Ngày 28-10-2021
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 29/10: Lòng nhân từ và tình thương của Chúa. Suy Niệm: Linh Mục Giuse Đỗ Tuấn Anh, CSsR
Giáo Hội Năm Châu
02:21 28/10/2021

Chủ Đề: Lòng Nhân Từ và Tình Thương của Chúa
Tin Mừng Lc 14,1-6

Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng. Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không?” Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. Rồi Người nói với họ: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?” Và họ không thể đáp lại những lời đó.

Đó là lời Chúa
 
Hết Cả Trí Khôn
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
08:57 28/10/2021
Hết Cả Trí Khôn

Chúa Nhật XXXI TN B

Mến Chúa và yêu người là một điệp khúc quá quen thuộc với Kitô hữu. Từ em bé đã qua tuổi “xưng tội rước lễ lần đầu” đến các cụ già mà chưa lẩn trí thì đều nằm lòng câu kết trong kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời: “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy – Amen”. Là người con cái Chúa trong Giáo Hội Công Giáo, có thể khẳng định rằng, hiếm có ai tự nhận mình không yêu mến Thiên Chúa. Dù minh nhiên hay mặc nhiên, chúng ta đều xác nhận rằng mình phải yêu mến Thiên Chúa. Tuy nhiên mức độ của lòng yêu mến ấy đến đâu cũng như cái cách thức yêu mến ấy có đúng hay không thì cần phải xem xét.

Trước câu hỏi của vị luật sĩ về giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu đã lấy lại đoạn sách Đệ Nhị Luật đồng thời có thêm một chút để trả lời: “Nghe đây, hỡi Israel! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất! Người phải yêu mến Đức Chúa, Chúa các ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi…” (x.Mc 12,28-34; x.Đnl 6,2-6). Xin mạn bàn về yếu tố Chúa Giêsu thêm đó là “hết trí khôn”, cụm từ không có trong sách Đệ Nhị Luật.

Trí khôn là một trong hai cơ năng của linh hồn mà Thiên Chúa tặng ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài thụ tạo hữu hình. Đã là người thì ai cũng chân nhận rằng nhờ trí khôn mà con người trỗi vượt các loài vật bậc thấp. Chuyện tích về bác nông phu mưu trí đánh thắng con hỗ là một ví dụ. Cũng là làm việc nhưng nhờ trí khôn, con người ý thức mình làm việc gì với động cơ và mục đích gì. Chính vì thế cung cách làm việc của con người mỗi ngày mỗi mới, phát triển và hoàn thiện không ngừng. Trong khi đó loài vật vì thiếu khả năng này nên cách hoạt động của chúng hầu như không đổi thay mà nếu có thì cũng rất nhỏ và qua một thời gian rất dài chịu điều kiện hóa bởi các yếu tố của giới tự nhiên mà thôi.

Khi thêm vào yếu tố “trí khôn” chắc hẳn Chúa Giêsu không chỉ đề cập đến một nét cao quý của con người mà còn lưu ý đến cung cách “giữ đạo”, “sống đức tin” của dân Chúa xưa và chúng ta mọi thời, mọi nơi. Chúa Giêsu đã từng nhiều lần hữu ý vi phạm luật sạch nhơ và luật ngày hưu lễ của Do Thái giáo thời bấy giờ. Người cố tình làm như vậy, vì người ta đã giữ luật cách máy móc, vụ hình thức mà quên mất mục đích và ý nghĩa của luật. Chẳng hạn luật sạch nhơ có ra là để dân Chúa biết giữ gìn tâm hồn trong sáng và làm thanh sạch cõi lòng khỏi các vết nhơ của tội lỗi, khỏi những tham lam và đam mê bất chính. Do đó cách thế giữ luật phải chú trọng đến tâm hồn hơn là quá tỉ mỉ, chi li với những nghi thức bên ngoài như rửa chén bát, rửa chân tay… Muốn tâm hồn được thanh sạch là phải loại khỏi tâm trí những ý định bất chính, xấu xa và Người đan cử một số điều như: “Tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21). Bên cạnh đó để làm cho tâm hồn mình trinh trong thì Người dạy phải sống đức ái qua việc liên đới chia sẻ với tha nhân: “Hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho các ngươi (Lc 11,41).

Với trí khôn thì khi thực hiện các hành vi đạo đức của tôn giáo, chúng ta phải biết rõ hành vi ấy là gì (What?) Vì sao phải thực hiện điều ấy là làm việc ấy để nhằm mục đích gì (Why?). Và rồi chúng ta sẽ biết làm việc ấy như thế nào (How?), ở đâu và trong hoàn cảnh nào (Where? When?). Khi một số biệt phái trách cứ rằng các môn đệ mình không ăn chay thì Chúa Giêsu nhân đó đã dạy họ phải sống đạo với cả trí khôn. Trước hết hãy ý thức ăn chay nghĩa là gì và vì sao ăn chay để rồi biết cách ăn chay đúng đẹp thánh ý Thiên Chúa. Ăn chay là một hình thức sám hối, thú nhận tội lỗi, nhất là tội nghiêm trọng.

Xưa vua quan dân thành Ninivê đã dùng sự ăn chay để bày tỏ sự ăn năn sám hối về tội lỗi tày trời họ đã phạm khiến Chúa đe phạt hủy diệt cả thành. Trong khi đó nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời Chúa Giêsu không chỉ lầm mà còn giảng dạy sai lạc. Họ lầm tường rằng ăn chay là một trong những cách thế thu tích công đức trước mặt thiên hạ và cả trước mặt Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã từng kể câu chuyện có người biệt phái vào đền thờ ngửa mặt kể lễ công trạng ăn chay với cả Thiên Chúa. Để khẳng định điều này thì Người nói rõ: “Không lẽ thực khách hay các phù rể có thể ăn chay khi tân lang đang còn ở với họ. Khi nào tân lang bị đem đì thì bấy giờ họ mới ăn chay” (x.Lc 5,33-39). Khi đang còn ở với Thầy Giêsu thì cách nào đó các tông đồ đang còn ở trong ân sủng. Khi phạm trọng tội là lúc chúng ta xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình và lúc đó mới thực sự cần phải ăn chay.

Không dám hồ đồ nhưng có vẻ đến hôm nay còn không ít Kitô hữu từ giáo dân đến tu sĩ, giáo sĩ vẫn sống đạo một cách máy móc, nếu không muốn nói là thiếu ý thức đúng và đủ những gì mình thực hành. Vừa qua Hội Đồng Giám Mục Việt Nam ra lệnh Kitô Hữu Công Giáo ăn chay một ngày (22/10) và mời gọi đoàn tính hữu sống mùa dịch bệnh trong tinh thần chay tịnh. Nếu không được hướng dẫn thì đoàn tín hữu dễ lầm tưởng rằng vì nhân loại tội lỗi nên bị dịch bệnh, khiến cho một số người hiểu lầm như nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu. Và cũng có thể có nhiều người nghĩ rằng ăn chay hãm mình hy sinh như lễ vật dâng lên Thiên Chúa hầu mong Người đoái thương khử trừ dịch bệnh. Thế mà đã gần hai năm nay biết bao lễ vật hy sinh trên khắp thế giới cùng với lời cầu nguyện dâng lên mà như chưa thấu đến Đấng Toàn Năng. Tình cảnh này có thể làm cớ cho nhiều người hoài nghi và than thở như cố nhạc sĩ họ Trịnh là “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người…”.

Chuyện chay tịnh, hãm mình, hy sinh thì ai ai cũng mến phục. Tuy nhiên việc sống khắc khổ, kiêng khem trong tình cảnh mà người dân, nhất là người nghèo, người đang thiếu thốn lương thực cần phải có đủ sức đề kháng để chống dịch thì xem ra cần được giải thích và hướng dẫn cho thấu tình đạt lý dưới ánh sáng đức tin. Truyền thống là tốt. Thế nhưng nhiều khi nó cũng có thể kìm giữ chúng ta trong lối mòn của thứ rượu cũ. Rượu mới phải đổ vào bầu da mới, nhưng người ta lại thích rượu cũ và giữ mãi cái bầu cũ hơn. Đức Phanxicô đã từng cảnh giác về kiểu biện bạch để khỏi canh tân, đổi mới đó là: “xưa đã là như vậy rồi”. Với cả trí khôn thì việc sống đức tin đòi hỏi chúng ta phải trưởng thành mỗi ngày. Chắc hẳn có đó nhiều cơ chế, luật lệ và hình thức sống đạo trong Giáo hội cần đổi thay khi đoàn con cái Chúa biết sử dụng trí năng để sống đức tin cách ý thức trong tình liên đới và tinh thần trách nhiệm.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
 
Chúa Nhật 31 Mùa Thường Niên : Yêu Mến
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
09:00 28/10/2021
Chúa Nhật 31 Mùa Thường Niên : Yêu Mến

(Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34).

Thiên Chúa là tình yêu: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8). Yêu là cốt lõi của cuộc sống. Vì tình yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài. Tình yêu của Đấng Tạo Hóa được thông ban tới mọi loại thụ tạo. Mỗi loài thụ tạo đều có dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Con người có linh hồn, trí khôn, tự do và tình yêu. Mọi sinh vật đều chìm đắm trong biển tình liên đới với nhau. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Đấng Vô Hình, chúng ta có thể nhận biết Người qua muôn hình vạn trạng của vũ trụ vạn vật và con người. Người là Thiên Chúa hằng hiện hữu và là Chúa của kẻ sống.

Những chỉ thị và huấn lệnh được tóm kết trong Mười Điều Răn và mười điều này thu gọn thành hai điều quan trọng là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Như thế, tất cả luật lệ và các giới răn đều xoay quanh chữ ‘Yêu’. Yêu là ái, bác ái, đức ái, nhân ái và tâm ái. Yêu là nền tảng của mọi sinh hoạt. Yêu phát khởi từ tâm. Tâm thiện làm thăng hoa cuộc đời nên cao thượng và thành tựu.

Chúng ta có thể suy về trái tim yêu thương qua bốn điều: Từ, Bi, Hỉ và Xả. Tâm từ là lòng thương xót. Thương tất cả mọi loài. Thương yêu không chỉ những người trong gia đình mà tình yêu lan trải ra mọi người chung quanh. Yêu cả người ân, kẻ oán. Yêu cả người gây thù dù chuốc oán. Tâm bi là xót thương trước những khổ đau của người khác. Biết cảm thông và xoa dịu những nỗi đau và sầu khổ của tha nhân. Tâm hỉ là vui vẻ trước sự hạnh phúc và thành công của người khác. Biết chung vui và chúc mừng những thành đạt và sự may mắn của người. Người có tâm hỉ thì không ích kỷ, hạn hẹp, ghen tương và đố kỵ. Tâm xả là không luyến ái hay chấp nhất. Giữ thái độ thanh thản và an vui tự tại trong tâm hồn. Từ bi hỉ xả sẽ giúp cho tình yêu tha nhân được triển nở và hoan lạc.

Trong bài phúc âm, Chúa Giêsu lập lại hai giới răn nồng cốt của đạo: Yêu Chúa và yêu người. Thiên Chúa hiện diện nhưng con người không thể diện kiến và đụng chạm bằng giác quan trần tục. Để biểu hiện tình yêu, Chúa mở một cửa ngõ để chúng ta cùng cảm thông: Yêu tha nhân như chính mình. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại được gắn liền với nhau như đồng tiền hai mặt. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà ghét đồng loại. Vì mỗi con người được tác tạo đều mang hình ảnh của Thiên Chúa. Yêu người cũng như yêu chính mình.

Thánh Marcô so sánh tình yêu cao quí hơn của lễ dâng. Đối với chúng ta, yêu người thân cận như chính mình là một đòi hỏi quá khó. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng thấy tình yêu có mức độ. Trong cuộc sống dân gian, trái tim yêu thương được diễn tả theo hình trôn ốc, từ trong cốt lõi ra ngoài. Yêu vợ chồng, con cái, gia đình, họ hàng thân tộc, đồng môn, bạn bè, người thân, kẻ nghĩa, yêu người cùng nhóm hội, cùng chí hướng, cùng tôn giáo, yêu đồng bào cùng quê hương xứ sở và yêu đồng loại… Chúng ta có thể cảm nhận thế nào là tình yêu khi chúng ta xa vắng, tam biệt, ly biệt hay vĩnh biệt người mình yêu. Càng yêu nhiều càng nhớ thương nhiều. Chỉ có những tâm hồn đại ái biết quên mình mới có thể yêu người thân cận như chính mình một cách vô điều kiện.

Trong thơ gởi tín hữu Do-thái, tác giả đã diễn tả hình ảnh hiến tế của Chúa Giêsu linh mục thượng phẩm. Ngài đã dâng hy lễ đền tội cho dân bằng chính sự sống của mình. Tình yêu dâng hiến trọn vẹn để đền tội thay cho dân. Các linh mục thay mặt Chúa dâng lễ tế hy sinh là một việc cử hành thánh thiện, nhưng có nhiều khi bị lợi dụng và lạm dụng. Có nhiều linh mục đã cử hành thánh lễ rất nghiêm trang sốt sáng, nhưng cũng có linh mục cử hành theo thói quen chỉ để chu toàn bổn phận hoặc vì thọ ơn trả nghĩa cho ai đó tại tư gia. Linh mục không chịu đau khổ và không đổ máu, vậy mà đôi khi còn nóng nảy và bực bội chỉ vì vài sơ xót nho nhỏ trong khi cử hành. Các linh mục hãy hòa trộn tình yêu trong việc cử hành thánh lễ để sinh ích lợi cho mình, cho mọi người và cho các linh hồn đang chờ mong ân phúc.

Đức mến là nòng cốt. Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, chỉ có tình yêu tồn tại mãi. Xin cho chúng con biết chia sẻ và sống dấn thân trong tình yêu. Để khi mãn cuộc đời dưới thế, chúng con sẽ được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa, vì Chúa là tình yêu.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
 
Sự sống muôn đời
Lm. Thái Nguyên
13:35 28/10/2021

Suy niệm và cầu nguyện lễ cầu cho các Đẳng


SỰ SỐNG MUÔN ĐỜI
Ngày 02 tháng 11. Cầu cho các tín hữu đã qua đời: Ga 6, 35-40

Suy niệm

Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng tiếp tục tìm đến Đức Giêsu. Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì được ăn bánh no nê. Con người ngày nay cũng thế, cơm áo gạo tiền là vấn đề trên hết: người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn, để thoả mãn cái đói cấp bách của thân xác; người giàu thì mê mải với bao tiện nghi và thú vui đang mời gọi. Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau: là đánh mất cái đói khát tinh thần, chỉ mãn nguyện với những no thỏa vật chất.

Bên ngoài xem ra là như thế, nhưng thật ra bên trong con người còn có những nhu cầu sâu xa hơn: người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương; người giàu dư cơm bánh nhưng lại cần lẽ sống. Bao nhiêu bạn trẻ dư thừa mọi sự, nhưng lại thất vọng chán chường và thậm chí rơi vào trụy lạc. Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó. Thiếu cái này thì mọi cái khác trở thành thừa. Có khi cuộc sống sa đoạ lại là cách họ biểu lộ cơn đói khát vô cùng về sự thiện hảo. Chúa Giêsu tiếp tục khơi dậy khát vọng đó nơi lòng người. Ngài không chỉ ban Manna cho sự sống tạm thời của con người, nhưng còn ban bánh bởi trời:“Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.

Đó là một mạc khải vô cùng lớn lao mà ngay một số người Kitô hữu cũng khó lòng tin, nên chưa thể sống với lòng đầy hy vọng. Ai có lòng tin mới yêu quí và say mê bữa tiệc Thánh Thể. Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con mình là Augustinô như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh". Chắc chắn thánh nữ đã từng cảm nghiệm sức sống linh thiêng từ Mình Thánh Chúa, và tin chắc đó là linh dược cho sự sống muôn đời của mình, nên mới có lời nhắn nhủ cuối cùng như thế.

Ai cũng mơ ước được sống hoài sống mãi, nhưng chắc không phải là cuộc sống này mà là cuộc sống viên mãn, một cuộc sống không còn đau khổ hay đói khát gì nữa. Để con người không phải mò mẫm trong tối tăm, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”. Lời tuyên bố ấy đã khai nguyên sự sống mới cho nhân loại.

Với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài đã chia sẻ thân phận làm người như ta, đón nhận mọi cay đắng và thống khổ, đồng thời cũng chính là Đấng đã chết và đã sống lại vì chúng ta. Thiên Chúa Cha muốn gửi gắm chúng ta cho Chúa Giêsu lo liệu, và Chúa Giêsu cũng đã khẳng định: “Tất cả những kẻ Cha đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”. Như vậy, sự sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay từ đời này, khi chúng ta đến với Giêsu với niềm tin tưởng: “Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời”.

Giáo Hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, trong đó có những người thân yêu là ông bà, cha mẹ, anh em, bạn hữu... Anh em Phật Giáo cũng có Mùa Vu Lan hay những ngày giỗ chạp để nói lên lòng hiếu nghĩa. Với đức tin Kitô giáo, chúng ta tin rằng, người chết không cần đồ cúng hay vàng mã, mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành, cách riêng là thánh lễ. Trong mầu nhiệm các thánh thông công, đó mới là những điều cần thiết cho các linh hồn trong luyện ngục, là những người đang mong mỏi được tình yêu Chúa thanh luyện, để các ngài sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa trong hạnh phúc muôn đời.

Sớm muộn gì thì tất cả chúng ta cũng sẽ gặp lại nhau qua cái chết, là điểm hẹn chung cho mọi người. Tin tưởng vào Thiên Chúa hằng sống, nên điều quan trọng không phải ta sẽ chết như thế nào, mà ta đã sống như thế nào, nên ta hãy sống trọn vẹn cuộc đời mình hôm nay cho Thiên Chúa và tha nhân. Quá khứ đã là lịch sử. Tương lai là một mầu nhiệm. Còn hiện tại là một tặng phẩm vô giá của Thiên Chúa. Chính khi sống trọn vẹn giây phút hiện tại là ta đang sống cái vĩnh cửu. Chính trong hiện tại mà ta đón đợi và gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng sẽ tỏ mình hoàn toàn cho ta trong sự sống mới muôn đời.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Dù tin hay không tin,
dù là người hữu thần hay vô thần,
ai cũng sẽ lần lượt được đưa tiễn,
để ra đi về miền “vĩnh viễn”,
cái chết vẫn là điểm hẹn chung,
cho mọi người ở giây phút cuối cùng.

Bao người đã đặt ra vấn đề,
tại sao mình phải chết?
Chết rồi sẽ ra sao?
Bên kia cái chết sẽ thế nào?
Nếu chết là hết thì sống có ý nghĩa chi?
Con người vẫn bị giày vò và sợ lo,
bởi thấy đời mình chỉ còn là nắm tro,
dù biết rằng là “sinh ký tử quy”,
nhưng vẫn khắc khoải và sầu bi khôn tả.

Tạ ơn Chúa đã mạc khải tất cả,
về cuộc sống này và cái chết ngày mai,
giúp cho con một tâm thái vững vàng,
để sống bình an trong mọi tình trạng.

Dẫu biết sự chết là một mầu nhiệm,
vì rằng chẳng ai có kinh nghiệm,
nhưng đã ẩn tiềm ngay trong sự sống,
vì mỗi cuộc đời không ngẫu nhiên mà có,
không đương nhiên như mưa gió mà thành,
không tất nhiên như hoa cành mà kết thúc.

Nhưng Chúa đã định cho có lúc,
hết giây phút đời này thì đến lúc đời sau,
điều quan trọng là con sống thế nào,
để hoàn thành một cuộc đời độc đáo,
bằng đức tin và lòng mến dạt dào,
để con có thể bước vào đời sống mới,
qua bên kia trong thế giới rạng ngời,
hưởng nhan Chúa muôn ngàn đời hạnh phúc. Amen.
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:38 28/10/2021

48. Người yêu mến vật chất thế gian thì không thể nên thánh.

(Thánh Philip Neri)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


-----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:43 28/10/2021
96. THẦY GIÁO ĐỌC SAI CHỮ

Có một thầy giáo thường đọc sai chữ.

Chủ nhà mời ông ta dạy học, hai bên cùng giao kèo là mỗi năm ba thạch lúa, tiền nấu ăn là bốn ngàn đồng. Dạy sai một chữ phạt trừ đi một thạch, dạy sai một câu phạt hai ngàn đồng.

Thầy giáo nhìn thấy trên tảng đá có khắc chữ “dám làm đá Thái Sơn”, thì đọc là “lấy nhà đá Thái Xuyên”.

Chủ nhà nói:

- “Tất cả đều sai, phạt một thạch”.

Thầy giáo lại dạy học trò đọc sách “luận ngữ”, đem “Tăng tử nói” đọc là “Tào tử nói”, “Khanh đại phu” đọc là “Hương đại phu”.

Chủ nhà nói:

- “Lại đọc sai hai chữ, phạt tất cả là ba thạch”.

Qua ngày khác, thầy giáo đem “Lý Khang tử” đọc là “Lý Mã tử”, đem “Vương Nhật Tẩu” đọc là “Vương Tứ Tẩu”.

Chủ nhà nói:

- “Đọc sai hai câu, trừ toàn bộ bốn ngàn tiền nấu ăn”.

Kết quả, thầy giáo dạy học mà chẳng được cái gì cả, bèn làm một bài thơ kêu khổ:

“Tam thạch ngủ cốc dạy học khổ,

trước bị “Thái Xuyên thạch” lấy mất,

một thạch thua vì “Tào tử nói”,

một thạch đem cho “Hương đại phu”,

bốn ngàn tiền lửa không phải ít,

đáng tiếc bốn ngàn khấu hao trừ:

hai ngàn đem tặng “Lý Mả tử”,

hai ngàn đem cho “Vương Tứ tẩu”.


(Hi đàm lục)

Suy tư 96:

Thầy giáo không phải là quyển tự điển bách khoa, cũng không phải là cái máy kim từ điển, thầy giáo cũng không dạy ngoại ngữ, nhưng thầy giáo chỉ dạy chữ quốc ngữ, tức là dạy tiếng mẹ đẻ, mà đọc sai chữ thì không thể tin và cũng không thể chấp nhập được.

Có thầy giáo đọc sai chữ thì cũng có học trò học lớp năm không biết viết chữ, đó là thuyết “nhân và quả” trong giáo dục vậy.

Người Ki-tô hữu không phải là nhà thần học cũng không phải là nhà chú giải thánh kinh, nhưng làm người Ki-tô hữu mà không biết sự cao quý của thánh lễ Misa, không biết những ân sủng do các bí tích đem lại, thì không thể tin và cũng không thể chấp nhận được, bởi vì như thế họ sẽ trở thành những miếng mồi ngon của ma quỷ và những lạc giáo, họ dễ dàng tin những gì mà kẻ thù của đức tin dùng để phản bác lại Giáo Hội Đức Chúa Giê-su ở thế gian này.

Mỗi Ki-tô hữu phải là mỗi thầy dạy đức tin cho người khác, bằng chính sự tin tưởng, phó thác sâu xa cuộc sống của mình cho Thiên Chúa.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Một nỗi đau thánh
Lm. Minh Anh
22:20 28/10/2021



MỘT NỖI ĐAU THÁNH
“Tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn!”.

Khi về hưu, Thomas Jefferson thành lập Đại học Virginia. Vị cựu Tổng thống tin rằng, sinh viên sẽ học tập nghiêm túc, bằng chứng là nội quy kỷ luật nhà trường khá nhẹ. Thật không may, lòng tin của ông đặt không đúng chỗ, một cuộc bạo động dẫn đến đổ máu đã xảy ra; trong đó, các giáo sư bị tấn công. Hôm sau, một cuộc họp được tổ chức, Jefferson có mặt; và dĩ nhiên, có cả các sinh viên bất trị. Jefferson nói, “Đây là một trong những sự kiện đau đớn nhất suốt cả đời tôi!”, và ông bật khóc. Giám thị yêu cầu những kẻ bạo động tiến lên; tất cả đều nhận lỗi. Sau đó, một sinh viên trong số ấy nói, “Đó không phải là lời nói của Jefferson, nhưng là nước mắt của ông ấy!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Jefferson đau đớn! Thế nhưng, phụng vụ Lời Chúa hôm nay còn cho thấy một nỗi đau lớn hơn. Đó là nỗi đau của Chúa Giêsu cộng với nỗi đau của thánh Phaolô, làm thành ‘một nỗi đau thánh’ trước sự cứng lòng của những người đương thời, khi họ nhất mực từ chối sứ điệp thiên sai của Con Thiên Chúa. Phaolô than thở, “Tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn!”.

Trong thư Rôma hôm nay, một lý do khiến Phaolô vô cùng đau khổ, là việc đa số những người Do Thái từ chối Chúa Giêsu là Đấng Messia; ở một số nơi, họ hành động mạnh mẽ chống lại các Kitô hữu, những người mà họ coi là phản bội hoặc dị giáo. Phaolô nhấn mạnh, đây không phải là những lời nói suông, “Lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần; tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn”, nhưng là một nỗi đau thực sự khi ngài phải lo lắng cho tương lai thiêng liêng của dân tộc mình, đến nỗi Phaolô sẵn sàng tách khỏi Chúa Kitô hoàn toàn nếu điều này có lợi cho đồng bào mình; theo nghĩa đen, Phaolô tự nguyện trở thành tù nhân, bị nguyền rủa và bị loại trừ để anh em ngài nhận biết Chúa Giêsu. Đó quả là ‘một nỗi đau thánh’ thực sự!

Như Phaolô, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng trải nghiệm một nỗi đau tương tự. Một ngày Sabbat, một thủ lãnh biệt phái mời Ngài dùng bữa, họ rình rập dò xét Ngài. Một người mắc bệnh thuỷ thũng xuất hiện. Người bệnh này từ đâu ra? Bất cứ ai cũng có quyền nghĩ rằng, đây có thể là một sự sắp đặt của chủ nhà. Và dẫu cho đó là sự thật, thì Chúa Giêsu vẫn quyết tâm đến cùng để tỏ cho họ thấy lòng thương xót của Ngài, không chỉ đối với người bệnh nhưng còn cho cả những ai đang toan tính hại Ngài. Ngài hỏi họ, “Trong ngày Sabbat, có được phép chữa lành không?”. Tin Mừng nói, “Họ làm thinh!”. Chính sự làm thinh lại phơi trần ác tâm trong họ; nhưng về phía Chúa Giêsu, “Ngài kéo kẻ ấy lại, chữa lành, rồi cho về”. Sau đó, Ngài đau đớn đặt câu hỏi, “Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?”; và họ tiếp tục làm thinh, để lại cho Ngài ‘một nỗi đau thánh!’.

Trong một thế giới, một môi trường từ chối Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài, tâm hồn các môn đệ mọi thời của Ngài phải là nơi ẩn tàng ‘một nỗi đau thánh’. Như các biệt phái đã vin vào truyền thống và tập tục ngày Sabbat đến nỗi trở nên lạnh lùng trước nỗi thống khổ của tha nhân, và quan trọng hơn, đàng sau, là thách thức Chúa Giêsu; thì thế giới hôm nay, với lý do này, lý do khác, từ chối chính Ngài và sứ điệp của Ngài, Giáo Hội cũng đang đối mặt với bao thách thức. Vấn đề trợ tử, phá thai, hôn nhân đồng tính, nan đề di dân và nạn buôn người… tất cả đang thực sự là những nhức nhối. Thế nhưng, lập trường của Chúa Giêsu và Giáo Hội thật rõ ràng, phẩm giá và sự sống con người có giá trị vô song; và việc nâng con người lên, chữa lành nó, phải là ưu tiên hàng đầu!

Anh Chị em,

Trước những sự kiện đau lòng của thế giới, của Giáo Hội hay của các cộng đoàn, các gia đình… liệu chúng ta có một cảm thức đau xót nào không? Hay đó không phải là vấn đề của tôi! Cụ thể, trước sự cứng cỏi của những người chúng ta quen biết, khi họ từ chối niềm tin Công Giáo hay đang đắm chìm trong một tội lỗi nào đó… hoặc gần gũi hơn, sau những ngày dịch bệnh, không ít người bỏ luôn nhà thờ, bỏ đạo; thử hỏi, chúng ta có đau ‘một nỗi đau thánh’ nào không? Và quan trọng hơn, chúng ta đã làm gì? Chúng ta có cầu nguyện, hy sinh, thăm viếng, khuyên nhủ và thiết thực nhất, có ra sức sống thánh mỗi ngày để làm gương sáng cho những anh chị em đó không?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết vui khi Chúa vui, buồn khi Chúa buồn; và nhất là biết đau khi Chúa đau, bởi ‘một nỗi đau thánh’ nào đó!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Toàn văn Sắc lệnh của Tòa Ân Giải Tối Cao về Ơn Toàn Xá nhường cho các tín hữu đã qua đời
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
19:48 28/10/2021
Hôm 28 tháng 10, Tòa Ân Giải Tối Cao đã công bố sắc lệnh sau đây. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

SẮC LỆNH

Sau khi đã lắng nghe những lời yêu cầu khác nhau nhận được gần đây từ nhiều Mục Tử Thánh Thiện của Giáo hội, liên quan đến tình trạng đại dịch đang tiếp diễn, Tòa Ân Giải Tối Cao xác nhận và mở rộng đến trọn tháng 11 năm 2021, tất cả các lợi ích thiêng liêng đã được ban cấp vào ngày 22 tháng 10 năm 2020, thông qua Sắc Lệnh số 791/20/I, theo đó, do đại dịch “Covid-19”, những Ơn Toàn Xá cho các tín hữu đã qua đời đã được gia hạn trong suốt tháng 11 năm 2020.

Từ sự quảng đại vừa được lặp lại của Giáo hội, các tín hữu chắc chắn sẽ thu được những ý định lành thánh và sức mạnh thiêng liêng để hướng dẫn cuộc sống của họ theo đòi buộc Tin Mừng, trong sự hiệp thông hiếu thảo và sùng kính đối với Đức Thánh Cha, là nền tảng hữu hình và là Mục tử của Giáo Hội Công Giáo.

Sắc lệnh này có hiệu lực trong suốt tháng 11, bất kể các quy định trái ngược.

Ban hành từ Rôma, tại Trụ sở của Tòa Ân Giải Tối Cao, ngày 27 tháng 10 năm 2021.

+ Đức Hồng Y Mauro Piacenza
Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao

Đức ông Krzysztof Nykiel
Nhiếp chính
Source:Holy See Press Office

Phụ lục: Sắc Lệnh số 791/20/I của Tòa Ân Giải Tối Cao
Ngày 23 tháng 10, Tòa Ân Giải Tối Cao đã công bố sắc lệnh sau.

Nguyên bản tiếng Ý có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.


Năm nay, trong tình huống khẩn cấp hiện tại do đại dịch “COVID-19”, các ơn Toàn Xá cho các tín hữu đã qua đời sẽ được kéo dài trong cả tháng 11, cùng với việc điều chỉnh các việc đạo đức và các điều kiện để bảo đảm an toàn cho các tín hữu.

Tòa Ân Giải Tối Cao này đã nhận được không ít những lời thỉnh cầu của các Mục tử Thiêng liêng, những vị đã yêu cầu rằng năm nay, vì đại dịch “COVID-19”, các việc đạo đức theo tiêu chuẩn của Sách Cẩm nang Ân xá (điều 29, triệt 1) để nhận lãnh các ơn Toàn Xá nhường cho các linh hồn trong Luyện Ngục, nên có sự điều chỉnh. Do đó, Tòa Ân Giải Tối Cao, theo sự ủy nhiệm đặc biệt của Đức Thánh Cha Phanxicô, sẵn sàng thiết lập và quyết định rằng trong năm nay, để tránh các cuộc tụ tập ở những nơi không được phép:

a.- Ơn Toàn xá dành cho những người đến viếng một nghĩa trang và cầu nguyện cho người đã khuất dù chỉ trong trí, như đã được quy định trong Cẩm nang trong mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 11, có thể được chuyển sang các ngày khác trong cùng tháng cho đến cuối tháng. Những ngày như thế, do các tín hữu tự do lựa chọn, cũng không cần kế tiếp nhau;

b. - Ơn Toàn xá ngày 2 tháng 11, được thiết lập nhân dịp Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời, dành cho tất cả những ai sốt sắng đến thăm một Nhà thờ hoặc một Nhà Nguyện và đọc ở đó “Kinh Lạy Cha” và “Kinh Tin Kính”, có thể được chuyển sang Chúa Nhật trước hoặc Chúa Nhật sau hoặc sang ngày Lễ Trọng Kính Các Thánh Nam Nữ, và cũng có thể chuyển sang một ngày khác trong tháng 11, do các tín hữu tự do lựa chọn.

Những người già, người bệnh và tất cả những người vì lý do nghiêm trọng không thể rời khỏi nhà mình, do những hạn chế được áp đặt bởi các cơ quan có thẩm quyền trong thời gian xảy ra đại dịch, nhằm tránh việc tụ tập đông đảo các tín hữu ở những nơi linh thiêng, sẽ có thể nhận được Ơn Toàn Xá. Điều kiện để nhận được Ơn Toàn Xá là họ hiệp nhất về mặt tinh thần với tất cả các tín hữu khác, hoàn toàn từ bỏ tội lỗi và có ý định tuân thủ càng sớm càng tốt ba điều kiện thông thường là Xưng tội, Rước lễ và Cầu nguyện theo Ý Đức Thánh Cha. Họ được khuyến khích cầu nguyện trước tượng ảnh Chúa Giêsu, Đức Trinh Nữ Maria, đọc những kinh nguyện sốt sắng dành cho người chết, ví dụ như Kinh Sáng và Kinh Chiều từ Sách Thần Vụ dành cho người quá cố, Chuỗi Mân Côi, Kinh Lòng Thương Xót Chúa, những kinh nguyện khác cho những người thân yêu nhất đã qua đời của các tín hữu hoặc dành thời gian để suy gẫm một trong những đoạn Phúc âm được đề nghị trong Phụng vụ dành Người Quá Cố, hoặc thực hiện công việc của lòng thương xót, dâng lên Chúa những nỗi đau và những khó khăn của cuộc đời họ.

Để giúp anh chị em có thể dễ dàng nhận được ân sủng hơn nhờ lòng bác ái mục vụ của các mục tử, Tòa Ân Giải Tối Cao này chân thành cầu nguyện xin cho tất cả các linh mục với các năng quyền phù hợp, có thể quảng đại hy sinh một cách đặc biệt để cử hành Bí Tích Hòa Giải và trao Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân.

Tuy nhiên, liên quan đến các điều kiện thiêng liêng để được lãnh nhận Ơn Toàn xá một cách đầy đủ, xin nhắc nhở mọi người hãy dựa vào những chỉ dẫn đã được ban hành trong Ghi chú “Về Bí Tích Hòa Giải trong hoàn cảnh đại dịch hiện nay”, do Tòa Ân Giải Tối Cao ban hành ngày 19 tháng 3 năm 2020.

Cuối cùng, để các linh hồn trong Luyện ngục được giúp đỡ nhờ lời chuyển cầu của các tín hữu và đặc biệt là nhờ Hy tế trên Bàn thờ, là điều đẹp lòng Thiên Chúa (xem Conc. Tr. Sess. XXV, decr. De Purgatorio), tất cả các linh mục đều được nhiệt liệt mời gọi cử hành Thánh Lễ ba lần trong ngày Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời, như trong chuẩn mực của Tông Hiến “Incruentum Altaris”, do Đức Giáo Hoàng đáng kính Bênêđictô XV ban hành vào ngày 10 tháng 8 năm 1915.

Sắc lệnh này có hiệu lực trong suốt tháng 11, bất chấp mọi quy định ngược lại.

Ban hành tại Rôma, từ trụ sở của Tòa Ân Giải Tối Cao, vào ngày 22 tháng 10 năm 2020, Lễ Nhớ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

+ Đức Hồng Y Maurus Piacenza
Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao

Đức Ông Krzysztof Nykiel
Nhiếp chính


Source:Holy See Press Office
 
Phút nói thật: Tòa Bạch Ốc thừa nhận Đức Thánh Cha Phanxicô ‘đã nói khác’ với Biden về việc phá thai
Đặng Tự Do
21:06 28/10/2021
Trước cuộc gặp gỡ ngày 29 tháng 10 của Tổng thống Joe Biden với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hôm thứ Tư phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc đã thừa nhận rằng “Đức Giáo Hoàng đã nói khác” so với Biden về việc phá thai.

Biden, một người Công Giáo, “là người ủng hộ và tin rằng quyền lựa chọn của phụ nữ là quan trọng”, Thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Jen Psaki cho biết tại cuộc họp báo ngày 27/10 với các phóng viên.

“Đức Giáo Hoàng đã nói khác,” cô ấy nói thêm, khi trả lời câu hỏi của phóng viên Owen Jensen của EWTN News Nightly. Trước đây, Jen Psaki luôn lặp lại một điệp khúc “Tổng thống là một người Công Giáo ngoan đạo. Ông ấy đi nhà thờ mỗi tuần”, như thể lập trường của ông Joe Biden hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo.

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ gặp Tổng thống Biden và Đệ nhất phu nhân Jill Biden vào ngày thứ Sáu tại Vatican.

Psaki hôm thứ Tư nói rằng các lĩnh vực đồng thuận giữa hai bên sẽ là “trọng tâm” của cuộc họp vào hôm thứ Sáu, bao gồm các vấn đề “đói nghèo, chống khủng hoảng khí hậu, chấm dứt đại dịch COVID-19”.

“Đây đều là những vấn đề cực kỳ quan trọng, có tác động và sẽ là trọng tâm của cuộc thảo luận khi họ gặp nhau,” cô nói thêm.

Đức Thánh Cha Phanxicô trước đây đã gọi phá thai là “giết người”, so sánh phá thai với việc “thuê một sát thủ”, và nói rằng những nạn nhân chưa chào đời của việc phá thai mang khuôn mặt của Chúa Giêsu, và bày tỏ sự bất mãn của ngài trước những nỗ lực quảng bá phá thai như một “dịch vụ thiết yếu” trong thời kỳ đại dịch.

Biden và chính quyền của ông đã thực hiện một số bước để tài trợ hoàn toàn cho việc phá thai hoặc nới lỏng các quy định chống lại việc tài trợ cho các nhóm ủng hộ phá thai.

Ông đã thúc đẩy việc phá thai bằng tiền đóng thuế của người dân, qua hệ thống Medicare bằng cách loại trừ tu chính án Hyde khỏi yêu cầu ngân sách năm 2022 của ông tại Quốc hội. Trong một lệnh hành pháp ngày 28 tháng Giêng, Biden đã bãi bỏ Chính sách Thành phố Mexico vì chính sách này cấm Hoa Kỳ tài trợ cho các nhóm ủng hộ phá thai quốc tế. Chính quyền của ông đã thay đổi các quy định để cho phép tài trợ cho các nhà cung cấp dịch vụ phá thai thông qua chương trình kế hoạch hóa gia đình Title X.

Khi luật “nhịp tim” ủng hộ sự sống của Texas có hiệu lực vào ngày 1 tháng 9, Biden hứa sẽ có phản ứng “của toàn chính phủ” nhằm duy trì việc phá thai hợp pháp ở Texas. Bộ Tư pháp đã đệ đơn kiện lên tòa án liên bang về luật này, và Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh đã thông báo tăng cường tài trợ kế hoạch hóa gia đình cho các nhóm bị ảnh hưởng bởi luật Texas.

Ngoài ra, Biden đã đưa ra các tuyên bố ủng hộ việc hợp pháp hóa phá thai ở Hoa Kỳ và quốc tế.

Sau đó trong cuộc họp giao ban hôm thứ Tư, Psaki đã giải thích về “đức tin” của tổng thống khi được hỏi về cuộc họp tại Vatican.

Tôi nghĩ rằng đức tin của tổng thống, như bạn cũng biết, là khá cá nhân đối với ông ấy. Đức tin của ông ấy là nguồn sức mạnh qua nhiều bi kịch khác nhau mà ông ấy đã trải qua trong đời,” cô nói và lưu ý rằng “ông ấy đến nhà thờ mỗi cuối tuần”.

Đề cập đến cuộc gặp gỡ giữa ông Joe Biden và Đức Giáo Hoàng, cô nói:

“Chúng tôi chắc chắn mong đợi đó là một cuộc gặp gỡ ấm áp”.
Source:Catholic News Agency

 
Bạo lực và phân cực gia tăng khi các cuộc bầu cử gần kề: các Giám mục kêu gọi đối thoại và trách nhiệm
Đặng Tự Do
04:57 28/10/2021


Một tháng trước cuộc bầu cử tổng thống, quốc hội và chính quyền khu vực vào ngày 21 tháng 11, các Giám Mục Chí Lợi đã ra một tiến bước cảnh giác về “bầu không khí hiếu chiến và phân cực trong đời sống chính trị, đặc biệt là trong chiến dịch tranh cử tổng thống. Đây phải là cơ hội để tranh luận về các ý tưởng, dự án và chương trình về hiện tại và tương lai của quốc gia, trong một thực hành khơi dậy hy vọng, cảm giác thân thuộc và cam kết vì thiện ích chung.”

Ủy ban Thường vụ của Hội Đồng Giám Mục Chí Lợi, trong tuyên bố có tựa đề “Để sống quá trình bầu cử trong hòa bình và hòa hợp”, lấy làm tiếc phải nhận định rằng: “các cuộc biểu tình bạo lực ngày càng gia tăng. Sự phân cực và tính hiếu chiến được thể hiện ở nhiều mức độ trong cuộc sống chung của chúng ta, cũng như trong các mối quan hệ hàng ngày của chúng ta với những người khác. Các vụ giết người và các hành vi phạm tội khác đã gia tăng gần đây. Buôn bán ma túy và tội phạm chiếm nhiều lĩnh vực và không gian trong các thành phố của chúng ta. Cuộc biểu tình chính trị hợp pháp, do hành động của một số nhóm, thường trở nên các vụ bạo động phá hoại tài sản và không gian công cộng và tư nhân”.

Đối mặt với tình trạng này, các Giám mục kêu gọi người Chí Lợi “nghiêm túc xem xét lại cách sống chung của chúng ta”, “chấm dứt bạo lực”, “học cách đối thoại với tư cách là anh chị em với nhau, và là đồng bào của cùng một đất nước và ngôi nhà chung”.

Một nguyên nhân khác gây lo ngại đến từ thảm kịch kinh tế, mà hậu quả tiêu cực của nó đặc biệt ảnh hưởng đến các gia đình nghèo và dễ bị tổn thương, ngoài ra đại dịch đã tạo ra các vấn đề sẽ kéo dài trong thời gian dài.

Các Giám Mục chỉ ra rằng:

“Điều mâu thuẫn là trong khi chúng ta tìm kiếm và khao khát mức độ hạnh phúc và công lý cao hơn, chúng ta không xây dựng các đường lối ổn định hơn, và các hành động chính trị cho phép chúng ta đối mặt với những thách thức xã hội và kinh tế mà chúng ta đang phải đối mặt. Vì lợi ích của đất nước, chúng ta phải nhìn xa hơn những tính toán bầu cử”.

Vì lý do này, các giám mục mời gọi mọi người “hành động có trách nhiệm”, nhấn mạnh rằng “đối với những người lên cầm quyền đất nước trong giai đoạn tiếp theo, nhiệm vụ sẽ khó khăn và phức tạp do bối cảnh kinh tế và chính trị mà chúng ta đang trải qua, đó là chưa nói đến sự hiện diện của cuộc khủng hoảng sức khỏe coronavirus”.

Cuối cùng, các Giám Mục giao phó cho Đức Trinh Nữ ở Núi Carmêlô “thời gian thử thách này đối với đất nước chúng ta”.
Source:Fides
 
Đức Thánh Cha sẵn sàng tông du tới Canada để chữa lành và hòa giải
Thanh Quảng sdb
05:12 28/10/2021
Đức Thánh Cha sẵn sàng tông du tới Canada để chữa lành và hòa giải

Một thông cáo do Văn phòng Báo chí Tòa thánh hôm thứ Tư (27/10/2021) cho biết Đức Thánh Cha sẵn sàng qua thăm Canada vào một ngày nào đó để hòa giải và chữa lành những vụ sát hại nhiều học sinh nội trú trong các trường mà Giáo hội đảm trách...

(Tin Vatican)

Thông báo cho hay: “Hội đồng Giám mục Công Giáo Canada đã mời Đức Thánh Cha tông đồ đến Canada, trong tiến trình mục vụ hòa giải với các dân tộc bản địa. Bản tuyên bố cho thấy ĐTC sẵn sàng đến thăm Canada vào một thời điểm để được chữa lành và hòa giải, giải quyết vấn đề một cách ráo riết!”

Bản thông báo cũng cho hay các Giám mục Canada đã bắt đầu các cuộc thảo luận với Người bản địa, đặc biệt là những người bị ảnh hưởng bởi các trường nội trú nơi mà những thảm cảnh đã xảy ra...

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ nỗi buồn sâu sắc mà ngài mô tả là “tin quá sốc” khi phát hiện ra hàng trăm ngôi mộ vô danh được phát hiện trong khuôn viên của Trường nội trú ở Kamloops do Giáo hội đã điều hành vào mùa hè vừa qua.

Phát biểu trong buổi đọc kinh “Truyền Tin” vào Chúa nhật ngày 6 tháng 6 năm 2021, ĐTC nói Ngài cầu nguyện cho Giáo hội Canada và cho những người đã chết, đồng thời ĐTC kêu gọi các cơ quan chính quyền và Giáo hội Canada hãy cùng nhau làm sáng tỏ vấn đề và cam kết thể hiện “một con đường hòa giải và hàn gắn. "

Các trường cho thổ dân

Các trường cho thổ dân là các trường do chính phủ tài trợ, nhiều trường do các tổ chức Giáo hội điều hành, được thành lập để nhận các trẻ em Bản địa hầu giáo dục chúng hội nhập vào văn hóa Âu Châu-Canada. Các trường hoạt động từ những năm 1880 đến những thập kỷ của thế kỷ 20, nhằm mục đích giáo dục và hội nhập các thanh thiếu niên bản địa hòa nhập vào xã hội Canada tân tiến. Hệ thống cưỡng bức tách các em ra khỏi gia đình trong một thời gian dài và cấm chúng sống di sản và văn hóa bản địa của chúng hoặc nói ngôn ngữ của chúng. Các học sinh này đã chia sẻ tình trạng lạm dụng và đường lối hà khắc có hệ thống...
 
Viếng nghiã trang trong tháng 11 sẽ được ơn toàn xá để chỉ cho các linh hồn
Nguyễn long Thao
11:10 28/10/2021
Năm nay 2021, Tòa Thánh Vatican đã quyết định ban ơn toàn xá cho những người Công Giáo đến thăm nghĩa trang để cầu nguyện cho người quá cố vào bất kỳ ngày nào trong tháng 11.

Thông thường trước đây, Giáo hội chỉ ban ơn toàn xá trong tuần lễ đầu từ mồng 1 đến mồng 8 tháng 11 cho những ai đến nghĩa trang để cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời..

Nhưng năm ngoái, vì tránh tình trạng tụ tập đông người tại nghiã trang hay tại nhà thờ trong mùa đại dịch Covid 19 nên Tòa Thánh đã nới rộng điều kiện để được hưởng ơn đại xá

Năm nay vào ngày thứ Năm 28 tháng 10, Tòa Thánh Vatican đã thông báo rằng sắc lệnh tương tự về ân xá như năm 2020 cũng sẽ được áp dụng vào tháng 11 năm 2021.

Để được ơn toàn xá, người tìn hữu phải xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng và phải viếng nhà thờ, đọc kinh Lậy Cha, kinh Tin Kính. Ơn toàn xá nhận được phải chỉ cho linh hồn đang ở luyện tội.

Với những người không thể rời khỏi nhà, chẳng hạn như người bệnh và người già, vẫn có thể xin được ơn toàn xá bằng cách đọc lời cầu nguyện cho những người đã khuất và dâng những sự đau khổ về bệnh tật của mình trước hình ảnh của Chúa Giêsu hoặc Đức Trinh Nữ Maria.

Giáo hội cũng khuyến khích làm những việc bái ái thay cho những người đã chết.

Nguyễn Long Thao
 
Tìm lại được ngôi Nhà thờ Việt Nam bị lạc mất ở Campuchia
Đặng Tự Do
16:18 28/10/2021


Một nhà thờ Công Giáo ở Campuchia đã bị “thất lạc” nhưng bây giờ đã được tìm thấy, và đang bắt đầu đứng lên với sự giúp đỡ của một linh mục truyền giáo.

Nhà thờ Đức Bà ở ngôi làng nhỏ Taom, cách Siem Reap khoảng 60 km về phía tây nam, được xây dựng vào khoảng năm 1910. Sau đó nó đã bị lãng quên trong những năm bất ổn ở cả Campuchia và Việt Nam vào thập niên 1970.

Cộng đồng Công Giáo trong làng đã biến mất và nhà thờ bị bỏ hoang.

Cha Franco Legnani, một linh mục truyền giáo người Ý đến Campuchia vào những năm 1990 và đã được giao nhiệm vụ truyền giáo cho dân làng Taom.

Trong một báo cáo trên AsiaNews, vị linh mục nói rằng nhiều người trong vùng lân cận cho biết hồi xưa có một ngôi nhà thờ trong vùng “nhưng không có con đường nào để đến được với ngôi thánh đường”.

Chỉ có thể đến nhà thờ bằng cách đi qua một con sông. Ông cho biết những người tái khám phá ngôi nhà thờ “đã đi qua những cánh đồng lúa và cuối cùng họ đã nhìn thấy nó”.

Theo Cha Legnani: “Chắc hẳn ngôi thánh đường này đã từng là trung tâm của một cộng đồng Công Giáo rất lớn trước đây”.

Ngài nói rằng ngoài kích thước rất hoàng tráng của ngôi thánh đường, còn có những ghi chép được phát hiện ở Paris cho thấy vào năm 1938 có ít nhất 700 người Công Giáo sống trong làng.

Khi xảy ra nạn đánh đuổi người Việt vào đầu thập niên 1970, nhiều người Việt ở đây đã bỏ chạy về Việt Nam.

“Sau đó, trong cuộc chiến hồi thập niên năm 1970, nó đã bị đánh bom bởi các lực lượng Cao Miên vì ngôi làng này là cộng đồng người Việt Nam,” vị linh mục nói.

“Họ coi những người trong làng là những người ủng hộ quân Hà Nội, là những người đã vượt biên chiếm đóng Campuchia”.

Khu vực dân cư chung quanh đã bị bom phá thành bình địa nhưng ngôi thánh đường vẫn còn nguyên vẹn mặc dù đầy những lỗ đạn từ súng máy.

Trong quá trình trùng tu nhà thờ, vị linh mục và người dân trong làng mong muốn một bức tường của công trình kiến trúc được bảo tồn với những lỗ đạn này.
Source:Licas News
 
Các nhà báo phản đối khi Vatican hủy việc phát sóng trực tiếp khi Joe Biden đến chào Đức Thánh Cha Phanxicô
Đặng Tự Do
21:08 28/10/2021
Một ngày trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có cuộc gặp với Đức Thánh Cha Phanxicô, Vatican đã hủy bỏ việc phát sóng trực tiếp theo lịch trình của cuộc họp mà không có lời giải thích.

Các nhà báo trong đoàn báo chí Vatican đã phản đối việc hủy bỏ vào phút cuối vì chính họ cũng không được cử đại diện tham dự khi ông Joe Biden bắt tay Đức Giáo Hoàng.

Hãng thông tấn AP đưa tin vào ngày 28 tháng 10 rằng họ đã chính thức khiếu nại với Vatican về việc buổi phát trực tiếp bị hủy, cùng với các thành viên của hiệp hội phóng viên Vatican.

Steven Portnoy, chủ tịch Hiệp hội phóng viên Tòa Bạch Ốc, nói rằng nhóm của ông tuyên bố đoàn kết với các phóng viên Vatican để “bày tỏ sự thất vọng của chúng tôi rằng thế giới sẽ không nhìn thấy hình ảnh trực tiếp về cuộc gặp gỡ của Tổng thống Biden với Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.

“Các phóng viên đã đưa tin về các buổi tiếp kiến của các Đức Giáo Hoàng với các tổng thống Mỹ kể từ khi Woodrow Wilson ngồi bên cạnh Đức Bênêđíctô 15 vào tháng Giêng năm 1919,” Portnoy, phóng viên Đài CBS News, viết trên Twitter.

“Nhóm phóng viên chúng tôi đeo khẩu trang y tế và tiêm chủng đầy đủ sẵn sàng tiếp tục công việc này, lưu tâm đến sự an toàn của chính họ cũng như của các nhà lãnh đạo, để bảo đảm đưa tin độc lập về vị tổng thống Công Giáo đầu tiên trong 60 năm gặp gỡ người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo”

Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Jen Psaki cũng đề cập đến các hạn chế về phương tiện truyền thông của Vatican trong một cuộc họp báo.

“Điều tôi có thể bảo đảm với các bạn là chúng tôi đang làm việc, thông qua mọi đòn bẩy mà chúng tôi có, để vận động cho sự tiếp cận của nhóm báo chí và các phương tiện truyền thông khi tổng thống đến thăm Vatican,” Psaki nói.

“Chúng tôi tin vào giá trị của báo chí tự do. Chúng tôi tin tưởng vào giá trị của việc bảo đảm các bạn được tiếp cận các chuyến công du của tổng thống và các chuyến thăm của ông ấy ở nước ngoài”.

Trước đại dịch, giao thức của Vatican cho phép một nhóm nhỏ các nhà báo, bao gồm cả nhóm truyền thông riêng của tổng thống, có mặt để theo dõi cái bắt tay đầu tiên và những trao đổi ban đầu khi họ ngồi xuống trước cuộc trò chuyện chính thức và riêng tư. Sau đó, các nhà báo lại có mặt để chứng kiến màn trao quà.

Tòa thánh Vatican đã chỉ ra rằng giờ đây họ sẽ chỉ cung cấp các đoạn phim trực tiếp về khi đoàn xe của tổng thống Hoa Kỳ xuất hiện tại điện Tông Tòa, nơi mà một số nhà báo cũng sẽ được phép tham dự.

Cuộc gặp gỡ giữa Biden và Đức Giáo Hoàng Phanxicô dự kiến bắt đầu vào trưa ngày 29 tháng 10 và kéo dài trong khoảng một giờ.

Biden trước đây đã từng gặp Đức Giáo Hoàng Phanxicô ba lần, nhưng đây sẽ là cuộc gặp trực tiếp đầu tiên của ông ta với Đức Giáo Hoàng trong tư cách là tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ và là tổng thống Công Giáo thứ hai của đất nước.

Theo Tòa Bạch Ốc, tổng thống có kế hoạch thảo luận về việc “chấm dứt đại dịch COVID-19, giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu và quan tâm đến người nghèo.”
Source:Catholic News Agency
 
Một vị Hồng Y của Giáo triều Rôma thăm Syria vào năm thứ 10 cuộc nội chiến
Đặng Tự Do
16:19 28/10/2021


Một vị Hồng Y của Vatican đang đến thăm Syria trong năm thứ 10 của cuộc nội chiến đã tàn phá đất nước và khiến nhiều Kitô Hữu phải chạy trốn.

Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ Giáo Hội Đông phương, đã đến Syria từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 3 tháng 11, sau khi chuyến đi bị hoãn lại từ tháng 4 năm 2020.

Theo thông cáo báo chí từ Thánh bộ, chuyến thăm đang diễn ra “với mong muốn mang lại sự gần gũi và tình đoàn kết của Đức Thánh Cha Phanxicô đối với các cộng đồng Công Giáo của Syria, nơi đã phải chịu đựng nhiều năm chiến tranh và cần một thời gian để phân định và định hướng lại các hoạt động mục vụ.

Đức Hồng Y Sandri sẽ dành trọn vẹn 8 ngày ở quốc gia Trung Đông này, với các điểm dừng ở Damascus, Tartous, Homs, Yabroud, Maaloula và Aleppo.

Cuộc họp đầu tiên của ngài sẽ là với Đại Hội Các Vị Bản Quyền Công Giáo Ở Syria, nơi ngài cũng sẽ đồng tế một Phụng Vụ thánh với Đức Thượng phụ Youssef Absi, nhà lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương Melkite.

Các mục khác trong chương trình nghị sự của Đức Hồng Y Sandri ở Damascus bao gồm các cuộc gặp gỡ với các linh mục, và thăm các tổ chức bác ái Công Giáo, bệnh viện và trại trẻ mồ côi.

Ngài sẽ gặp gỡ các nhà ngoại giao và các tu sĩ nam nữ tại Damascus, và xuống miền nam Syria thăm Đài tưởng niệm Thánh Phaolô.

Đài tưởng niệm được cho là nơi đánh dấu sự hoán cải của Thánh Phaolô, khi ngài ngã ngựa trên đường đến Damascus.

Tại Aleppo, Đức Hồng Y Sandri sẽ tham gia một buổi lễ cầu nguyện đại kết và một cuộc họp giữa các tôn giáo.

Theo CIA World Factbook, khoảng 87% người Syria theo đạo Hồi, dân số Kitô Giáo ước tính là 10%, mặc dù con số đó chưa tính đến số lượng lớn các tín hữu Kitô đã bỏ trốn khỏi đất nước trong cuộc chiến vẫn còn đang diễn ra.

Trước cuộc nội chiến, Aleppo là thành phố lớn nhất của Syria và có tỷ lệ người theo Kitô Giáo cao nhất, ước tính có khoảng 180,000 Kitô Hữu. Theo số liệu năm 2019, con số đó giảm xuống còn khoảng 32,000.

Cộng đồng Công Giáo lớn nhất ở Syria là Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương Melkite. Ngoài ra còn có người Công Giáo Latinh, Assyriô và Chanđê.

Các cộng đồng Kitô Giáo khác bao gồm các Giáo Hội Armenia, Syriac và Chính thống giáo Đông phương.
Source:Catholic News Agency
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hình ảnh lễ kính mừng các Thánh Nam Nữ
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
09:01 28/10/2021
Hình ảnh lễ kính mừng các Thánh Nam Nữ

Trong suốt năm phụng vụ vào các ngày trong tuần, có những ngày lễ kính riêng các vị Thánh, như Thánh Phero, thánh Phaolô, thánh Phanxicô, Thánh nữa Teresa, Thánh nữ Catharina, Thánh Vincentê…. Nhưng ngày 01. Tháng Mười Một là ngày lễ mừng kính chung tất cả các Thánh Nam Nữ.

Đâu là hình ảnh ngày lễ kính này trong đời sống phụng vụ của Hội Thánh?

Lễ mừng kính chung các Thánh theo sử sách lưu truyền có từ thế kỷ 04. sau Chúa giáng sinh. Các tín hữu Chúa Kitô thời Hội thánh lúc ban đầu tưởng nhớ các Thánh vào ngày Chúa nhật sau lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Thánh giáo phụ Johannes Chrysostomus ( *345 hay 347 ở Antiochien/Syrien, † 14. 09.407 ở Komana/Armenien)đã đưa ra sáng kiến ý tưởng này. Và từ đó có tuần lễ tám ngày mừng kính Đức Chúa Thánh Thần sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Hội Thánh Chính Thống giáo còn giữ tập tục đạo đức này cho tới ngày nay.

Đời sống của các Thánh được hiểu như tấm gương tỏa chiếu biến cố sự cứu độ của Chúa, mà Thánh Phaolo nói đến là sự sống lại. ( thư 1.Cor15,23).

Nguyên thủy ngày lễ mừng kính các Thánh trong lịch sử phụng vụ Hội Thánh Công Giáo bắt nguồn từ sự làm phép thánh hiến đền thờ của dân ngoại thành Roma cho trở thành thánh đường Công Giáo. Đền thờ này được xây dựng như là thánh địa tôn kính tất cả mọi vị Thần của dân ngoại. Ngôi đền thờ lịch sử này của dân ngoại bên Roma còn tồn tại cho tới ngày nay có tên “ Pantheon”. Từ năm 609 ngôi đền thờ này được thánh hiến mang tước hiệu” Maria, nữ vương các Thánh tử đạo”.

Từ thế kỷ 08. ý nghĩa sự tương quan giữa lễ Chúa phục sinh và ngày chúa nhật kính các Thánh dần mờ nhạt, nên trước hết bên Irland mừng lễ vào ngày 01. Thánh Mười Một. Lý do không còn dựa trên lễ Chúa phục Sinh, nhưng theo chu kỳ ngoài thiên nhiên. Vì thời tiết bên Irland vào đầu tháng 11. bắt đầu mùa Đông và năm mới.

Các vị Thừa Sai từ Irland đã đem tập tục mới mừng lễ kính chung các Thánh sang lục địa đất liền bên Âu châu từ thế kỷ 09. Thời điểm ngày mừng lễ các Thánh như thế tương hợp với tháng 11. như là tháng sự chết. Người tín hữu Chúa còn đang trên con đường đời sống nơi trần gian qua nhờ Chúa Kitô Giesu được liên kết với những người đã qua đời.

Hình ảnh sự thay đổi biến dạng qua đi trong thiên nhiên mang gợi đến cho con người về hình ảnh sự thay đổi biến dạng qua đi của trần gian. Qua đó mở ra tầm nhìn suy tư về sự sống sau sự chết, và hình ảnh những người đã đi trước đó: Tất cả các Thánh.

Năm 835. Đức Giáo Hoàng Gregor IV. đã chính thức ấn định ngày lễ này trong lịch phụng vụ Hội Thánh, mừng kính chung tất cả mọi vị Thánh ngày xưa đã trung thành sống nếp sống đức tin vào Chúa trong âm thầm lặng lẽ. Đời sống chứng nhân của họ thể hiện sâu đậm rõ nét tình yêu, đức tin nơi Chúa, Đấng là nguồn đời sống và ơn cứu chuộc.

Lễ mừng kính chung các Thánh là lễ mừng kính cho mọi người không được biết đến với tên tuổi. Nhưng họ đã có một đời sống căn bản thiết yếu giữa lòng xã hội với con người nơi trần gian. Tâm hồn trái tim nếp sống tình yêu thương liên đới của họ in để lại dấu vết sâu đậm nơi con người. Họ là những người đã sống dấn thân, sống chiếu tỏa niềm hy vọng, sống tình bác ái tương quan liên đới và công bình chính trực với mọi người trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Họ không là những siêu nhân hay người cao cả sang trọng Nhưng họ là những người đã có đời sống tuân theo kim chỉ nam đã được Chúa vạch đề ra trong hiến chương nước trời Tám mối phúc thật: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới ăn mặc, thăm viếng kẻ tù đày, xây dựng hòa bình.

Họ đã không nghĩ đến muốn được nâng cao trên trời, được tôn vinh trên ngai tòa bàn thờ. Họ đã sống một nếp sống đơn giản âm thầm giữa mọi người cùng chung sống.

Mừng kính tưởng nhớ tất cả mọi Thánh, ngày xưa đã sống đời sống đức tin vào Chúa, đời sống làm người với cung cách chân thành đơn giản cùng âm thầm, nhưng chiếu tỏa tràn đầy lòng yêu thương bác ái, như Chúa muốn, mang gợi niềm khuyến khích cho con người chúng ta sống kiến tạo gieo rắc sự bình an chữa lành cho mọi người khác trong đời sống ở bất cứ nơi đâu luôn có cơ hội thực hành.

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Văn Hóa
Nhân tháng Mân Côi, đọc khảo luận duy nhất về Đức Mẹ, Thiếu Nữ Sion, của Ratzinger, chương II, tiếp và hết
Vũ Văn An
19:33 28/10/2021

3. Triệu vời thân xác vào Vinh quang Thiên Quốc





Ở đây chúng ta phải đối đầu với một phản chứng còn gay gắt hơn nữa rằng việc nâng cao Đức Maria là một sự kiện cần phải được chứng kiến và truyền đạt, chứ không phải bịa đặt. Điều này đứng đằng sau sự phản đối kịch liệt của thần học Đức trước khi chính thức công bố tín điều, được nhấn mạnh nhiều nhất trong loạt bài viết nổi tiếng của B. Altaner, người mà toàn bộ kiến thức lịch sử uyên bác đã chứng minh rằng, theo các nguồn có liên quan, không có nhân chứng nào cho một học thuyết như thế trước thế kỷ thứ sáu. Vì vậy, rõ ràng vấn đề đang bàn không thể là truyền thống lịch sử của một sự kiện lịch sử; sự khẳng định bị hiểu lầm nếu nó được xem hoặc được trình bày như vậy. Điều này làm nó hoàn toàn khác với việc phục sinh của Chúa Giêsu. Chắc chắn, việc phục sinh của Người cũng vượt quá lịch sử và theo nghĩa này không cung cấp cho chúng ta một dữ kiện lịch sử nào thuộc loại thông thường, nhưng điều thiết yếu đối với việc phục sinh là nó đạt tới sự hiện hữu trong thời gian và được loan báo trong một tường thuật lịch sử. Bản văn của Sắc chỉ năm 1950 đã rất đúng đối với sự phân biệt này vì nó không nói tới resurrectio (anastasis) của Đức Maria, mà là tới assumptio ad coelestem gloriam của ngài, không nói tới sự “phục sinh” mà là tới "sự triệu vời" thể xác và linh hồn vào vinh quang thiên quốc. Bằng cách này, nó xác định rõ ràng nội dung của tín điều như một khẳng định thần học, chứ không phải khẳng định lịch sử.

Vậy điều này có nghĩa là gì? Để làm rõ vấn đề, người ta sẽ phải chú ý đến sự phát triển lịch sử của tín điều và các nhân tố trong việc phát biểu nó. Điều này sẽ cho thấy, động lực quyết định đứng đàng sau lời tuyên bố là sự tôn kính đối với Đức Maria, và có thể nói, tín điều có nguồn gốc, động lực và mục tiêu từ một hành động tôn kính hơn là nội dung của nó. Điều này cũng trở nên rõ ràng trong bản văn của việc công bố tín điều, trong đó, có lời nói rằng tín điều được ban hành để vinh danh Người Con, để tôn vinh người mẹ, và vì niềm vui của toàn thể Giáo hội. Tín điều này nhắm một hành vi tôn kính, hình thức cao nhất để ca tụng Đức Mẹ. Những gì mà phương Đông đạt được dưới hình thức phụng vụ, thánh ca và nghi lễ, đã diễn ra ở phương Tây qua hình thức một tuyên bố tín lý, một điều, có thể nói, cố ý như một hình thức thánh ca trang trọng nhất. Đây là cách nó nên được hiểu. Nó phân biệt hai tín điều cuối cùng về Đức Mẹ ở một khía cạnh nào đó với hình thức tuyên xưng trước đó của Giáo hội, cho dù yếu tố vinh tụng (doxological) luôn đóng một vai trò ít nhiều được nhấn mạnh.

Do đó, chúng ta có thể nói rằng việc công bố tín điều vào năm 1950 là một hành vi tôn kính Đức Mẹ dưới hình thức một tuyên bố tín điều, một tuyên bố, bằng cách tôn vinh Đức Mẹ ở mức độ cao nhất, được dự tính như một phụng vụ đức tin. Nội dung của tuyên bố hoàn toàn hướng về việc tôn kính, tuy nhiên việc tôn kính ngược lại đã sử dụng nội dung này làm nền tảng của nó: việc tôn kính nói đến một người sống động, một người đã đến nhà, một người đã thực sự đạt được mục tiêu của mình ở bên kia cái chết. Chúng ta cũng có thể nói rằng công thức mông triệu làm minh nhiên điều việc tôn kính giả định. Mọi việc tôn kính đều liên quan đến thuộc từ Sanctus (Sancta, Thánh) và lấy sự sống với Chúa làm giả định của nó; nó chỉ có ý nghĩa nếu đối tượng tôn kính sống động và đã đạt được mục đích. Ở mức đó, người ta có thể nói rằng tín điều Mông triệu đơn giản là mức độ phong hiển thánh cao nhất, trong đó thuộc từ "thánh" được nhìn nhận theo nghĩa chặt chẽ nhất, nghĩa là hoàn toàn và không phân chia trong sự ứng nghiệm cánh chung. Ở đây chúng ta thấy bối cảnh nền tảng của Kinh thánh có thể hỗ trợ cho toàn bộ lời tuyên bố. Vì ghi nhận rằng tín điều Mông triệu chỉ diễn giải điều được giả định bởi mức độ tôn kính cao nhất, trong cùng một tuyên bố ấy, chúng ta phải nhớ rằng chính Tin Mừng đã tiên báo và yêu cầu phải tôn kính Đức Maria: "Từ nay về sau, mọi thế hệ sẽ gọi tôi là người có phúc”(Lc 1:48) —đây là một ủy nhiệm đối với Giáo hội. Khi ghi lại điều này, Thánh Luca cho rằng đã có việc ca tụng Đức Maria trong Giáo hội vào thời của ngài và ngài coi đó là một nhiệm vụ của Giáo hội trong mọi thế hệ. Ngài nhìn thấy sự khởi đầu của nó trong lời chào của bà Êlisabét: "Phúc cho em đã tin..." (Lc 1:45).

Hình thức tôn sùng Đức Mẹ sớm nhất trên một lần nữa phản ảnh tính thống nhất của các Giao ước, vốn là đặc trưng của toàn bộ chủ đề Thánh Mẫu: Thiên Chúa của Israel được đặt tên bởi loài người, những kẻ được Người tỏ lộ sự vĩ đại của Người và Người trở nên hữu hình và hiện diện trong cuộc sống của họ. Họ như thể là tên của Người trong lịch sử, qua họ, Người sở hữu các tên tuổi, và qua họ và ở trong họ, Người trở nên dễ tiếp cận hơn. Người được gọi là Thiên Chúa của Ápraham, của Ysaác và Giacóp. Gọi tên Người bao hàm gọi tên các tổ phụ, giống như, ngược lại, gọi tên các tổ phụ có nghĩa là nghĩ đến Người và nhận ra Người. Không gọi tên những con người mà trong họ Người trở nên hữu hình cũng giống như sự vô ơn... Vì vậy, lời ca tụng Đức Mẹ hòa hợp với bức tranh về Thiên Chúa, vốn liên kết các tổ phụ với danh Thiên Chúa và nhìn nhận trong việc tán dương các tổ phụ có việc tôn vinh Thiên Chúa. Một khi việc này được thiết lập, chúng ta không thể loại trừ khỏi việc bàn luận của chúng ta việc giải thích Thiên Chúa của các tổ phụ mà Chúa Giêsu đã trình bầy trong Máccô 12: 18-27. Ở đây, Người đặt chủ đề Thiên Chúa của các tổ phụ trong bối cảnh chủ đề phục sinh, kết hợp cả hai chủ đề theo cách chúng làm điều kiện lẫn cho nhau. Người chứng minh sự sống lại không phải từ các bản văn riêng rẽ của văn chương tiên tri hoặc khải huyền sau này (nền văn chương dù sao cũng không có sức thuyết phục trong cuộc thảo luận với người Sađốc), mà là từ ý niệm về Thiên Chúa: Thiên Chúa, Đấng tự để mình được gọi là Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp, không phải Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống. Chính sự sống lại chứng tỏ rằng những danh xưng này thuộc về danh Thiên Chúa: " Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Môsê đoạn nói về bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán : Ta là Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaác, và Thiên Chúa của Giacóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!” (12:26 tt.). Quyền được tôn kính bao gồm niềm xác tín vào việc chinh phục sự chết, vào sự phục sinh.

Tất nhiên, một lần nữa, chúng ta lại gặp một phản chứng. Chinh phục cái chết, đúng vậy, nhưng tại sao lại đặt nó ở hình thức cao nhất, trong hình thức cánh chung tối hậu, như công thức corpore et anima gợi ý (mà người ta muốn dịch đơn giản là "cánh chung")?

Một câu trả lời rất đơn giản có thể được đưa ra: Điều này được phép vì tên này — tên Maria — là tên gọi thay cho chính Giáo hội, vì vị thế cứu rỗi dứt khoát của nó. Tuy nhiên, trước khi tìm hiểu câu trả lời này, chúng ta nên thảo luận kỹ về một khái niệm trung gian khác vốn đóng một vai trò quan trọng trong bản văn của lời công bố tín điều.

Được trồng vào một thế giới trong đó cái chết là điều kiện của sự sống, việc sinh ra luôn có tính lưỡng nghĩa, đời sống con người, cùng một lúc, vừa hấp hối vừa trở thành. Những lời phán xét trong Sáng thế 3:16 mô tả chính xác số phận này của con người, và tính mơ hồ của nhân vật Evà nói lên tính mơ hồ của việc trở thành về sinh học: sinh ra là một phần của sự chết, nó xảy ra dưới dấu hiệu của sự chết và hướng về sự chết, điều mà, theo một nghĩa nào đó, nó dự ứng, chuẩn bị và cả giả định nữa. Sinh ra sự sống luôn đồng thời có nghĩa là mở đường cho cái chết của chính mình. Bây giờ, nếu Đức Maria thực sự là người hạ sinh ra Thiên Chúa, nếu ngài cưu mang Người, Đấng vốn là sự chết của cái chết và là sự sống theo nghĩa trọn vẹn của từ ngữ, thì việc là Mẹ của Thiên Chúa thực sự là một "sự hạ sinh mới" (nova nativitas ): một cách hạ sinh mới được xen vào cách hạ sinh cũ, giống như Đức Maria là Giao Ước Mới ở giữa Giao Ước Cũ, dù là thành viên của Giao Ước Cũ. Sự hạ sinh này không phải là hấp hối, mà chỉ là việc trở thành, sự bừng nở của sự sống xua đi sự hấp hối và đẩy lui nó một lần vĩnh viễn. Một mặt, tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” chỉ về Đức Trinh Nữ: sự sống này không được đón nhận xuyên qua cơn hấp hối và trở thành mỗi ngày nhưng là sự khởi đầu thuần túy. Mặt khác, tước hiệu này cho thấy việc Mông triệu: từ lần hạ sinh này chỉ có sự sống, không có sự chết. "Việc hạ sinh" mới này không đòi hỏi việc từ bỏ bản ngã cũ như một sine qua non (điều kiện tất yếu), đúng hơn nó tác động đến việc chứng thực tối hậu toàn bộ hữu thể.

Ở đây chúng ta cũng thấy mối liên hệ với việc Vô Nhiễm Nguyên Tội từ lúc Tượng Thai. Có lẽ có thể diễn giải việc này như sau: nơi nào có tính tổng thể của ân sủng, nơi đó có tính tổng thể của ơn cứu rỗi. Nơi nào ân sủng không còn hiện hữu trong tình trạng tan vỡ của simul justus et peccator (vừa công chính vừa là người có tội), nhưng trong tiếng "Xin Vâng" thuần túy, thì sự chết, kẻ cai ngục của tội lỗi, không có chỗ đứng. Đương nhiên, điều này đặt ra câu hỏi: Việc triệu vời cả xác lẫn hồn vào vinh quang trên trời có nghĩa gì? Rốt cuộc, "bất tử" nghĩa là gì? Và "chết" nghĩa là gì? Con người không bất tử bởi sức mạnh của chính mình, mà chỉ bất tử trong và nhờ một người khác, mở đầu, ngập ngừng, manh mún, nơi con cái, nơi danh tiếng, nhưng cuối cùng và thực sự chỉ trong và nhờ Đấng Hoàn toàn-Khác, tức Thiên Chúa. Chúng ta tử sinh [mortal] là do bị tước mất chủ quyền tuyệt đối [autrachy] trong việc ấn định ở lại trong chính mình, một điều người ta đã chứng minh là không đúng. Sự chết, việc không thể tự cho mình một thế đứng, sự sụp đổ chủ quyền tuyệt đối, không phải chỉ là một hiện tượng thể xác (somatic) mà là một hiện tượng nhân bản hết sức sâu sắc. Tuy nhiên, nơi nào hoàn toàn thiếu thiên hướng bẩm sinh đối với chủ quyền tuyệt đối, nơi nào có sự tự từ bỏ việc sở hữu bản thân thuần túy nơi người không cậy vào chính mình (= ân sủng), thì cái chết sẽ không có, ngay cả khi sự kết thúc thể xác có đó. Thay vào đó, toàn bộ hữu thể nhân bản bước vào ơn cứu rỗi, vì như một toàn bộ, không bị giảm thiểu, họ vĩnh viễn nằm trong ký ức ban sự sống của Thiên Chúa, vốn gìn giữ họ như chính họ trong chính sự sống của họ.

Như thế, chúng ta quay trở lại điều đã được gợi ý trên đây. Chúng ta từng nói rằng bất cứ ai được tôn vinh và ngợi khen với danh Thiên Chúa, thì sống động. Chúng ta đã nói thêm rằng trong trường hợp của Đức Maria và riêng trường hợp của ngài (theo mức chúng ta biết), nó được áp dụng một cách dứt khoát, vô điều kiện, bởi vì ngài đại diện cho chính Giáo hội, cho tình trạng cứu rỗi dứt khoát của Giáo Hội, điều này không còn là một lời hứa chờ ứng nghiệm nhưng là một sự kiện. Ở đây, Côlôsê 3: 3 đối với tôi dường như có ý nghĩa: "anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Chúa Kitô nơi Thiên Chúa. Nghĩa là, có một điều gì đó giống như một sự "thăng thiêng" của người đã chịu phép rửa, được Êphêsô 2: 6 nói tới một cách minh nhiên: " Người đã cho anh em được sống lại với Người và đặt anh em ở trên trời bên hữu Chúa Giêsu Kitô". Theo bản văn đó, Phép Rửa là sự tham dự vào cuộc thăng thiên cũng như cuộc phục sinh của Chúa Giêsu. Người đã chịu phép rửa, đúng nghĩa và dựa vào phép này, đã được bao gồm trong cuộc thăng thiên và sống cuộc sống giấu ẩn (cuộc sống cá nhân nhất) của họ ở đó, trong Chúa đã được tôn vinh. Công thức "triệu vời" thể xác và linh hồn của Đức Maria làm mất đi mọi dấu vết của sự tùy tiện suy đoán trong quan điểm này. Mông triệu thực ra chỉ là hình thức phong thánh cao nhất. Ngài đã sinh ra Chúa "bằng trái tim trước khi bằng thân xác ngài” (Thánh Augustinô), và do đó đức tin, tức là bản thể bên trong của Phép Rửa theo Luca 1:45, có thể được dành cho ngài một cách không hạn chế, thể hiện trong ngài chính sự tinh túy của Phép Rửa. Vì vậy, người ta nói rằng, nơi ngài, sự chết đã bị nuốt chửng bởi chiến thắng của Chúa Kitô và, nơi Mẹ, mọi điều vẫn còn chống lại Phép Rửa (đức tin) đều đã được chinh phục không còn lại gì qua cái chết của sự sống trần thế. Dựa trên Tân Ước, nhờ sự tích nhập đoạn Luca 1:45 với Êphêsô 2: 6, lời khẳng định này đề cập đến Đức Maria một cách rõ ràng, và nó tạo nên một mối liên hệ với các bối cảnh loại hình học mà chúng ta vốn đã và đang điều tra: Ngài, người đã hoàn toàn chịu phép rửa, như là thực tại bản vị của Giáo hội đích thực, đồng thời không những chỉ là sự xác tín về ơn cứu rỗi đã hứa của Giáo hội mà còn là sự xác tín về thể xác nữa. Giáo hội đã được cứu trong ngài: Israel mới không còn bị loại bỏ nữa. Nó đã bay lên thiên đàng rồi. Có những bản văn quý giá của các Giáo phụ về chủ đề này, tuy nhiên, chúng chỉ mở rộng những gì đã được đưa ra trong Kinh thánh.

Một nhận xét nữa để kết luận: trong câu chuyện Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Thánh Luca kể lại rằng khi lời chào của Đức Maria vang lên, Gioan đã “nhảy mừng trong lòng mẹ” (1:44). Để diễn tả niềm vui ấy, ngài đã dùng cùng một chữ σκιρτάν (nhảy mừng) chữ mà ngài dùng để diễn tả niềm vui của những người được các mối phúc ngỏ lời (Lc 6:23). Chữ này cũng xuất hiện trong một bản dịch Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp cổ để mô tả điệu nhảy của Đavít trước Hòm Bia Giao ước sau khi nó được lấy lại (II Sm 6:16 bản Symmachus). Có lẽ Laurentin không hoàn toàn lạc đề khi ông thấy toàn bộ khung cảnh cuộc viếng thăm được xây dựng như một song hành với cuộc trở về của Hòm Bia Giao ước; do đó, sự nhảy mừng của đứa trẻ tiếp diễn niềm vui sướng ngây ngất của Đavít khi được bảo đảm gần gũi với Thiên Chúa. Có thể là như vậy, tuy nhiên một điều gì đó tuy được phát biểu ở đây nhưng gần như hoàn toàn mất đi trong thế kỷ của chúng ta tuy nó vẫn thuộc tâm điểm của đức tin; thiết yếu là niềm vui trong việc Ngôi Lời trở thành con người, nhẩy múa trước Hòm bia Giao ước, trong niềm hạnh phúc quên mình, bởi một người biết nhận ra sự gần gũi cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ dựa trên nền tảng này, lòng sùng kính của Đức Mẹ mới có thể được thấu hiểu. Vượt lên trên mọi vấn đề, lòng sùng kính Đức Mẹ là niềm say sưa hân hoan vì có được Israel đích thực, không thể hủy diệt; đó là được hạnh phúc bước vào niềm vui của kinh Magnificat (Ngượi khen) và do đó nó là lời ca ngợi Đấng mà nữ tử Sion vốn mang nợ toàn bộ bản thân mình và cưu mang Người, Hòm Bia Giao ước đích thực, không hư hoại, không thể phá hủy.
 
VietCatholic TV
Chú ý quan trọng: Hướng dẫn thực hành để nhận Ơn Toàn Xá nhường cho các linh hồn trong tháng 11
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
19:04 28/10/2021


Đại dịch coronavirus đã gây ra biết bao tang tóc trên quê hương Việt Nam và cả ở hải ngoại. Nhiều người đột ngột qua đời trong các hoàn cảnh khó khăn không thể nhận được các bí tích sau cùng. Giờ đây, họ trông chờ chúng ta nhớ đến họ, và làm các việc lành phúc đức để cứu họ khỏi lửa luyện ngục.

Trong tháng 11, Giáo Hội rộng ban các Ơn Toàn Xá cho chúng ta để nhường cho các linh hồn. Đây là thời thuận tiện để chúng ta giúp các bậc cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc. Do đó, chúng tôi tha thiết kêu gọi anh chị em bớt chút thời gian làm các việc đạo đức sau để nhận được Ơn Toàn Xá nhường cho các linh hồn, theo chỉ dẫn ngày 22 tháng 10, 2020 của Tòa Ân Giải Tối Cao.

Đầu tiên, Tòa Ân Giải Tối Cao nhắc lại các điều kiện luật định để được ơn toàn xá là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi. Tuy nhiên, việc xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha có thể làm sau khi có thể. Như thế, bước đầu tiên, và quan trọng nhất, là quý vị và anh chị em phải dốc lòng từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi. Ngay khi có thể, xin đi xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha.

Bước thứ hai, là anh chị em làm một trong các phương cách sau:

Cách thứ nhất:

Trong suốt tháng 11, anh chị em đến viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho người đã khuất mà mình muốn xin Ơn Toàn Xá. Cầu nguyện thành tiếng hay chỉ trong trí thôi cũng được.

Sách Cẩm nang Ơn Xá quy định anh chị em viếng nghĩa trang từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 11. Tuy nhiên, để tránh tập trung đông người, Tòa Ân Giải Tối Cao cho phép viếng nghĩa trang trong suốt tháng 11.

Cách thứ hai:

Viếng nhà thờ, hay nhà nguyện cũng được trong ngày lễ các linh hồn, hay trong ngày lễ các Thánh, hay trong Chúa Nhật 31 tháng 10, hay trong Chúa Nhật 7 tháng 11, và đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính. Nếu vì những ngăn trở chính đáng không thể viếng nhà thờ hay nhà nguyện trong 4 ngày nêu trên thì có thể viếng bất cứ ngày nào trong tháng 11.

Cách thứ ba:

Những người già, người bệnh và tất cả những người vì lý do nghiêm trọng không thể rời khỏi nhà mình, do những hạn chế được áp đặt bởi các cơ quan có thẩm quyền trong thời gian xảy ra đại dịch, nhằm tránh việc tụ tập đông đảo các tín hữu ở những nơi linh thiêng, anh chị em vẫn nhận được Ơn Toàn Xá nếu hiệp nhất về mặt tinh thần với tất cả các tín hữu khác. Cụ thể, anh chị em cầu nguyện trước tượng ảnh Chúa Giêsu, Đức Trinh Nữ Maria, đọc những kinh nguyện sốt sắng dành cho người chết, ví dụ như Kinh Sáng và Kinh Chiều từ Sách Thần Vụ dành cho người quá cố, hay lần Chuỗi Mân Côi, hay đọc Kinh Lòng Chúa Thương Xót, hay những kinh nguyện khác cho những người đã qua đời, hay dành thời gian để suy gẫm một trong những đoạn Phúc âm được đề nghị trong Phụng vụ dành Người Quá Cố, hoặc thực hiện công việc của lòng thương xót, dâng lên Chúa những nỗi đau và những khó khăn của cuộc đời mình.
Source:Holy See Press Office
 
Các tín hữu Công Giáo Cuba bị sốc nặng vì cờ của họ bị hiến binh Vatican tịch thu
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:55 28/10/2021

1. Tranh cãi xung quanh việc tịch thu cờ ở quảng trường Thánh Phêrô

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 24 tháng 10 vừa qua, tại quảng trường Thánh Phêrô đã xảy ra cãi vã giữa hiến binh Vatican và những người Cuba lưu vong, khi hiến binh Vatican đến tịch thu cờ của họ. Diễn biến này đang gây ra những chỉ trích nặng nề đối với Tòa Thánh và cá nhân Đức Thánh Cha Phanxicô.

Cô Inés San Martín, trưởng ban thông tín viên của tờ Crux có bài nhận định sau nhằm bênh vực Tòa Thánh một cách khéo léo. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Nhiều người đã bị sốc vào hôm Chúa Nhật khi hiến binh Vatican buộc một nhóm khoảng 15 người Cuba hạ cờ Cuba của họ trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ở quảng trường Thánh Phêrô.

Mặc dù các biểu hiện chính trị luôn bị cấm tại sự kiện này, những người hành hương thường mang theo cờ, hy vọng Đức Giáo Hoàng sẽ đề cập đến đất nước của họ.

Hôm Chúa Nhật, ít nhất một thanh niên Cuba đã từ chối từ bỏ lá cờ của mình xuống, thay vào đó anh ta quỳ xuống quảng trường. Các videos trên các phương tiện truyền thông xã hội cho thấy một hiến binh Vatican nắm lấy lá cờ. Một phụ nữ, tên Amor de Grecia Rodriguez, người đang phát trực tiếp trên Facebook trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, đã quấn lá cờ quanh cổ, như một chiếc áo choàng, và cùng một người hiến binh ấy đã lấy nó khỏi cô ấy.

Khi cô ấy yêu cầu lấy lại lá cờ của mình, anh ta từ chối. Khi một số giọng nói được nghe thấy nói với hiến binh Vatican rằng không ai có thể bị cưỡng chế rời khỏi nhà của Chúa, người đàn ông, đeo kính râm, nói rằng họ không bị đuổi ra, và lập luận rằng anh ta đã yêu cầu họ nhiều lần hạ cờ.

Xung quanh họ có thể nhìn thấy các biểu tượng quốc gia của Peru, Honduras, Tây Ban Nha và các quốc gia khác.

Tại sao người Cuba lại ở quảng trường Thánh Phêrô?

Rôma là nơi sinh sống của một cộng đồng lớn người Cuba lưu vong, hầu hết những người Cuba này đã chạy trốn khỏi sự áp bức của chế độ Cộng sản cai trị đảo quốc kể từ cuộc cách mạng năm 1959 của Fidel Castro.

Kể từ ngày 11 tháng 7, sau một loạt các cuộc biểu tình trên đảo, người dân Cuba đã có mặt tại các sự kiện công cộng của Đức Giáo Hoàng, đặc biệt là các buổi tiếp kiến vào thứ Tư hàng tuần và buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật.

Lúc đầu, chiến lược của họ là cố gắng thu hút sự chú ý của Đức Giáo Hoàng để ngài nói về những gì đang xảy ra, và chiến lược này xem ra có hiệu quả: Vào ngày Chúa Nhật 18 tháng 7, Đức Phanxicô bày tỏ sự gần gũi với Cuba, với hy vọng rằng đất nước sẽ trở nên công bằng và huynh đệ hơn.

Những người Cuba sống ở Rôma biết - và tuân thủ - các quy tắc của Vatican: không được phép phát biểu chính trị. Nhưng các lá cờ luôn được bật đèn xanh. Vào hôm Chúa Nhật, điều đó đã thay đổi.

“Tôi cảm thấy như bị đưa trở lại Cuba,” Amor de Grecia Rodriguez nói với Crux hôm thứ Hai. “Chúng tôi đã đến dự các sự kiện của Đức Giáo Hoàng rất nhiều lần và chúng tôi biết rằng không được phép sử dụng các khẩu hiệu chính trị. Và chúng tôi OK với điều đó”.

Bà nói: “Chúng tôi tin rằng Chúa biết những đau khổ của người dân Cuba. Chúng tôi không cần phải đến Vatican hay một Nhà thờ để Ngài biết về điều đó. Nhưng chúng tôi cảm thấy mệt mỏi với những người mù, điếc và câm từ chối nhìn, nghe và nói về những gì đang xảy ra với người dân của chúng tôi”.

Rodriguez thừa nhận rằng họ biết Đức Thánh Cha Phanxicô không thể sửa chữa các vấn đề của Cuba.

“Nhưng chúng tôi muốn ngài cho chúng tôi một phút trong thời gian của ngài, một lần nữa lên tiếng phản đối chế độ độc tài. Ngài là một nhân vật của công chúng, có tầm quan trọng trên thế giới, và như vậy, ngài có thể có ảnh hưởng,” cô nói.

Bà nói: “Chúng tôi bị đối xử như những con chó”.

Tại sao cảnh sát Vatican lại hành động vào hôm Chúa Nhật?

Nam diễn viên người Mỹ gốc Cuba và là nhà hoạt động chính trị Alexander Otaola đã triệu tập những người theo ông tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô vào Chúa Nhật, và khoảng 500 người từ khắp Âu Châu đã sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi của ông.

Trong một thông báo trực tiếp trên Facebook vào thứ Bảy vừa qua, Otaola tuyên bố rằng cảnh sát đã nói với họ rằng họ sẽ được phép vào quảng trường Thánh Phêrô, đồng thời thông báo cho những người theo ông rằng các cuộc biểu tình bên trong Vatican bị cấm. Sau lời cảnh báo này, ông kêu gọi họ “gặp gỡ ở đó với tư cách là những người hành hương, với tư cách là tôn giáo, với tư cách là những người có đức tin, với tư cách là những người đến bênh vực cho những người nghèo khổ, những người đến ủng hộ những người bị áp bức.”

Ông cũng nói rằng lý do ông sẽ tham dự là để Đức Phanxicô có “lập trường chống lại chế độ độc tài Cuba.”

“Đức Giáo Hoàng phải nói, ngài phải thể hiện mình và với tư cách là người đứng đầu một Quốc gia, ngài phải có lập trường trước những đau khổ, trước sự đàn áp, trước tai họa, nỗi sợ hãi, sự quấy rối mà người dân Cuba đang phải gánh chịu,” Otaola nói.

Tuy nhiên, vào sáng Chúa Nhật, thông điệp lan truyền trên các nhóm WhatsApp của người Cuba lưu vong nói rằng họ sẽ không được phép vào quảng trường Thánh Phêrô. Vì lý do này, chỉ có 15 người có thể vào quảng trường, bao gồm cả những người như Rodriguez, người đã nói với lính canh rằng cô đến từ Rôma và là công dân Ý, là những điều cô biết mình có thể chứng thực bằng giấy tờ tùy thân của mình.

Nhân viên cảnh sát Vatican, người đã cầm lá cờ của cô ấy đã nói với cô ấy rằng hãy nghĩ mình là “may mắn” vì đã được ở đó, và cô ấy nói với Crux: “Tôi đã không 'may mắn', tôi chỉ có thể vào quảng trường vì tôi 'không phù hợp với tiêu chuẩn của họ về ngoại hình của một người Cuba: da nâu và tóc đen”.

Otaola và những người khác đã nằm trên Via della Conciliazione, tức là Đại Lộ Hòa Giải, dẫn đến Đền Thờ Thánh Phêrô và nằm xuống, phủ lên mình lá cờ Cuba và mang biểu ngữ đậm màu sắc tôn giáo, chẳng hạn như “hãy có lòng thương xót đối với người dân Cuba”.

Một số những người Cuba khác thường đến các sự kiện công khai của Đức Giáo Hoàng, và có mặt hôm Chúa Nhật, nói với tờ Crux rằng họ cảm thấy “bị mắc kẹt giữa một thanh kiếm và bức tường”, bởi vì “mọi thứ hơi phức tạp một chút - hoặc phức tạp rất nhiều - hơn vẻ bề ngoài”.

Yêu cầu giấu tên vì vị thế của họ trong cộng đồng người Cuba hải ngoại, họ lập luận rằng “vâng, cảnh sát đã không công bằng, thậm chí là bạo lực” theo cách người Cuba bị đối xử tại quảng trường. Họ cũng nói rằng sự thật là hầu hết những người “bình thường” đến quảng trường Thánh Phêrô vì lý do tôn giáo. Tuy nhiên, cũng có một chút sắc mầu chính trị nội tại trong sự hiện diện của họ bởi vì “chúng tôi không chỉ yêu cầu Đức Giáo Hoàng can thiệp vì lợi ích của chúng tôi với Chúa, mà còn với một chế độ Cộng sản đang giết chết chúng tôi.”

Người này nói rằng giả vờ rằng cuộc biểu dương đã được lên kế hoạch vào Chúa Nhật “tự nó không phải là một tuyên bố chính trị, thì không trung thực lắm.”


Source:Crux

2. Bạo lực và phân cực gia tăng khi các cuộc bầu cử gần kề: các Giám mục kêu gọi đối thoại và trách nhiệm

Một tháng trước cuộc bầu cử tổng thống, quốc hội và chính quyền khu vực vào ngày 21 tháng 11, các Giám Mục Chí Lợi đã ra một tiến bước cảnh giác về “bầu không khí hiếu chiến và phân cực trong đời sống chính trị, đặc biệt là trong chiến dịch tranh cử tổng thống. Đây phải là cơ hội để tranh luận về các ý tưởng, dự án và chương trình về hiện tại và tương lai của quốc gia, trong một thực hành khơi dậy hy vọng, cảm giác thân thuộc và cam kết vì thiện ích chung.”

Ủy ban Thường vụ của Hội Đồng Giám Mục Chí Lợi, trong tuyên bố có tựa đề “Để sống quá trình bầu cử trong hòa bình và hòa hợp”, lấy làm tiếc phải nhận định rằng: “các cuộc biểu tình bạo lực ngày càng gia tăng. Sự phân cực và tính hiếu chiến được thể hiện ở nhiều mức độ trong cuộc sống chung của chúng ta, cũng như trong các mối quan hệ hàng ngày của chúng ta với những người khác. Các vụ giết người và các hành vi phạm tội khác đã gia tăng gần đây. Buôn bán ma túy và tội phạm chiếm nhiều lĩnh vực và không gian trong các thành phố của chúng ta. Cuộc biểu tình chính trị hợp pháp, do hành động của một số nhóm, thường trở nên các vụ bạo động phá hoại tài sản và không gian công cộng và tư nhân”.

Đối mặt với tình trạng này, các Giám mục kêu gọi người Chí Lợi “nghiêm túc xem xét lại cách sống chung của chúng ta”, “chấm dứt bạo lực”, “học cách đối thoại với tư cách là anh chị em với nhau, và là đồng bào của cùng một đất nước và ngôi nhà chung”.

Một nguyên nhân khác gây lo ngại đến từ thảm kịch kinh tế, mà hậu quả tiêu cực của nó đặc biệt ảnh hưởng đến các gia đình nghèo và dễ bị tổn thương, ngoài ra đại dịch đã tạo ra các vấn đề sẽ kéo dài trong thời gian dài.

Các Giám Mục chỉ ra rằng:

“Điều mâu thuẫn là trong khi chúng ta tìm kiếm và khao khát mức độ hạnh phúc và công lý cao hơn, chúng ta không xây dựng các đường lối ổn định hơn, và các hành động chính trị cho phép chúng ta đối mặt với những thách thức xã hội và kinh tế mà chúng ta đang phải đối mặt. Vì lợi ích của đất nước, chúng ta phải nhìn xa hơn những tính toán bầu cử”.

Vì lý do này, các giám mục mời gọi mọi người “hành động có trách nhiệm”, nhấn mạnh rằng “đối với những người lên cầm quyền đất nước trong giai đoạn tiếp theo, nhiệm vụ sẽ khó khăn và phức tạp do bối cảnh kinh tế và chính trị mà chúng ta đang trải qua, đó là chưa nói đến sự hiện diện của cuộc khủng hoảng sức khỏe coronavirus”.

Cuối cùng, các Giám Mục giao phó cho Đức Trinh Nữ ở Núi Carmêlô “thời gian thử thách này đối với đất nước chúng ta”.


Source:Fides
 
Độc đáo: Từ hồ sơ ở Paris, thừa sai Italia tìm ra ngôi nhà thờ Việt Nam đồ sộ bị lạc mất ở Campuchia
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:15 28/10/2021

1. Tìm lại được ngôi 'Nhà thờ Việt Nam bị lạc mất' ở Campuchia

Một nhà thờ Công Giáo ở Campuchia đã bị “thất lạc” nhưng bây giờ đã được tìm thấy, và đang bắt đầu đứng lên với sự giúp đỡ của một linh mục truyền giáo.

Nhà thờ Đức Bà ở ngôi làng nhỏ Taom, cách Siem Reap khoảng 60 km về phía tây nam, được xây dựng vào khoảng năm 1910. Sau đó nó đã bị lãng quên trong những năm bất ổn ở cả Campuchia và Việt Nam vào thập niên 1970.

Cộng đồng Công Giáo trong làng đã biến mất và nhà thờ bị bỏ hoang.

Cha Franco Legnani, một linh mục truyền giáo người Ý đến Campuchia vào những năm 1990 và đã được giao nhiệm vụ truyền giáo cho dân làng Taom.

Trong một báo cáo trên AsiaNews, vị linh mục nói rằng nhiều người trong vùng lân cận cho biết hồi xưa có một ngôi nhà thờ trong vùng “nhưng không có con đường nào để đến được với ngôi thánh đường”.

Chỉ có thể đến nhà thờ bằng cách đi qua một con sông. Ông cho biết những người tái khám phá ngôi nhà thờ “đã đi qua những cánh đồng lúa và cuối cùng họ đã nhìn thấy nó”.

Theo Cha Legnani: “Chắc hẳn ngôi thánh đường này đã từng là trung tâm của một cộng đồng Công Giáo rất lớn trước đây”.

Ngài nói rằng ngoài kích thước rất hoàng tráng của ngôi thánh đường, còn có những ghi chép được phát hiện ở Paris cho thấy vào năm 1938 có ít nhất 700 người Công Giáo sống trong làng.

Khi xảy ra nạn đánh đuổi người Việt vào đầu thập niên 1970, nhiều người Việt ở đây đã bỏ chạy về Việt Nam.

“Sau đó, trong cuộc chiến hồi thập niên năm 1970, nó đã bị đánh bom bởi các lực lượng Cao Miên vì ngôi làng này là cộng đồng người Việt Nam,” vị linh mục nói.

“Họ coi những người trong làng là những người ủng hộ quân Hà Nội, là những người đã vượt biên chiếm đóng Campuchia”.

Khu vực dân cư chung quanh đã bị bom phá thành bình địa nhưng ngôi thánh đường vẫn còn nguyên vẹn mặc dù đầy những lỗ đạn từ súng máy.

Trong quá trình trùng tu nhà thờ, vị linh mục và người dân trong làng mong muốn một bức tường của công trình kiến trúc được bảo tồn với những lỗ đạn này.
Source:Licas News

2. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, những người Công Giáo “xa đàn”, và Hiệp Thông Thánh Thể

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hôm 20 tháng 9, ông đã có một bài nhận định nhan đề “Pope Francis, ‘Estranged’ Catholics, and Holy Communion”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Phanxicô, những người Công Giáo “xa đàn”, và Hiệp Thông Thánh Thể”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Một số cơ quan truyền thông Công Giáo thường hoạt động như phần mở rộng trên thực tế của Văn phòng Báo chí Tòa Bạch Ốc của Jen Psaki đã liên tục thúc giục các giám mục Hoa Kỳ tránh đề cập đến vấn đề rước lễ của các chính trị gia Công Giáo ủng hộ phá thai. Về phần mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra một số nhận xét hữu ích về vấn đề gây tranh cãi này trong cuộc họp báo vào tháng 9, được tổ chức khi ngài trở về Rôma sau chuyến thăm Hung Gia Lợi và Slovakia. “Những người không ở trong tình hiệp thông không thể rước lễ,” Đức Thánh Cha đưa ra lập trường trên, khi đề cập đến về những người chưa được rửa tội và những người “lạc xa” khỏi Giáo Hội.

Chính xác. Và đó là thực tế chính yếu của Giáo Hội khi các nhà lãnh đạo chính trị Công Giáo cố tình thúc đẩy phá thai theo yêu cầu — giống như khi các quan chức Công Giáo từ chối chấm dứt tệ phân biệt đối xử đối với các trường học Công Giáo trong khu vực pháp lý của họ. Trong cả hai trường hợp, những người được đề cập, bằng hành động của họ phủ nhận một chân lý thiết yếu của đức tin Công Giáo: đó là phẩm giá bất khả nhượng của mỗi con người. Hành động của họ công khai tuyên bố rằng họ không hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội.

Đó là thực tế khách quan; nó không phải là một phán xét về lỗi lầm chủ quan hoặc tình trạng đạo đức của một công chức nhất định. Không một thừa tác viên Rước Lễ nào có thể biết chắc chắn rằng viên chức đó đang ở trong tình trạng mắc tội trọng khi người đó đến gần bàn thờ để lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Viên chức được đề cập có thể không được dạy giáo lý đến nơi đến chốn, hoặc thiếu hiểu biết một cách bất khả kháng, hoặc bị suy giảm khả năng nhận thức. Nhưng tình trạng đạo đức chủ quan của chính trị gia ủng hộ phá thai – liệu người này có đang trong tình trạng mắc trọng tội hay không - không phải là mấu chốt của vấn đề. Và vấn đề rước lễ của các chính trị gia Công Giáo thúc đẩy phá thai không nên được đóng khung trong những thuật ngữ đó.

Điều mà thừa tác viên bí tích Thánh Thể có thể biết, vì không thể nào mà lại không biết, đó là khi quan chức Công Giáo ấy quảng bá điều mà Đức Giáo Hoàng, trong cùng cuộc họp báo đó, gọi là “thảm sát” những đứa trẻ chưa chào đời, thì quan chức ấy, một cách khách quan, đang trong tình trạng xa lánh Giáo Hội một cách nghiêm trọng, bất kể tình trạng đạo đức cá nhân hay tình trạng giáo luật của người đó. Những người xa lánh Giáo Hội nghiêm trọng vẫn là thành viên của Giáo Hội vì lý do họ đã chịu phép Rửa Tội. Nhưng họ không nên hành động như thể họ đang hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội.

Cuộc thảo luận này hầu như chỉ tập trung vào các giám mục, linh mục, và các thừa tác viên bí tích Thánh Thể từ chối trao Mình Thánh Chúa cho các chính trị gia ương ngạnh. Đó cũng là một tiêu điểm sai, ít nhất là lúc ban đầu. Những người không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội — những người, bằng những hành động công khai của mình, đã chứng tỏ họ khước từ một chân lý thiết yếu của đức tin Công Giáo — nên có sự liêm chính để đừng lên rước Thánh Thể. Gánh nặng giữ luật đầu tiên thuộc về những con người đó.

Tuy nhiên, công nhận điều này không có nghĩa là các mục tử không có nghĩa vụ; hoàn toàn ngược lại. Như Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã nói, nghĩa vụ đầu tiên của các mục tử là cố gắng giúp những người Công Giáo lạc đàn một cách khách quan này - những người “tạm thời bên ngoài cộng đồng,” như lời Đức Giáo Hoàng nói - hiểu được sự thật về hoàn cảnh của họ: rằng họ không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội và không nên hành động trong Thánh lễ như thể họ đang làm. Nếu sau khi có sự hướng dẫn thích hợp được thực hiện với lòng bác ái và sự minh bạch, mà người Công Giáo xa đàn một cách khách quan này vẫn tiếp tục, bằng những hành động công khai, bác bỏ một số chân lý xác định bản sắc một người Công Giáo, thì một mục tử có tinh thần trách nhiệm phải có nghĩa vụ hướng dẫn người đó không được lên Rước Lễ. Vì như các giám mục của Mỹ Châu Latinh, do vị giáo hoàng tương lai lãnh đạo, đã nói vào năm 2007, các quan chức công quyền khuyến khích “tội ác nghiêm trọng” chống lại sự sống “không thể rước lễ”.

Nói một cách cụ thể: Tôi không có cách nào biết liệu Tổng thống Biden, Chủ tịch Hạ Viện Pelosi, và các quan chức Công Giáo khác đang tích cực thúc đẩy việc phá thai có đang ở trong tình trạng mắc tội trọng hay không. Nhiều yếu tố liên quan đến việc phạm tội trọng. Điều tôi biết — bởi vì Tổng thống Biden, Chủ tịch Hạ viện Pelosi, và những quan chức Công Giáo tích cực cổ vũ cho việc phá thai theo yêu cầu đã nói với tôi như vậy bằng hành động của họ — là những con người này, về mặt khách quan, không ở trong tình trạng hiệp thông với Giáo Hội. Sự xa cách đó, mượn thuật ngữ của Đức Giáo Hoàng, là mức độ nghiêm trọng đến nỗi họ không nên bước lên Rước lễ.

Rước Thánh Thể không chỉ là một biểu hiện của lòng đạo đức cá nhân. Đó là một tuyên bố về sự hiệp thông trọn vẹn của một người với Giáo Hội. Làm rõ điều đó, bằng cách hướng dẫn nếu có thể và hành động kỷ luật nếu cần, là một nghĩa vụ mục vụ. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Đó không phải là một hình phạt.” Đó cũng không phải là “vũ khí hóa” Bí tích Thánh Thể. Đó là lời kêu gọi người xa cách Giáo Hội hoán cải sâu sắc hơn cho Chúa Kitô. Đó là điều mà những mục tử tốt phải làm.
Source:First Things

3. Một vị Hồng Y của Giáo triều Rôma thăm Syria vào năm thứ 10 cuộc nội chiến

Một vị Hồng Y của Vatican đang đến thăm Syria trong năm thứ 10 của cuộc nội chiến đã tàn phá đất nước và khiến nhiều Kitô Hữu phải chạy trốn.

Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ Giáo Hội Đông phương, đã đến Syria từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 3 tháng 11, sau khi chuyến đi bị hoãn lại từ tháng 4 năm 2020.

Theo thông cáo báo chí từ Thánh bộ, chuyến thăm đang diễn ra “với mong muốn mang lại sự gần gũi và tình đoàn kết của Đức Thánh Cha Phanxicô đối với các cộng đồng Công Giáo của Syria, nơi đã phải chịu đựng nhiều năm chiến tranh và cần một thời gian để phân định và định hướng lại các hoạt động mục vụ.

Đức Hồng Y Sandri sẽ dành trọn vẹn 8 ngày ở quốc gia Trung Đông này, với các điểm dừng ở Damascus, Tartous, Homs, Yabroud, Maaloula và Aleppo.

Cuộc họp đầu tiên của ngài sẽ là với Đại Hội Các Vị Bản Quyền Công Giáo Ở Syria, nơi ngài cũng sẽ đồng tế một Phụng Vụ thánh với Đức Thượng phụ Youssef Absi, nhà lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương Melkite.

Các mục khác trong chương trình nghị sự của Đức Hồng Y Sandri ở Damascus bao gồm các cuộc gặp gỡ với các linh mục, và thăm các tổ chức bác ái Công Giáo, bệnh viện và trại trẻ mồ côi.

Ngài sẽ gặp gỡ các nhà ngoại giao và các tu sĩ nam nữ tại Damascus, và xuống miền nam Syria thăm Đài tưởng niệm Thánh Phaolô.

Đài tưởng niệm được cho là nơi đánh dấu sự hoán cải của Thánh Phaolô, khi ngài ngã ngựa trên đường đến Damascus.

Tại Aleppo, Đức Hồng Y Sandri sẽ tham gia một buổi lễ cầu nguyện đại kết và một cuộc họp giữa các tôn giáo.

Theo CIA World Factbook, khoảng 87% người Syria theo đạo Hồi, dân số Kitô Giáo ước tính là 10%, mặc dù con số đó chưa tính đến số lượng lớn các tín hữu Kitô đã bỏ trốn khỏi đất nước trong cuộc chiến vẫn còn đang diễn ra.

Trước cuộc nội chiến, Aleppo là thành phố lớn nhất của Syria và có tỷ lệ người theo Kitô Giáo cao nhất, ước tính có khoảng 180,000 Kitô Hữu. Theo số liệu năm 2019, con số đó giảm xuống còn khoảng 32,000.

Cộng đồng Công Giáo lớn nhất ở Syria là Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương Melkite. Ngoài ra còn có người Công Giáo Latinh, Assyriô và Chanđê.

Các cộng đồng Kitô Giáo khác bao gồm các Giáo Hội Armenia, Syriac và Chính thống giáo Đông phương.
Source:Catholic News Agency