Ngày 05-11-2014
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:59 05/11/2014
LỜI NÓI CHÚC PHÚC
N2T

Có một viên ngoại gia tài ức triệu lại thêm phong nhã, mời một đại sư giỏi viết thư pháp ở địa phương đến viết cho mình mấy lời chúc phúc, và muốn nó thành bảo vật trấn gia và có thể truyền xuống mấy đời con cháu.
Vị đại sư ấy lập tức mở trang giấy lớn ra, nhấc cao bút viết: “Cha chết, con chết, cháu chết.”
Viên ngoại vừa nhìn thấy liền tá hỏa tam tinh, bèn nói:
- “Tôi bỏ ra một số tiền lớn, rất thành tâm mời ngài viết cho mấy lời chúc phúc, tại sao mới bắt đầu mà ngài đã đùa giỡn rồi ?”
- “Tồi không cố ý đùa đâu.”
Đại sư nói tiếp:
- “Giả như con trai của ông chết trước ông, thì nhất định ông sẽ rất đau buồn, giả như cháu của ông chết trước các ông, thì ông và con trai ông sẽ vạn phần đau khổ. Giả như cả gia đình ông mà chết theo thứ tự như tôi viết đây, thì là an hưởng nghìn năm, và đó mới là có phúc đó !”
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)

Suy tư:
Sống có trật tự là có phúc.
Sống không trật tự là vô phúc.
Gia đình có thứ tự là ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt, nếu tất cả đều sống theo bổn phận của mình trong gia đình kính trên nhường dưới, đó chính là trật tự của Thiên Chúa ban ra, là có phúc lớn.
Vô phúc nhất là khi có những đứa con muốn đảo lộn trật tự của Thiên Chúa đã an bài, lên mặt dạy đời, kết án, hổn láo và xấc xược với cha mẹ, được học hành vài chữ thì coi mình giỏi giang hơn cha mẹ và mọi anh chị em trong nhà, đó chính là sự vô phúc lớn nhất trong một gia đình; được may mắn giàu có, sống nơi sung sướng thoải mái thì khinh mạn cha mẹ và các anh chị em nghèo nàn của mình, như thế thì không thể nào có phúc được.
Gia đình có trật tự là gia đình có phúc lớn, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã thực hiện trật tự đó khi giáng sinh làm người trong gia đình Na-gia-rét, Ngài đã vâng phục cha nuôi là thánh cả Giu-se và mẹ mình là Đức Bà Ma-ri-a.
Gia đình có trật tự là gia đình biết yêu thương nhau, anh chị em biết kính nhường nhau, đùm bọc nhau, quan tâm đến nhau, thì hơn cả vạn lần lời nói chúc phúc...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:02 05/11/2014
N2T

20. Từ trước đến nay Đức Chúa Giê-su không hề thiết tha mong mỏi tình yêu cho bằng ngày hôm nay; nhưng những người đem mình trao phó cho tình yêu vô hạn mật thiết của Ngài thì thật ít, ngay cả trong các môn đệ của Ngài cũng ít ỏi.

(Thánh Terese of Lisieux)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”

--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:26 05/11/2014
Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa

Lễ Cung hiến Đền thờ Lateranô

(Ga 2, 13-22)

Việc dùng một nơi đặc biệt để cầu nguyện và thờ phượng đã có từ rất xa xưa. Tuy nhiên, mãi khoảng năm 1000 trước Công nguyên ngôi đền thờ đầu tiên mới được vua Solomon xây dựng tại Giêrusalem để dành riêng cho Thiên Chúa, công trình này mất khoảng bảy năm rưỡi, lễ cung hiến đền thờ kéo dài tám ngày, và hằng năm được người Do Thái nhớ lại.

Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Giáo Hội bị bách hại không thể xây dựng đền thờ, buộc phải cử hành các mầu nhiệm của Thiên Chúa tại nhà riêng hoặc trong các hầm mộ, hay trên các ngôi mộ của các vị tử đạo.

Năm 313 sau khi hoàng đế Constantinô ban hành đạo luật cho phép các kitô hữu tự do hành đạo, đền thờ đầu tiên được cất. Hoàng đế đã nhượng cho Đức Giáo Hoàng Melchiade khu đất của dòng họ Laterani, và truyền xây đền thờ. Năm 324 thánh Giáo hoàng Silvestro cử hành lễ cung hiến đền thờ mang tước hiệu kính Chúa Cứu thế này, và chỉ từ sau thế kỷ VI mới thêm các tước hiệu hai thánh Gioan Tiền hô và Gioan thánh sử, từ đó được gọi là đền thánh Gioan Lateranô. Sau đó vào năm 334 Constantinô cho xây một giếng rửa tội nơi mà thánh Giáo hoàng Silvestro rửa tội cho ông, một dinh giáo chủ, nơi các giáo hoàng cư ngụ cho đến khi di chuyển sang Avignon. Đền thờ Lateranô hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày cung hiến được mệnh danh là “mẹ của tất cả các đền thờ ở Rôma và trên toàn thế giới”.

Câu hỏi được đặt câu hỏi: Cung hiến nhà thờ này có nghĩa là gì? Tại sao phải mừng kỷ niệm cách trọng thể ?

Giữa lòng thế giới, trước cái nhìn của Thiên Chúa và loài người, trong một hành vi đức tin khiêm tốn và vui mừng, con người với khả năng trí tuệ khôn lường Chúa ban là những kiến trúc sư, thợ mộc, thợ nề, nghệ nhân ưu tú, kiến thiết công trình nghệ thuật đã dùng những tài nguyên thiên nhiên như phiến đá, cây gỗ, đất cát, xây dựng lên một khối lượng vật chất là đền thờ. Đây là một dấu chỉ hữu hình về Thiên Chúa vô hình, Đấng là Ánh sáng, là chiều cao cả và là chính vẻ đẹp.

Trong bối cảnh ấy, vị kiến trúc sư đã nối kết thực tại thế giới và lịch sử cứu độ. Ông đã đưa vào trong thánh đường này những viên đá, cây cối và đời sống con người, để tất cả công trình sáng tạo đều hợp tiếng chúc tụng Chúa. Ông đã vượt thắng sự tách biệt giữa lương tâm con người và lương tâm Kitô, giữa cuộc sống ở trần thế chóng qua này và sự cởi mở đối với đời sống vĩnh cửu, giữa vẻ đẹp của vạn vật và Thiên Chúa Đấng là chính vẻ đẹp, bằng những viên đá, những đường nét, mặt bằng và chiều thẳng.

Đền thờ là thân thể Chúa Kitô

Salomon đã xây cho minh một ngôi đền bằng đá và gỗ vì ông là một tiên tri, … Còn Thiên Chúa hằng sống Đấng dựng nên cả đất trời, ngự trên chín tầng trời… Tại sao Thiên Chúa lại đòi xây dựng một đền thờ ? Phải chăng Ngài bị tước mất chỗ ngự ? Hãy nghe lời Stêphanô lên tiếng trước Công nghị, trước lúc chịu khổ hình : “Còn Salômôn, đã xây nhà cho Người. Nhưng Ðấng Tối Cao hẳn không phải ngụ nhờ trong những vật tay phàm làm ra, như tiên tri đã nói” (Ac 7,47- 48). Vì thế từ đó đền thờ được xây để tiên báo thân thể Đức Kitô. Đền thờ đầu tiên chỉ là "bóng" của các điều sẽ đến; còn với Ðức Kitô mới có “mình”. (Col 2,17) : khi ánh sáng xuất hiện, bóng tối sẽ rút lui. Hiện nay chúng ta tìm kiếm đến thờ do vua Salomon xây ư ? Chỉ còn một đống đổ nát. Tại sao nó bị đổ nát ? Thưa là vì thực tại mà ông loan báo đã hoàn thành. Đền thờ đích thực là chính thân mình Chúa Kitô, cũng bị đổ vỡ, nhưng Người đã trỗi dậy, và sẽ không bao giờ đổ nát nữa…(Thánh Augustinô 354-430, Bài giảng số 3, 4 ; PLS 2, 664)

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa

Còn thân xác chúng ta thì sao ? Là chi thể của thân mình Đức Kitô. Thánh Phaolô nói : “Anh em không biết sao? thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô!” (1Cr 6,15). Khi nói : “Thân xác anh em là những chi thể của Ðức Kitô” nghĩa là thân xác chúng ta liên kết với đầu là Đức Kitô “Ngài là đầu của Thân mình” (x. Cl 1, 18), làm thành một đền thờ duy nhất, đền thờ Thiên Chúa.

Cùng với thân mình Đức Kitô, thân xác chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Trước khi được thanh tẩy, chúng ta là miếu thờ ma quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên : Vì thế, thánh Phaolô đã nói : “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy” (1 Cr 3,16-17).

Gia đình là đền thờ

Như Thánh Gia Nazareth khi xưa, hoàn cảnh sống ngày nay đã biến đổi sâu xa và người ta đã đạt được những tiến bộ rất lớn trong các lãnh vực kỹ thuật, xã hội và văn hóa. Chúng ta không thể hài lòng với những tiến bộ ấy. Chúng ta còn phải luôn nghĩ đến những tiến bộ về luân lý, như sự quan tâm, bảo vệ và giúp đỡ gia đình, vì tình yêu quảng đại và không thể phân ly giữa một người nam và một người nữ là khung cảnh hữu hiệu và là nền tảng sự sống con người trong khi được cưu mang, sinh ra, lớn lên và kết thúc tự nhiên. Nơi nào có tình thương và lòng chung thủy, thì nơi đó tự do đích thực được nảy sinh và trường tồn.

Hân hoan mừng ngày cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như thế.

Chúng ta muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư ? Đừng làm cho linh hồn bạn ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Chúng ta muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa : Ta sẽ ngự giữa họ và sẽ đi đi lại lại giữa họ.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Chúng ta khó nghe thấy tiếng Chúa khi có lòng vị kỷ
Bùi Hữu Thư
07:53 05/11/2014
Vatican, ngày 4/11/2014: Bài giảng của Đức Thánh Cha ngày 4/11/2014 tại nhà nguyện Thánh Mác-ta

Phúc Âm Thánh Luca hôm nay nói về dụ ngôn của người chủ mở một bữa tiệc lớn, nhưng lại bị khách khứa từ chối vì họ mắc bận công chuyện khác. Người chủ bữa tiệc tức giận, sai đầy tớ đi mời “người nghèo, tàn tật, mù lòa, và yếu đuối” đến dự tiệc.

Theo đài phát thanh Vatican, Đức Thánh Cha nói rằng những khách từ chối lời mời của người chủ nhà đã chỉ chú ý đến lợi ích của họ thay vì đến chia xẻ bữa ăn với một người bạn. Nếu họ đã được mời ăn tối với một thương gia thì “chắc không có ai từ chối.”

“Thật là khó khăn nghe thấy được Lời Chúa Giê-su, Lời Chúa, khi bạn tin rằng tất cả thế giới này đều xoay quanh mình bạn: không có chân trời, vì bạn trở nên chính chân trời của mình. Và còn có nhiều hơn nữa đằng sau điều này. Chúng ta sợ hãi lòng quảng đại của Chúa khi Ngài cho đi nhưng không. Và Ngài quá cao cả nên chúng ta sợ Ngài”.

Đức Thánh Cha tiếp: Tất cả mọi Ki-tô hữu đều sợ hãi lòng quảng đại Thiên Chúa dành cho chúng ta, vì rất nhiều lần, “chúng ta cảm thấy an toàn trong tội lỗi chúng ta, trong những hạn hẹp của chúng ta, nhưng chúng ta lại cảm thấy thoải mái.” Sự sợ hãi này khiến cho các Ki-tô hữu không đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, vì họ không muốn ra khỏi cái màng lưới an toàn ấy.

Đức Thánh Cha nói: “Người Công Giáo, nhưng không Công Giáo lắm, tin tưởng nơi Chúa, nhưng không tin tưởng nhiều lắm. Chính ‘sự kiện không nhiều lắm này’ đã đánh dấu chúng ta, và làm cho chúng ta hèn kém."

Nhắc lại câu chuyện ông chủ ra lệnh mời đón người nghèo và tật nguyền đến dự tiệc, và còn bắt buộc họ đến dự tiệc, Đức Thánh Cha 77 tuổi nói rằng Thiên Chúa cũng làm như vậy đối với chúng ta “với những thử thách, và bao nhiêu thử thách.”

Đức Thánh Cha tuyên bố: "Hãy bắt buộc trái tim ấy, tâm hồn ấy tin tưởng vào lòng quảng đại của Chúa, tin rằng quà tặng của Chúa không mất tiền, rằng không thể mua lấy sự cứu độ: đây là một quà tặng cao quý, tình yêu Thiên Chúa là một quà tặng cao qúy nhất! Đây mới chính là cho đi nhưng không!”

Kết luận bài giảng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu hãy nhận lời mời tham dự yến tiệc do chính Chúa Ki-tô khoản đãi và trả giá “bằng sự hạ mình cho đến chết, chết trên cây thập giá.”
 
Đức Thánh Cha kêu gọi tiến hành mau thủ tục ”giải hôn phối”
LM. Trần Đức Anh OP
09:58 05/11/2014
VATICAN. ĐTC khuyến khích các tòa án hôn phối tiến hành mau lẹ hơn, đồng thời loại trừ mọi cám dỗ tài chánh trong việc cứu xét các án hôn phối.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 5-11-2014, dành cho các tham dự viên khóa học do Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma tổ chức về hôn phối kết ước thành sự nhưng chưa hoàn hợp (super rato).

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhắn nhủ các nhân viên tòa án hôn phối của Giáo Hội hãy tiến hành theo hai tiêu chuẩn: công lý và bác ái. Ngài nhắc đến sự kiện bao nhiêu tín hữu phải chờ đợi lâu dài phán quyết của tòa án về hôn nhân của họ, có thành sự hay bất thành.

ĐTC nói: ”Có một số thủ tục quá dài hoặc quá nặng nề không có lợi và dân chúng bỏ không xin tòa án cứu xét nữa. Ví dụ tòa án liên giáo phận cấp một ở Buenos Aires, Argentina, phải xử các vụ hôn phối của 15 giáo phận, và giáo phận xa nhất cách đố 240 cây số. Làm sao người dân thường có thể bỏ công ăn việc làm, đến tòa án.. Vì thế họ tự nhủ: ”Chúa hiểu tôi, tôi cứ tiếp tục sống thế này, với gánh nặng này trong tâm hồn”. Giáo Hội là mẹ phải thi hành công lý, để các tín hữu ấy có thể sống mà không phải chịu nghi ngờ, chịu tình trạng đen tối trong tâm hồn”.

ĐTC cũng cảnh giác những người làm việc ở tòa án hôn phối chỉ quan tâm mưu lợi cho mình. Ngài cho biết có lần đã phải sa thải một nhân viên tòa án, vì người này đã nói với một người xin tòa cứu xét: ”với 10 ngàn đôla, tôi sẽ tiến hành cho ông 2 vụ án dân sự và Giáo Hội'.. Khi người ta liên kết lợi lộc thiêng liêng với lợi lộc kinh tế thì đó không phải là điều thuộc về Thiên Chúa. Mẹ Giáo Hội rất quảng đại để có htể thi hành công lý miễn phí, giống như chúng ta được Chúa Giêsu Kitô làm cho công chính miễn phí!”.

Trong ý hướng trên đây, trước Thượng HĐGM thế giới vừa qua, ĐTC Phanxicô đã thành lập một Ủy ban nghiên cứu do Đức Ông Vito Pinto, niên trưởng Tòa Thượng Thẩm Rota, làm chủ tịch, để làm sao cho thủ tục cứu xét các án hôn phối được mau lẹ hơn (SD 5-11-2014)
 
Thượng hội đồng về gia đình: phúc trình của các nhóm nhỏ (1)
Vũ Văn An
22:10 05/11/2014
Trích dẫn ký giả Ý Marco Tosatti, linh mục John Zuhlsdorf cho hay nhiều nghị phụ đã công khai tỏ ý không tán thành phương pháp phối trí của Đức HY Balfisseri, tổng thư ký của THĐ. Lý do chính là vì ngài quyết định không công bố phúc trình của các nhóm nhỏ cho công chúng. Quyết định này đã bị Đức HY Erdo, tổng tường trình viên của THĐ, phản đối, với lý do: đã công bố bản phúc trình sau khi thảo luận thì cũng nên công bố bản phúc trình của các nhóm nhỏ.

Nhờ thế, phúc trình của các nhóm nhỏ đã lần lượt được công bố. Trước nhất là các phúc trình của ba nhóm nói tiếng Anh, sau đó là các phúc trình của các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha.

I. Phúc trình của các nhóm nói tiếng Anh

1. Nhóm A dưới quyền phối trí của Đức HY Raymond Burke.

Sau đây là các điểm chính của phúc trình:

a) Nhận xét về Phúc Trình Sau Thảo Luận (RPD), nhóm cho hay thay vì tập chú vào các hoàn cảnh đặc thù như đã được mô tả trong RPD, các ngài chú ý nhiều hơn tới những con người trong các hoàn cảnh ấy, tập chú vào những điều tốt lành nơi họ.

b) Các ngài tin rằng cần có lời dẫn nhập cho RPD, để (i) nói lên hồng phúc vĩ đại của bí tích hôn nhân và ơn thánh Chúa ban dư đầy qua bí tích này, (ii) cung cấp một nền tảng thần học và nhân học để có thể giải quyết các vấn đề được THĐ nêu lên. Nhóm muốn Phúc Trình của THĐ (Relatio Synodi, tắt là RS) sẽ nói về sự sống con người, hôn nhân và cuộc sống gia đình như đã được mạc khải cho ta qua lý trí và đức tin, cả hai đều được ơn thánh Chúa trợ giúp. RS phải công bố sự thật của Tin Mừng, sự thật của sự sống con người và tính dục như Chúa Kitô đã mạc khải. Lời Chúa Kitô soi sáng nhận thức ta về bản chất con người và tính dục nội tại của người đàn ông và người đàn bà qua luật tự nhiên.

c) RS phải là một tài liệu có tính mục vụ, nói tới con người về những vấn đề cấp bách đang thách thức các gia đình ngày nay. Các vấn đề này không tách biệt khỏi giáo huấn của Giáo Hội, tìm thấy trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội. Dù gì RS cũng phải tham chiếu Thánh Kinh và các văn kiện của Huấn Quyền.

d) Các đề xuất của nhóm nhấn mạnh tới tình yêu Thiên Chúa, tình yêu và chăm sóc mục vụ của ta đối với các cá nhân, đồng thời trung thực nhìn nhận và thừa nhận các hoàn cảnh tội lỗi, và tìm cách mời gọi người ta hồi tâm. Nhóm tin rằng chỉ có cách sống như môn đệ Chúa Kitô với mọi thách đố nó mang tới mới là lối sống dẫn tới niềm vui thật và hạnh phúc nhân bản thật sự.

Nhóm đưa ra thí dụ: trong khi RPD xem ra gợi ý rằng có thể cho phép việc làm tình ngoài hôn nhân hay việc sống chung với nhau không cần cheo cưới, nhóm cố gắng cho thấy lý do tại sao các lối sống này không dẫn con người tới chỗ thành toàn nhân bản. Cùng một lúc, nhóm muốn nhìn nhận rằng trong những con người liên hệ, có hạt giống sự thật và sự thiện, và nhờ một nền chăm sóc mục vụ tận tụy, những hạt giống này có thể được đánh giá và phát triển. Theo suy nghĩ của nhóm, nếu ta ngụ ý rằng một số lối sống nào đó có thể chấp nhận được, thì các cha mẹ hay quan tâm và ưu tư xưa nay sẽ bảo: vậy thì còn cần gì phải phí công dạy dỗ con cái sống theo Tin Mừng và giáo huấn Giáo Hội làm chi nữa!

e) Nhóm không ủng hộ việc cho phép các người ly dị và tái hôn được lãnh các bí tích, nhưng ủng hộ các phương thế khác để kết hợp với Chúa Kitô.

f) Nhóm thừa nhận và ủng hộ việc quan tâm và cảm thông của RPD đối với những người sống trong các hoàn cảnh mục vụ khó khăn. Nhưng nhóm cho rằng ta cần biểu lộ những tình cảm này một cách cẩn thận để đừng tạo nên lẫn lộn trong tâm trí tín hữu.

g) Nhóm ưu tư đối với việc trình bày nguyên tắc tiệm tiến. Theo nhóm, ta không nên nói tới tính tiệm tiến của tín lý đức tin và luân lý, mà chỉ nên nói tới sự lớn mạnh từ từ về luân lý của cá nhân trong hành động của họ.

h) Nhóm muốn RS có lời khuyến khích và hỗ trợ những người đang trung thành sống lời hứa kết hôn của họ và gầy dựng gia đình họ theo giáo huấn của Giáo Hội, cả ông bà và các thành viên khác của đại gia đình nữa.

j) Tính mục vụ của RS đòi một ngôn ngữ không mếch lòng người nhưng khích lệ và hỗ trợ họ trong cuộc hành trình vươn tới Chúa.

2. Nhóm hai dưới quyền phối trí của Đức HY Wilfrid Napier

Nhóm này gồm 5 vị từ Phi Châu, 7 vị từ Á Châu, 1 vị từ Đại Dương Châu, 1 vị từ Hoa Kỳ và 1 vị từ Âu Châu. Các dự thính viên và đại diện anh em cũng đóng góp đáng kể cho nhóm.

A. Trước nhất, nhóm trình bày một số nhận định:

a) Nhóm cho rằng RPD quá chú trọng tới các vần đề đang thách thức các gia đình và không nhấn mạnh đủ tới nhu cầu đưa ra một sứ điệp phấn khởi để khuyến khích và gợi hy vọng cho các gia đình, dù gặp nhiều thách đố, có khi thất bại, nhưng vẫn cố gắng sống thực sứ mệnh và ơn gọi của mình cách trung thành và hân hoan trong Giáo Hội và trong xã hội.

b) Nhóm đề nghị nên thêm ở đầu phúc trình một số đoạn nhấn mạnh tới việc Lời Chúa và vẻ đẹp của Tin Mừng Gia Đình phải giữ vị thế trung tâm ra sao đối với toàn bộ tập chú của RS.

c) Nhóm minh nhiên tỏ ra ưu tư đối với một số kết luận của RPD, đối với phương pháp học của nó, đối với ngôn từ phức tạp của nó (cộng hưởng bởi lối dịch nghèo nàn) và đối với hậu qủa cuả việc công bố nó trước khi được các nghị phụ THĐ duyệt xét.

d) Theo nhóm, trách vụ của THĐ đặc biệt lần này là vẽ ra một bức tranh về gia đình và về các thách đố đang đặt ra cho hoạt động mục vụ của Giáo Hội trong thế giới phức tạp và đa dạng hiện nay. Dĩ nhiên việc này khiến ta phải tập chú vào các vấn đề và vào một số thách đố chính từng khiến Giáo Hội phải băn khoăn. Nhưng RS phải đi xa hơn việc chỉ chú tâm vào các nan đề và bệnh lý của hôn nhân và gia đình.

e) Nhóm cho rằng giới trẻ đọc RPD sẽ ít có hứng thú bước vào hôn nhân Kitô Giáo. Thành thử RS phải hướng về người trẻ, giúp họ hiểu và bị lôi cuốn trước viễn kiến Kitô Giáo về hôn nhân và gia đình.

f) Nhóm cho rằng nhiều mục tử thất bại và bất cập trong việc cổ vũ sự hỗ trợ đối với các gia đình. GH cần triệt để canh tân phong cách thừa tác của mình đối với họ. Việc đồng hành với hôn nhân phải có tính mãn đời, chứ không dừng lại ở ngày cưới, sao cho các cặp vợ chồng thể hiện được lý tưởng hôn nhân.

g) Dĩ nhiên, Giáo Hội phải vươn tay ra với những ai chưa hoàn toàn đạt tới lý tưởng trên. Vấn đề là không quên trình thuật chính nhưng cũng không nên để trình thuật này khiến ta đẩy những ai đang lao đao qua một bên hay làm nản lòng họ. Nhóm cho rằng đây không hẳn là việc đưa ra một văn kiện mới hay đơn thuần chỉ lặp lại giáo huấn của Giáo Hội, mà là vươn tay ra và tìm ra một ngôn ngữ giúp con người nam nữ, nhất là giới trẻ, mở tâm trí ra đối với tin mừng gia đình, để hiểu nó và chịu để nó lôi cuốn. Ngôn ngữ mới này phải đào sâu hơn vào kho tàng đức tin và truyền thống của Giáo Hội và tìm ra các phương cách lắng nghe kinh nghiệm sống của tín hữu trung thành sống bí tích hôn nhân của họ.

Về khía cạnh vươn tay này, nhóm cho rằng ta phải có can đảm “gõ những cánh cửa cấm”. Nhiều khi sau những cánh cửa cấm này, là “cả một sự hiện diện của Thiên Chúa giúp ta giải quyết các thách đố của ngày nay, không phải theo điều kiện của ta mà theo những cách mới mẻ khó tưởng tượng nổi”. Nhóm không cho biết những cánh cửa cấm này là những cánh cửa nào.

B. Sau đó, nhóm đưa ra một số gợi ý cụ thể

a) Về việc cho phép người ly di và tái hôn lãnh nhận các bí tích, nhóm nhấn mạnh hai nguyên tắc phát sinh từ chính Lời Chúa: quả quyết rõ ràng tính bất khả tiêu của hôn nhân bí tích thành sự, trong khi khiêm nhường nhận rằng ta cần một cách thế đáng tin hơn để trình bày và làm chứng cho giáo huấn đó; ước muốn mạnh mẽ chào đón và hỗ trợ những người CG thành thực cảm thấy mình bị ra xa lạ đối với gia đình GH vì các hoàn cảnh không hợp lệ của mình.

Về phương diện trên, nhóm đề nghị: (i) xem xét những ngả đường thống hối và biện phân có thể có nhờ đó, trong những trường hợp đặc thù, người ly dị và tái hôn có thể tham dự các bí tích; và (ii) cung cấp các biện pháp thay thế như đánh giá sâu sắc hơn sự khôn ngoan cổ điển và giá trị của việc rước lễ thiêng liêng.

Điều nhóm nhấn mạnh là các anh chị em trên vẫn là thành phần của GH và phải được khuyến khích họ tiếp tục là thành phần của GH qua cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, thực hành nhân đức, tham dự các cộng đồng Kitô Giáo nhỏ và làm việc tông đồ. Họ luôn phải gặp được nơi Giáo Hội cái nhìn chào đón và vòng tay thân yêu của Chúa Giêsu.

b) Tuy nhiên, nhóm ưu tư đối việc quá nhấn mạnh tới “các yếu tố tích cực” khi nói về cuộc hôn nhân dân sự và việc sống chung. Nhóm thích dùng ngôn ngữ của luật tiệm tiến để bước vào đối thoại với những người này và tìm cách nhận diện các yếu tố trong đời họ có thể dẫn họ tới việc cởi mở hơn đối với tin mừng gia đình một cách trọn vẹn. Những yếu tố này có thể trở thành các nhịp cầu trong cố gắng phúc âm hóa của ta đối với những người chưa hoặc không còn tương hợp với lý tưởng hôn nhân nữa. Cần nhấn mạnh rằng luật tiệm tiến luôn bao hàm cả tiến tới lẫn hồi tâm hướng về lý tưởng trọn vẹn.

c) Về việc chăm sóc mục vụ các người có xu hướng đồng tính, nhóm nhận định rằng GH phải tiếp tục cổ vũ bản chất hôn nhân đã được mạc khải tức luôn luôn là sự kết hợp mãn đời, hiến sinh, và hiệp thông trung tín giữa 1 người đàn ông và 1 người đàn bà.

Nhưng nhóm khuyến khích các mục tử và các giáo xứ chăm sóc các cá nhân có xu hướng này, bằng cách lo liệu (?) cho họ trong gia đình GH, luôn bảo vệ phẩm giá làm con cái Chúa của họ, được dựng nên giống hình ảnh Chúa. Trong GH, họ phải tìm thấy một mái ấm nơi đó, với mọi người khác, họ nghe được lời Chúa Giêsu mời gọi bước chân theo Người trong việc trung thành với sự thật, nhận lãnh được ơn thánh của Người để làm điều đó, và lòng xót thương của Người khi thất bại trong việc bước chân theo Người này.

d) Về vấn đề cởi mở đối với sự sống, nhóm muốn nhấn mạnh tới điểm con cái là hồng phúc tối cao của hôn nhân. Do đó, GH nên đọc lại và đánh giá tích cực sứ điệp của TĐ Humanae Vitae để huấn luyện lương tâm về vấn đề kế hoạch hóa gia đình.

e) Về vấn đề đa thê, nhóm đề nghị các hội đồng giám mục Phi Châu thực hiện một cuộc nghiên cứu mục vụ toàn diện về những người đa thê trở lại Đạo Công Giáo.

f) Nhóm cũng đề nghị ở phần kết luận của RS, nên nói tới Đức Mẹ như mẫu gương cho các cặp vợ chồng gặp khó khăn chạy tới.

3. Nhóm ba dưới quyền phối trí của Đức TGM Edward Kurtz

Sau khi cho rằng việc công bố bản RDP làm nhóm rất ngỡ ngàng, nhóm đưa ra các nhận định sau đây:

a) Hôn nhân là hồng phúc của Thiên Chúa cho hạnh phúc của con người. Hồng phúc này được Cựu Ước xác nhận và được Tân Ước thâm hậu hóa và giải thích như là tấm gương phản chiếu mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Giáo Hội, qua các thế kỷ, không ngừng giảng dạy và trợ giúp tín hữu sống và trân qúy cuộc sống vợ chồng như Thiên Chúa dự kiến. Với GH, hôn nhân không chỉ là một định chế nhân bản. Việc hiến thân trong hôn nhân, một cách nào đó, vốn biểu lộ việc hiến mình của Chúa Kitô cho dân của Người, đạt được biểu thức trọn vẹn nhất của nó trong giao hợp tính dục, trong đó, vợ chồng nói lên việc hiến mình trọn vẹn cho người khác, về xúc cảm, về thể lý và về tâm linh, chứ không phải chỉ là việc tự thỏa mãn mình một cách vị kỷ. Chính trong việc hiến mình này, ta trở nên người hơn và nên giống Chúa Kitô hơn. Do đó, nền tảng Thánh Kinh và giáo huấn của GH về hôn nhân phải được làm sáng tỏ ngay ở phần đầu của tài liệu để xây dựng khuôn khổ cho các vấn đề thảo luận.

b) Nhóm cho rằng cung giọng của toàn bộ tài liệu phải nói lên lòng tin tưởng đối với hôn nhân. Đã đành khi suy nghĩ tới các thách thức của hôn nhân và đời sống gia đình, ta phải xem xét hiện tượng đổ vỡ, đau đớn và cô đơn… Nhưng không nên rơi vào cái bẫy nghĩ rằng và nhất là chuyển tải ý nghĩ cho rằng hôn nhân và đời sống gia đình là một thất bại. Thực tế, nhiều gia đình, bất chấp mọi thăng trầm, vẫn tỏa sáng sự hòa hợp và yêu thương… Ta phải nhìn nhận rằng các tín hữu hiện đang cam kết với hôn nhân và nhiều gia đình đem lại hy vọng, gợi hứng và làm gương cho người khác, nhất là các người trẻ.

c) Vì vậy, tài liệu phải khuyến khích các gia đình trên. Không để họ mất hy vọng. GH cần họ, và cả thế giới cũng cần họ. GH phải hỗ trợ và chăm sóc mục vụ cho họ. Phải làm nổi bật chứng tá của họ rằng cam kết hôn nhân mãn đời là việc có thể làm được, đây là chiều kích phúc âm hóa của gia đình Công Giáo.

d) Tuy nhiên, ta cũng phải chào đón, không phê phán hay kết án, những người, vì một lý do nào đó, chưa có thể biểu lộ được cam kết mãn đời trong hôn nhân giữa 1 người đàn ông và 1 người đàn bà. Ta cũng cần khuyến khích họ và giúp họ thừa nhận chính điều tốt của họ và chăm sóc họ như Chúa Kitô chăm sóc họ vậy. Làm thế rất có thể có người cho rằng hôn nhân không quan trọng hay “hôn nhân” nào cũng là hôn nhân, nên điều cần là phải xác định ý nghĩa của luật tiệm tiến để nó đừng là tính tiệm tiến của luật lệ. Luật tiệm tiến không nên biến lời kêu gọi hồi tâm của Tin Mừng thành nhạt nhẽo, “hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Luật tiệm tiến phải kéo người ta gần lại Chúa Kitô hơn. Sự thật và lòng thương xót không loại trừ nhau.

e) Nói thế rồi, tài liệu phải tích cực nói lên tình yêu của Giáo Hội đối với mọi người, 1 tình yêu không có biên giới, 1 tình yêu chào đón cả người tội lỗi và những ai đang sống ngoài lề xã hội. Họ có thể không do tự do chọn lựa mà vì hoàn cảnh kinh tế mà hóa ra như vậy. Tài liệu phải biểu lộ sự chào đón, chấp nhận và thương yêu những người đang sống trong hoàn cảnh khó khăn và đau khổ, những người đang tìm kiếm sự thật và những người mong được Chúa Kitô chữa lành.

f) Nhóm thấy việc chăm sóc mục vụ các gia đình và những người trong các mối liên hệ khác cần có những linh mục được huấn luyện kỹ, vừa hiểu biết các vấn đề liên quan tới hôn nhân và gia đình mà còn có trái tim mục vụ nữa để chăm sóc và chào đón những người đi tìm Chúa Kitô. Nhóm cũng chú ý tới các tổ chức và hiệp hội giáo dân chuyên lo củng cố hôn nhân nhất là giúp các người trong các hoàn cảnh khó khăn, và các phong trào chuyên làm chứng cho hôn nhân và gia đình như là đặc sủng của họ.

g) Nhóm biết ơn đối với sự cởi mở xuyên suốt THĐ đặc biệt lần này, giúp nhóm lắng nghe các thông sáng và kinh nghiệm của nhiều người nhằm trình bày một đánh giá quân bình và toàn diện đối với tính sống động của đời sống gia đình cũng như nhiều quan tâm khác.

Còn tiếp
 
Các thừa tác giám mục, linh mục và phó tế diễn tả gương mặt Mẹ Thánh Giáo Hội phẩm trật phục vụ tín hữu
Linh Tiến Khải
09:59 05/11/2014
Nơi sự hiện diện và trong thừa tác của các Giám Mục, Linh Mục và các Phó Tế chúng ta có thể nhận ra gương mặt thật của Giáo Hội: đó là Mẹ Giáo Hội phẩm trật, sinh chúng ta ra trong cuộc sống đức tin, thêm sức, dưỡng nuôi, đồng hành với chúng ta đến với Chúa Cha để được ơn tha thứ tội lỗi, khẩn nài phước lành và sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên chúng ta, nâng đỡ chúng ta trong suốt cuộc sống, bảo bọc chúng ta với hơi ấm của mình, nhất là trong những lúc tế nhị của thử thách, khổ đau và cái chết.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hàng tuần tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 5-11-2014.

Trong bài huấn dụ ngài đã trình bày đề tài giáo lý về các chức thừa tác mà chính Chúa Kitô đã dấy lên trong Giáo Hội để xây dựng các cộng đoàn Kitô thân mình mầu nhiệm Ngài. Bình luận đoạn thư thánh Phaolô gửi Tito mà moi người vừa nghe đọc trước đó Đức Thánh Cha nói: Mọi người đều đã nghe đấy: Các Giám Mục chúng tôi phải có biết bao nhiêu là nhân đức. Thật không dễ, không dễ, vì chúng tôi là những người tội lỗi. Nhưng chúng tôi tín thác nơi lời cầu nguyện của anh chị em, để ít nhất chúng tôi tới được gần điều tông đồ Phaolô khuyên nhủ tất cả các giám mục. Anh chị em có đồng ý không? Anh chị em sẽ cầu nguyện cho chúng tôi chứ?

Trong các bài giáo lý trước đây chúng ta đã nhấn mạnh Chúa Thánh Thần luôn đổ tràn đầy trên Giáo Hội các ơn của Người. Giờ đây trong quyền năng và ơn thánh của Thần Khí Ngài, Chúa Kitô dấy lên trong Giáo Hội các thừa tác để xây dựng các cộng đoàn kitô như thân mình Người. Trong các thừa tác đó nổi bật là thừa tác giám mục. Nơi vị Giám Mục, được trợ giúp bởi các Linh Mục và các Phó Tế, chính Chúa Kitô hiện diện và tiếp tục lo lắng cho Giáo Hội và bảo đảm cho Giáo Hội sự che chở và hướng dẫn của Người.

Nơi sự hiện diện và trong thừa tác của các Giám Mục, Linh Mục và các Phó Tế chúng ta có thể nhận ra gương mặt thật của Giáo Hội: đó là Mẹ Giáo Hội phẩm trật. Thật thế, qua các anh em này, được Chúa tuyển chọn và thánh hiến với bí tích Truyền Chức, Giáo Hội thi hành chức làm mẹ của mình: Giáo Hội sinh chúng ta ra như kitô hữu trong bí tích Thánh Tẩy, bằng cách làm cho chúng ta tái sinh trong Chúa Kitô; canh thức trên sự lớn lên của chúng ta trong đức tin, tháp tùng chúng ta đến với vòng tay của Thiên Chúa Cha để được ơn tha thứ; chuẩn bị cho chúng ta bàn tiệc Thánh Thể, nơi Giáo Hội nuôi dưỡng chúng ta với Lời Chúa và Mình và Máu Chúa Giêsu; khẩn nài trên chúng ta phước lành và sức mạnh của Chúa Thánh Thần; nâng đỡ chúng ta trong suốt lộ trình cuộc sống và bảo bọc chúng ta với sự hiền dịu và hơi ấm của mình, nhất là trong những lúc tế nhị của thử thách, khổ đau và cái chết.

Chức làm mẹ đó của Giáo Hội được diễn tả ra cách đặc biệt trong con người của vị Giám Mục và chức thừa tác của người. Thật vậy, như Chúa Giêsu đã chọn các Tông Đồ và đã sai các vị ra đi loan báo Tin Mừng và chăn dắt đoàn chiên, cũng thế các Giám Mục là các người kế vị các Tông Đồ được đặt làm đầu các cộng đoàn kitô, như là những người bảo đảm cho đức tin và như dấu chỉ sống động sự hiện diện của Chúa giữa họ. Như vậy chúng ta hiểu rằng đây không phải là một địa vị uy tín, một chức tước vinh dự.

Chức Giám Mục không phải là một tước hiệu vinh dự, nhưng là sự phục vụ. Và Chúa Giêsu đã muốn như thế. Không thể có chỗ cho tâm thức trần tục trong Giáo Hội. Tâm thức trần tục nói: ”Mà ông này đã tiến thân trong Giáo Hội, đã trở thành Giám Mục”. Không, không. Trong Giáo Hội không thể có chỗ cho tâm thức này. Chức Giám Mục là một phục vụ, chứ không phải là một tước vinh dự để khoe khoang. Là Giám Mục có nghĩa là luôn luôn có trước mắt gương sống của Chúa Giêsu, là Đấng Chăn Chiên Lành, không đến để được hầu hạ nhưng để hầu hạ” (x. Mt 20,28; Mc 10,45) và để hiến mạng sống mình cho đoàn chiên (x. Ga 10,11). Các Giám Mục thánh - có biết bao Giám Mục thánh trong lịch sử Giáo Hội - cho chúng ta thấy rằng người ta không tìm kiếm, không xin, không mua chức thừa tác này, nhưng tiếp nhận, trong vâng phục, không phải để nâng mình lên, nhưng để hạ mình xuống, như Chúa Giêsu ”đã hạ mình, vâng lời cho tới chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Thật là buồn, khi thấy một người tìm chức vụ này và làm biết bao nhiêu điều để tới được chức vụ đó, và khi tới rồi lại không phục vụ, nhưng vênh vang và chỉ sống cho sự phù vân của mình.

Còn có một yếu tố thứ ba qúy báu nữa, đáng được minh nhiên. Khi Chúa Giêsu đã chọn và kêu gọi các Tông Đồ, Người đã không nghĩ phân tách họ với nhau, mỗi người tùy ý mình, nhưng cùng nhau, để họ ở với Người, hiệp nhất như một gia đình duy nhất. Cả các Giám Mục cũng làm thành một đoàn duy nhất, được quy tụ chung quanh Giáo Hoàng, là người gìn giữ và bảo đảm cho sự hiệp thông sâu xa này, mà Chúa Giêsu và chính các Tông Đồ đã lưu tâm biết bao nhiêu. Như vậy thật là đẹp biết bao nhiêu, khi các Giám Mục cùng với Giáo Hoàng diễn tả tính cách đoàn thể ấy và tìm cách ngày càng là những người phục vụ tín hữu, phục vụ Giáo Hội hơn! Chúng ta đã chứng kiến mới đây trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình. Nhưng chúng ta cũng hãy nghĩ tới tất cả mọi Giám Mục sống rải rác trên thế giới, dù sống tại các nơi, các nền văn hóa, sự nhậy cảm và các truyền thống khác nhau và xa cách nhau - Hôm trước có một Giám Mục nói với tôi rằng để đến Roma, từ nơi ngài ở, cần phải bay 30 giờ đồng hồ, xa biết bao - nhưng các vị cảm thấy là phần của nhau và trở thành kiểu diễn tả mối dây thân tình giữa các cộng đoàn với nhau, trong Chúa Kitô. Và trong lời cầu nguyện chung của Giáo Hội tất cả mọi Giám Mục đặt mình để lắng nghe Chúa Cha và Chúa Con và Thần Khí, như thế có thể chú ý tới con người và các dấu chỉ thời đại một cách sâu xa (GS 4).

Các bạn thân mến, tất cả điều này làm cho chúng ta hiểu tại sao các cộng đoàn kitô lại nhận ra nơi vị Giám Mục một ơn lớn lao, và chúng được mời gọi dưỡng nuôi một sự hiệp thông chân thành và sâu xa với Giám Mục, bắt đầu từ các linh mục và các phó tế. Không có một Giáo Hội lành mạnh, nếu các tín hữu, các phó tế và các linh mục không hiệp nhất với Giám Mục. Giáo Hội không hiệp nhất với Giám Mục này là một Giáo Hội bệnh hoạn. Chúa Giêsu đã muốn sự hiệp nhất này của tất cả mọi tín hữu với Giám Mục, với cả các linh mục và các phó tế nữa. Và điều này trong ý thức rằng chính nơi Giám Mục mà mối dây nối kết của từng Giáo đoàn với các Tông Đồ và với tất cả mọi cộng đoàn khác, hiệp nhất với các Giám Mục và Giáo Hoàng trong Giáo Hội duy nhất của Chúa Giêsu, là Mẹ Thánh Giáo Hội Phẩm Trật của chúng ta.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu nói tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đến từ các nước Âu châu và Bắc Mỹ, cũng như các tín hữu đền từ Nhật Bản, Argentina, Mehicô, Panamá, Puerto Rico, Venezuela, Chile và Brasil. Ngài xin mọi người cầu nguyện cho các Giám Mục là những người bảo đảm cho đức tin chân thật và là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa họ, cũng như cầu nguyện cho ngài.

Với các tín hữu nói tiếng A rập, nhất là các anh chị em đến từ Libăng và Siria, Đức Thánh Cha khuyến khích họ yêu mến các Giám Mục, linh mục và phó tế và cầu nguyện cho các vị, để các vị luôn là dấu chỉ hữu hình của Chúa Kitô giữa Dân Người, một dụng cụ của hiệp thông và hiệp nhất, cũng như phương tiện của phước lành và ơn cứu độ.

Chào các tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha nhắc tới Ngày liên đới với Giáo Hội bị bách hại lần thứ VI cử hành bên Ba Lan vào Chúa Nhật tới đây, năm nay dành cho Siria. Ngài xin mọi người gần gũi với các anh chị em bên Siria cũng như trong nhiều nước khác trên thế giới đang đau khổ vì các cuộc chiến huynh đệ tương tàn và vì bạo lực. Ngài cám ơn các cử chỉ liên đới trợ giúp vật chất cho các anh chị em này như dấu chỉ sự hiện diện ân cần và tình yêu của Chúa Kitô.

Đức Thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương Italia, đặc biệt đoàn hành hương Torino do Đức Tổng Giám Mục Cesare Nosiglia và ông thị trưởng hướng dẫn. Ngài báo cho mọi người biết nếu Chúa muốn ngày 21 tháng 6 năm tới ngài sẽ hành hương Torino để tôn kính Tấm Khăn Liệm và thánh Gioan Bosco nhân kỷ niệm 200 năm thánh nhân sinh ra.

Ngài cũng chào các bề trên của dòng Bệnh viện thánh Gioan Thiên Chúa và các tham dự viên Diễn đàn do hiệp hội ”Bác ái trong Chân lý” tổ chức, cùng nhiều nhóm khác và khích lệ họ thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ, bằng cách nhận ra Chúa hiện diện đặc biệt nơi các người nghèo khổ.

Chào các bệnh nhân của hiệp hội SLA, cũng như các bệnh nhân theo dõi buổi tiếp kiến trên màn truyền hình trong đại thính đường Phaolô VI vì lý do thời tiết, Đức Thánh Cha bầy tỏ sự gần gũi và lời cầu nguyện của ngài cho họ. Ngài ước mong xã hội trợ giúp gia đình các anh chị em đau yếu đối phó với hoàn cảnh tật bệnh khổ đau của người thân.

Sau cùng ngỏ lời với giới trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, Đức Thánh Cha nhắc tới thánh Carlo Borromeo mà Giáo Hội kính nhớ hôm mùng 4 tháng 11. Ngài cầu mong sức mạnh tinh thần của thánh nhân khích lệ

các bạn trẻ sống đức tin nghiêm chỉnh; sự tin tưởng của thánh nhân nơi Chúa Cứu Thế nâng đỡ người đau yếu trong những lúc khó khăn nhất; và lòng tận tụy tông đồ của người nhắc cho các cặp vợ chồng mới cưới tầm quan trọng của việc giáo dục con cái theo tinh thần kitô.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
 
Thượng hội đồng về gia đình: phúc trình của các nhóm nhỏ (2)
Vũ Văn An
22:10 05/11/2014
Ngày 18 tháng Mười, chúng tôi đã cho phổ biến Phúc Trình của Các Nhóm nói tiếng Anh tại THĐ Đặc Biệt về Gia Đình năm 2014. THĐ này nay đã kết thúc với Bản Tường Trình Sau Cùng được công bố làm tài liệu chuẩn bị cho THĐ thường lệ vào năm 2015. Tuy nhiên, chúng tôi tiếp tục cho đăng các phúc trình của các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha, Pháp và Ý để bạn đọc có tài liệu nghiên cứu diễn biến của THĐ.

II. Phúc trình của các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha

"Có nhận định cho rằng việc đầu tiên nên có là đưa ra lời chào kính mọi gia đình Kitô Giáo đang sống Tin Mừng với lòng trung thành, yêu thương và hy sinh, và làm chứng cho Chúa Kitô trong toàn bộ xã hội”.

Sau đây là bản dịch các phúc trình của hai nhóm A và B nói tiếng Tây Ban Nha, căn cứ vào bảng tiếng Anh của Zenit.

1. Nhóm A, dưới quyền phối trí của Đức HY Robles Ortega

Nhóm có 17 nghị phụ, một linh mục chuyên viên, ba linh mục cố vấn và 4 giáo dân có khả năng. Nhóm than phiền về bản dịch nghèo nàn của RPD qua tiếng Tây Ban Nha.

Về phần dẫn nhập, nhóm đề nghị nên có lời chào kính mọi gia đình Kitô Giáo đang sống Tin Mừng với lòng trung thành, yêu thương và hy sinh, và làm chứng cho Chúa Kitô trong toàn bộ xã hội.

Về phần thứ nhất, Nhóm đề nghị thêm vào mục nói tới sự biến đổi về nhân học và văn hóa, điều này: hậu quả hiển nhiên nhất của sự biến đổi này là cuộc khủng hoảng đức tin khiến gia tăng con số những vụ kết hợp tự do, hôn nhân thử nghiệm, ly dị và không chào đón sự sống qua việc phá thai.

Nói về sự cô đơn, vốn là sự nghèo nàn của nền văn hóa ngày nay, trước hết, nó là hoa trái của việc thiếu vắng Thiên Chúa, của tính mỏng dòn trong các liên hệ liên ngã và của rất nhiều các khó khăn khác cản trở không cho ta xây dưng các cộng đồng sự sống và yêu thương.

Sự chẩn đoán ở số 10 đáng được bình luận như sau: đây là kết quả của não trạng phổ quát muốn giản lược việc sinh sản thành biến số của kế hoạch cá nhân hay kế hoạch của vợ chồng. Các yếu tố thuộc trật tự kinh tế đôi khi cũng đóng một vai trò quyết định, góp phần làm sinh suất sút giảm đáng kể, phá hoại mối liên hệ giữa các thế hệ. Trong thảm kịch hiếm muộn, tìm giải pháp ở các kỹ thuật trợ giúp thụ thai có thể phá hủy phẩm giá của tình yêu nhân bản và cả phẩm giá đứa trẻ.

Nhóm lên án việc cắt bỏ bộ phận sinh dục nữ, buộc người khác làm đĩ điếm hay nô lệ tình dục, nạn trẻ em sống ngoài đường phố vì thiếu cha mẹ, việc bóc lột trẻ em.

Phần thứ hai khiến Nhóm xét gia đình trong viễn ảnh kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhóm muốn phong phú hóa số 15 với nhận xét sau: trong truyền thống Kitô Giáo, hôn nhân là một liên minh yêu thương toàn diện và dứt khoát được linh hứng bởi tình yêu giữa Chua Kitô và Giáo Hội của Người, và được mời gọi lớn mạnh cho tới khi trở thành chứng từ cho tình yêu Thiên Chúa trên thế giới và là ngả đường hoàn thiện dẫn vào sự sống đời đời.

Nhóm thấy rằng các số nói về tình yêu con người đã phản ảnh viễn kiến của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nên cần nói rõ xuất xứ của chúng. Về phương diện này, các đoạn 17 và 23 đề cập tới việc biện phân các giá trị có trong các gia đình rạn nứt đã tạo nên một tính thống nhất mới mẻ rất có giá trị. Từ thời Thánh Justinô, người ta đã nói tới các mầm mống lời Chúa trong mọi nền văn hóa rồi, nên ta cũng có thể nói tới sự hiện diện dấu mặt, có tính mầm mống và sống động ấy. Nhóm tin rằng Tin Mừng gia đình có thể làm cho các mầm mống này lớn lên.

Chính vì thế, nhóm khuyên các cuộc hôn nhân dân sự và những người ly dị sau đó tái hôn nên đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa cho tới khi đạt được sự hiệp thông và ơn thánh Chúa cách trọn vẹn.

Nhóm chủ trương rằng “vì biết rõ lòng nhân hậu vĩ đại nhất chính là yêu thương trong sự thật (Thánh Augustinô), nên chúng ta phải đi quá bên kia lòng cảm thương. Tình yêu xót thương lôi cuốn và hợp nhất thế nào, thì nó cũng biến cải, thăng hoa và mời gọi ta hồi tâm như vậy (xem Ga 8:1-11)”.

Sang phần thứ ba, nhóm cho rằng trong số các nhân tố phá hoại đời sống gia đình, phải kể cả các nhân tố luật pháp và chính trị. Về đoạn 31, nhóm thêm nhận định này: “Để thực tại do Bí Tích biểu lộ được chấp nhận, thì điều cần là nó phải được cử hành với một đức tin rõ ràng và cương quyết, với một ý chí muốn chấp nhận điều Giáo Hội đề nghị trong Bí Tích. Đức tin này của những cặp đính hôn và kết hôn phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể”.

Nói tới các cặp đính hôn, nhóm cho rằng điều cần là phải nhớ tới tầm quan trọng giáo dục của các nhân đức, nhất là đức khiết tịnh và đức trong sạch, một đòi hỏi không thể thiếu nếu muốn cho tình yêu liên ngã lớn mạnh một cách chân chính. Phải trình bày rõ ràng cho các cặp đính hôn các lý tưởng của hôn nhân, giúp họ biện phân và quyết định cách tự do. Vì phần này tập chú vào vấn đề và thách đố của các gia đình bị rạn nứt, nên nhóm nhận định rằng khi vợ chồng gặp vấn đề trong mối liên hệ của họ, họ có thể trông cậy sự giúp đỡ và nâng đỡ của Giáo Hội. Nền mục vụ bác ái và xót thương phải được diễn dịch thành việc phục hồi những con người và những liên hệ cách chân thực. Kinh nghiệm cho hay: với sự giúp đỡ thỏa đáng và với việc tái sinh hành động của ơn thánh, phần lớn các cuộc khủng hoảng hôn nhân đã được giải quyết một cách tốt đẹp.

Dĩ nhiên, điều rõ ràng là: ngoài việc giúp đỡ nói trên, cần phải thêm sự giúp đỡ từ bên trong nữa, tức khả năng biết tha thứ. Có khả năng tha thứ và cảm nhận mình được tha thứ là một kinh nghiệm nền tảng trong cuộc sống gia đình. Sự tha thứ giữa vợ chồng giúp họ cảm nghiệm được một tình yêu mãi mãi, không bao giờ mất được (1Cor 13:8). Đôi khi rất khó, nhưng người nào được Chúa tha thứ hẳn có sức mạnh cung hiến một sự tha thứ đích thực khiến một người thấy như được tái sinh.

Đối với việc cố vấn cho các bên về tính thành sự của hôn nhân (đoạn 44), không phải chỉ có các linh mục mà những người khác, miễn được huấn luyện thích đáng, cũng có thể giúp được.

Về những người ly dị nhưng không tái hôn, ngoài những gì nói tại số 45, nên nói thêm rằng thường “họ là những chứng tá anh hùng cho tính bất khả tiêu và lòng trung thành”.

Đối với đoạn 50, nhóm thấy không nên nói tới người đồng tính như thể đồng tính luyến ái là một phần trong thực tại hữu thể học của họ, mà nên nói tới những con người có xu hướng đồng tính luyến ái. Nhóm đề nghị viết lại đoạn này như sau: “tính dục, một tính làm ta hiện hữu như là nhân tính nam nữ, là một giá trị không thể nào chuyển nhượng được trong nền nhân học và thần học Kitô Giáo. Nó làm ta hiện hữu vì nhau không phải một cách bất phân biệt mà là một cách bổ túc cho nhau. Những người có xu hướng đồng tính luyến ái cũng cần được chấp nhận và hỗ trợ giúp họ lớn lên trong đức tin và nhận biết kế hoạch Thiên Chúa dành cho họ”.

Đối với việc truyền sinh (đoạn 53), nhóm nhận định rằng con cái không phải là trở ngại cho tình yêu vợ chồng mà là hoa trái tự nhiên qúy giá nhất của tình yêu ấy, một tình yêu trở thành thân xác (G.S. 48-51).

Nhóm cũng đề nghị sửa lại đoạn 55 như sau: “Điều cần là phải tổng hợp các hành trình huấn luyện về mục vụ giúp người ta sống tính dục của họ như một ngôn ngữ tình yêu. Chứng từ và việc luôn đồng hành của gia đình đã chứng thực tính hữu hiệu của nó trong diễn trình chín mùi của tình nghĩa vợ chồng qua việc chấp nhận nhau sâu sắc nhất và hiến mình trọn vẹn hơn. Điều này sẽ đạt được nhờ biết tổng hợp chiều kích cảm giới của thân xác, tính dễ xung động và xúc động của nó, với chiều kích tâm linh của lý trí và ý chí. Trong việc lớn dần lên với thời gian này, một tình yêu trung thành và sâu sắc trở thành dịu dàng và kính trọng được tăng cường, trong đó, sự vui hưởng tình hiệp thông được phóng chiếu nơi hoa trái sự sống, một cách đại lượng, mà đỉnh cao là quà phúc con cái hay trong phương cách nhận con nuôi được tiếp nhận quà phúc Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ta từ một nơi khác”.

Cuối phần ba, nhóm muốn nhấn mạnh tới việc Giáo Hội có vai trò quan trọng phải hỗ trợ các gia đình, vốn là các Giáo Hội tiểu gia với thừa tác vụ hôn phối của họ, bắt đầu với việc khai tâm Kitô Giáo nơi các cộng đoàn sẵn sàng chào đón họ.

Nhóm thấy cần phải nhấn mạnh rằng tư cách mẹ của Đức Maria, kiểu mẫu tuyệt vời của tính sinh sản phong phú thần linh, qua sự dịu hiền, hay thương xót, nhậy cảm và gần gũi của ngài, có khả năng làm dịu cơn khát nhân loại và sự sống mà các gia đình cũng như các dân tộc luôn khẩn cầu và nài van. Một nền mục vụ và tôn sùng thánh mẫu đầy sáng tạo sẽ là khởi điểm hết sức thuận lợi để trình bày các lý tưởng của gia đình Kitô Giáo.

2. Nhóm B dưới sự phối trí của Đức HY Lluis Martinez Sistach

Phương thức của nhóm là nhất trí trong một bầu khí huynh đệ và đối thoại, với sự tham dự của cả các dự thính viên. Nhóm cho rằng Bản Tường Trình Sau Thảo Luận (RDP) phản ảnh những gì đã diễn ra tại Phòng THĐ: các thực tại đa dạng của Giáo Hội và của thế giới và những điểm chung qua đó, nhóm chia sẻ các thực tại nhân bản có tính nền tảng và các thực tại của đức tin chung cũng như nhiều tập chú hay nhấn mạnh khác nhau về thần học hay pháp chế.

Nhóm cho rằng điều tốt và điều cần là một số chủ đề cần được nghiên cứu bởi các ủy ban liên khoa có tính “đặc nhiệm” (ad hoc). Các vị mục tử và các nhà chuyên môn về Thần Học và Giáo Luật có nhiệm vụ đạt tới những đề nghị rõ ràng hơn về các chủ đề như cho phép người ly dị và tái hôn được rước lễ và các thủ tục pháp lý để tuyên bố hôn nhân vô hiệu, là những chủ đề đã được nêu ra và chắc chắn sẽ là thành phần không thể thiếu cho THĐ thường lệ sắp tới.

Nhóm coi RPD ngay từ đầu vốn là một tài liệu làm việc tốt, tuy nhiên, có thể cải thiện, sửa đổi. Vì thực ra nó không nhấn mạnh đủ tới các đề tài quan trọng như phá thai, các mưu toan chống lại sự sống, hiện tượng phổ quát của việc nhận con nuôi, các quyết định lương tâm của vợ chồng, cũng như cần phải nói rõ hơn về đồng tính luyến ái.

Nhóm cho rằng điều tối quan trọng là một số đề tài cần được nghiên cứu thêm tại các ủy ban đã được dự trù, với sự tham khảo thích đáng các Giáo Hội đặc thù trong khoảng thời gian từ nay tới THĐ thường lệ năm 2015.

Cấu trúc của RPD xem ra khá tích cực vì phù hợp với phương pháp khá phổ biến hiện nay là nhìn/phán đoán/hành động dưới hình thức lắng nghe/nhìn lên Chúa Kitô/gặp gỡ và quan điểm mục vụ. Nhóm tạ ơn Thiên Chúa, Đấng nhìn thực tại Giáo Hội và thực tại thế giới bằng cái nhìn đầy thương xót; Người mặc khải đường lối của Người nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đồng hành với toàn thể nhân loại và ban cho chúng ta Thần Trí của Người, nhằm hướng dẫn Giáo Hội tới chỗ viên mãn.

Tuy nhiên, nhóm thấy RPD không nhấn mạnh đủ tới sứ điệp tích cực của Tin Mừng gia đình, có lẽ vì chỉ chủ yếu suy nghĩ tới các quan tâm mục vụ của các hội đồng giám mục về những bóng tối đang lơ lửng trên gia đình và thế giới hiện nay.

Nhóm ý thức được mục tiêu rõ ràng về mục vụ, chứ không về học thuật, của THĐ, từ đó, người ta mong đợi một nền mục vụ và một sự hỗ trợ mới mẻ và cương quyết cho giáo dân, các gia đình và các phong trào đang bước theo hành trình này. Dù vậy, nhóm thấy cần phải nhấn mạnh cả các yếu tố nền tảng về tín lý, tránh việc các cục bộ hóa hay các giáo huấn song hành.

Nhóm thấy cần lưu ý tới sự phong phú lớn lao trong huấn quyền gần đây của Đức Phaolô VI, Thánh Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô.

Một cách cụ thể, nhóm liệt kê các đóng góp chính như sau:

* Nhấn mạnh tới các điểm sáng và tầm quan trọng của hôn nhân.
* Khuyến khích nền mục vụ gia đình trong các hoàn cảnh hiện nay.
* Mong ước THĐ soi sáng và hướng dẫn đối với các hoàn cảnh mới của hôn nhân.

Nhóm đề nghị rằng trong việc chọn các tham dự viên cho THĐ sắp tới, nên chọn các vị giám mục từng tham dự THĐ đặc biệt lần này để bảo đảm có được sự liên tục về cung cách làm việc và suy nghĩ.

III. Phúc Trình của các nhóm nói tiếng Pháp

“Ưu tiên đối với chúng tôi là việc khảo sát các cuộc hôn nhân đáng hoài nghi phải được làm dễ dàng và các thủ tục để tuyên bố hôn nhân vô hiệu phải được tiến hành nhanh chóng hơn”

1. Nhóm A dưới sự phối trí của Đức HY Robert Sarah

Nhóm trình bày 5 điểm:

a. Một số nhận định tổng quát

Nhóm ca ngợi đặc tính rất cởi mở, đơn giản và huynh đệ của các phiên họp: mọi người hành sử cách đơn sơ, có tinh thần trách nhiệm cao và tin tưởng lẫn nhau.

Tuy nhiên, nhóm thấy hơi bối rối về việc phổ biến một tài liệu được nhóm coi như tài liệu để làm việc, do đó, tạm thời. Tài liệu này đơn giản mà hữu ích, tuy nhiên việc phổ biến nó có hiệu quả ngược lại, khiến gây bối rối, làm trở ngại việc suy nghĩ.

Nhóm được chứng kiến tính đa nguyên và đa dạng của các tình thế trong Giáo Hội. Không phải mọi Giáo Hội địa phương đều quan tâm như nhau hay bị xúc động như nhau về cùng một vấn đề được nêu ra. Hơn nữa, vì ý thức được điều này, nên nhóm hy vọng rằng một sự độc lập nào đó nên được dành cho các Giáo Hội địa phương để họ tìm ra các giải đáp đối với các quan tâm mục vụ của họ.

Sau cùng, nhóm cho rằng cần thận trọng khi sử dụng các từ ngữ như các chữ cặp vợ chồng, hôn nhân, cá nhân hay con người.

b. Về phần 1 của RPD

Nhóm thấy cần phải xem xét các điểm sáng và tối của thực tại hôn nhân và gia đình trong bối cảnh xã hội và thế giới ngày nay theo cái nhìn của Chúa Kitô đối với con người: sau đó, các thách đố cần bàn bạc và cần được sống mới có thể phù hợp với truyền thống của Giáo Hội, bằng một thái độ chấp nhận, hiểu biết và thương cảm. Điều này khiến nhóm nhấn mạnh tới cảnh khốn cùng phi nhân hóa đang là một trong các nguyên nhân chính tạo ra cảnh bất ổn và hủy diệt các gia đình, tới “các biên tế khốn cùng đang bao vây nhiều thủ phủ lớn hiện nay… những tình huống bạo lực, chiến tranh và các hậu quả của chúng”. Nhóm cũng muốn khẳng định rằng đời sống xúc cảm phát triển, được cấu trúc và thể hiện cách tối ưu trong khuôn khổ cuộc sống gia đình. Về phương diện này, nhóm nghĩ: điều quan trọng là làm cho các yếu tố tích cực của gia đình, các giá trị, lòng quảng đại của nó trở nên hiển hiện, những điều xây dựng chứ không phá phách… nghĩa là, tất cả những gì kích thích Giáo Hội trong nhiệm vụ nói lên lời sự thật, lời hy vọng cho người cùng thời với ta và chất vấn một số cơ quan quốc tế giúp họ chấp nhận quan niệm đúng đắn về con người, về hôn nhân và về xã hội.

c. Về phần 2 của RPD

Khảo sát bản văn này đặt ra nhiều câu hỏi dẫn nhóm tới việc viết lại phần này và đề nghị dùng nó, nếu thấy có ích, vào việc soạn thảo bản văn sắp tới để Giáo Hội cùng suy nghĩ. Bản văn này nhất định phải có tính qui Kitô: nó đặt Chúa Kitô làm tâm điểm, con người và lời nói của Người, việc ta thuộc về Người và việc Người lên án sự cứng lòng cũng như việc Người nhập thân nền sư phạm đầy kiên nhẫn và thương xót của Thiên Chúa ngay trong lúc chịu khổ hình, việc Người chịu chết và việc Người sống lại. Thực vậy, Bí Tích Hôn Phối đã được xây dựng trên chính việc gắn bó với Chúa Kitô và thuộc về Người sau khi chịu phép rửa.

Việc thừa nhận các thất bại trong tình yêu và các cuộc kết hợp bất toàn chính là những lời mời gọi ta phải có một nền chăm sóc mục vụ đặc biệt, có khả năng biết tôn trọng con người, khích lệ các cố gắng thống hối và cung hiến một trợ giúp đầy tình huynh đệ của cộng đồng Kitô hữu mà họ vốn thuộc về. Tuy nhiên, việc thừa nhận này không làm ta quên các gia đình đang cố gắng sống cuộc hôn nhân Kitô Giáo của họ một cách gắn bó và trung thành, và đang làm chứng cho nó bằng niềm vui và cả những thử thách gian nan như nghèo khó, thất nghiệp, bệnh hoạn, tang chế, hiếm muộn và khó khăn trong việc giáo dục con cái.

d. Về phần 3 của RPD

Về vấn đề những người ly dị tái hôn và các bí tích Hòa Giải và Rước Lễ, nhóm cho rằng điều quan trọng là “đừng thay đổi tín lý của Giáo Hội về tính bất khả tiêu của hôn nhân và việc không cho phép người ly dị tái hôn được chịu các bí tích Hòa Giải và Rước Lễ, nhưng nên áp dụng tín lý thường hằng này của Giáo Hội vào các tình huống đa dạng và đau đớn của thời đại ta, với một tầm nhìn đổi mới đầy cảm thông và thương xót đối với những con người này”. Điều được nhóm coi như ưu tiên là phải làm dễ việc khảo sát các cuộc hôn nhân bị hoài nghi và các thủ tục để tuyên bố hôn nhân vô hiệu cần được tiến hành nhanh chóng hơn. Điều cũng quan trọng là phải có một ngôn ngữ tích cực và hữu dụng và phải xem xét tường tận những con người sống trong các tình huống đa dạng này.

Về việc tiếp nhận những người đồng tính, điều nhóm thấy rõ ràng là Giáo Hội, trong hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành (Ga 10:11-18), vẫn luôn luôn muốn tiếp nhận những người tới gõ cửa, vẫn mở cửa đón chào mọi người một cách kính trọng, cảm thương và thừa nhận phẩm giá họ. Tuy nhiên, hỗ trợ một người về phương diện mục vụ không hề có nghĩa ủng hộ một hình thức tính dục hay một lối sống nào đó.

e. Một số suy nghĩ để kết luận

Hôn nhân và gia đình quả nằm ở trung tâm các vấn đề chủ yếu của thời nay: con người phải hiểu được các vấn đề nhân học của ngày nay và của ngày mai như

* phân tích các nguyên nhân xã hội và kinh tế khiến gia đình rạn nứt;
* suy nghĩ về mối liên kết giữa hôn nhân, gia đình và xã hội
* sâu sắc hóa về phương diện Thánh Kinh và thần học những điều suy nghĩ qúa vội…

Công trình quan trọng thực hiện được tại đây từ trước đến nay xem ra cần được suy nghĩ sâu sắc thêm, nhất là các khía cạnh nhân học và thần học, đều là những khía cạnh phải được xem xét và hướng dẫn một cách thích đáng nhất trước khi có THĐ vào năm tới. Nhóm không tin rằng một ủy ban đặc nhiệm là điều thích đáng. Nhóm cho rằng phải xem sét các khía cạnh này một cách sâu rộng nhất, với sự can dự của nhiều hội đồng giám mục khác nhau.

2. Nhóm B dưới sự phối trí của Đức HY Christoph SCHOENBORN, O.P.

Nhóm làm việc trong một bầu khí thẳng thắn và lắng nghe nhau. Mọi người đều trân qúy cuộc “chuyện trò” phổ quát này, trong đó có tiếng nói của Âu Châu, của Á Châu và Trung Đông, của Phi Châu và cả Bắc Mỹ, với nhiều cung giọng khác nhau nhưng rất hòa điệu. Các sự kiện và vấn đề được sáng tỏ nhờ nhiều trải nghiệm hết sức đa dạng trong cùng một nhóm ngôn ngữ.

Nhóm cũng chào đón sự hiện diện của tín hữu giáo dân nam nữ, chủ yếu là các cặp vợ chồng; họ gây xúc động và xây dựng các nghị phụ bằng “chứng tá” sống động, nhiều khi tốt hơn các việc “dầu mỡ” thần học tuy cũng cần của các nghị phụ.

Trong các trao đổi đầu tiên của nhóm đối với các tham luận của các nghị phụ, nhóm lưu ý tới các vấn đề chính sau đây:

Làm thế nào để kết hợp tín lý với kỷ luật, phương thức tín điều với sự gần gũi mục vụ? Làm thế nào để kết hợp lòng yêu mến sự thật với tình bác ái mục vụ một cách không làm phiền lòng cả người con trai thứ lẫn người con trai cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng của Tin Mừng Luca? Làm thế nào để xem xét sự đa dạng của các hoàn cảnh mục vụ khắp trên thế giới và làm thế nào để cuối cùng gửi được các suy tư này tới các hội đồng giám mục quốc gia, vùng miền hay lục địa theo nguyên tắc phụ đới, trong khi vẫn kính trọng tính Công Giáo và do đó, tính phổ quát của Giáo Hội trong rất nhiều vấn đề chủ yếu và đồng thời liên quan tới các đặc điểm nền tảng của bản tính con người?

Vì thấy văn phong của RDP quá dầy đặc, không mạch lạc, quá lắm lời và do đó, xét chung, khá buồn tẻ, một văn phong càng trở nên tệ hơn khi dịch qua một ngôn ngữ khác, nhóm đã đưa ra các thay đổi đáng kể đối với một số điểm quan trọng như sau:

Vì thiếu đa số tuyệt đối (9 ủng hộ, 5 chống, 4 phiếu trắng), nên ý niệm “tiệm tiến” trong lối loại suy đại kết do Lumen Gentium khai triển và trong lối nói “hạt giống lời Chúa” của các giáo phụ đã được để qua một bên, mỗi khi có nguy cơ hiểu lầm các kiểu nói này như là để tiên thiên hợp pháp hóa các trạng thái sống bất hợp lệ, nghĩa là, tội lỗi, cho dù nhóm thừa nhận, một cách hậu thiên, rằng nhiều trạng thái này có thể là đường hay là giai đoạn đạt tới một trạng thái tốt hơn. Về khả thể lãnh nhận các bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, một số nghị phụ, cả trên bình diện tín lý lẫn trên bình diện mục vụ, ủng hộ kỷ luật hiện nay dựa trên nền tảng tín lý, không ngừng được huấn quyền của Giáo Hội xác nhận. Các nghị phụ khác cũng dựa vào các quan tâm tín lý và mục vụ này để đề nghị huấn quyền nên đưa ra một kỷ luật khác nhưng với những điều kiện rõ ràng (xem số 47 của RPD). Nhóm yêu cầu nên nghiên cứu và lượng giá việc rước lễ thiêng liêng mà truyền thống vốn khuyến cáo những ai, vì các lý do khác nhau không thể rước lễ “theo bí tích” được, nên thực hành; việc nghiên cứu và lượng giá này phải thực hiện trên nền tảng tín lý, và nếu được cuộc nghiên cứu này chấp thuận, thì nên cổ vũ và phổ biến rộng rãi nơi tín hữu. Nhóm mạnh mẽ nhấn mạnh rằng cho dù Giáo Hội không thể hợp pháp hóa mọi hoàn cảnh sống, thì lòng thương xót của Chúa và của Giáo Hội nên vươn tới mọi người trong hoàn cảnh sống của họ, ngõ hầu dẫn dắt họ tiến trên đường sự thật, hồi tâm và bình an.

Nhóm nhắc lại sự tôn trọng và chào đón của nhóm đối với người đồng tính và lên án mọi kỳ thị bất công và đôi lúc bạo động họ từng phải chịu và có lúc vẫn đang phải chịu, ngay trong Giáo Hội! Tuy nhiên, điều này không có nghĩa Giáo Hội phải hợp pháp hóa các thực hành đồng tính và càng không nên nhìn nhận chúng, như một số chính phủ đã làm với cái tự gọi là “hôn nhân” đồng tính. Ngược lại, nhóm lên án mọi thủ đoạn của một số cơ quan quốc tế mưu toan áp đặt lên các quốc gia nghèo một thứ luật lệ cho phép các cuộc “hôn nhân” đồng tính này, qua chính sách tống tiền họ về phương diện tài chánh. Sau cùng, nhóm muốn trình bày một cách tích cực và cập nhật hóa cảm hứng có tính tiên tri từng khuyến khích Chân Phúc Phaolô VI viết ra thông điệp Humanae Vitae, trong đó, Chân Phúc ca ngợi vẻ đẹp của sợi dây sâu sắc là tình yêu vợ chồng, một tình yêu vốn kết hợp một lúc cả sự nên một về tâm linh và thể xác của vợ chồng lẫn việc cởi mở chào đón quà phúc sự sống.

Còn tiếp
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh lễ cầu nguyện cho các tu sĩ giáo phận Phú cường đã qua đời
giáo xứ Bến Sắn
09:33 05/11/2014
Vào lúc 7 giờ sáng nay, ngày 05//11/2014, Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước - Giám mục Phú cường cùng cha Tổng Đại Diện và quý cha trong Giáo hạt Phú Cường, đã đến dâng thánh lễ cầu cho quý Giám mục và linh mục giáo phận Phú cường đã qua đời tại Đất thánh các linh mục Giáo xứ Bến Sắn. Ngoài ra còn có sự hiện diện của các nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Nam Vang Phú Cường, Dòng cũng chôn cất các nữ tu tại Đất thánh giáo xứ Bến sắn. Quý thầy và quý chú dự tu và bà con xa gần trong khu vực cũng qui tụ về đây.

Xem Hình

Trong bài giảng Đức cha đã làm nổi bật lên niềm tin Ki tô giáo khi tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa Hằng Sống, sự chết chỉ là một kết thúc tạm thời để ta được sống mãi trong Chúa Giê su phục sinh. Một ngạn ngữ Pháp đã nói: " người ta chỉ chết thật sự khi không còn ai nhớ tới". Quý Đức cha, các cha, các tu sỹ nam nữ và bà con giáo dân và quý ân nhân đã ra đi trước chúng ta và luôn được chúng ta nhớ tới khi dâng lễ, cầu nguyện, các ngài đã không chết nhờ vào niềm tin Đức Giê su Ki tô phục sinh. Chính điều này đã làm chúng ta tin tưởng rằng các ngài sẽ được sống và hạnh phúc trong Chúa, Đấng mà các ngài đã một mực đi theo trong ơn gọi của mình. Chúng ta tiếp tục dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, vì khi còn nơi dương thế chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, nay xin Chúa làm tròn đầy và bổ khuyết cho các ngài và rộng lòng nhân từ xóa bỏ những bất toàn và mau cho các ngài vào Thiên Quốc chung hưởng niềm vui với Các Thánh.

Sau bài hát kết lễ Đức cha, cha Tổng Đại Diện cùng các cha và cộng đoàn tham dự đã đến niệm hương và rảy Nước Thánh trên mộ phần của các cha. Thánh lễ kết thúc vào lúc 8 giờ 00.

Sau thánh lễ Đức Cha Giuse cũng đã dành chút thời gian quý báu đến thăm từng ngôi mộ của các nữ tu dòng Con Đức Mẹ Nam Vang, Ngài đọc kinh và cầu nguyện cho các nữ tu đang hiện diện trên mảnh đất thánh thiêng này.
 
Thánh lễ cầu nguyện cho quí Giám mục và quí linh mục TGP Sài gòn đã qua đời, tại giáo xứ Chí Hòa
Nguyễn Xuân
09:29 05/11/2014
Vào lúc 8g30, ngày 05/11/2014, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc và rất đông Linh mục thuộc Linh mục đoàn Tổng giáo phận Sàigòn đã đến Giáo xứ Chí Hòa, cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho linh hồn các vị Giám mục và Linh mục thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn.

Hình ảnh

Đầu thánh lễ, Đức TGM ngõ lời: Việc cử hành thánh lễ hôm nay là một cử chỉ biểu lộ lòng biết ơn của Giáo phận đối với những tiền nhân đã hết mình phục vụ Giáo Hội Chúa Kitô trong giáo phận Sài Gòn. Quả vậy sự hiện diện đông đủ của linh mục, ngồi kín cả khoang giữa của nhà thờ đã chứng minh tình thương và sự kính trọng của các vị đối với linh mục đàn anh hoặc các giáo sư của mình.

Tiếp theo, Linh mục Tổng Đại Diện, Ignatiô Hồ Văn Xuân gợi nhớ đến quý Đức Cha Jean Cassaigne, Đức Cha Simon Hòa Hiền, Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, Đức Cha Phanxicô Trần Thanh Khâm, Đức Cha Lu-y Phạm Văn Nẫm, và tất cả quí cha đã qua đời, đặc biệt quí cha qua đời trong năm 2014.

Trong bài chia sẻ Tin Mừng (Mt 25,31-46), Đức TGM nói về cuộc phán xét cuối cùng mà tất cả mọi người đều phải đối mặt. Khi ấy, Chúa Giêsu Kitô sẽ xét xử chúng ta dựa trên điều răn mới của Người "Yêu mến anh em như Người đã yêu mến". Thông thường khi xét mình, ta thường nghĩ vi phạm chính điều luật thì quan trọng, còn thiếu sót thì không quan trọng. Nhưng Đức TGM nhấn mạnh đó là một ý nghĩ sai. Thiếu sót như trong bài Tin Mừng Matthêu mô tả rất nhiều : không cho kẻ đói ăn, không cho kẻ khát uống, không tiếp rước khách đỗ nhờ, không cho kẻ rách rưới mặc, không thăm viếng... Thái độ thiếu sót này xuất phát từ sự hờ hững đối với tha nhân, thiếu quan tâm đến người khác, ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Đây chính là tâm trạng phổ biến trong thế giới hôm nay, không chút phản ảnh gì về bản chất của Thiên Chúa là “Tình Thương” và nó diễn tả hình như trong xã hội ngày nay không có chỗ đứng cho Tình Thương và cho “Thiên Chúa là Tình Thương”.

Chính Tình yêu mà Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta, làm cho ta không còn thái độ dửng dưng nữa, nhưng biết quan tâm đến người khác bằng những hành động cụ thể : cho ăn, cho uống, tiếp rước, cho mặc, thăm viếng… Và, chính mỗi lần làm như thế là chúng ta đã làm cho chính Chúa Kitô. Ngài mời gọi mọi người : hãy cầu nguyện thật nhiều cho các Giám mục và Linh mục đã ra đi trước chúng ta, xin Chúa thương xót và tha thứ cho những thiếu sót của các ngài. Chắc chắn Chúa lắng nghe lời cầu nguyện trong đức tin và lòng mến của chúng ta.

Đối với những người còn sống, dựa vào bài đọc trích sách Công vụ Tông đồ, (Cv 20,19-24.28-32) Thánh Phaolô mô tả về cuộc đời Tông đồ của ngài, đầy những gian nan thử thách, nhưng Ngài coi mạng sống của mình chẳng là gì, miễn sao chu toàn trách nhiệm mà Chúa Giêsu đã trao phó, Đức TGM mời gọi mọi người lưu ý tới phần rỗi của mình bằng cách tận tình chăm sóc cho phần rỗi của đoàn chiên. Hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh mà Chúa Giêsu đã mua bằng máu của chính mình.

Và, trong mầu nhiệm “các Thánh thông công”, theo Giáo lý Công Giáo, chúng ta là những người lữ hành còn có thể lập công phúc và nhường lại cho anh em đã qua đời, chúng ta hãy cử hành Thánh lễ để cầu nguyện cho họ. Trong tháng các đẳng linh hồn, hãy vì bác ái và tinh thần khó nghèo mà cầu nguyện cho những anh em Linh mục mà ít người xin lễ, dù không có bổng lễ.

Thánh lễ tiếp tục diễn ra trong bầu khí trang nghiêm và trật tự dù có rất đông giáo dân tham dự

Sau thánh lễ, Đức TGM, Linh mục đoàn và cộng đoàn ra viếng Nghĩa trang các Giám mục và Linh mục, Đức TGM thắp hương cầu nguyện cho linh hồn các ngài. Sau đó, quý cha cùng với giáo dân của mình thăm mộ riêng các vị tiền nhiệm của mình, hoặc các thầy dạy của mình.

Đến 11giờ, người giáo dân cuối cùng ra về trả lại sự yên tĩnh vốn có của nghĩa trang
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Người sống đời thánh hiến làm bõ vú đỡ đầu được không?
Nguyễn Trọng Đa
09:14 05/11/2014
Giải đáp phụng vụ: Người sống đời thánh hiến làm bõ vú đỡ đầu được không?

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Thưa cha, liệu một người nữ sống đời thánh hiến có thể làm vú đỡ đầu cho một trẻ sơ sinh rửa tội không? Hoặc liệu ơn gọi truyền giáo ngăn cản người này chu toàn vai trò của một vú đỡ đầu không? Hoặc liệu việc ấy ngăn cản người này, do vai trò truyền thống của người đỡ đầu là làm người giám hộ cho đứa trẻ, trong trường hợp cha mẹ nó qua đời không? Con thấy Giáo luật dường như không cấm người sống đời thánh hiến làm bõ vú đỡ đầu. – C. L., Potomac, Maryland, Mỹ.


Đá
p: Trước đây có một sự hạn chế chung về việc các linh mục, tu sĩ nam nữ và người khác sống đời thánh hiến, làm bõ vú đỡ đầu, và việc này bắt nguồn tử Bộ Giáo Luật năm 1917.

Khoản luật 766, số 4 và 5, nói rằng việc một người sống đời thánh hiến làm bõ vú đỡ đầu phải là một sự cấp thiết, và cần có sự chấp thuận của bề trên. Phó tế và linh mục cần phải xin phép Giám mục bản quyền của mình.

Thực sự, các lý do đằng sau này là rằng đời sống tu trì và bậc giáo sĩ được xem là không tương thích với trách nhiệm làm bõ vú đỡ đầu.

Bộ Giáo luật năm 1917 đã xem điều này như một sự ràng buộc tinh thần rất mạnh, đến nỗi nó tạo ra một ngăn trở cho hôn nhân giữa người đỡ đầu và con đỡ đầu, và người đỡ đầu sẽ làm người giám hộ, trong trường hợp cha mẹ của con đỡ đầu qua đời. Tại một số quốc gia có truyền thống Công Giáo mạnh mẽ, ưu tiên này trong "patria potestas" (quyền làm cha mẹ) của bõ vú đỡ đầu trên bà con thân thiết thậm chí còn được tôn trọng trong luật dân sự nữa.

Bộ Giáo luật năm 1983 loại bỏ hầu hết các hạn chế nói trên. Các khoản luật mới và ngắn hơn nói về bõ vú đỡ đầu như sau:

“Ðiều 872: Trong mức độ có thể được, phải liệu cho người sắp chịu Bí Tích Rửa Tội có một người đỡ đầu. Nhiệm vụ của người đỡ đầu là tham dự vào việc khai tâm Kitô giáo của người lớn sắp rửa tội; còn đối với nhi đồng sắp rửa tội, người đỡ đầu phải cùng với cha mẹ đem em nhỏ đến chịu rửa tội, rồi cộng tác với cha mẹ giúp em bé đã được rửa tội sống đời sống Kitô giáo cách xứng đáng và tận tụy chu toàn những bổn phận gắn liền với Bí Tích Rửa Tội.

“Ðiều 873: Có thể chỉ nhận một cha đỡ đầu hoặc một mẹ đỡ đầu, hay cả cha và mẹ đỡ đầu.

“Ðiều 874: §1. Ðể được nhận giữ vai trò đỡ đầu, cần:

1. phải được chọn lựa bởi chính người sắp được rửa tội, hay cha mẹ của đương sự hoặc người thế quyền cha mẹ; nếu không có cha mẹ và người thế quyền thì Cha Sở hay thừa tác viên rửa tội sẽ chọn lựa. Người được chọn phải có khả năng và chủ ý thi hành nhiệm vụ đỡ đầu;

2. đã được mười sáu tuổi trọn, trừ khi Giám Mục giáo phận ấn định tuổi khác, hoặc Cha Sở hay thừa tác viên thấy có thể nhận một ngoại lệ vì lý do chính đáng;

3. phải là người Công Giáo, đã chịu Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Mình Thánh, lại có đời sống xứng hợp với Ðức Tin và chức vụ sắp lãnh nhận;

4. không mắc một hình phạt giáo luật đã được tuyên kết và tuyên bố hợp lệ;

5. không phải là cha hay mẹ của người được rửa tội.

"§2. Người nào đã được rửa tội nhưng thuộc về một giáo đoàn không Công Giáo, thì chỉ được nhận cùng với một người đỡ đầu Công Giáo, và với tư cách chứng nhân của Bí Tích Rửa Tội mà thôi (Bản dịch Việt ngữ của các Linh Mục Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh).

Như thế, người ta thấy là một linh mục, tu sĩ hoặc người sống đời thánh hiến có đầy đủ các điều kiện cần thiết này để làm bõ vú đỡ đầu, và do đó có thể tự do chấp nhận lời mời làm người đỡ đầu.

Các quy tắc cũ đã là khá phù hợp trong một xã hội có tính di động ít hơn so với ngày nay, và đã không hiếm rằng một người đỡ đầu có thể giúp đỡ hoặc thay thế cha mẹ trong nhiệm vụ của họ. Do đó, việc không cho phép linh mục và tu sĩ thời trước đây làm người đỡ đầu là điều dễ hiểu.

Ngày nay, khi người ta sống đời di động nhiều, nhiệm vụ của người đỡ đầu thường là sự hỗ trợ tinh thần từ xa, hơn sự giúp đỡ trực tiếp như cha mẹ. Như thế, một tu sĩ có thể giúp nuôi dưỡng đời sống tinh thần của con đỡ đầu, như là một người bà con hoặc bạn thân đang sống cách xa hàng ngàn dặm vậy. (Zenit.org 4-11-2014)

Nguyễn Trọng Đa
 
Muà bầu cử ở Hoa Kỳ: hậu quả cuả một thực tại mới đối với Công Giáo.
Trần Mạnh Trác
12:10 05/11/2014
Thực tại chính trị mới.



Những ai đã từng theo dõi cuộc bầu cử giũa kỳ ở Hoa Kỳ thì đều biết rằng đảng Cộng Hoà đã thắng lớn:

-Họ đã giành thêm được 7 ghế Thượng Viện để có một đa số là 52 ghế, đó là chưa kể 3 ghế còn chưa quyết định ở Virginia, Alaska và Louisiana.

Alaska và Louisiana không có người chiếm được đa số (trên 50%) cho nên sẽ phải bầu cử đợt 2 để quyết định chung kết.

-Dưới Hạ Viện họ gia tăng thêm 13 ghế để có một đa số áp đảo là 242 ghế. (vs 174 Dân Chủ )

-Cấp Tiểu Bang, những tiểu bang từng bỏ phiếu cho Dân Chủ như Illinois, Maryland, và Massachusetts thì nay đã chọn thống đốc Cộng Hoà.

Nói chung, trừ trường hợp cuả một dân biểu Cộng Hoà ở Hạ Viện thì tất cả các ứng viên tái tranh cử cuả đảng Cộng Hoà đã không một ai phải thất cử cả. Và kết quả đã là rất quyết định và rất sớm.

Lý do

Người ta sẽ còn nghiên cứu nhiều về lý do chiến thắng cuả Cộng Hoà cũng như lý do thất bại cuả Dân Chủ, tuy nhiên một vài nét tổng quát đã được nêu ra như sau:

-Đây là một cuộc trưng cầu dân ý về Obama. Ông ta đã thất nhân tâm đến độ trong hầu hết các cuộc tranh cử, ông ta phải tránh mặt không xuất hiện để cho ứng cử viên cuả đảng khỏi bị liên lụy.

-Đảng Cộng Hoà tuy không đắc nhân tâm hơn gì, nhưng đã áp dụng một kỷ luật nội bộ khá vững vàng và một kế hoạch tranh cử có hiệu quả.

Kết quả là một đảng Dân Chủ trở nên yếu kém chưa từng thấy. Theo Business Insider thì có nhiều đảng viên đã biều lộ sự bất mãn một cách khá mạnh mẽ, một chiến lược gia giấu tên cuả Dân Chủ thốt lên rằng: "Có ai mà ngờ được sẽ lại tái diễn một cơn sóng thần như năm 2004 đâu ?"

Rồi anh ta tức giận chửi thề: "@@, rõ ràng là một cuộc tắm máu".

Người ta nghĩ rằng đảng Dân Chủ đang cần có một vị cứu tinh, giống như sự xuất hiện cuả Mai Sen cứu dân Do Thái khỏi nước Ai Cập ngày xưa. Nhưng ai sẽ là nhân vật đó đây?

Hillary Clinton chăng? Trong cuộc bầu cử vừa qua, cả hai ông bà Bill và Hillary Clinton đã xuất hiện trên 100 cuộc vận động để ủng hộ gà nhà, nhưng tình thế cũng không khả quan hơn gì !

Những hậu quả.

Như đã từng được bàn, hậu quả sẽ là một tình trạng xa lầy thêm 2 năm nữa.

Một cái vòng luẩn quẩn sẽ xảy ra: Lập Pháp, do Cộng Hoà kiểm soát, sẽ thúc đẩy nhiều dự luật, nhưng Obama sẽ dùng quyền phủ quyết để bác bỏ. Và vì phe Cộng Hoà không có đủ 67 ghế ở Thượng Viện để vượt qua (override) việc phủ quyết đó, cho nên 'bế tắc sẽ hoàn lại bế tắc'.

Không phải mọi hệ lụy cuả bế tắc đều là xấu. Nhiều kinh tế gia cho rằng nhờ có bế tắc mà sự chi tiêu hào phóng của Hoa Kỳ đã được kềm hãm, sự thâm hụt về tài chánh được giảm bớt, cán cân ngoại thương tương đối tìm được cân bằng và nền kinh tế đang trên đà phục hồi.

Nhưng bế tắc cũng có nhiều hệ lụy xấu. Chính sách Hoa Kỳ bị sa sút trên lãnh vực ngoại giao và quân sự. Âu Châu không còn sống hoà nhịp với Mỹ như xưa, Tầu và Nga bắt đầu 'thí nghiệm' sức mạnh cuả Mỷ ở nhiều nơi.

Riêng ở trong nước, nhiều lãnh vực đời sống dân sự đáng lẽ phải được canh tân đã không thể thực hiện được, thí dụ như những luật lệ về di dân, việc tăng cường kiểm soát biên giới để chống nạn buôn người, ma tuý và vấn đề giảm giá y tế.

Cách duy nhất để tháo gỡ là phải có một sự thoả hiệp (compromise) giữa Obama và quốc hội.

Một lãnh vực mà người ta thấy có thể thoả hiệp được đó là về kinh tế tài chánh.

Thúc đẩy ngoại thương với Á Châu?

Theo báo Forbes, thì một thượng viện Cộng Hoà sẽ có nhiều hy vọng thoả thuận với Obama về những cam kết ngoại thương, nhất là những đề nghị Tự Do mậu dịch với các quốc gia Á Châu mà Obama đã thúc đẩy trong những năm vừa qua.

Với một vị chủ tịch mới cuả khối đa số là Mitch McConnell, thay thế cho Harry Reid, thì những cản trở cuả Harry Reid từ trước đến nay sẽ tan biến mất.

Harry Reid, xuất thân là một luật sư cuả các liên đoàn lao động, đã không muốn có một nền ngoại thương lớn mạnh với Á Châu để bảo vệ số công việc ở trong nước.

Mitch McConnell là một thượng nghị sĩ có nhiều liên hệ với Á Châu. Vợ là bà Elaine Chao, từng làm tổng trưởng lao động dưới chính phủ W. Bush, là một người gốc Đài Loan.

Và chủ tịch mới cuả ủy ban tài chánh thượng viện chắc chắn sẽ là Orrin Hatch, thượng nghị sĩ Utah, cũng là một gương mặt thân Đài Loan.

Cho nên một số kinh tế gia đã tiên đoán rằng, tuy sẽ có nhiều nới lỏng về ngoại thương với các quốc gia Á Châu, nhưng mỗi khi có sự cạnh tranh giữa Trung Cộng và Đài Loan, thì sẽ có 'nổ lớn.'

Đây có phải là một sự khởi đầu cuả một sự 'tái phối trí' về kinh tế tài chánh để bao vây Trung Cộng chăng?

Hậu quả về các ưu tiên cuả Công Giáo.

Riêng về những ưu tiên cuả Công Giáo, thì một thực tại chính trị mới sẽ có hậu quả thế nào?

Trong cuộc bầu cử vừa qua, viễn ảnh không mấy lạc quan cho Công Giáo chúng ta.

-Về lãnh vực Phò Sự Sống (PRO-LIFE), hầu như những dự luật đưa ra đều thất bại. Cử tri Colorado đã bác bỏ tu chính án nhằm bảo vệ thai nhi. Cũng vậy cử tri ở North Dakota cũng bác bỏ tu chính án công bố quyền được sống cuả con người trong mọi giai đoạn phát triển.

Chỉ có Tennessee đã thông qua một dự án mơ hồ cho phép quốc hội (cuả tiểu bang) được quyền "thi hành, thay đổi hay bác bỏ" những luật lệ về phá thai.

- Về lãnh vực Phát Triển Xã Hội (DOMESTIC SOCIAL DEVELOPMENT) cũng không khả quan lắm. Oregon, Washington DC, Alaska cho phép những người trên 21 tuổi được sở hữu một số lá khô hoặc trồng cây marijuana để tiêu thụ (không được bán.)

Chỉ có Florida chống lại việc hợp lệ hoá việc thương mại marijuana vì lý do y tế.

Illinois thúc đẩy các hãng bảo hiểm trả tiền cho thuốc phá thai.

Tuy nhiên cũng đã có một số tiến triển như sau:

-về lãnh vực lương bổng. Các tiểu bang Alaska, Nebraska, South Dakota và Illinois đã cho phép tăng lương tối thiểu.

-Massachusetts bắt buộc mọi chủ nhân phải trả lương nghỉ bệnh cho công nhân. (cho đến 40 giờ )

Hậu quả lâu dài..

Nhìn lâu dài hướng về tương lai, người ta nhận thấy có một hậu quả gắn liền với sự kiểm soát thượng viện, đó là những bổ nhiệm trên Tối Cao Pháp Viện và những bổ nhiệm chức vụ thẩm phán cuả liên bang sẽ có thay đổi. Những bổ nhiệm này cần được thượng viện phê chuẩn.

Trong 6 năm qua, Obama đã bổ nhiệm tất cả là 280 thẩm phán, tức là 1 phần 3 tổng số thẩm phán trên toàn quốc, mà hầu hết là những người ủng hộ nghị trình thúc đẩy một xã hội phóng khoáng.

Họ đã không ít đánh bại những khiếu nại hay đóng cửa nhiều cơ quan xã hội Công Giáo qua những tranh tụng về việc điều hành viện Mồ Côi, về các chương trình giúp các phụ nữ v.v. chỉ vì những cơ quan này không phát thuốc ngừa thai hoặc không cho những cặp đồng tính nhận con nuôi.

Với một thượng viện bảo thủ hơn, hy vọng những sự bổ nhiệm có tính cách 'chính trị' như trên sẽ chấm dứt.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Bước Chân Gầy
Huỳnh Thục Oanh
18:11 05/11/2014
BƯỚC CHÂN GẦY
Ảnh của Huỳnh Thục Oanh
Em đến bên đời bao nỗi đau
Mặt trời biển khổ rớt xanh xao,
Thương em chồi biếc tìm hơi ấm
Thõng bước chân gầy những khát khao.
(Huỳnh Thục Oanh)
 
VietCatholic TV
Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 30/10-05/11/2014 – Âm thanh mê hoặc của tiền
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
21:33 05/11/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Sự hiệp thông của các Thánh

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày lễ Các Thánh 1 tháng 11, với 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi các tín hữu hãy vui mừng sống mầu nhiệm các thánh thông công.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa lễ Các Thánh và nhấn mạnh rằng: “Lễ trọng hôm nay giúp chúng ta ý thức một chân lý cơ bản của đức tin Kitô: đó là sự hiệp thông của các thánh. Đây là một sự kết hiệp thiêng liêng, không bị cắt đứt vì cái chết, nhưng tiếp tục trong đời sống mai hậu. Thực vậy, có một mối liên kết không thể bị hủy diệt giữa chúng ta là những người đang sống ở trần thế này với những người đã bước qua ngưỡng cửa sự chết. Chúng ta ở dưới thế này trên mặt đất cùng với những người đã bước vào vĩnh cửu, chúng ta họp thành một đại gia đình duy nhất”.

Đức Thánh Cha nhận xét rằng:

“Thực tại này làm cho chúng ta tràn đầy vui mừng: thật là đẹp vì có bao nhiêu anh chị em chúng ta trong đức tin đang đồng hành cạnh chúng ta, nâng đỡ chúng ta qua sự giúp đỡ của họ và cùng với chúng ta tiến bước về trời. Và thật là điều an ủi khi biết rằng đã có những anh chị em chúng ta đạt tới quê trời, đang chờ đợi và cầu nguyện cho chúng ta, để cùng nhau chúng ta có thể đời đời chiêm ngưỡng tôn nhan vinh hiển và từ bi của Chúa Cha”.

Đức Thánh Cha nhắc nhở cho các tín hữu về ơn gọi nên thánh: “Thiên Chúa kêu gọi chúng ta nên thánh như chính Chúa là Đấng Thánh, và đối với những người muốn theo Chúa Giêsu trên con đường Tin Mừng, Mẹ Maria là nhà hướng đạo chắc chắn, người Mẹ ân cần và quan tâm, chúng ta có thể tín thác cho Mẹ mọi gước muốn và khó khăn của chúng ta”.

Sau kinh truyền tin và phép lành, Đức Thánh Cha đã kêu gọi mọi người “cầu nguyện cho Thành Thánh Jerusalem, là thành được các tín hữu Do thái, Kitô và Hồi giáo quí chuộng, trong những ngày này đang chứng kiến nhiều căng thẳng. Ước gì Thành Thánh này ngày cang có thể là dấu chỉ và là điều báo trước an bình mà Thiên Chúa muốn cho toàn thể gia đình nhân loại”.

Đức Thánh Cha cũng nhắc đến lễ phong chân phước chiều ngày 1 tháng 11 tại Vítoria, Tây Ban Nha, cho cha Pietro Asúa Mendía, linh mục thuộc miền Basco, “linh mục khiêm tốn và khổ hạnh, đã loan báo Tin Mừng bằng cuộc sống thánh thiện, bằng việc huấn giáo và tận tụy săn sóc những người nghèo túng trong thời kỳ khó khăn với cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha. Cha đã bị bắt, tra tấn và giết chết vì đã biểu lộ ý chí tiếp tục trung thành với Chúa và với Giáo Hội, cha thưc là mẫu gương tuyệt vời cho tất cả chúng ta về lòng can đảm trong đức tin và chứng tá bác ái”.

2. Cái chết không có tiếng nói sau cùng

Nghĩa trang là nơi an nghỉ chờ được đánh thức vào ngày sau hết. Việc tưởng niệm các người đã qua đời, săn sóc mồ mả và xin lễ cầu nguyện cho họ là chứng tá của niềm hy vọng tin tưởng, dâm rễ sâu nơi xác tín rằng cái chết không có tiếng nói cuối cùng trên số phận của con người, bởi vì con người được chỉ định cho một cuộc sống vô tận, có nguồn gốc và sự thành toàn trong Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 2 tháng 11 tại quảng trường thành Phêrô trong ngày lễ kính các đẳng linh hồn.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Ngày hôm qua chúng ta đã cử hành lễ trọng Các Thánh và hôm nay phung vụ mời gọi chúng ta tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời. Hai ngày lễ này gắn liền mật thiết với nhau, cũng như niềm vui và nước mắt tìm thấy nơi Chúa Giêsu Kitô. Thật thế, một đàng, Giáo Hội lữ hành trong lịch sử vui mừng vì sự bầu cử của các Thánh và các Chân phước nâng đỡ Giáo Hội trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng; đàng khác, cũng như Chúa Giêsu, Giáo Hội chia sẻ tiếng khóc của người đau khổ vì xa rời các người thân yêu, và cũng như Người và nhờ Người Giáo Hội làm vang lên lời cám tạ Thiên Chúa Cha, là Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của tội lỗi và cái chết.

Giữa ngày hôm qua và hôm nay biết bao nhiêu người đi viếng thăm nghĩa trang là “nơi an nghỉ” chờ việc đánh thức sau cùng. Thật là đẹp, khi nghĩ rằng chính Chúa Giêsu sẽ đánh thức chúng ta dậy. Chính Chúa Giêsu đã vén mở cho thấy rằng cái chết của thân xác cũng giống như một giác ngủ, từ đó Người đánh thức chúng ta. Với niềm tin này chúng ta dừng lại bên mộ của những người thân yêu, của những ai đã yêu thương chúng ta và đã làm điều lành cho chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã mời gọi mọi người trải dài lời cầu nguyện của mình ra trên các thành phần khác. Ngài nói:

Nhưng ngày hôm nay chúng ta được mời gọi nhớ tới tất cả mọi người, kể cả những người không ai nhớ tới. Chúng ta hãy nhớ tới các nạn nhân của chiến tranh và bạo lực; biết bao nhiêu “trẻ em” trên thế giới bị đói khát và bần cùng đè bẹp; chúng ta hãy nhớ tới các người vô danh nghỉ yên trong hầm mộ tập thể; chúng ta hãy nhớ tới các anh chị em bị giết vì là Kitô hữu; và biết bao nhiêu người đã hy sinh mạng sống để phục vụ tha nhân. Chúng ta cũng hãy phó thác cho Chúa cách đặc biệt những người đã lìa bỏ chúng ta trong năm nay.

Truyền thống của Giáo Hội đã luôn luôn khích lệ việc cầu nguyện cho những người đã chết, đặc biệt bằng cách cử hành thánh thể cầu nguyện cho họ: thánh lễ là sự trợ giúp tinh thần tốt nhất mà chúng ta có thể ban tặng cho các linh hồn, đặc biệt các linh hồn bị bỏ rơi. Nền tảng thánh lễ cầu cho các linh hồn nằm trong sự hiệp thông của Nhiệm Thể Chúa Kitô. Như Công Đồng Chung Vaticăng II đã nhấn mạnh: “Giáo Hội lữ hành trên trần gian ý thức đựơc sự hiệp thông này của tất cả trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, ngay từ các thời kỳ đầu của Kitô giáo đã vun trồng với lòng đạo hạnh lớn lao việc tưởng nhớ những người đã qua đời” (LG 50).

Việc tưởng niệm các người đã chết, việc săn sóc mồ mả và các thánh lễ cầu hồn là chứng tá của niềm hy vọng tin tưởng, đâm rễ sâu trong xác tín rằng cái chết không có tiếng nói cuối cùng trên số phận con người, bởi vì con người được chỉ định cho một cuộc sống vô tận, có nguồn gốc và sự thành toàn nơi Thiên Chúa.

Với niềm tin này nơi số phận tối cao của con người, giờ đây chúng ta hãy hướng tới Đức Mẹ, là Đấng đã khổ đau dưới Thập Giá vì thảm cảnh cái chết của Chúa Kitô và rồi đã tham dự vào niềm vui sự sống lại của Chúa. Xin Mẹ là Của Trời giúp chùng ta ngày càng hiểu hơn giá trị của lời cầu nguyện và thánh lễ cầu cho các người đã chết. Họ gần gũi chúng ta. Xin Mẹ nâng đỡ chúng ta mỗi ngày trong cuộc lữ hành trần thế và trợ giúp chúng ta đừng bao giờ đánh mất đi đích điểm cuối cùng của cuộc sống là Thiên Đàng. Và với niềm hy vọng không bao giờ gây thất vọng này chúng ta hãy tiến tới!

3. Câu chuyện Âm Thanh Mê Hoặc Của Tiền

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Tiền có khả năng giúp người ta thực hiện những mơ ước. Nhưng cái nghịch lý của tiền là khi ta càng có nhiều tiền, ta lại càng yêu tiền. Yêu đến mức muốn giữ chúng lại và vì tiếc tiền nên có những ước mơ không thể thực hiện được cho đến ngày nhắm mắt xuôi thay giã từ thế giới này với hai bàn tay trắng. Đấy là thứ âm thanh mê hoặc của tiền.

Phúc Âm ghi lại câu chuyện sau:

Có một người đến thưa Ðức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?" Ðức Giêsu đáp: "Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Ðấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn". Người ấy hỏi: "Ðiều răn nào?" Ðức Giêsu đáp: "Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ", và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình". Người thanh niên ấy nói: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa?" Ðức Giêsu đáp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi". Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Bấy giờ Ðức Giêsu nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa". Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu?" Ðức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: "Ðối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được".

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Thánh Mátthêu ghi lại “Người thanh niên bỏ đi buồn rầu.” (Mt. 19:22). Hình ảnh đó sao mà ảm đạm. Nó như một mùa tang sầu trống trải. Một bóng hình đi trong im lặng lẻ loi.

Suy tư về đoạn Tin Mừng này, nhà văn Nguyễn Tầm Thường viết:

“Đời là một hòa tấu. Ngày nào tôi dừng lại ở một nốt nhạc mà thôi là tôi làm hỏng bài ca cuộc sống. Khi chỉ có một nốt nhạc thì bài ca không còn là bài ca. Âm nhạc hỏng mất rồi. Nó chỉ là tiếng còi tầu đơn độc. Bản nhạc cuộc đời anh bây giờ chỉ có một cung trầm. Phím đàn đã hỏng. Nó như tiếng ve inh ỏi độc đoán.

Âm thanh của giàu có chỉ thanh tao khi hòa nhịp với những cung điệu khác trong bản hòa tấu. Nhưng trong giây phút chọn lựa, anh đã bỏ tất cả những cung nhạc khác. Anh chọn có một thanh âm. Âm thanh của con đường đi trong buồn rầu. Người nhạc công khôn ngoan khi biết nốt nhạc nào hỏng trên phím đàn thì phải đề phòng mà bỏ qua. Cuộc đời cũng thế, phải sửa lại những nốt nhạc hỏng trên phím đàn đời sống.

Người thanh niên muốn bay cao nhưng anh ta đã không bay được bởi âm thanh của ràng buộc vang lên. Phân vân chọn lựa rồi quyết định buông cánh đậu.”

Chuyện nhân gian kể rằng trên đường đi tìm hạnh phúc, bất chợt ba người bộ hành nghe tiếng la thất thanh của vị đạo sĩ từ trong hang núi chạy ra:

“Thần Chết! Thần Chết! Tôi đã gặp thần chết!”

Ba người bộ hành yêu cầu đạo sĩ dẫn mình vào hang để xem thần chết. Vào huyệt đá sâu, vị đạo sĩ chỉ cho ba khách bộ hành đang tìm hạnh phúc thấy một kho tàng chôn giấu ở đó.

Vị đạo sĩ lại kêu to: “Thần Chết! Thần Chết!”. Rồi bỏ chạy.

Ba người bộ hành bàng hoàng trước kho tàng. Họ chia nhau đào xới, cho vàng bạc vào bao. Xế chiều một người nói:

- Mặt trời đã gần khuất núi. Hai đứa bây cứ đào tiếp đi, tao vào trong thành mua chút cơm nước.

Khi người ấy đã ra đi, hai người còn lại dừng tay, bàn bạc với nhau:

- Khi nó về mình núp trong chỗ tối này rồi bất thình lình xông ra giết chết nó đi để không phải chia số vàng này cho nó.

Khi người mua thức ăn vừa mang về, ông bị hai tên gian ác phục sẵn trong bóng tối đâm chết.

Vàng bạc đã cho vào bao, sẵn thức ăn còn đó, hai tên gian ác vội vã ăn để lấy sức mà lên đường. Thức ăn vừa lọt qua cổ, hai tên sùi bọt mép lăn đùng ra chết. Chúng đâu có ngờ, tên đi mua thức ăn cũng không kém phần gian ác nên đã bỏ thuốc độc vào thức ăn để chiếm lấy toàn bộ số vàng.

Vị đạo sĩ nhìn thấy thần chết vì ông có khả năng đề kháng tiếng mê hoặc của lòng mình. Ba người lữ hành không có khả năng cảm nghiệm những niềm vui khác như tình bạn, lòng trung thành, sự độ lượng nữa, mà chỉ có một hạnh phúc duy nhất là tiền.

Sự ràng buộc, bây giờ trở thành độc đoán, kéo ta xuống sâu trong đường một chiều. Để rồi ta chỉ còn một chiều đường để đi. Nó như tấm da người thổ mộ che mắt con ngựa để con ngựa chỉ nhìn thấy một lối ngõ trước mặt. Con ngựa mải mê bước. Nó không biết rằng còn bao nhiêu con đường khác thú vị ở chung quanh. Lúc mà ta để một cung đàn duy nhất tiêu diệt những cung đàn khác, thì cuộc đời như tấm gương đã vỡ mất rồi.

4. Tình yêu và sự công chính quan trọng hơn việc tuân giữ lề luật

Trong thánh lễ sáng Thứ Sáu 31 tháng 10 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha đã phàn nàn về các Kitô hữu duy lề luật đến mức bỏ qua khái niệm về tình yêu và công lý.

Trình bày những suy tư trên đoạn Tin Mừng trong ngày tường thuật lại việc Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho người Biệt Phái là có được phép để chữa lành một người bệnh vào ngày Sabát không, Đức Thánh Cha đưa ra xác tín rằng tình yêu và công lý mới chính là con đường dẫn ta tới Chúa Kitô chứ không phải là thái độ duy lề luật. Đức Thánh Cha kể lại việc Chúa Giêsu quở trách những người Biệt Phái là bọn đạo đức giả vì họ lên án Ngài sau khi Ngài chữa lành cho một người bệnh vào ngày Sabát. (x. Lc 14, 1-6)

“Lối sống của những người duy lề luật vô tình đã tách họ ra khỏi tình yêu và công lý. Họ dựa vào lề luật mà bỏ quên công lý. Họ dựa vào lề luật mà đánh mất tình yêu. Họ như là những vật làm mẫu. Và đối với những người như thế, Chúa Giêsu chỉ dùng có một từ để miêu tả họ: kẻ đạo đức giả. Một mặt, anh đi khắp nơi trên thế giới tìm kiếm người theo đạo. Và sau đó thì sao? Anh đóng cửa lại không cho họ vào. Anh không sẵn lòng đón tiếp con người. Đó chính là những người duy lề luật. Họ luôn luôn đóng cửa lòng lại trước niềm hy vọng, tình yêu và ơn cứu rỗi …”

Trích dẫn thư của thánh Phaolô, Đức Thánh Cha nói rằng con đường hướng tới sự trung thành với lề luật là không được phép bỏ qua công lý và tình yêu và ngược lại chính tình yêu sẽ hoàn thiện lề luật.

“Đây là con đường mà Chúa Giêsu dạy chúng ta, hoàn toàn trái ngược với các luật sĩ. Và đó là con đường khởi đi từ tình yêu và công lý để dẫn đến Thiên Chúa. Thay vì con đường chỉ bám chặt vào lề luật, từng câu từng chữ đến mức đóng cửa lòng, dẫn đến tự ngã. Con đường dẫn từ tình yêu đến nhận thức và hiểu biết đưa đến sự thành toàn, dẫn đến sự thánh thiện, ơn cứu rỗi và gặp được Chúa Giêsu. Ngược lại con đường kia dẫn đến sự ích kỷ, tự kiêu, xét đoán, mang mặt nạ thánh thiện có phải không anh chị em? Chúa Giêsu đã từng nói với các hạng người này như sau: Anh ăn chay và cầu nguyện cốt cho người ta thấy … Để được tiếng khen có phải vậy không? Và đó là vì lý do vì sao Giêsu nói với dân chúng: “Những gì họ nói thì anh em nghe nhưng đừng làm theo. Vì họ nói mà không làm.”

Đức Thánh Cha nói đó là hai con đường khác nhau và Chúa Giêsu cho chúng ta thấy con đường đúng đắn.

“Chúa Giêsu lôi kéo chúng ta gần Ngài: sự gần gũi của Ngài là bằng chứng cho thấy chúng ta đang tiến bước theo con đường chân chính. Bởi vì, đó là con đường mà Thiên Chúa đã chọn để cứu chúng ta nhờ sự gần gũi của Ngài. Ngài tiếp cận chúng ta và đã làm người. Thân xác con người của Ngài là dấu hiệu của sự thật. Thiên Chúa đã làm người như mỗi người trong chúng ta và mời gọi ta hướng đến người khác, đặc biệt là những người nghèo, và những người bị bỏ rơi.”

Đức Thánh Cha cho biết thân xác của Chúa Giêsu là chiếc cầu nối đem chúng ta đến gần Thiên Chúa chứ không phải chữ nghĩa của lề luật. Tôi hy vọng rằng những ví dụ về tình yêu và sự gần gũi của Chúa Giêsu có thể giúp chúng ta tránh trượt vào lối đạo đức giả vì một Kitô hữu đạo đức giả là một điều thực sự xấu.

5. Hãy là con cái của sự sáng

Trong thánh lễ sáng thứ Hai, 27 tháng 10, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng cần thực hành việc kiểm điểm lương tâm để giúp chúng ta nhận ra mình là những Kitô hữu đang ở lại trong sự sáng hay đã sa vào trong bóng tối hoặc đang mang màu xám xịt.

Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư của ngài dựa vào Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô. Ngài nói rằng con người sẽ bị đánh giá dựa vào những ngôn từ họ dùng. Thánh tông đồ mời gọi các Kitô hữu hãy trở nên như con cái của sự sáng, chứ đừng ở lại trong bóng tối, Thánh Phaolô đưa ra “một bài giáo lý về việc dùng ngôn từ”.

Đức Thánh Cha nói rằng có các loại ngôn từ cho ta thấy mình đang lưu lại trong bóng tối.

Ngài đặt những câu hỏi để giúp mỗi người nhận ra các loại ngôn từ này là: Loại thứ nhất là “những lời đạo đức giả được lượm chỗ này một tí, chộp nơi kia một chút rồi sử dụng để thích nghi cho tất cả mọi người. Cuối cùng đó chỉ là những lời ngớ ngẩn, không có phẩm chất, trống rỗng.”

Loại thứ hai là “những ngôn từ thô tục, tầm thường, hoặc rất thế gian. Đó là những lời bông đùa cợt nhả, nhảm nhí. Những kiểu nói như thế làm cho chúng ta không còn là con cái sự sáng, không có Chúa Thánh Thần, không có Đức Giêsu, không có những lời của Tin Mừng … Đó là lối nói bàn về những chuyện: thô tục, dâm ô, thế gian, trống rỗng và đạo đức giả”.

Rồi ngài đặt câu hỏi: Vậy những lời nào thánh Tông đồ khuyên chúng ta dùng để trở nên con cái sự sáng?

“Thánh Phaolô nói : ‘Hãy bắt chước Thiên Chúa, bước đi trong tình yêu, bước đi trong sự nhân từ; bước đi trong sự hiền lành’. Như thế, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy có lòng thương xót, tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho anh em trong Chúa Kitô. Và như thế chúng ta là con cái của sự sáng”.

“Có những Kitô hữu phản chiếu sự sáng, họ đầy ánh sáng. Đó là những tâm hồn tìm kiếm để phục vụ Chúa trong ánh sáng” và “có những Kitô hữu ở lại trong bóng tối” đó là người có “một cuộc sống tội lỗi, một cuộc sống xa Chúa”, họ sử dụng các kiểu ngôn từ trên kia, những loại ngôn từ “thuộc về tội lỗi”. Bên cạnh đó cũng có một nhóm Kitô hữu thứ ba, đó là “không phải ánh sáng cũng không phải bóng tối”, mà là màu xám.

“Các Kitô hữu màu xám là dạng không có Chúa, cũng không theo ma quỷ. Họ thuộc dạng hâm hẩm. Họ không phải là ánh sáng cũng không phải bóng tối. Và Thiên Chúa không thích những loại người như thế. Trong sách Khải Huyền, Thiên Chúa nói với các Kitô hữu màu xám này rằng: “Ngươi không nóng cũng không lạnh. Hoặc là ngươi nóng hoặc ngươi lạnh. Nhưng bởi vì ngươi hâm hẩm, ta muốn nôn mửa ngươi ra.” Chúa đã dùng những từ rất mạnh đối với các Kitô hữu mang màu sắc xám xịt này. ‘Tôi là một Kitô hữu, nhưng không là Kitô hữu chính danh. Những điều họ làm, họ nói nhiều khi gây ra gương mù nặng nề tai hại, vì cuối cùng đời sống của họ chỉ là những dấu chỉ phản chứng. Nó gây ra những điều tiêu cực”.

Đức Thánh Cha kết luận bài giảng như sau: Đừng để chúng ta bị lôi kéo vào những lời trống rỗng. Chúng ta nghe rất nhiều lời, có những lời hoa mỹ nhưng toàn trống rỗng, không ý nghĩa. Thay vào đó, chúng ta hãy hành xử như những con cái sự sáng. Ngày hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ và tự chất vấn mình: Tôi có là một Kitô hữu ở trong sự sáng không? Hay là Kitô hữu ở lại trong bóng tối? Tôi có phải là một Kitô hữu mang màu sắc xám xịt, hâm hẩm không? Tự vấn như thế, chúng ta mới có thể tiến lên trên hành trình gặp gỡ Thiên Chúa”.

6. Đời sống Kitô hữu là một trận chiến liên tục

Đức Thánh Cha Phanxicô mô tả đời sống người Kitô hữu như là một trận chiến liên tục chống lại Satan, thế gian và những đam mê của xác thịt. Đó là nội dung bài giảng của ngài trong Thánh Lễ sáng thứ Năm 30 tháng 10, tại nguyện đường Santa Marta. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng ma quỷ tồn tại và chúng ta phải chiến đấu chống lại nó bằng áo giáp là sự thật.

Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư của ngài dựa trên những lời của Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, trong đó thánh Tông đồ kêu gọi các Kitô hữu mang lấy áo giáp của Thiên Chúa để chống lại những cám dỗ của Satan. Đời sống Kitô hữu phải được bảo vệ và cần phải có hai điều này: đó là sức mạnh và lòng can đảm. Đời sống Kitô hữu là một trận chiến liên tục chống lại ba kẻ thù chính là: ma quỷ, thế gian và những đam mê xác thịt.

“Tôi phải bảo vệ bản thân mình trước kẻ nào? Tôi phải làm gì? Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng hãy mang lấy áo giáp của Thiên Chúa, nghĩa là Thiên Chúa hành động như là người bảo vệ, giúp chúng ta chống lại những cám dỗ của Satan. Không có đời sống thiêng liêng, không mặc áo giáp của Thiên Chúa thì không thể chống lại những cám dỗ. Chính áo giáp của Thiên Chúa cho chúng ta sức mạnh và bảo vệ chúng ta.”

Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng cuộc chiến của chúng ta không phải chống lại những điều nhỏ nhặt nhưng là sự thống trị của ma quỷ và những kẻ theo nó.

7. Kitô hữu đừng đứng ngoài ngưỡng cửa của Giáo Hội nhưng hãy vào bên trong

Trong thánh lễ sáng thứ Ba, 28 tháng 10, tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ các Kitô hữu hãy cảm nhận rằng mình là một phần không thể thiếu được của Giáo Hội.

Đức Thánh Cha nói rằng Chúa Giêsu không vạch tội con người, nhưng nhìn vào nội tâm họ, và mời gọi tất cả các tín hữu đừng do dự trước cánh cửa của Giáo Hội, nhưng hãy mạnh dạn bước vào Giáo Hội của Ngài đã được Chúa Giêsu thiết lập từ 2000 năm trước, khi Ngài chọn mười hai trụ cột, là 12 vị Tông Đồ để từ đó để xây dựng Giáo Hội của Ngài.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng Giáo Hội mở cửa mời gọi tất cả mọi người không phân biệt một ai, bởi Chúa Kitô luôn quan tâm yêu thương và chữa lành hết mọi tâm hồn con người bất kể đến tội lỗi của họ.

Suy gẫm về bài Tin Mừng trong ngày kể lại việc khai sinh Giáo Hội: “được xây dựng trên nền tảng là các Tông Đồ mà Chúa Kitô là đá tảng” , Đức Thánh Cha nhắc lại “hàng loạt hành động” của Chúa Giêsu khi Ngài thành lập Giáo Hội: lên núi cầu nguyện, lựa chọn các môn đệ, tiếp nhận họ và xuống núi chữa lành đám đông dân chúng.

“Chúa Giêsu cầu nguyện, Chúa Giêsu kêu gọi, Chúa Giêsu tuyển chọn, Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi, Chúa Giêsu chữa lành cho đám đông. Bên trong ngôi nhà Giáo Hội, Chúa Giêsu là đá tảng để tiến hành tất cả các công việc trên. Như Thánh Phaolô nói, Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Đồ; Ngài đã chọn mười hai tông đồ. Tất cả họ đều là những tội nhân. Giuđa không hẳn là một trong những người phạm tội nhiều nhất đâu! Đức Thánh Cha nói rằng “tôi không biết ai đã phạm tội nhiều nhất”… Giuđa, một người đàn ông nghèo, và là người khép kín trước tình yêu và đó là lý do tại sao ông trở thành một kẻ phản bội. Và tất cả họ đều bỏ chạy trong cuộc Khổ Nạn của Chúa và để lại một mình Ngài. Họ đều là những người tội lỗi. Nhưng Ngài đã chọn họ”.

Chúa Giêsu muốn chúng ta ở “bên trong” Giáo Hội không phải như những người xa lạ, nhưng là những người “có quyền công dân”. Giáo Hội không phải là nơi ở tạm bợ chỉ để lướt qua nhưng chúng ta phải cắm rễ đời mình ở đó. Đó phải là nơi chốn của cuộc sống chúng ta.

“Chúng ta là những công dân, là đồng hương với anh chị em trong Giáo Hội. Nếu chúng ta không vào ngôi nhà này, không để Chúa Thánh Thần sống trong chúng ta, chúng ta không phải là thành phần của Giáo Hội. Chúng ta chỉ đang đứng ngoài cửa và nhìn vào bên trong rồi thốt lên: “Đáng yêu thế nhỉ!… Vâng! Đẹp đó …” Những người Kitô hữu như thế sẽ không đi xa hơn để có thể đón lấy Giáo Hội: họ chỉ dừng lại ở ngay ngưỡng cửa mà thôi…” Vâng, tôi là người Công Giáo, nhưng cũng không hẳn là Công Giáo … “

Thái độ này bộc lộ thái độ vô cảm trước hành vi yêu thương và lòng thương xót mà Chúa Giêsu dành mọi người thể hiện cụ thể nơi tình yêu và lòng thương xót của Đức Kitô đối với Phêrô, người được đặt lên làm lãnh đạo Giáo Hội. Dù ông đã từng phản bội Chúa Giêsu nhưng Ngài đã tha thứ và tiếp tục đặt ông làm lãnh đạo Giáo Hội:

“Đối với Chúa Giêsu, tội lỗi của Phêrô không phải là quan trọng. Ngài nhìn sâu vào tâm hồn của Phêrô. Để có thể đụng chạm đến tâm hồn ông và chữa lành cho nó. Chúa Giêsu đã cầu nguyện và Chúa Giêsu chữa lành. Cùng một cách như thế, Chúa Giêsu thể hiện lòng thương xót và tha thứ của Ngài cho tất cả chúng ta. Chúng ta không thể hiểu được Giáo Hội mà không có Chúa Giêsu đang cầu nguyện và chữa lành. Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu rằng Giáo Hội nhận được sức mạnh nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Lời cầu nguyện chữa lành tất cả chúng ta”.

“Nhưng trong thế hệ này, chúng ta thấy nhiều người đang bị lôi kéo để tin rằng ma quỷ chỉ là một huyền thoại, một hình ảnh minh họa, một ý tưởng về cái ác. Nhưng ma quỷ thực sự tồn tại và chúng ta phải chiến đấu chống lại nó. Thánh Phaolô nói với chúng ta điều này, ‘không phải là tôi nói đâu!’ Lời Chúa đang nói với chúng ta điều này. Nhưng không phải tất cả chúng ta đều tin. Và sau đó Phaolô mô tả áo giáp của Thiên Chúa và các loại khác nhau làm nên áo giáp tuyệt vời này của Thiên Chúa. Và thánh nhân nói: ‘Vậy hãy đứng vững! ngang lưng thắt đai sự thật, mình mặc áo giáp công chính’. Sự thật là áo giáp của Thiên Chúa.”

Trái lại, ma quỷ là kẻ nói dối và là cha của kẻ nói dối và để chiến đấu với hắn, nơi chúng ta phải có sự thật. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của đức tin giống như một lá chắn khi chiến đấu chống lại ma quỷ.

“Đời sống như là một thao trường. Đời sống Kitô hữu là một trận chiến, một trận chiến tuyệt đẹp trong đó Thiên Chúa giành chiến thắng trong từng bước đi của cuộc sống chúng ta, mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc lớn lao: niềm vui mà Chúa là người chiến thắng với “ơn cứu độ nhưng không” của Ngài ban cho ta. Nhưng tất cả chúng ta đếu có chút lười biếng có phải vậy không? Trong cuộc chiến này chúng ta để mình chiều theo những đam mê của nhiều cám dỗ khác nhau. Điều đó cho thấy tất cả chúng ta là những tội nhân! Nhưng không được nản lòng. Hãy can đảm lên và tràn trề sức mạnh vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

8. Giáo Hội gồm tất cả các người đã được rửa tội sống đức tin cậy mến một cách cụ thể

Giáo Hội không chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến, mà bao gồm tất cả các tín hữu được rửa tội là những người theo Chúa Giêsu, sống tin cậy mến và gần gũi các anh chị em khổ đau, những người rốt hết, tìm thoa dịu các khổ đau và đem lại cho họ một chút ủi an và hòa bình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 60.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung hằng tuần sáng thứ Tư 29 tháng 10 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, trong các bài giáo lý trước đây chúng ta đã có thể minh nhiên thực tại tinh thần của Giáo Hội: Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô, được xây dựng trong Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, khi chúng ta đề cập tới Giáo Hội, lập tức chúng ta nghĩ tới các cộng đoàn, các giáo xứ, các giáo phận, trong đó chúng ta thường tụ họp và dĩ nhiên cũng nghĩ tới các thành phần và cơ cấu cai quản nó. Đó là thực tại hữu hình của Giáo Hội. Nhưng đâu là tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại thiêng liêng của Giáo Hội?

Trước hết khi nói tới thực tại hữu hình của Giáo Hội, chúng ta không chỉ được nghĩ tới Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, các linh mục và những người sống đời thánh hiến mà thôi. Đức Thánh Cha giải thích chiều kích hữu hình của Giáo Hội như sau:

Thực tại hữu hình của Giáo Hội được tạo thành bởi biết bao nhiêu anh chị em đã được rửa tội trong thế giới, những người sống tin, cậy, mến. Nhưng có biết bao lần chúng ta nghe nói rằng: Giáo Hội không làm điều này, Giáo Hội không làm điều nọ. Nhưng xin bạn nói cho tôi biết Giáo Hội là ai. Giáo Hội là các linh mục, các giám mục, Đức Giáo Hoàng...Ồ, Giáo Hội là chúng ta tất cả. Tất cả chúng ta là Giáo Hội, là Giáo Hội của Chúa Giêsu. Giáo Hội được làm thành bởi tất cả những người theo Chúa Giêsu và nhân danh Người, gần gũi những người rốt hết, những người khổ đau, bằng cách tìm cống hiến cho họ một chút nhẹ nhõm, ủi an và hòa bình. Tất cả, tất cả những người làm điều Chúa truyền dậy, tất cả những người làm điều đó là Giáo Hội.

Khi đó chúng ta ta hiểu rằng cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng không thể đo lường được, không thể biết được trong tất cả sự tràn đầy của nó: làm sao mà biết được tất cả thiện ích được Giáo Hội làm? Biết bao nhiêu công việc của tình yêu, biết bao nhiêu trung thành trong các gia đình, biết bao nhiêu công việc để giáo dục con cái, để làm cho tiến tới, để thông truyền đức tin, biết bao nhiêu khổ đau nơi các người đau yếu hiến dâng các khổ đau của họ cho Chúa. Điều này không thể đo lường được và nó lớn lao biết bao, lớn lao biết bao!

Làm sao mà biết được tất cả các điều huyền diệu, mà qua chúng ta, Chúa Kitô thực hiện trong con tim và cuộc sống của từng người? Anh chị em thấy không: cả thực tại hữu hình của Giáo Hội cũng vượt qúa sự kiểm soát của chúng ta, vượt quá các sức lực của chúng ta và là một thực tại nhiệm mầu, bởi vì nó đến từ Thiên Chúa.

Để hiểu tương quan giữa thực tại hữu hình và thực tại tinh thần của Giáo Hội, không có con đường nào khác ngoài việc nhìn vào Chúa Kitô, mà Giáo Hội là thân mình và từ đó Giáo Hội được sinh ra trong một cử chỉ của tình yêu vô tận. Thật thế, cả nơi Chúa Kitô, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta cũng nhận ra một bản tính nhân loại và một bản tính thiên linh, hiệp nhất trong cùng một con người một cách tuyệt diệu và bất khả phân ly. Điều này cũng có giá trị đối với Giáo Hội. Như nơi Chúa Kitô nhân tính hoàn toàn tạo thuận tiện cho thiên tính và phục vụ thiên tính, nhằm thành toàn ơn cứu độ, thực tại hữu hình cũng làm như thế đối với thực tại tinh thần nơi Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội cũng là một mầu nhiệm, trong đó điều người ta không trông thấy quan trọng hơn điều trông thấy, và chỉ có thể được nhận ra với con mắt đức tin (LG 8).

Tuy nhiên, trong trường hợp của Giáo Hội chúng ta phải tự hỏi: thực tại hữu hình có thể phục vụ thực tại tinh thần như thế nào? Một lần nữa chúng ta có thể hiểu điều này, khi nhìn vào Chúa Kitô. Chúa Kitô là mẫu gương, mẫu gương của Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội là thân mình Người. Người là gương mẫu của tất cả mọi kitô hữu, của chúng ta tất cả. Nhìn lên Chúa Kitô chúng ta không sai lầm. Khi nhìn Chúa Kitô, chúng ta không sai lầm.

Trong Phúc Âm thánh sử Luca kể lại biến cố Chúa Giêsu trở về Nagiarét nơi Người đã lớn lên, vào hội đường và đọc đoạn sách của ngôn sứ Isaia nói về chính Người rằng: ”Thần Khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai Tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đó, Chúa Kitô đã dùng nhân tính của Người để loan báo và thực hiện chương trình cứu độ và cứu rỗi của Người như thế nào, thì Giáo Hội cũng phải làm như thế.

Qua thực tại hữu hình, qua các bí tích và chứng tá của mình, Giáo Hội được mời gọi mỗi ngày gần gũi mọi người, bắt đầu từ những ai nghèo khó, khổ đau và bị gạt bỏ ngoài lề, để tiếp tục làm cho tất cả mọi người cảm nhận được cái nhìn cảm thông và xót thương của Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến, như Giáo Hội chúng ta thường sống kinh nghiệm sự giòn mỏng và các hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta tất cả đều là thế. Tất cả chúng ta đều có chúng. Tất cả chúng ta đều tội lỗi. Không ai trong chúng ta có thể nói rằng “Tôi không phải là người tội lỗi”. Nếu có ai trong anh chị em cảm thấy mình không là người có tội, thì hãy giơ tay lên. Xem có bao nhiêu người nào! Không thể được. Chúng ta tất cả đều như thế. Và sự giòn mỏng này, các hạn hẹp này, các tội lỗi này của chúng ta thật phải lẽ là chúng gây ra nơi chúng ta sự hối tiếc sâu xa, nhất là khi chúng ta làm gương xấu và nhận ra rằng mình trở thành cớ gây gương mù gương xấu. Có biết bao nhiêu lần chúng ta đã nghe nói trong khu xóm rằng: “Người đó luôn đi nhà thờ nhưng lại nói xấu mọi người, vặt lông mọi người”. Nói xấu người khác thật là gương mù gương xấu biết bao! Đó không phải là kitô, đó là một gương xấu, là một tội. Và như thế là chúng ta làm gương xấu. Nếu ông này bà nọ là kitô hữu, thì tôi xin làm người vô thần”. Bởi vì chứng tá của chúng ta là điều giúp hiểu kitô hữu là thế nào. Chúng ta hãy cầu xin để đừng là lý do gây gương mù gương xấu. Như vậy chúng ta hãy xin ơn đức tin, để có thể hiểu rằng tuy chúng ta ít ỏi và nghèo nàn, Chúa đã thật sự khiến cho chúng ta trở thành dụng cụ ơn thánh và dấu chỉ hữu hình tình yêu của Ngài đối với toàn nhân loại.

9. Hỏi Để Sống Đạo

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Trong chương trình hôm nay, cha Giuse Nguyễn Trọng Tước, tức nhà văn Nguyễn Tầm Thường sẽ trả lời câu hỏi sau:

Thưa cha, con nghe một số người nói khi chúng ta đi xưng tội, Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, nhưng hậu quả của tội lỗi vẫn còn đó. Hậu quả của tội lỗi là gì và làm sao giải trừ những hậu quả ấy?