúng như anh trai mình, liền rít lên:

-Ông không biết Thái sử Bá đã bị chém hay sao?

Trọng đáp:

-Thái sử chỉ sợ viết không trung thực chứ không sợ chết.

Thôi Trữ lại chém Thái sử Trọng.

Thái sử Thúc, em trai Thái sử Bá và Thái sử Trọng được vào thay. Ông cũng chép đúng như hai anh của mình và lại bị chém. Thái sử Quý, em út của ba Thái sử trên vào thay, vẫn viết: “Hạ ngũ nguyệt Thôi Trử thích quân”. Viết xong ông nói với Thôi Trữ:

-Ông càng giết người thì càng chứng tỏ sự tàn bạo. Nếu tôi không viết thì người khác sẽ viết và thiên hạ cũng biết. Ông có thể giết chết Thái sử nhưng không thể giết chết được sự thật.

Thôi Trữ nghe xong, lắc đầu, thở dài, không dám giết tiếp.

Được Thôi Trữ tha mạng, Thái sử Quý cầm cái thẻ trên viết việc Thôi Trữ giết vua đi ra, sắp đến cửa sử quán, lại gặp Nam Sử Thị. Thái sử Quý hỏi đi đâu, Nam Sử Thị nói:

-Ta nghe nói anh em nhà ngươi đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày Ất Hợi, tháng 5, mùa Hạ mới rồi, vậy nên ta cầm thẻ đến để chép.

Quý đưa cái thẻ của mình đã chép cho Nam Sử Thị xem. Nam Sử Thị mới cáo từ mà về.”

(Tham khảo Website của nhà văn Đỗ Phương Khanh).

“Lịch sử phải là khách quan” vốn là điểm nhấn mạnh trong Lời Giới Thiệu của ĐGM Nguyễn Thái Hợp tuy nhiên việc ghi chép lại sự kiện lịch sử cũng là vấn đề khiến sử gia suy tư không ít trong nhiệm vụ của mình. Giáo sư Nguyễn Thế Anh cho biết: “ Không thể tách biệt khách quan tính với chủ quan tính trong việc nghiên cứu, vì hai yếu tố này liên đới chặt chẽ với nhau, đến nỗi H.I. MARROU đã có thể viết rằng: “cái nhìn của sử gia vừa là sự nhận hiểu khách thể (tức là đối tượng nghiên cứu), vừa là tác động tinh thần của chủ thể nhận tri (tức là người thực hiện việc nghiên cứu)”. Sự thật của sử học vừa khách quan, vừa chủ quan; đây là quá khứ được hiểu biết một cách xác thực, nhưng mà là quá khứ nhìn dưới con mắt của sử gia. Sự thật của sử học là một sự thật kép, là một phức hệ trong đó hỗn hợp cả chủ thể nghiên cứu và khách thể được nghiên cứu. Tính chất ấy đưa vào tri thức sử một nguyên tố tương đối. Nhưng mọi hiểu biết của con người đều tương đối cả, đều cùng mang dấu địa vị của con người trong thực tại và trong vũ trụ. Nếu có một phần của cá nhân của sử gia trong việc luyện thành tri thức sử, tình trạng này không ngăn cản sử học đưa đến một sự hiểu biết xác thực về quá khứ.” (Sách đã dẫn, trang 81).

Để làm nổi rõ thêm các luận điểm của mình, GS Nguyễn Thế Anh đã trích dẫn Paul Ricoeur trong quyển Histoire et Vérité (tr. 26) khi cho rằng “sử gia cần có một chủ quan tính, nhưng một “chủ quan tính thích ứng với khách quan tính tương xứng với sử học”. Đây là “chủ quan tính tốt” (bonne subjectivité) của bản ngã nghiên cứu, của bản ngã đi tìm hiểu; nó bao gồm một thái độ sẵn sàng tìm hiểu, một thái độ cởi mở, nhờ đó mà sử gia thắng nổi chủ quan tính xấu (mauvaise subjectivité), chủ quan tính của những sự thù hằn, giận ghét, chỉ trích.” (Nguyễn Thế Anh, Sđd, trang 81). Như vậy tính nhân bản trong khi hoàn tất các công trình sử học cũng là một điều kiện đòi hỏi nơi người viết sử khi tiếp cận với sự thật trong các biến cố do tư liệu ghi lại.

Ở một đoạn văn khác, Giáo sư Nguyễn Thế Anh cũng xác quyết rằng: “ Sử học có thể tìm ra một sự thật chính xác, tuy sự thật ấy bị giới hạn bởi những sự lệ thuộc ràng buộc thân phận của con người. Sự thật của sử học đúng thực, nhưng không trọn vẹn, không đầy đủ: chúng ta có thể biết nhiều điều về quá khứ, nhưng chúng ta không thể biết tất cả quá khứ, và chúng ta cũng không thể biết hết về một phương diện nào đó mà thôi của quá khứ. Tại vì, trong sự thật lịch sử, bao giờ cũng có nhiều khía cạnh mà giả thuyết khéo léo nhất cũng không tài nào bao quát hết: giả thuyết này chỉ là một lối quan sát mà thôi, nó được tác thành để giải quyết một vấn đề đặc biệt và hạn định, nó căn cứ trên một sự lựa chọn giữa những phương diện vô số của sự thật lịch sử. Sử gia chỉ giữ lại những yếu tố mà sử gia cho là có ích để giải thích những hiện tượng nghiên cứu.” (Sđd, trang 82).

Tác phẩm “Lịch sử Giáo phận Vinh” đã tỏ rõ sự can đảm của ngòi bút khi mạnh dạn vạch ra thái độ gian trá của Ủy ban Khoa học Xã hội, trong bộ “Lịch Sử Việt Nam”khi trích dẫn một câu mà A. Thomazi cho là của Alexandre de Rhodes mà không ghi rõ xuất xứ. Trong cuốn La conquête de l’Indochine (Paris: 1934), ở trang 13, A.Thomazi, một cựu thuyền trưởng Hải quân Pháp, viết về A. de Rhodes như sau: “Le Père Alexandre de Rhodes aborda en Cochinchine en 1624, passa vingt-cinq ans dans ce pays et au Tonkin; il en rapport la première carte du pays, un dictionnaire annamite – latin – portugais, une histoire du Tonkin, et signala les possibilité qui s’offraient au commerce. “Il y a là, écrivait-il, une place à prendre, et, en s’y établissant des marchands d’Europe pourraient y trouver une source féconde de profits et de richesse”. Câu này phần sau được Ủy ban Khoa học Xã hội dịch là: “Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy và chiếm được vị trí nầy thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú.” Khi thấy A. Thomazi không nói rõ Alexandre de Rhodes viết câu nói trên ở nơi nào trong toàn bộ tác phẩm của ngài, Viện Sử Học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội đã thản nhiên tạo thêm chú thích mới “Alexandre de Rhodes, Divers voyages et missions, Paris, 1653, 109-110.” Nguyễn Đình Đầu trong bài báo “Dân ta phải biết sử ta”, đăng trên Công Giáo & Dân tộc, số 1582 (9-11-2006), trang 35 và trước đó Vương Đình Chữ viết “Một ngộ nhận về Alexandre de Rhodes”, Công Giáo & Dân tộc, số 901 (4-4-1993), trang 18-19 công khai phủ chính về chuyện này nhưng Ủy ban Khoa học Xã hội vẫn ngoan cố giữ nguyên luận điệu xuyên tạc cũ. Thái độ này của sử quán nhà nước Cộng Sản cũng không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì như Văn Tạo, một công chức viết sử ăn lương nhà nước đã nói trước đây, công khai ở Đại Học Paris VII năm 1988 : “Chúng tôi không viết sử để làm công trình sử học mà là để góp phần xây dựng chế độ mới.”

Trong tác phẩm Les missionnaires portugais et les débuts de l’Église catholique au Viêt-nam (Bilingue, Tome I, Định Hướng Tùng Thư, 2004, trang 105), Roland Jacques cũng đã lưu ý đến vấn đề này và viết rằng : “mais cette prétendue citation, qui a souvent été reprise et commentée (en mauvaise part) dans les publications du Việt-nam indépendant, semble être une invention de Thomazi.”(nhưng lối trích dẫn hàm hồ này thường được lấy lại và bình luận (với ý xấu) trong các sách được xuất bản của Việt nam sau nầy, dường như là một sự bịa đặt của Thomazi).

Một điều chúng tôi hơi buồn và xin nhắc ông Vương Đình Chữ là ở trang 19, trong cước chú số 13, câu văn Pháp ngữ được trích dẫn đã đánh máy sai đến 4 chỗ! Đây là một câu nói quan trọng của một tác giả người Pháp được nêu ra để nói lên sự thiếu lương thiện của Ủy ban Khoa học Xã hội nhưng lại viết rất cẩu thả, sai lạc thí dụ vingt-cing thay vì vingt-cinq, premìere thay vì première, dictionanaire thay vì dictionnaire, feconde thay vì féconde. Ở chỗ nào sai sót có thể châm chước được nhưng ở chỗ mình muốn cột buộc “đối phương” mà lại để “trống lưng” như vậy thì thật là không nên. Việc kiểm soát lại bản in không thể làm một cách tắc trách, chiếu lệ được!

Ngoài ra, cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” cung cấp một con số gồm 1582 chú thích đi liền một mạch từ Lời Giới Thiệu (trang 13) đến trang 645 thật sự đã không đáp ứng đúng kỹ thuật đòi hỏi của phương pháp sử. Cách ghi cước chú, theo Lm Nguyễn Phương. cũng là cả một vấn đề. Theo sử gia này, “đánh số cước chú thường phải tùy hai trường hợp. Nếu là một bài vắn không chia thành chương mục gì, thì thứ tự cước chú nên gồm toàn cả bài, vì bấy giờ chắc rằng con số các cước chú không đến nỗi to lắm. Nhưng nếu là một sử phẩm có qui mô, thì thứ tự cước chú có thể theo từng trang một, trong trường hợp đặt cước chú ở cuối mỗi trang, hoặc theo từng chương một. Không bao giờ nên để cho thứ tự đó gồm cả tác phẩm, vì như thế những con số cuối sẽ quá lớn và gây nên nhiều bất tiện trong việc chiếu khán. Về chính con số thứ tự nầy khi đặt trong chính bản văn, sử gia nên đặt nó ở cuối câu trong đó có chỗ cần phải chú thích, hơn là đặt nó ngay vào chỗ của nó. Những cước chú có tính cách tổng quát nên cho nằm ở cuối đoạn văn (paragraphe).” (Sđd, trang 179).

Với việc đặt cước chú riêng từng chương, người ta có thể nói thêm rất nhiều những quan điểm, ý kiến của mình có liên quan đến từng cước chú, từng tác giả, hoặc từng đoạn văn và đó cũng là yếu tố kích thích tinh thần sáng tạo của sử gia hay người biên soạn tác phẩm. Trong một cuốn sách có tên Triumph forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, của Mark Moyar, viết lại về giai đoạn thời cố TT Ngô Đình Diệm, được coi là một tác phẩm “phi chính thống” nghĩa là phản biện lại các luồng tư liệu trước đây của Hoa Kỳ và các nước Tây phương viết về nền Đệ I Cộng Hòa, với số tài liệu khai thác được đặt trong phần cước chú nằm hẳn từ trang 419 đến 502 của cuốn sách.

Nói chung, nghề viết sử phải là một chọn lựa của những người được huấn luyện có tay nghề, biết tôn trọng sự thật dù sống trong một xã hội đầy gian trá, điêu ngoa. ĐGM Nguyễn Thái Hợp, trong Lời Giới Thiệu ở trang 19 có viết: “Cuối cùng, nếu tôn chỉ của nghề viết sử là “chép đúng sự thật” thì việc thực hiện nó trong xã hội hiện nay vẫn luôn luôn là một thách đố và một sứ vụ đòi hỏi phải trả giá.” Chúng tôi xin phép in đậm hai chữ thách đố. Một sử gia nổi tiếng người Anh, Arnold J. Toynbee trong bộ sử The Study of History gồm 12 pho xuất bản ở Luân-đôn và Nữu-ước từ năm 1934 đến 1961 và đã được D.C. Somervell tóm lược dưới nhan đề History, an essay of interpretation đã đưa ra nhận định rằng: “Sự phát triển hay suy đồi của các nền văn minh bị chi phối bởi một định luật, định luật challenge và response, tức là sự đáp ứng trước những thách đố do môi trường thiên nhiên hay xã hội đưa đến. Có tiến bộ là nhờ ở một sự thách đố gây nên một đáp ứng thành công; sự đáp ứng này lại tạo nên một thách đố mới mà cần phải tìm một đáp ứng thỏa đáng khác…” (Nguyễn Thế Anh, Sđd, trang 18). Xã hội Việt Nam do đảng CSVN cai trị sau ngày 30-4-1975 đã tạo nên quá nhiều thách đố cho người dân hai miền trong cuộc sống và nhân dân đã tìm sự đáp ứng bằng nhiều biện pháp trong đó có vượt biên. Nghề chép sử, nhất là chép sử tôn giáo phát triển hay suy đồi cũng bị chi phối bởi định luật bất biến này. Đất nước với cơ chế độc tài hay tự do, xã hội với nhân sinh quan dối trá hay lành mạnh luôn luôn đặt ra những thách đố được coi như là những rào cản, những trói buộc. Điều quan trọng là những người “có tâm” và “có trí” dám vượt qua các rào cản hay trói buộc đó để thực hiện sứ vụ viết sử trong tinh thần tôn trọng sự thật như anh em Thái sử trong Sử Ký của Tư Mã Thiên hay không?

24.-Con đường hội nhập dài thăm thẳm: Con đường tuy dài nhưng đầy triển vọng.

Trong tiểu mục số 4 của Lời Giới Thiệu, ĐGM Nguyễn Thái Hợp viết về con đường hội nhập, và cho rằng “Trước khi Kitô giao du nhập vào Việt Nam, thì Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo đã thành công trong việc hội nhập vào lối sống, cũng như nếp nghĩ của người dân Việt. Tam giáo hòa đồng đã trở thành một “nét văn hóa dân tộc. Do vỏ cứng của thần học và bối cảnh Giáo Hội thời hậu Công đồng Trento, Giáo Hội Công Giáo, không những không thành công trong việc hội nhập văn hóa, trái lại còn bị coi là ngoại lai, xa lạ với môi trường văn hóa Việt Nam. Vấn đề thờ cúng tổ tiên đã là đề tài tranh luận gay gắt giữa các nhà truyền giáo suốt gần một thế kỷ và việc cấm “Nghi lễ Trung Hoa” đã gây nhiều hiểu lầm và tang tóc cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam” (trang 22).

Trước hết vấn đề hội nhập mà ĐGM Nguyễn Thái Hợp nêu ra ở đây là hội nhập văn hóa (inculturation) vậy cần tìm hiểu định nghĩa bốn chữ “hội nhập văn hóa”. Sự hội nhập văn hóa, thuật ngữ trở nên thông dụng trong lãnh vực truyền giáo ở hạ bán thế kỷ 20, chỉ việc đem Tin Mừng “nhập thể” vào các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, hoặc diễn tả đức tin Ki-tô giáo sao cho phù hợp với đặc tính văn hóa của các dân tộc để muôn dân nhận biết mầu nhiệm Đức Ki-tô. Công đồng Va-ti-can II dạy rằng Giáo Hội phải loan báo, cử hành và sống trong tất cả các nền văn hóa. Mầu nhiệm Đức Ki-tô không xóa bỏ, nhưng cứu chuộc và kiện toàn các nền văn hóa. Chính nhờ nền văn hóa riêng được Đức Ki-tô tiếp nhận và thanh luyện, đông đảo con cái Thiên Chúa đến được với Chúa Cha để tôn vinh Ngài trong cùng một Thánh Thần. Như thế, hội nhập văn hóa gồm hai mặt: thích ứng sứ điệp Ki-tô giáo với nền văn hóa và kiện toàn nền văn hóa ấy theo tinh thần Ki-tô giáo. Hai mặt ấy làm phát sinh mối quan hệ tương tác hai chiều giữa đời sống Ki-tô giáo và đời sống của nền văn hóa. Một số nhà truyền giáo học sử dụng mẫu thức nhập thể [incarnation] để mô tả sự hội nhập văn hóa: một khi đức tin Ki-tô giáo “nhập thể” vào nền văn hóa thì những con người thuộc về nền văn hóa ấy dễ dàng đón nhận đức tin Ki-tô hơn; việc truyền giáo chắc chắn sẽ thất bại nếu giáo lý rao truyền bị tách biệt khỏi nền văn hóa, cũng như thiên tính của Đức Ki-tô không thể tách biệt với nhân tính của người. Trong hội nhập văn hóa, không những nền văn hóa được Ki-tô hóa mà, ngược lại, Ki-tô giáo cũng được “văn hóa hóa”, nghĩa là Tin Mừng được rao truyền và được áp dụng theo cách thức phù hợp với nền văn hóa cụ thể. Như thế, truyền giáo không những làm cho Ki-tô giáo lan rộng hơn mà còn là quá trình phong phú hóa Ki-tô giáo. (Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công Giáo Anh-Việt, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2014, trang 1032).

Một ý kiến khác bổ túc cho sự cần thiết của vấn đề hội nhập văn hóa : “Hội nhập văn hóa là điều cần thiết cho chính Giáo Hội. Nó vun đắp cho Giáo Hội thêm phong phú. Quá trình hội nhập văn hóa rút tỉa một cách có tôn trọng những yếu tố tốt đẹp của một nền văn hóa, đổi mới chúng từ nội tại và hấp thụ chúng để chúng trở nên thành phần của khối hiệp nhất Công Giáo. Công Giáo tính của Giáo Hội càng được nhận thức đầy đủ hơn khi nó có thể hấp thụ và sử dụng những điều quý giá trong nền văn hóa của một dân tộc vì vinh danh Thiên Chúa.” (Sách giáo lý hội nhập văn hóa của Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân, Nguyễn Đình Diễn, Sách đã dẫn, trang 1033).

Một câu hỏi đến với chúng tôi rằng quả thật Phật, Khổng, Lão đã thành công trong việc hội nhập vào lối sống, nếp nghĩ của dân tộc VN để trở thành nét văn hóa dân tộc không? Văn hóa dân tộc một khi đã trở thành dân tộc tính thì có nên biến nó trở thành bản tính khép kín, bất di bất dịch nhưng là một cái vốn mà chúng ta có thể làm giầu thêm nhờ sự góp mặt vào đời sống xã hội của Ki-tô giáo không? Một số nhận định của ĐGM Nguyễn Thái Hợp vừa trích dẫn xem ra thật khác xa với quan điểm của Giáo sư Trần Văn Toàn trình bày trong cuốn sách nhỏ có tên “Đạo Trung Tùy Bút” do Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội phát hành năm 2008. Ở trang 85, GS Trần Văn Toàn viết: “Các giáo sĩ đạo Thiên Chúa từ Tây phương sang Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, chính vào lúc Nho thịnh, Phật và Lão suy. Cho nên tiếng là đi vào đất của tam giáo, nhưng thực ra chỉ gặp gỡ và đối thoại với Nho giáo là chính.

Để giải thích tình trạng đó, có người cho rằng Phật giáo đã rất thịnh trong mấy thế kỷ được các vua nhà Lý, nhà Trần, rất mực nâng đỡ, thế rồi thịnh quá hóa suy, là hợp với lẽ tuần hoàn trong trời đất. Tôi không biết được lẽ trời, nhưng thiết tưởng còn có lý do khác. Thực vậy, gặp lúc sự sống còn của dân tộc, của quốc gia, bị quân Nguyên, rồi quân Minh, đe dọa một cách cực kỳ nghiêm trọng, những người có trách nhiệm trong nước không thể lấy phép tu tiên, lấy quan niệm điềm tĩnh vô vi, bất động, bất bạo động, lấy con đường giải thoát cá nhân ra khỏi vòng sinh tử, làm phương tiện bảo vệ đất nước. Lý do làm cho Nho thịnh, đó là vì nó đưa ra được những nguyên tắc để tổ chức xã hội sao cho hùng mạnh, có trật tự. Dân chúng cũng nghĩ như thế, cho nên đinh ninh rằng Trời, rằng Phật đều dạy chính đạo tam cương ngũ thường, cũng dạy người ta phải trung phải hiếu… Người Việt, bên lương cũng như bên giáo, thường có điều thắc mắc, vì nghĩ rằng theo đạo từ ngoại quốc đưa vào, thì tất không hợp với tập tục của mình. Có người cho rằng đi đạo là bỏ ông bà cha mẹ. Vì thế ngay từ buổi đầu, các giáo sĩ đã ra công giải thích rằng: tuy đạo Thiên Chúa từ Thái-Tây truyền sang, nhưng nguồn gốc nó lại là từ Tiểu-Á, đàng khác truyền thống tam giáo Việt Nam cũng là từ ngoại quốc, Ấn Độ và Trung Hoa, đem vào, và sau cùng thì người theo đạo Thiên Chúa sống ở đời cũng không ngoài phạm vi trung hiếu, có khác chăng là khác thể thức.”

Về phương diện hội nhập văn hóa, từ năm 1615, Đức Giáo Hoàng Phaolồ V trong văn kiện Romanae Sedis antistes đã cho phép dịch Kinh thánh sang Hán văn, cho cử hành thánh lễ, làm các phép và đọc sách nguyện bằng Hán văn. Năm 1659, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII cho phép truyền chức linh mục cho các tiến chức người Hoa, chỉ cần đọc được tiếng La tinh mà không cần hiểu nhưng rồi nhiều khó khăn, bất tiện cũng xảy tới nên các nhà truyền giáo cả người Âu cũng như người Việt cũng đã linh động sáng tạo ra nhiều nghi lễ để nâng đỡ đời sống tôn giáo của giáo dân như làm hang đá máng cỏ, hát vãn sinh nhật, diễn tuồng thương khó, ngắm đứng, mặc tang phục, đi đứng bái quì theo nhịp sênh nhịp trắc, dâng hoa hát vãn, đi kiệu Đức Bà. Đó là di sản văn hóa Công Giáo. Từ Công Đồng Vatican II trở đi giáo dân trực tiếp tham gia vào thánh lễ cử hành bằng tiếng Việt, nhiều nghi thức khác áp dụng tiếng Việt trong hôn phối, nghi thức đưa xác chết, chôn cất, xây dựng các nhà thơ theo kiểu Á đông v.v… Giáo sư Trần Văn Toàn cho biết các tôn giáo khác cũng vay mượn ít nhiều từ ngữ, nghi thức của đạo Công Giáo Việt Nam như cụm từ Giáo Hội, Nha Tuyên Úy, hôn lễ ở nhà chùa, các tổ chức hội đoàn v.v…Đó cũng là những thành công trong vấn đề hội nhập văn hóa.

Về âm nhạc các nhà truyền giáo Tây phương ngay từ buổi đầu đã đem âm nhạc bình ca vào Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX các vị thừa sai đặt lời Việt Nam vào một số bài hát tiếng Pháp. Trong các làng Công Giáo ở thôn quê thường có hội bát âm, cử hành những bài theo điệu Lưu thủy, Hành vân, Kim tiền. Tại các giáo xứ lớn ở Bắc cũng có đội kèn Tây hay hội kèn. Ở Giáo phận Huế, Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích là một bậc túc nho có nhiều tài năng như hội họa, thi ca, âm nhạc đã sáng tác nhiều bài hát tiếng Việt ca tụng Đức Mẹ, (bài Lạy Đức Mẹ La Vang), ca tụng các thánh tử đạo như bài hát Mừng Thánh Tô Ma Thiện, Kính Á Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, các bài thánh ca mùa Giáng Sinh, các bài hát nói lên lòng ái quốc, hướng đạo sinh v.v… cũng lấy theo các điệu trong âm nhạc cổ truyền VN như ca Huế, Tứ đại cảnh, Nam Bình, Nam Ai, Đăng đàn cung v.v…

Nền tân nhạc Việt Nam khởi đầu cũng là do công sức của hai vị Linh mục là cha Gabriel Long và Phaolồ Đạt trong bài thánh ca bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” sáng tác khoảng năm 1912 phối hợp từ những kỹ năng tuyệt vời của nhạc lý mà các vị ấy thủ đắc từ trong các đại chủng viện ở Sài-Gòn, kết hợp âm thanh từ những bước chân của trâu bò VN vùng thôn dã, tiếng gà gáy, tiếng chim cu v.v…

Từ “Cách mạng tháng Tám” thì ở Việt Nam các thầy đại chủng viện Hà Nội có phong trào bỏ các bài hát Tây và đặt ra một số bài hát đạo bằng tiếng Việt.

Về kiến trúc nhà thờ, Giáo sư Trần Văn Toàn ghi nhận: “Ở miền thôn quê các nhà thờ thường có một cái “hội nhập văn hóa” đặc biệt Việt Nam: đó là cái ao. Nhà thờ và cái ao trông như một hòn non bộ ở cạnh bồn nước. Có sơn có thủy (nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy!) Giáo dân thì thường có óc thực tiễn hơn là thẩm mỹ, cho nên thường dùng để rửa chân trước khi vào nhà thờ. Như thế vừa là để kính Chúa, vừa là để giữ nhà thờ cho sạch.” (trang 154).

Theo Giáo sư Trần Văn Toàn, thuyết “tam phụ” của đạo Thiên Chúa ở Việt Nam là một lối hội nhập văn hóa rất khéo đã được cha Alexandre de Rhodes và các giáo sĩ Dòng Tên khác áp dụng trong phương thức truyền giáo ở nước ta. Thuyết tam phụ chủ trương “thượng phụ” là Thiên Chúa tức là chúa tể cả trời đất ở trên hết, kế đến “trung phụ” là vua chúa tức là vị cai quản đất nước, quốc gia, dưới hết là “hạ phụ” tức cha mẹ trong gia đình. Giáo sư Trần Văn Toàn cho biết quan niệm tam phụ không phải là không có chút nền tảng trong văn hóa Việt Nam. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes có nhận xét trong Phép giảng tám ngày như sau: “Thật có cha cả là Chúa cả hóa ra mọi sự. Nhin (nhân) vì sự ấy thì đầu năm vua Chúa An nam làm phép cả, có đại thần cả và nước và quân quốc đều cùng thiên hạ đi cùng, ra giao mà tế thượng đế, đến khi vua Chúa đã tế thượng đế đoạn, thì đại thần cùng kẻ cả trong nước, cùng cả và thiên hạ mới lạy vua Chúa trước mặt dân. Thôi đoạn ai nấy thì về nhà mà lạy cha mẹ cùng kẻ bề trên mình, ông bà ông vải. Trong việc này ta xét được người An nam lấy lẽ mình mà thờ ba đấng cha, dù mà chưa biết tỏ tường.” (trang 110).

Cố gắng của các giáo sĩ Dòng Tên là tìm được trong nền văn hóa Việt Nam những nét tương đồng với giáo lý của đạo Công Giáo, thí dụ Điều răn thứ tư “Thảo kính cha mẹ”, hoặc giáo lý (của Giám Mục Bá Đa Lộc soạn như Chân Đạo Dẫn Giải, Chân Đạo Yếu Lý) đều dạy người giáo hữu phải tôn kính vua chúa, trung thành và biết ơn v.v…

Muốn hiểu sự thành công trong việc hội nhập văn hóa của đạo Công Giáo ở Việt Nam, phải thoát ra khỏi định kiến có sẵn và quan sát kỹ vào cách sống đạo của người Ki-tô hữu Việt Nam qua lễ nghi, âm nhạc, kiến trúc, kinh hạt v.v… nhất là sau Công Đồng Vaticano 2 cho đến ngày nay.

Một vị linh mục Việt Nam nổi tiếng trong lãnh vực thần học thế giới, Cha Phêrô Phan Đình Cho cũng có ý kiến khẳng quyết về sự thành công trong “hội nhập văn hóa” như sau: “Việc đưa sự tôn kính tổ tiên vào Thánh Lễ, nhất là nhắc đến “tổ tiên” trong Kinh nguyện Thánh thể đánh dấu một bước tiến rất xa trên con đường hội nhập văn hóa vào phụng vụ tại Việt Nam. Chúng ta đã tiến đi được một chặng đường dài kể từ thời Tranh luận về lễ nghi Trung Hoa. Về phương diện thần học, điều này rất quan trọng, ít ra vì hai lẽ. Thứ nhất, khi nhắc đến tổ tiên cách minh nhiên trong Kinh nguyện Thánh thể và khi cầu nguyện cho các ngài, bản văn Việt ngữ không phân biệt tổ tiên Ki-tô hữu và tổ tiên ngoài đạo (trong số các Ki-tô hữu tham dự thánh lễ, có nhiều người mà tổ tiên không được nhận lãnh bí tích Rửa tội). Trong việc tôn kính tổ tiên, chúng ta tôn kính các ngài không phải vì các ngài đã rỗi linh hồn hay đã lên thiên đàng, mà chỉ vì các ngài là tổ tiên của chúng ta. Chỉ do mối dây huyết thống mà tổ tiên che chở cho con cháu, và con cháu tôn kính tổ tiên.”- Peter C. Phan, Suffrage for the Dead. (Nguyễn Đình Diễn, Sách đã dẫn, trang 1033).

Không quá khiêm tốn, gạt bỏ bớt mặc cảm, nhìn đúng sự thật, phải nói rằng con đường hội nhập văn hóa của đạo Công Giáo tại Việt Nam đã từ những chỗ khúc khuỷu bước vào chốn quang đãng, thênh thang, bởi lẽ hội nhập văn hóa là một hành trình đức tin dài lâu, chấp nhận thử thách, chắt lọc chất liệu để đạt tới những tinh hoa trong đời sống tôn giáo và cộng đồng dân tộc.

Đến đây, chúng tôi nhớ đến Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, (bào huynh của Giáo sư Nguyễn Khắc Dương, người viết Lời Bạt trong cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh”) là người đã chỉ trích nhiều nhất về hình ảnh một ngôi nhà thờ Công Giáo ở thôn quê VN, với tháp chuông cao vút mọc thẳng lên trời xanh giữa một vùng chung quanh là đám dân đạo nghèo khổ mà ông cho đó là “un objet inconnu” (một dị vật xa lạ). Quan điểm của người giáo dân khi nhìn ngôi nhà thờ dĩ nhiên khác xa với ông Bác sĩ Tây học – mácxít này. Qua lời nói của BS Viện, tôi nhớ về chuyện Linh mục Nguyễn Văn Kiều (1903-1971) ở giáo xứ Làng Truông. Ở trong trại tù Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh, mà tôi đã trải qua hơn 13 năm diện bích sau 30-4-1975, tôi sống chung phòng với nhiều người trong đó có một người bạn thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tên là Nguyễn Đức Viên (Phật Giáo) dạy học ở Huế. Anh Viên bị Việt Minh bắt từ năm 1946 vì tội đảng viên VQ và giam ở Trại Đưng đến 1954 và Trại Đưng cách giáo xứ Làng Truông (Ngàn Sâu, Hà Tĩnh) có lẽ chừng bốn ngày đường rừng. Tất cả các tù nhân chính trị thuộc Đại Việt, Việt Quốc bị Việt Minh bắt từ 1946 đều ở Trại Đưng hoặc Bến Hới. Những người tù chính trị được thả ra từ Trại Đưng thường tìm cách dặn anh em còn bị giam là khi được thả ra cứ nhắm nóc nhà thờ xứ Làng Truông ở hướng mặt trời mọc mà đi tới, hỏi cha Kiều thì ngài sẽ giúp đỡ. Un objet inconnu mà ! Anh Viên được thả ra vào lúc ký Hiệp Định Genève 1954, và anh cũng tìm tới giáo xứ Làng Truông, được cha Kiều giúp cho áo quần, thuốc men và cho dạy học trong xứ của ngài. Sau đó cha Kiều cho anh Viên ít tiền đường lộ phí và hướng dẫn anh về Huế. Nhiều người tù nhân chính trị cũng được cha Kiều giúp như vậy sau khi họ được thả ra. Năm 1955, cha Nguyễn Văn Kiều di cư vào Nam ở giáo xứ Vinh Hà, Bình Giả. Cuộc đời thánh thiện của cha Nguyễn Văn Kiều là một chứng nhân đức tin của Giáo phận Vinh. Nhiều khi “un objet inconnu” (nhà thờ xứ Làng Truông) như vậy mà trở thành dấu chỉ bàn tay quan phòng mầu nhiệm của Thiên Chúa, là ốc đảo của người đi trong sa mạc. Cha Nguyễn Văn Kiều là ân nhân của nhiều người tù chính trị Việt Nam sau khi ra khỏi nhà tù VM giai đoạn 1945-1954. (Còn tiếp)

NGUYỄN ĐỨC CUNG

Philadelphia 13-6-2017

 
Thông Báo
Phân Ưu: Kế mẫu LM Giám đốc Trần Văn Kiểm qua đời tại Sàigòn
Liên đoàn CGVN Miền Tây Nam Hoa Kỳ
09:42 14/06/2017
PHÂN ƯU:
Liên Đòan Công Giáo Việt Nam miền Tây Nam Hoa Kỳ
thành kính phân ưu cùng Cha Trần Văn Kiểm,
Giám đốc Trung tâm Công Giáo Việt Nam GP Orange:
Kế mẫu Bà Cố Trần Văn Toản, nhũ danh Maria Bùi Thị Hiệu
đã được Chúa gọi về nhà Cha trên trời.
Hưởng thọ 72 tuổi.

Thánh Lễ An Táng sáng Thứ Sáu ngày 16 tháng 6 tại Nhà Thờ Nam Thái,
Ngã Ba Ông Tạ, Quân Tân Bình, Sài gòn, Việt Nam.

Liên Đòan Miền Tây Nam Hoa Kỳ
Xin phân ưu và với thánh lễ và những cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa
cầu cho linh hồn Maria sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Thành kính
Đức ông Phạm Văn Tuấn, Chủ tịch Liên đòan Miền Tây Nam Hoa Kỳ
LM Trần Công Nghị, Phó Chủ tịch Liên Đòan Miền đặc trách Linh mục và Nam Tu sĩ
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cái Cò Bên Sông
Đặng Đức Cương
19:01 14/06/2017
CÁI CÒ BÊN SÔNG
Ảnh của Đặng Đức Cương
Bãi xa sông rộng sóng to
Vì lo cái bụng đi mò cái ăn.
(Ca dao)
 
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 8-14/06/2017: Kẻ chủ mưu đập phá tượng Chúa và Đức Mẹ bị bắt tại Phi, hàng triệu Mỹ Kim bị tịch thu
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:32 14/06/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu hưởng ứng sáng kiến một phút cầu nguyện cho hòa bình

Vụ khủng bố tại Anh và sau đó tại Paris; vụ khủng hoảng ngoại giao giữa các nước Trung Đông và Qatar; cũng như những cuộc đụng độ dữ dội giữa người Hồi Giáo và người Do Thái tại Giêrusalem đã khiến Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu trên thế giới tham gia sáng kiến “Một phút cầu nguyện cho hòa bình” được tổ chức vào Thứ Năm, 8 Tháng Sáu, lúc 1:00 giờ trưa giờ Rôma.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng sáng kiến này là một khoảnh khắc cầu nguyện ngắn ngủi nhằm tái diễn lại cuộc họp ở Vatican giữa ngài, Tổng thống Israel Peres, và Tổng thống Palestine Abbas.

Cuộc gặp gỡ giữa các vị đã diễn ra tại vườn Vatican vào ngày 8 tháng 6 năm 2014, trong đó ba vị cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình tại Trung Đông và thế giới.

Đức Thánh Cha nói: “Trong thời khắc khó khăn này, chúng ta, các Kitô hữu, người Do Thái và người Hồi giáo, cần phải cầu nguyện để được ơn bình an.”

Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha được đưa ra vào lúc kết thúc buổi Triều yết chung hôm thứ Tư 7 tháng 6 tại quảng trường Thánh Phêrô.

2. Cuộc khủng hoảng giữa các nước Trung Đông và Qatar

Cuộc chiến lời qua tiếng lại, bôi xấu và công kích lẫn nhau kéo dài giữa Saudi Arabia và người hàng xóm giàu dầu mỏ và khí đốt Qatar đã bùng nổ thành một cuộc chiến ngoại giao, đe doạ gây ra một làn sóng bất ổn mới ở khu vực vùng Vịnh.

Hôm thứ Hai mùng 5 tháng 6, chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ Arab Saudi và ba đồng minh lớn nhất là Ai Cập, Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất và Bahrain - tất cả lần lượt thông báo cắt đứt quan hệ ngoại giao với Qatar, triệu hồi đại sứ về nước, tạm ngưng tất cả các phương tiện di chuyển bằng đường hàng không, đường bộ và đường biển đến Qatar và ngược lại.

Hành động này diễn ra sau khi Arab Saudi cáo buộc Qatar ủng hộ các nhóm Hồi giáo cực đoan như bọn Huynh Đệ Hồi giáo và bọn khủng bố Hồi Giáo IS.

Sau đó, cả Libya, Yemen và Maldives cũng tham gia vụ tẩy chay ngoại giao này.

Các nước Ả rập trong vùng đã ra lệnh cho các công dân Qatar phải rời khỏi đất nước họ trong vòng 14 ngày.

Qatar là một trong những nước giàu có nhất trên trái đất, nhưng nó phụ thuộc rất nhiều vào các nước láng giềng để buôn bán và đi lại trong và ngoài khu vực. Quốc gia bán đảo này không sản xuất lương thực. Họ nhập khẩu hầu hết các loại thực phẩm qua đường biên giới đất liền với Saudi, mà giờ đây đã bị là đóng cửa.

Thông tấn xã Al Jazeera, là một hãng tin của chính phủ Qatar, cho biết các xe vận chuyển thực phẩm bị mắc kẹt bên phía biên giới Saudi. Và ở Doha, thủ đô của Qatar, người ta nhốn nháo xếp hàng mua các loại thực phẩm, kể cả các loại “hàng hoá dễ hư hỏng”

3. Lý do dẫn đến cuộc khủng hoảng tại Qatar

Căng thẳng giữa Qatar và các nước láng giềng tăng vọt hồi tháng trước sau khi thông tấn xã Al Jazeera của Qatar công bố một bài báo, trong đó có trích dẫn lời của Quốc Vương Qatar là Tamim bin Hamad Al Thani, ca ngợi Israel và Iran là hai đối thủ lớn nhất của Arab Saudi trong khu vực.

Qatar đã nhanh chóng phủ nhận bài báo này là tin giả mạo do tin tặc đưa ra, nhưng Arab Saudi và các nước khác không tin.

Nổi giận vì các nước khác không tin mình, hôm 27 tháng 5, Quốc Vương Qatar đi một bước nguy hiểm là gọi điện cho Tổng thống Iran Hassan Rouhani chúc mừng ông này được tái đắc cử - một hành động ngang nhiên khiêu khích Arab Saudi và các nước đồng minh của họ.

Căng thẳng giữa Qatar và các nước khác đã lên rất cao sau khi Arab Saudi, Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất và Bahrain công bố danh sách 59 công ty của Qatar bị cho là có liên quan đến khủng bố và tiến hành các thủ tục tịch thu tài sản của các công ty này.

Tình hình còn nguy hiểm hơn vào hôm thứ Sáu 9 tháng 6 sau khi tổng thống Tayyip Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố đưa máy bay và quân đội vào Qatar để bảo vệ người bạn đồng minh này.

4. Khủng bố Hồi Giáo IS tấn công thủ đô Iran

Hôm thứ Tư mùng 7 tháng 6, bẩy tên khủng bố Hồi Giáo IS đã mở hai cuộc tấn công khủng bố cùng lúc tại tòa nhà Quốc hội Iran và tại Lăng của Ruhollah Khomeini, cả hai địa điểm đều nằm trong thủ đô Tehran, khiến 17 thường dân thiệt mạng và 43 người bị thương. Đây là vụ tấn công khủng bố đầu tiên ở Tehran trong hơn một thập kỷ qua, và là cuộc tấn công khủng bố đầu tiên ở đất nước này kể từ sau vụ đánh bom Zahedan năm 2010.

Lúc 11:09 sáng, bốn tên khủng bố, tất cả là nam giới, nhưng ăn mặc như phụ nữ, đã lọt được vào tòa nhà Quốc Hội Iran trong khi các dân biểu và nghị sĩ đang có một phiên họp. Chúng bắt một số con tin và bắn bừa bãi vào những ai đứng trong hành lang dẫn đến phòng họp. Lực lượng bảo vệ chống cự quyết liệt để bảo vệ các thành viên Quốc Hội.

Trong khi cuộc giao tranh vẫn đang diễn ra, bọn khủng bố Hồi Giáo IS tuyên bố chịu trách nhiệm về vụ tấn công khủng bố này; và coi đó như một hành động trả thù cho việc Iran giúp Iraq và Syria chống lại bọn chúng.

Sau gần hai giờ giao tranh mà không tiến được vào phòng họp của Quốc Hội, một tên khủng bố nổ bom tự sát mở đường cho đồng bọn tiến lên tầng bốn của tòa nhà Quốc Hội.

Từ một cửa sổ của tầng bốn tòa nhà Quốc Hội, bọn khủng bố bắn xối xả xuống đường phố.

Gần 2 giờ chiều, Lực lượng Vệ Binh Cách Mạng Iran đột kích được vào bên trong và di tản an toàn các thành viên Quốc Hội ra ngoài. Lúc 2:14 chiều, tất cả những tên khủng bố đều bị bắn chết.

Trong khi đó, lúc 10:40, tại lăng mộ của Khomeini, ba tên khủng bố gồm hai nam và một nữ mở cuộc tấn công tại đây. Ba nhân viên an ninh bị chúng bắn bị thương. Bọn khủng bố bắn bừa bãi vào đám đông du khách đang thăm viếng địa điểm này nhưng may mắn không có ai bị thiệt mạng. Sau 30 phút giao tranh với lực lượng an ninh, một tên khủng bố nổ bom tự sát khiến một người làm vườn bị thiệt mạng và hai người khác bị thương.

Lực lượng an ninh cũng đã kịp thời bắn chết một tên khủng bố khác khi y toan cho nổ bom phá hủy khu vực lăng tẩm. Lúc 11:25, tên khủng bố là nữ giới buông súng đầu hàng.

Ruhollah Khomeini, thường được thế giới Tây phương gọi là Ayatollah Khomeini, sinh ngày 24 tháng 9 năm 1902 và qua đời ngày 3 tháng Sáu năm 1989 là giáo sĩ Hồi Giáo Shiite. Năm 1979, Khomeini lãnh đạo cuộc đảo chính lật đổ vương triều Pahlavi và thành lập nên nước Cộng Hòa Hồi Giáo Iran.

5. Đức Thánh Cha Phanxicô lên án vụ tấn công khủng bố kinh hoàng tại thủ đô Tehran của Iran

Hôm thứ Sáu 9 tháng 6, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi lời chia buồn tới các nạn nhân của vụ tấn công khủng bố diễn ra vào hôm thứ Tư ở Tehran, Iran. Ngài than thở về hành động bạo lực vô nghĩa và nghiêm trọng này.

Cùng với lời chia buồn chân thành của ngài với tất cả những người bị ảnh hưởng bởi cuộc tấn công dã man ở Tehran, Đức Thánh Cha phó dâng linh hồn của những người quá cố cho lòng thương xót của Thiên Chúa Toàn Năng.

Ngài cũng hứa cầu nguyện cho người dân Iran và cho hòa bình của quốc gia này.

Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, thay mặt cho Đức Thánh Cha, đã gởi điện văn đến tổng thống Hassan Rouhani. Toàn văn bức điện tín của Đức Thánh Cha như sau:

Đức Thánh Cha Phanxicô Phanxicô gửi lời chia buồn chân thành đến tất cả những người bị ảnh hưởng bởi cuộc tấn công dã man ở Tehran và than thở về hành động bạo lực vô nghĩa và nghiêm trọng này. Khi bày tỏ nỗi buồn với các nạn nhân và gia đình của mình, Đức Thánh Cha phó dâng linh hồn của những người quá cố cho lòng thương xót của Thiên Chúa Toàn Năng, và ngài bảo đảm với người dân Iran những lời cầu nguyện của ngài cho hòa bình.

Hồng Y Pietro Parolin

Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh

Tưởng cũng nên nhắc lại là tổng thống Iran Hassan Rouhani đã được Đức Thánh Cha tiếp kiến hôm 26 tháng Giêng năm ngoái 2016.

6. Căng thẳng ngoại giao chung quanh vụ tấn công khủng bố tại Iran

Báo chí tại Tehran đã tỏ ra tức giận về lời chia buồn của tổng thống Donald Trump về vụ tấn công kinh hoàng hôm thứ Tư 7 tháng 6 khiến 17 người chết và 43 người khác bị thương. Trong một phản ứng chính thức, Bộ trưởng Ngoại giao Iran, là Mohammad Javad Zarif, nói rằng những lời chia buồn của tổng thống Hoa Kỳ là “phản cảm”.

Trong lời chia buồn của mình trên Tweeter, ông Trump nói rằng Hoa Kỳ cảm thấy đau buồn và sẽ cầu nguyện cho các nạn nhân. Tuy nhiên, vị tổng thống Hoa Kỳ nói thêm rằng: “Chúng tôi nhấn mạnh rằng các quốc gia nào tài trợ cho bọn khủng bố sẽ có nguy cơ trở thành nạn nhân của cái ác do chính họ quảng bá.”

Bộ trưởng Ngoại giao Iran nói “Chúng tôi phản đối tuyên bố của Tòa Bạch Ốc. Thực ra, Iran đang chống lại những cuộc khủng bố do chính các khách hàng của Hoa Kỳ hậu thuẫn.” Đây là một ám chỉ rõ ràng liên quan đến Arab Saudi là nước vừa ký với Mỹ một thỏa thuận mua vũ khí của Mỹ trị giá 110 tỷ Mỹ Kim, và đây chỉ là một phần của một thỏa thuận mua vũ khí trị giá tới 400 tỷ Mỹ Kim.

Iran là nước có đa số dân theo Hồi Giáo Shiite, và xem Hồi Giáo Shiite là quốc giáo. Tuy nhiên, trong tổng số 82,801,000 dân, quốc gia này cũng có một tỷ lệ dân số lên đến 10% theo Hồi Giáo Sunni. Họ sống tập trung dọc theo biên giới với Iraq và Pakistan. Iran thường xuyên tố cáo Arab Saudi thao túng số dân này.

Lực lượng Cách mạng Iran cáo buộc Riyadh và Washington “dính líu” vào các vụ tấn công hôm thứ Tư, và coi cuộc tấn công này là kết quả của chuyến thăm gần đây của ông Trump tại Arab Saudi.

Tổng thống Hoa Kỳ từ lâu cáo buộc Iran ủng hộ chủ nghĩa khủng bố và đe dọa sẽ hủy bỏ thỏa thuận hạt nhân đã đạt được vào năm 2015 giữa Tehran và các cường quốc.

Một số thượng nghị sĩ Mỹ đã lên tiếng yêu cầu Thượng viện Mỹ hoãn lại cuộc thảo luận nhằm đưa ra những đạo luật áp đặt các biện pháp trừng phạt mới đối với Iran. Một trong những lý do của dự luật này là Iran ủng hộ chủ nghĩa khủng bố Hồi Giáo. Tuy nhiên, cuộc thảo luận đã diễn ra như dự trù. Với tỷ số áp đảo 92-7, Thượng viện Mỹ đã thông qua các biện pháp trừng phạt mới đối với Iran chỉ vài giờ sau vụ tấn công tại Tehran.

7. Giáo Hội Công Giáo tại Iran lo âu trước nguy cơ chiến tranh

Cha Hormoz Aslani Babroudi, giám đốc quốc gia các Hội Giáo hoàng Truyền giáo của Giáo Hội Công Giáo Iran, lên án cuộc tấn công khủng bố của bọn khủng bố Hồi Giáo IS vào quốc hội Iran và ngôi mộ của Ayatollah Khomeini, xảy ra hôm 7 tháng Sáu khiến 17 người chết và 43 người bị thương.

Ngài nói với thông tấn xã Fides rằng: “Tôi cảm thấy buồn vì những hành động vô nhân đạo như vậy, nhất là khi những hành vi tội ác dã man này được thực hiện bởi những kẻ tự xưng là trung thành với Thiên Chúa và Hồi giáo. Hành động của họ đã lan truyền một hình ảnh sai lạc về đức tin và tôn giáo.”

Trong tổng số 82,801,000 dân, người Công Giáo nghi lễ Latinh chỉ có 21,380 tín hữu. Họ là một cộng đoàn nhỏ bé rất dễ bị thương tổn trước các xáo trộn xã hội.

Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Latinh tại Iran có một tổng giáo phận duy nhất là tổng giáo phận Isfahan, bao trùm cả nước, với 333 linh mục, 6 nam sĩ và 6 nữ tu. Bênh cạnh đó, Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Chanđê có 5 giáo phận với số giáo dân khoảng 200,000.

Iran và Arab Saudi từ lâu đã cáo buộc lẫn nhau đã sinh ra và nuôi dưỡng bọn khủng bố Hồi Giáo IS. Đối với người Iran, bọn khủng bố Hồi Giáo IS là sản phẩm phụ của hệ tư tưởng Saudi Wahhabist và bọn này được sự tài trợ của Arab Saudi.

Đối với Saudis, bọn khủng bố Hồi Giáo IS là sản phẩm phụ phát sinh từ sự trợ giúp của Iran đối với tổng thống Bashar al-Assad ở Syria và các nhóm dân quân Shiite ở Iraq để giết hại người Hồi Giáo Sunni.

Bên cạnh đó, từ lâu hai dân tộc Ba Tư và Arab Saudi đã có một mối thâm thù truyền kiếp.

Lực lượng Cách mạng Iran cho biết trong 7 tên khủng bố tấn công vào thủ đô Tehran, ít nhất 5 tên là người Iran theo Hồi Giáo Sunni được Arab Saudi tài trợ.

Cha Hormoz âu lo rằng nếu chiến tranh xảy ra, cộng đoàn Công Giáo bé nhỏ tại quốc gia Hồi Giáo này có lẽ sẽ biến mất.

8. Báo Anh và Tây Ban Nha ca ngợi những người Công Giáo anh hùng đã chết trong vụ tấn công khủng bố tại Luân Đôn

Báo chí tại Anh và Tây Ban Nha đã lên tiếng ca ngợi anh Ignacio Echeverria, 39 tuổi, bị đâm chết tại khu chợ Borough khi cố gắng giúp một phụ nữ đang bị tấn công bởi những kẻ khủng bố. Thay vì bỏ chạy như những người khác, Ignacio Echeverria dùng một miếng ván trượt làm vũ khí chống trả lại ba tên khủng bố đang đâm túi bụi vào một người phụ nữ.

Thủ tướng Tây Ban Nha Mariano Rajoy nói anh Ignacio Echeverria sẽ được mọi người nhớ về “hành vi anh hùng và gương mẫu” của mình và cho biết chính phủ Tây Ban Nha sẽ trao tặng anh Huân Chương Công Dân Anh Hùng của Tây Ban Nha.

Báo El Mundo của Tây Ban Nha cho biết anh Ignacio Echeverria không bao giờ bỏ một Thánh Lễ Chúa Nhật nào. Một người bạn nói với một tờ báo rằng trước khi sang Anh làm việc Ignacio thuộc về một nhóm thanh niên Công Giáo gặp nhau hàng tuần ở Madrid cho các công tác xã hội.

Tờ El Mundo cũng lưu ý độc giả rằng chú của Ignacio từng là một giám mục truyền giáo lâu năm ở Peru. Đó là Đức Giám Mục Antonio Hornedo của giáo phận Chachapoyas, một tu sĩ dòng Tên, đã qua đời vào năm 2006.

Tại Luân Đôn, Echeverria làm việc cho nhóm chống rửa tiền của HSBC.

Một người Công Giáo khác cũng bị tử nạn trong vụ tấn công tại Luân Đôn là một cô gái người Canada, tên là Christine Archibald, 30 tuổi.

Archibald, là giáo dân của giáo xứ Rita ở Castlegar, British Columbia. Cô tốt nghiệp Đại học Mount Royal ở Calgary, Alberta, và đã làm việc cho Alpha House ở Calgary trong hai năm trước khi cô chuyển đến Hà Lan với vị hôn thê của mình. Alpha House là một tổ chức phi lợi nhuận Công Giáo nhằm cung cấp các chương trình trợ giúp cho những người nghiện ma túy và nghiện rượu.

Archibald đã sang Anh trong một dự án xây dựng nơi tạm trú cho những người vô gia cư. Gia đình Archibald xin những ai nhớ đến cô hãy giúp một tay vào dự án mà cô đã phải bỏ dở dang. Archibald đang ở trên cầu Luân Đôn cùng với vị hôn phu thì bị chiếc xe tải của bọn khủng bố tông chết.

Một người Công Giáo khác cũng bị chết thảm trong vụ tấn công khủng bố tại cầu Luân Đôn là anh Xavier Thomas, 45 tuổi, quốc tịch Pháp. Anh Xavier cư trú tại Paris đã sang Anh du lịch. Anh đang đi dạo trên cầu cùng người bạn gái là Christine Delcros, thì bị chiếc xe tải của bọn khủng bố tông vào. Anh bị hất văng xuống sông Thames, trong khi người bạn gái bị thương trầm trọng.

Cảnh sát Anh đã vớt được xác anh Xavier vào lúc 7:44 tối thứ Ba 6 tháng Sáu.

9. Liên Hiệp Quốc lên án bọn khủng bố Hồi Giáo IS sát hại những thường dân bỏ chạy về phiá quân Iraq

Trong thông cáo báo chí đưa ra hôm 8 tháng 6, Giám Đốc Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc là ông Zeid Ra'ad Al Hussein tố cáo bọn khủng bố Hồi Giáo IS đang cố thủ tại Mosul đã sát hại hơn 231 thường dân, trong đó chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, khi họ lẩn trốn khỏi bọn khủng bố để chạy về phía quân Iraq.

Ông Hussein nhận định rằng từ hôm 19 tháng Hai đến nay, dân chúng trong khu vực phía Tây thành phố Mosul sống trong tình trạng bị bao vây, lương thực cạn kiệt dần. Họ bị bọn khủng bố Hồi Giáo IS bắt làm bia đỡ đạn cho chúng. Quyết định bỏ trốn khỏi những khu vực do bọn khủng bố Hồi Giáo IS chạy về phiá quân Iraq là một quyết định khó khăn đối với nhiều người. Họ có thể bị bọn khủng bố bắn chết nếu bỏ trốn. Tuy nhiên, nếu cứ tiếp tục ở lại, họ có thể bị chết vì đói và cũng có khả năng chết vì các cuộc không kích do liên quân thực hiện.

Trong hai tuần vừa qua, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc ghi nhận đã có một sự leo thang đáng kể những hành động tàn ác chống lại thường dân.

Ông Hussein, nói: “Việc bắn vào trẻ em khi chúng đang cố chạy đến những an toàn cùng với gia đình là quá tàn bạo đến mức không có lời lên án nào đủ mạnh trước những hành động đê hèn như vậy”.

Trong vụ khủng bố kinh hoàng nhất, diễn ra vào ngày thứ Năm tuần trước, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã bắn chết ít nhất 163 thường dân, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, bên cạnh nhà máy sản xuất nước ngọt Pepsi ở khu phố al-Shifa. Xác của những người bị giết nằm phơi trên đường phố trong vài ngày sau vụ giết người này, cho đến khi quân Iraq làm chủ được tình hình và chôn cất những người xấu số.

Trong cùng một khu phố này, ít nhất 27 người, trong đó có 14 phụ nữ và năm trẻ em đã bị giết bọn khủng bố Hồi Giáo IS vào ngày 26 tháng 5 và ít nhất 41 người khác vào ngày 3 tháng 6.

Hiện nay, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đang trong cơn hấp hối tại Mosul. Chúng chỉ còn kiểm soát được chưa đầy 4 km vuông chung quanh đền thờ Hồi Giáo al-Nuri là nơi tên Abū Bakr al-Baghdadi đã công bố thành lập cái gọi là Nhà Nước Hồi Giáo vào ngày 29 tháng Sáu năm 2014. Tuy nhiên, có đến 180,000 dân bị kẹt trong vùng này. Ông Hussein bày tỏ lo âu rằng việc sử dụng các loại vũ khí mạnh và thường không chính xác của quân Iraq và liên quân là một vấn đề vì sự hiện diện của một số lượng quá đông dân chúng tập trung trong một diện tích nhỏ. Các cuộc không kích của liên quân do Hoa Kỳ lãnh đạo vào hôm 31 tháng 5 có thể đã giết chết từ 50 đến 80 thường dân vô tội.

10. Kẻ chủ mưu đập phá tượng Chúa và Đức Mẹ tại Phi Luật Tân bị bắt, chính quyền tịch thu hàng triệu Mỹ Kim

Trong cuộc họp báo tại Davao vào sáng thứ Năm 8 tháng 6, Chuẩn Tướng Gapay Gilbert, phát ngôn nhân quân sự đã trình diện trước giới báo chí tên Cayamora Maute, 67 tuổi, cha ruột của hai tên cầm đầu bọn IS đang chiếm giữ thành phố Marawi.

Cayamora Maute từng là lãnh đạo của bọn khủng bố trong Mặt Trận Hồi Giáo Moro. Y cho hai người con là Omar and Abdullah Maute sang Trung Đông du học về thần học Hồi Giáo. Omar theo học tại Ai Cập trong khi Abdullah học tại Jordan. Khi về nước hai tên này thành lập chi nhánh của bọn khủng bố Hồi Giáo IS tại Phi Luật Tân; và Cayamora được lãnh tụ khủng bố Hồi Giáo IS Abu Bakr al-Baghdadi phong cho làm Đại Imam, lãnh đạo tinh thần bọn khủng bố Hồi Giáo IS tại Phi.

Trung tá Nestor Mondia, chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm Davao, cho biết quân đội và cảnh sát tại trạm kiểm soát Sirawan Toril trên đường từ thành phố Cotabato đến thành phố Davao, đã bắt được Cayamora Maute trong một hoàn cảnh hết sức tình cờ.

Cayamora Maute, ngồi trên một chiếc xe Toyota, đeo mặt nạ phẫu thuật với dây dẫn nước biển chằng chịt trên người, và quấn một chiếc chăn trùm kín người. Khi các binh sĩ và các nhân viên cảnh sát yêu cầu kéo cái chăn xuống, y quyết liệt từ chối. Sinh nghi, họ yêu cầu tất cả xuống xe và kinh ngạc nhận ra Cayamora Maute, một trong những kẻ đang bị truy nã gắt gao.

Bình luận về hoàn cảnh ngẫu nhiên bắt được tên Cayamora, báo chí Phi Luật Tân nhận xét rằng những kẻ dám phá tượng Chúa và Đức Mẹ không thể có kết quả tốt được.

Khám xe quân đội và cảnh sát thu được một số súng lục và lựu đạn cầm tay, hàng loạt căn cước giả và 363,000 Peso tiền mặt, tức là khoảng 7,200 Mỹ Kim.

Cùng bị bắt với Cayamora còn có bà Kongan, là người vợ thứ hai của Cayamora, con gái y và con rể. Khám nhà những người bị bắt, trong ngày đầu tiên, quân đội Phi tìm thấy 52.2 triệu Peso tiền mặt, tức khoảng 1,054,500 Mỹ Kim.

Khi chúng tôi thực hiện chương trình này, số tiền quân đội và cảnh sát Phi Luật Tân đã tìm thấy hơn 6 triệu Mỹ Kim dấu ở những địa điểm khác nhau.

11. Nhận định của Đức Giám Mục Phụ Tá Paris về vụ tấn công khủng bố bên ngoài Nhà Thờ Đức Bà

Trả lời phỏng vấn kênh truyền hình KTO của Công Giáo Pháp, Đức Cha Moulins Beaufort, giám mục phụ tá tổng giáo phận Paris bày tỏ sự tin tưởng rằng sự ác không có tiếng nói sau cùng.

Đức Cha nói: “Hòa bình sẽ chiếm ưu thế trên thù hận. Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là chúng ta cần phải nỗ lực xây dựng một thế giới nhân bản, yêu chuộng hòa bình, và biết tôn trọng những khác biệt của người khác.”

Đức Cha ghi nhận rằng hơn 900 người bị kẹt trong Nhà Thờ Đức Bà đã giữ được sự yên tĩnh và bình thản trong suốt hai giờ

“Trong số những người bị kẹt trong nhà thờ, cố nhiên có những người không phải là các tín hữu Công Giáo. Nhưng tôi nghĩ rằng dù thế đi nữa họ vẫn tin mình đang được Đức Mẹ phù hộ. Vì thế, họ giữ yên lặng thanh thản, không lo lắng.”

Đức Cha cho biết thêm là lịch trình các buổi cử hành Phụng Vụ đã không bị gián đoạn. Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy là buổi kinh chiều ngày thứ Tư 7 tháng 6, một ngày sau vụ tấn công khủng bố.

12. Tên khủng bố tại Nhà Thờ Đức Bà tiêm nhiễm chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo qua Internet

Cũng liên quan đến vụ tấn công khủng bố hôm thứ Ba 6 tháng Sáu, cảnh sát Pháp cho biết họ đã tìm được những bằng cớ cho thấy hung thủ tấn công một viên cảnh sát bên ngoài Nhà Thờ Đức Bà đã từng tuyên bố cam kết trung thành với cái gọi là Nhà nước Hồi giáo.

Cảnh sát điều tra vụ việc đã phát hiện một video trong đó người đàn ông 40 tuổi, tên là Farid Ikken, tuyên bố mình là một tín đồ của Nhà nước Hồi giáo.

Kẻ khủng bố này là người gốc Algeria, đã từng làm việc ở Thụy Điển với tư cách là một nhà báo và đã từng ghi danh theo học tại Đại học Metz.

Những người quen nói rằng họ không hề biết tên này tiêm nhiễm chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo từ hồi nào, và trong thực tế không ai nghĩ hắn ta là một người Hồi giáo thực hành đạo vì chẳng mấy hắn lui tới các đền thờ Hồi Giáo.

Cảnh sát tin rằng tên khủng bố tại Nhà Thờ Đức Bà tiêm nhiễm chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo qua Internet.

13. Khủng bố Hồi Giáo đánh chết một giám mục và xô xác xuống sông

Trong bài “Post-mortem examination reveals Bishop Jean Marie Benoit Bala was assassinated’, tờ Cameroon Intelligence Report số ra ngày 6 tháng Sáu cho biết như sau:

“Cuộc khám nghiệm tử thi cho thấy Đức Cha Jean Marie Benoît Bala đã bị ám sát chết trước khi thi thể ngài bị ném xuống sông chưa đầy bốn giờ đồng hồ trước khi người ta phát hiện ra thi thể của ngài.”

“Bác sĩ đoàn tiến hành việc khám nghiệm tử thi bao gồm hai phó giáo sư y khoa, ba bác sĩ y khoa, trong đó có một bác sĩ do Hội đồng Giám mục Công Giáo Cameroon chỉ định theo yêu cầu của Đức Tổng Giám Mục Kleda thuộc Giáo phận Douala”, là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Cameroon.

Tờ Cameroon Intelligence Report cho biết thêm là quá trình khám nghiệm tử thi kéo dài không đến 4 giờ đã có đủ bằng chứng để đưa ra các kết luận chính xác về nguyên nhân tử vong.

Theo những phát hiện của cuộc khám nghiệm tử thi, các bác sĩ cho biết “Thi thể được vớt lên từ sông Sanaga có một cánh tay đã cứng lại, gấp lại trên bụng. Điều này cho thấy rằng Đức Cha Balla đã chết trước khi bị ném xuống nước, nên không có phản ứng vẫy vùng trong dòng nước.”

Các bác sĩ tuyên bố “Đức Cha Bala đã bị tra tấn và bị giết một cách dã man”. Bộ phận sinh dục bị viêm lên cho thấy ngài đã bị điện giật và quan trọng nhất là phổi của ngài không có một giọt nước nào, chứng tỏ ngài đã chết trước khi bị ném xuống nước.

Một trong những thành viên của nhóm khám nghiệm tử thi nói rằng một người đàn ông bị chết đuối sẽ nằm ở dưới đáy sông vì uống nhiều nước, chứ không nổi lên như trường hợp của Đức Cha Balla. Tình trạng cơ thể cũng cho phép các chuyên gia kết luận rằng ngài đã bị ném xuống sông chưa tới 4 giờ trước khi được vớt lên.

Đức Cha Jean-Marie Benoit Balla sinh ngày 5 tháng 5 năm 1959. Ngài được thụ phong linh mục vào năm 1987 và được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám Mục vào năm 2003. Ngài đã coi sóc giáo phận Bafia từ đó cho đến ngày 31 tháng 5 vừa qua.

Hội Đồng Giám Mục Cameroon đã ra một tuyên bố kêu gọi người Công Giáo nước này cầu nguyện cho linh hồn Đức Cha Bafia. Các Giám Mục mô tả ngài là người can đảm, chu đáo, khôn ngoan, kiên nhẫn và dịu dàng đến mức không có ai có điều chi bất hòa với ngài.

Cameroon đã chứng kiến nhiều vụ giết các linh mục Công Giáo chưa được giải quyết trong những năm gần đây. Bọn khủng bố Hồi Giáo Boko Haram là thủ phạm chính trong các vụ bắt cóc và thủ tiêu các linh mục và nữ tu tại quốc gia này.

Tưởng cũng nên nhắc lại là giáo phận Bafia tuyên bố Đức Cha Jean-Marie Benoit Balla, là đấng bản quyền, đã bị mất tích vào sáng sớm ngày thứ Tư 31 tháng 5. Sau đó, người ta tìm thấy chiếc xe của ngài gần sông Sanaha. Một tờ giấy tìm thấy trong xe viết: “Đừng tìm kiếm tôi! Tôi đã nhảy xuống sông.” Đây là một thủ đoạn của bọn khủng bố nhằm đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát và bôi lọ các nạn nhân.

Cha Remy Ngomo, nói với thông tấn xã Camernews, rằng Đức Cha Balla đã tỏ ra “rất lo lắng và đầy đau khổ” khi ngài nói chuyện với cha vào cuối tháng 5. Đức Cha nói rằng ngài “hoàn toàn kinh hoàng” trước cái chết bí ẩn gần đây của cha Armel Collins Ndjama, là giám đốc chủng viện. Ngài đã bị giết ngay trong phòng của ngài hôm 10 tháng 5. Đức Cha Balla đã tỏ ra hoang mang vì cảnh sát tỏ ra lơ là trong việc điều tra và không có những biện pháp nào nhằm bảo vệ an ninh cho dân chúng và ngăn chặn các hành vi khủng bố của những kẻ Hồi Giáo cực đoan.

14. Diễn biến quan trọng: Quân Kurd tiến vào thành phố Raqqa

Trong khi bọn khủng bố Hồi Giáo IS đang hấp hối tại thành phố Mosul của Iraq, tại Syria, hôm 6 tháng Sáu, Lực Lượng Dân Chủ Syria, gọi tắt là SDF, gồm chủ yếu là người Kurd, đã tuyên bố mở chiến dịch giải phóng thành phố Raqqa, nơi vẫn thường được coi là thủ đô của bọn khủng bố Hồi Giáo IS.

SDF theo phương châm là đa sắc tộc, đa tôn giáo, duy trì tính thế tục, cổ vũ dân chủ nên thu hút được đông đảo người của nhiều tôn giáo tham gia. Ít nhất 30% quân số của SDF là nữ giới nhưng các nữ quân nhân này tỏ ra rất thiện chiến.

Suốt trong đêm mùng 6 rạng sáng ngày 7 tháng 6, liên quân do Hoa Kỳ lãnh đạo mở 25 cuộc không kích dữ dội vào thành phố Raqqa, mở đường cho quân Kurd.

Cho đến khi chúng tôi thực hiện chương trình này, quân Kurd đã chiếm được nhiều quận trong thành phố Raqqa.

Hiện nay, bọn khủng bố Hồi Giáo IS vẫn còn kiểm soát được 80% thành phố và giăng đầy mìn bẫy trên đường cũng như các tay bắn tỉa. Tuy nhiên, nhiều quan sát viên lạc quan cho rằng việc giải phóng Raqqa có lẽ sẽ nhanh hơn chiến dịch Mosul rất nhiều.