Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:18 13/12/2008
TỰ LẬP
Đại sư từ trước đến nay không để ý đến cách nhìn của người khác đối với mình, các đệ tử muốn biết loại phương pháp nội tâm tự do ấy. Đại sư cười lớn nói: “Trước hai mươi tuổi, ta chưa hề để ý đến người khác nhìn ta như thế nào; sau hai mươi tuổi, ta cứ ưu tư bạn bè thân thuộc của ta làm gì nghĩ gì về ta; sau năm mươi tuổi, có một hôm ta chợt phát hiện, té ra là họ rất ít nghĩ đến ta.”
Suy tư:
Có những người thường lo âu ưu tư không biết người khác nghĩ thế nào về mình, thế là họ suốt ngày không chuyên tâm làm gì cho ra hồn, như cô gái soi gương nghĩ không biết bạn trai mới quen nghĩ gì về mình, nên băn khoăn hết soi gương lại trang điểm, hết tô môi màu đỏ đến tô má màu hồng...
Có một vài người Ki-tô hữu sau khi làm được một vài việc thiện thì cứ nghĩ trong lòng: không biết mình làm thế có ai khen ngợi không ? Không biết người mình giúp đỡ có biết cám ơn mình không ? Không biết có ai nói vô nói ra gì không...???
Thực ra, nếu làm việc bác ái với tất cả tấm lòng yêu thương thì sẽ không lo âu gì, vì mình đã đem thực hành yêu thương như Chúa Giê-su dạy. Chỉ có những ai làm việc bác ái vì sĩ diện, vì khoe khoang, vì để được tiếng tốt mới lo âu suy nghĩ vì việc mình làm mà thôi...
Sống thật với lòng mình thì dù cho có ai nghĩ đến mình hay không thì mình vẫn là mình; họ khen tốt chê xấu thì mình vẫn là mình không ốm thêm và cũng không mập thêm chút nào cả. Ha ha ha...
Ai hiểu thì hiểu !
![]() |
| N2T |
Đại sư từ trước đến nay không để ý đến cách nhìn của người khác đối với mình, các đệ tử muốn biết loại phương pháp nội tâm tự do ấy. Đại sư cười lớn nói: “Trước hai mươi tuổi, ta chưa hề để ý đến người khác nhìn ta như thế nào; sau hai mươi tuổi, ta cứ ưu tư bạn bè thân thuộc của ta làm gì nghĩ gì về ta; sau năm mươi tuổi, có một hôm ta chợt phát hiện, té ra là họ rất ít nghĩ đến ta.”
(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)
Suy tư:
Có những người thường lo âu ưu tư không biết người khác nghĩ thế nào về mình, thế là họ suốt ngày không chuyên tâm làm gì cho ra hồn, như cô gái soi gương nghĩ không biết bạn trai mới quen nghĩ gì về mình, nên băn khoăn hết soi gương lại trang điểm, hết tô môi màu đỏ đến tô má màu hồng...
Có một vài người Ki-tô hữu sau khi làm được một vài việc thiện thì cứ nghĩ trong lòng: không biết mình làm thế có ai khen ngợi không ? Không biết người mình giúp đỡ có biết cám ơn mình không ? Không biết có ai nói vô nói ra gì không...???
Thực ra, nếu làm việc bác ái với tất cả tấm lòng yêu thương thì sẽ không lo âu gì, vì mình đã đem thực hành yêu thương như Chúa Giê-su dạy. Chỉ có những ai làm việc bác ái vì sĩ diện, vì khoe khoang, vì để được tiếng tốt mới lo âu suy nghĩ vì việc mình làm mà thôi...
Sống thật với lòng mình thì dù cho có ai nghĩ đến mình hay không thì mình vẫn là mình; họ khen tốt chê xấu thì mình vẫn là mình không ốm thêm và cũng không mập thêm chút nào cả. Ha ha ha...
Ai hiểu thì hiểu !
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:19 13/12/2008
CHỦ NHẬT 3 MÙA VỌNG
Tin mừng: Mt 11, 2-11.
“Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”
Bạn thân mến,
Trước câu hỏi của các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, Chúa Giê-su không trực tiếp trả lời, nhưng Ngài biểu họ thấy gì nơi Ngài hoặc nghe người ta nói gì về Ngài, thì hãy về nói lại với ông Gioan như thế, chắc chắn ông ấy sẽ biết Ngài là ai !
Có một vài người Ki-tô hữu cũng đã hỏi Chúa Giê-su như vậy, khi cuộc sống của họ bị mất phương hướng vì đời họ gặp nhiều thử thách: Ngài có phải là Thiên Chúa không, sao đời con khổ thế này ? Ngài có thật là đang ở cùng con trong cuộc sống không, sao không thấy Ngài biện hộ cho con khi kẻ thù vu không bắt bớ dọa nạt con ? Ngài có thật là Đấng mà con tôn thờ không, tại sao Ngài không tỏ uy quyền tiêu diệt những kẻ làm hại Giáo Hội của Ngài và bắt bớ tù đày môn đệ của Ngài...?
Chúa Giê-su là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài được Chúa Cha sái đến trần gian để giải thoát nhân loại khỏi tối tăm tội lỗi, Ngài đến để đem ánh sáng vĩnh cửu đến chiếu soi chúng ta đang đi trong tối tăm của những cám dỗ thế gian. Ngài là Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả đã hân hoan, long trọng tuyên bố: Ngài đến sau tôi, nhưng có trước tôi...Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Ngài đi, hãy hối cải và thay đổi cuộc sống của chính mình.v.v...
Bạn thân mến,
Ngày hôm nay bạn và tôi sẽ không còn hỏi Chúa Giê-su là ai nữa, bởi vì bạn và tôi đang đi theo Ngài trong cuộc sống, đang ngắm nhìn Ngài trong bí tích Thánh Thể, và đang từng giây phút học hỏi cách sống của Ngài là yêu thương và phục vụ. Bởi vì ngoài Chúa Giê-su ra, không thể có một ơn cứu độ nào khác trên thế gian này.
Thánh Gioan Tẩy Giả là sứ giả đi trước dọn đường cho Chúa cứu thế đến. Bạn và tôi cũng sẽ là những sứ giả loan báo tin vui Đấng cứu thế đến cho mọi nguời, để họ cũng đến mà xem Ngài, không phải xem Ngài nằm trong hang đá đẹp lộng lẫy, không phải xem Ngài nơi cách sống phóng đãng của chúng ta, và cũng không phải xem Ngài đang hiện diện trong một cộng đoàn mà mỗi thành viên chỉ biết đến mình với tất cả cái tôi kiêu ngạo và khoe khoang. Nhưng xem Ngài đang đau khổ nơi tha nhân, xem Ngài đang chia sẻ phục vụ với người cùng khốn giữa xã hội hôm nay.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
--------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin mừng: Mt 11, 2-11.
“Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”
Bạn thân mến,
Trước câu hỏi của các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, Chúa Giê-su không trực tiếp trả lời, nhưng Ngài biểu họ thấy gì nơi Ngài hoặc nghe người ta nói gì về Ngài, thì hãy về nói lại với ông Gioan như thế, chắc chắn ông ấy sẽ biết Ngài là ai !
Có một vài người Ki-tô hữu cũng đã hỏi Chúa Giê-su như vậy, khi cuộc sống của họ bị mất phương hướng vì đời họ gặp nhiều thử thách: Ngài có phải là Thiên Chúa không, sao đời con khổ thế này ? Ngài có thật là đang ở cùng con trong cuộc sống không, sao không thấy Ngài biện hộ cho con khi kẻ thù vu không bắt bớ dọa nạt con ? Ngài có thật là Đấng mà con tôn thờ không, tại sao Ngài không tỏ uy quyền tiêu diệt những kẻ làm hại Giáo Hội của Ngài và bắt bớ tù đày môn đệ của Ngài...?
Chúa Giê-su là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài được Chúa Cha sái đến trần gian để giải thoát nhân loại khỏi tối tăm tội lỗi, Ngài đến để đem ánh sáng vĩnh cửu đến chiếu soi chúng ta đang đi trong tối tăm của những cám dỗ thế gian. Ngài là Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả đã hân hoan, long trọng tuyên bố: Ngài đến sau tôi, nhưng có trước tôi...Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Ngài đi, hãy hối cải và thay đổi cuộc sống của chính mình.v.v...
Bạn thân mến,
Ngày hôm nay bạn và tôi sẽ không còn hỏi Chúa Giê-su là ai nữa, bởi vì bạn và tôi đang đi theo Ngài trong cuộc sống, đang ngắm nhìn Ngài trong bí tích Thánh Thể, và đang từng giây phút học hỏi cách sống của Ngài là yêu thương và phục vụ. Bởi vì ngoài Chúa Giê-su ra, không thể có một ơn cứu độ nào khác trên thế gian này.
Thánh Gioan Tẩy Giả là sứ giả đi trước dọn đường cho Chúa cứu thế đến. Bạn và tôi cũng sẽ là những sứ giả loan báo tin vui Đấng cứu thế đến cho mọi nguời, để họ cũng đến mà xem Ngài, không phải xem Ngài nằm trong hang đá đẹp lộng lẫy, không phải xem Ngài nơi cách sống phóng đãng của chúng ta, và cũng không phải xem Ngài đang hiện diện trong một cộng đoàn mà mỗi thành viên chỉ biết đến mình với tất cả cái tôi kiêu ngạo và khoe khoang. Nhưng xem Ngài đang đau khổ nơi tha nhân, xem Ngài đang chia sẻ phục vụ với người cùng khốn giữa xã hội hôm nay.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
--------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:22 13/12/2008
![]() |
| N2T |
33. Không muốn tiến lên phía trước, tất phải thụt lùi.
(Thánh Bernard)Thánh Phan Đắc Hòa với những khoảng lặng trong đời
Teresa Avila Thùy Chi
04:13 13/12/2008
Thánh Phan Đắc Hòa với những khoảng lặng trong đời
Mừng Lễ kính 168 năm Thánh Phan Đắc Hoà Tử Đạo (12.12.1840 – 12.12.2008)
Thánh nhân: Simon Phan Đắc Hoà
Đã từng theo ơn gọi tu trì sau trở ra làm Lương y và lập gia đình.
Năm sinh: 1774
Tử Đạo: 12.12.1840
Hưởng dương: 66 tuổi
Nơi sinh: Làng Mai Vĩnh, xã Mông Thôn, Thừa Thiên Huế
(x.Uống Nước Nhớ Nguồn trang 394)
Năm 1786 chuyển tới: Làng Lượng Kim và làng Nhu Lý sống, theo Đạo
Giáo xứ quê hương: Giáo họ Nhu Lý, Giáo phận Huế (gần Cửa Việt) (Cách Toà Giám mục Hà Nội khoảng 647km)
Địa chỉ Giáo xứ: Làng Nhu Lý, xã Triệu An,
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (địa chỉ xã chưa được xác định chính xác, xin đón đọc Hành Hương Theo Tiếng Yêu Thương của Teresa Avila Thùy Chi)
An táng: Giáo xứ quê nhà - làng Nhu Lý
Hiển thánh: 19.6.1988 đời Đức Giáo Hoàng Jonh Paul II.
Thánh tích: Cuộc đời của Thánh Simon Hòa luôn nêu cao đức tin và có sức thuyết phục làm cho những ai từng gặp ngài sẽ trở nên tốt hơn vì ngài đã trở thành một công dân lương thiện, một người cha đức độ, một tông đồ nhiệt thành trong thời kỳ bách hại đạo gắt gao. Ngài là thánh nhân trong Tình yêu của Thiên Chúa:
- Hình ảnh của một chứng nhân Tình yêu đích thực, một Kitô hữu đích thực;
- Âm thanh của lời cầu nguyện đó là những khoảng trống thinh lặng trong cuộc đời của ngài;
- Tiếng nói trung tín của người tín hữu luôn ý thức mình là Kitô hữu sau mỗi lần bước ra khỏi khoảng lặng.
Trước khi tôi viết bài về Thánh Phan Đắc Hoà với Những Khoảng Lặng Trong Đời, tôi đã có một buổi chiều ngày 11.12.2008 trong tuần kính thánh Hòa để tới thăm cháu trai Gia Bảo mới 3 tuổi bị bỏng nước sôi ở vai trái, bỏng độ 3 diện tích bỏng là 6% vừa được phẫu thuật ghép da tại Viện Bỏng Quốc Gia. Tội nghiệp cháu bé, vết thương bỏng đau rát làm cháu kêu khóc suốt. Ngay hôm nhận được tin, tôi đã dâng lời cầu nguyện và lời cầu nguyện ấy đã được thánh Phan Đắc Hoà phù giúp, tôi tin như vậy.
Điều tôi tin, đó là tôi thấy sự cương quyết của gia đình yêu cầu chuyển viện cho cháu Bảo từ Bệnh Viện Đa khoa Saint Paul Hà Nội sang Viện Bỏng QG. Tôi lắng nghe chị Hoa, mẹ của cháu Bảo, kể cho tôi biết: “Gia đình không hề nghĩ tới Viện Bỏng QG cho đến sáng hôm sau, có một bác trung niên tới thăm người nhà đang cấp cứu tại Bệnh viện St.Paul khuyên gia đình nên chuyển viện cho cháu tới Viện Bỏng QG”. Sau hậu phẫu 2-3 ngày, cháu Bảo sẽ không còn thấy đau rát nữa vì việc ghép da được chỉ định nhằm giúp cho vết bỏng được bảo vệ, tránh vi khuẩn xâm nhập, vết thương dễ hồi phục hơn. Tôi thầm cảm ơn thánh Hòa vì gia đình tôi là bên lương và chỉ có mình tôi là người Công giáo.
Nhờ sự chia sẻ và giải thích của các cha giáo sư sử học, tôi đã được tìm hiểu hạnh thánh Phan Đắc Hoà trong năm ngày (6-11.12.2008), ơn Thiên Chúa ban và thánh Hòa trợ giúp tôi, tôi đã thấy hình ảnh của một chứng nhân Tình yêu đích thực, một Kitô hữu đích thực; tôi đã thấy những khoảng trống thinh lặng cầu nguyện trong cuộc đời của thánh Hoà; tôi đã thấy một tín hữu luôn ý thức mình trung tín sau mỗi lần bước ra khỏi khoảng lặng.
TÌNH YÊU THÚC ĐẨY NHỮNG VIỆC LÀM
Thánh Phan Đắc Hoà sinh năm 1774 trong một gia đình Nho giáo ở làng Mai Vĩnh, một làng ngoại giáo trong xã Mông Thôn thuộc tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Công thần Lại Bộ Thượng Thư Phan Đắc Thục (ngày nay chức quan Thượng Thư có thể được coi tương đương với chức Bộ trưởng), thân mẫu tên là Đóa chịu làm vợ lẽ và có hai người con một nam và một nữ với quan thượng thư. Cụ Phan Đắc Thục qua đời khi cậu Hòa 12 tuổi. Cuộc sống gia đình bắt đầu có những thay đổi, bà Đóa đưa hai chị em tới làng Nhu Lý sinh sống. Đây là làng Công giáo toàn tòng và có gia đình Công giáo ông Tảo tốt bụng đã giúp đỡ mẹ con cậu Hòa. Ít lâu sau, bà và các con đã trở lại đạo.
Ngay từ những ngày trở lại đạo, ông Tảo đã cho cậu Hòa vào nhà Đức Chúa Trời ở với cha Nhân mấy năm rồi vào học Chủng viện An Ninh. Thầy Hòa học trong Chủng Viện hơn mười năm nhưng vẫn chưa được chọn lên chức Linh mục vì hoàn cảnh gia đình, bề trên cho biết thầy là con vợ lẽ và như vậy thì có thể rất khó khăn bền đỗ ơn gọi. Thầy Hòa trở về gia đình khi đã 30 tuổi, sau những ngày tĩnh tâm cầu nguyện thầy đã quyết định đến ở nhà ông lang Phương để vừa giúp việc, vừa học nghề thuốc. Ai cũng yêu quý thầy, một thanh niên trẻ, có học, lịch sự và thương người. Một thời gian giúp việc cho ông lang Phương, thầy Hòa đã được gia đình ông lang Phương gả con gái tên là Yêm, thiếu nữ 18 tuổi.
Tình yêu trong cuộc sống hạnh phúc của hai ông bà đã sinh ra 12 người con mà sau này có ba cô con gái đều dâng mình vào dòng Mến Thánh Giá. Vợ chồng ông bà Hòa tiếp nối nghề thuốc truyền thống của gia đình. Người dân trong làng gọi thầy Hòa rất kính trọng là ông lang Hòa và những ai đã từng quen biết ông lang Hòa từ bé thì vẫn gọi ông là thầy Hòa. Với đời sống đạo đức và là người có thế giá trong làng, thầy được cử làm thủ chỉ làng Nhu Lý, kiêm trùm họ đạo và chánh trương hàng xứ. Thầy là người giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần cho giáo dân trong làng, cách đặc biệt với Cộng đoàn Dòng Mến Thánh Giá Nhu Lý mới thành lập đầu thế kỷ XIX (1805). Nhà dòng Nhu Lý là địa chỉ tạm trú thường xuyên của các cha Thừa Sai tới truyền giáo trong làng và các vùng phụ cận. Nhưng tình hình chung tại đây vào những năm 1830-1840 rất khó khăn vì vua Minh Mệnh bách hại người Công giáo không thương xót, chính tay vua đã ký gần 150 bản án tử đạo. Trong số 117 vị tử đạo tại Việt Nam đã được Giáo Hội tôn phong hiển thánh thì tới 58 vị chịu chết dưới triều đại vua Minh Mệnh.
Vào năm 1831, linh mục thừa sai trẻ 32 tuổi, cha Gilles Joseph Louis Delamotte (tên Việt: Y), mới từ Pháp đến Quảng Trị. Ngài ở tại Chủng viện An Ninh học tiếng Việt vài tháng trời, sau đó sang định cư bên làng Nhu Lý, ở nhà dòng các chị Mến Thánh Giá. Ngài là một trong những thừa sai hằng lưu tâm củng cố và xây dựng các cộng đoàn nữ tu. Sự hiện diện thường trực của ngài như vậy thực là một may mắn lớn cho giáo dân và các nữ tu ở cộng đoàn Nhu Lý. Tại đây, khi ngài đến vào quãng năm 1831-1832, giữa các nữ tu có một chị nữ tu trẻ tuổi tên Maria Mađalêna Nguyễn Thị Hậu là cháu thiêng liêng của thầy Hòa, chị được chỉ định để săn sóc cha Delamotte. Bên cạnh chị, cha còn một người học trò giúp việc thư ký cho cha tên là chú Điền, con trai của ông Gioan Baotixita Trang. Chú đã là người Nhà Đức Chúa Trời, quãng 15 tuổi. Người nữ tu trẻ sẽ được ơn phúc tử đạo sau này.
Ban đầu, cha đáng kính Delamotte sống khá bình yên tại Nhu Lý cho đến khi chiếu chỉ Minh Mệnh cấm đạo được ban ra vào ngày 06.1.1833. Lúc đó, ngài liền lo chuẩn bị các giáo hữu Nhu Lý đương đầu với cơn bách đạo có thể xảy đến lúc nào không hay. Ngài viết thư về Pháp kể chuyện cho cha mẹ ngài rằng: “Dù con mới chỉ tập sự nói tiếng ở đây (vì con mới học được 8 tháng thôi), con đã cắt nghĩa cho giáo dân, theo khả năng con có thể, về ân sủng và việc cao cả trong sự tử đạo. Con sai một thầy giảng và một quí chức bậc nhất trong xứ đạo đến nhà các giáo dân mà giải thích cho họ những điều ấy và thế nào là trọng tội chối đạo và chối bỏ Chúa Giêsu…”.
Với một thừa sai như vậy, chị Maria Mađalêna Hậu cũng như các chị nữ tu Mến Thánh Giá tại Nhu Lý và giáo dân làng Nhu Lý đương nhiên được nghe ngài chỉ bảo và được ngài hướng dẫn nhiều trong đời sống đạo và đời tu trì.
Thời gian sau đó, cha đáng kính Delamotte phải bỏ Nhu Lý lánh nạn bên Dương Sơn, rồi Nhu Lâm, sau cùng thì trở lại Nhu Lý. Trở lại Nhu Lý, lòng nhiệt thành của ngài không thể để ngài im lặng mà không làm việc mở mang Nước Chúa. Riêng trong năm 1835, ngài đã giải tội được 1.136 lần, cho rước lễ 1.068 lần. Với một sinh hoạt như vậy, đương nhiên nhiều người biết đến ngài, kể cả các kẻ bên lương trong vùng ấy.
Chính vào thời kỳ gay cấn này, thầy Hoà đã viết cho Đức cha Cuenot đang ở Qui Nhơn, ngày 20.10. 1839, những lời sau: “… Từ chiếu chỉ cấm đạo ngày 28 tháng Tám âm lịch, dân làng làm con bận tâm lắm và gây cho con trăm ngàn chuyện phức tạp; chỉ có duy ông lý trưởng là thuận tình giúp đỡ con !… Điều khiến con buồn phiền luôn là nghĩ rằng khi con bị bắt và con không còn có thể lo cho Cha ấy nữa (tức cha Delamotte), thì tất cả mọi người sẽ bỏ rơi ngài. Đó là chuyện quá chắc chắn. Tuy vậy, con không thể nào bắt chước thiên hạ mà lại không bất tòng phục Thiên Chúa, nếu con bỏ rơi Cha ấy…”.
Năm 1839, vì tình hình trở nên hoàn toàn bất an cho cha đáng kính. Thầy Hoà phải tính đến chuyện đem cha đi trốn sang nơi khác. Như mọi lần, thầy biết, cha đáng kính Delamotte trở lại Nhu Lý, sống ẩn kín trong nhà dòng Mến Thánh Giá tại đây, nhưng khó có thể ở lâu dài hơn được. Vì nghề nghiệp lương y của mình, thầy đã sắp đặt đưa cha sang làng An Ninh không xa Nhu Lý lắm về phía Bắc, bằng đường sông vào ban đêm. Nhưng khi đò đang trên đường đi thì bị quan quân chận xét, cha Delamotte nhẩy lên bờ chạy trốn mà bị kẻ ngoại giáo chận bắt giữ. Đêm đó là đêm ngày 12 rạng 13 tháng Tư năm 1839. (Khi cha Delamotte bị bắt, chú Điền đang ở nhà mình đã trốn đi được. Quan không bắt được chú nên đã khiến bắt thân phụ của chú thay vào chỗ của chú, tức ông Gioan Baotixita Trang mà tên trên giấy tờ là Nguyễn Công Nghiêm. Ông Trang từ trần trong nhà tù Trấn Phủ ngày 30.9.1840). Sau một thời gian tạm giam tại Quảng Trị, những kẻ bị bắt đêm đó được giải về giam trong ngục Trấn Phủ tại kinh đô Huế. Trong thời gian ở nhà tù Quảng Trị, Thầy Hòa chỉ phải đeo gông tre nhẹ và được mọi người kính trọng, được tự do đi lại.
Những ngày giam cầm ở Trấn Phủ, cha đánh kính luôn tìm dịp viết thư cho Đức cha Cuenot. Trong một thư kia, cha đã viết về tinh thần bảo vệ và sống đạo của chị Hậu khi con thuyền bị chận bắt, chị Hậu đã mau mắn ném rất nhiều đồ đạo đem theo xuống nước. Cha đáng kính Delamotte làm chứng trong lá thư của ngài gửi Đức cha Cuenot: “Đồ đạo mà người ta lấy của con thì chỉ có cái túi nhỏ để đem Của Ăn Đàng cho người bệnh… Khi người ta chận bắt con thuyền thì hình như dì Hậu đã ném xuống sông rất nhiều thứ: kinh nguyện, sách vở, thư từ, giấy má, dao cạo râu của con, vân vân; hình như dì cũng quăng cả cái hộp đựng các Dầu Thánh của con nữa. Con còn thích dì ấy ném đi như thế hơn là để rơi vào tay đám quan lại kẻo bị xúc phạm, gây cớ ra muôn điều vu khống mỉa mai chống đạo, và ép con cả hằng nghìn thứ tra vấn rất phiền phức, và có thể còn tra khảo con bằng những cực hình để tìm cho ra được những vu oan và những sự chẳng hề có…”.
Trong hai tháng bị giam ở Quảng Trị các con của thầy Hòa đều đến thăm, thầy ân cần khuyên:
- "Cha rất vui mừng tuân theo thánh ý Chúa, các con đừng buồn. Mọi đứa phải vâng lời mẹ dạy, săn sóc cửa nhà tử tế vì cha không thể lo lắng gì hơn được nữa".
Về nhà tù ở trấn phủ tại Huế, Thầy Hòa vẫn vui vẻ dọn mình lãnh triều thiên tử đạo. Có người học trò đến thăm, thầy tâm sự:
- "Con đến thăm lần này đủ rồi, đừng đến nữa kẻo lính bắt, các con không chịu được các hình khổ. Sáng chiều con hãy đọc kinh và xin Chúa cho thầy được chịu chém vì đạo thánh Chúa. Khi đầu thầy rơi xuống rồi thì trò hãy năng đến thăm viếng an ủi bà và các con cái thầy. Các trò, thầy cũng coi như con và sẽ theo để phù giúp trên đường đời gian nan".
Thầy Hòa luôn luôn là chỗ dựa tinh thần cho mọi người cùng bị giam, thày giúp họ mạnh sức xưng đạo và vui lòng chịu khổ vì Chúa. Các quan cũng đến nói thầy chối đạo để được về với vợ con, thầy thẳng thắn trả lời:
- "Dầu tôi phải mất vợ mất con mất hết của cải và cả sự sống nữa, tôi cũng không bao giờ bỏ Chúa tôi thờ".
Khi người vợ tới thăm, thầy thương vợ nhiều bao nhiêu thì lại càng nghĩ tới các con bấy nhiêu, thầy dặn dò kỹ với vợ:
- "Mình hãy can đảm đừng buồn sầu vì số phận tôi phải chịu. Cái chết của tôi làm vinh danh Chúa. Hãy xem việc gì đã xảy ra cho ông ký Ðạo bị giam tù chết vì bệnh thổ tả chẳng được lợi ích gì. Mình hãy thay tôi khuyên bảo con chúng ta biết tuân theo thánh ý Chúa. Việc tương lai của chúng, tôi đã ghi trong tờ di chúc. Còn về phần các học trò của tôi hãy coi chúng như con vậy. Tôi đã chỉ dạy cho ông lang Khiêm nhưng chưa giúp gì cho trò Thiện, vậy hãy tỏ tình thân ái và sau khi tôi chết đưa áo tang, giầy và khăn tang nếu bố của nó đồng ý, nếu bố nó không chịu thì thôi".
Đó là lần gặp cuối với vợ, và thầy Hòa đã sẵn sàng chờ đợi phúc tử đạo.
Mãi đến ngày 01.8. 1840, cha đáng kính Delamotte mới có thể lén biên thư từ trong tù ra Đức cha Cuenot: “Kính thưa Đức cha, cách đây 4 hôm, con đã nhận được hai lá thư tháng Ba và tháng Năm của Đức cha. Từ lúc con bị bắt, mỗi ngày con đều sẵn sàng viết cho Đức cha thật dài, mà chẳng thể được, bởi vì con luôn luôn bị canh giữ, trông chừng sát bên, chẳng khi nào được ở một mình, rồi con cũng chẳng có giấy… Con được vui và được an ủi vì thấy mọi người của con đều mạnh mẽ, can đảm, vững vàng và không thể lay chuyển được, tất cả đều nhất quyết chịu chết. Đức cha hẳn đã biết rằng nay họ gồm 7 người, là thầy Hoà, chị Hậu, thầy Phê, Vững, bị bắt cùng với con; sau đó người ta bắt ông xã Duyên và ông xã Trang người Nhu Lý và một ông người An Do. Con chưa biết nhiều về ông bị bắt sau này, nhưng cũng là một chuyện ấy thôi; ông ta cũng vững lòng không chịu quá khóa. Con tin rằng hai phụ nữ là những người cứng rắn nhất. Tất cả chúng con hiện ở Huế, trong nhà giam Trấn Phủ. Nhà giam này chia ra làm ba khu: thầy Hoà, ông xã Duyên và chị Hậu ở khu đông; thầy Phê, ông xã Trang và Vững ở khu giữa; con ở khu tây và người ta để ông người An Do với con…”
Sau khi viết lá thư này, cha Delamotte đã chết trong tù Trấn Phủ ngày 03.10.1840, do ốm bệnh cùng với vết thương bị lính đánh vào đầu hôm bị bắt. Tuy nhiên, cái chết của ngài cũng còn là một gương sáng và một động lực mạnh mẽ giúp các giáo hữu thêm kiên cường trong cơn thử thách. Riêng đối với chị Hậu, cha đáng kính Delamotte, quả thực, đã là người mà Thiên Chúa sai đến để làm chị trưởng thành hơn trong ơn gọi tu trì và ơn phúc tử đạo.
Hơn hai tháng sau đó, ngày 12 tháng Chạp năm 1840, tức ngày 12-12-1840, quan lãnh binh và quan bộ dẫn 30 lính đến đem thầy Hòa đi xử. Quan bộ cỡi ngựa đi đầu rồi đến quan giám sát, thầy Hòa đeo gông vắn đi giữa 4 tên lính cầm gươm sẵn sàng và ở giữa hai hàng lính, trước mặt thầy một tên lính cầm bản ghi án. Một tên khác đi sau cầm gươm dùng để chém. Khi thầy Hòa ra khỏi cửa thành có ba tiếng trống và quan tuyên đọc bản án. Khi đoàn người đến chợ An Hòa thuộc họ Ðốc Sơ (nay là xã Hương Sơ, thành phố Huế), quan giám sát truyền lệnh dừng lạị Ông Quán trải hai tấm chiếu xuống đất và một tấm vải trắng để Thầy Hòa quì lên trên. Từ khi bước ra khỏi tù, khuôn mặt Thầy Hòa vẫn điềm nhiên và chiếu rạng vui tươi. Vì được báo trước, cha Ngôn sẽ đứng đàng sau ông quan để ban phép giải tội cho thầy Hòa. Lúc ấy thầy Hòa biết chắc có cha Ngôn liền quì xuống thống hối để đón nhận phép giải tội trong khi quan ra lệnh cởi gông và trói tay sau lưng.
Quan giám sát đọc lại bản án viết trên thẻ gỗ và ra lệnh sau tiếng trống thứ ba thì chém đầu. Thế nhưng mới tiếng trống thứ nhất, lý hình đã chém đầu thầy gần rơi khỏi cổ. Chúng lấy gươm cắt đứt đầu khỏi cổ và tung lên trời cho mọi người xem thấy. Ðầu rơi xuống đất ngay chỗ xác ngài. Sau đó các quan và lính rút lui còn lại một mình quan đội canh cái đầu. Sau quan đội giao cho làng Ðức Sơ ngoại đạo để bêu đầu đủ ba ngày. Mọi việc hoàn tất vào lúc quá nửa trưa. Các người lo việc an táng lấy vải cuốn xác giữ lấy chờ khi lấy được đầu sẽ mang về chôn ở Nhu Lý.
Một ngày cuối năm, ngày 28 tháng Chạp năm 1840, hai nữ tù nhân can đảm là chị Hậu và bà Vững bị đưa đến chốn lưu đày. Nơi này, theo lời Đức cha Lefebvre Ngãi, gọi là Đồn Điền, “vùng núi non”, “một nơi mà nước thì xấu, khí trời thì độc, khiến những ai sống ở đó một thời gian thì sẽ xuống mồ ngay”. Nhưng may thay, ông quan trông coi nơi này lại là người Công giáo. Đức cha Cuenot trong thư gửi về Thánh bộ Truyền Giáo ngày 22.12.1842 cho biết thêm là ông quan có đạo ấy, mấy hôm sau, đã cho dẫn chị Hậu cùng bà Vững về một làng người Công giáo quen gọi là Đá Hàn, vào ngày 02.1.1841. Giáo hữu Đá Hàn đem hai người về Phủ Cam, cạnh kinh đô. Chị Hậu và bà Vững chỉ sống tại nơi bị phát lưu tối đa là 5 ngày.
Về Phủ Cam, chị Hậu được tiếp đón trong nhà các nữ tu Mến Thánh Giá tại đây. “Tuy nhiên, Maria Mađalêna Hậu đã mang trong người mình chất độc hại sẽ làm cho chị phải chết. Lui ẩn vào một căn nhà Công giáo, chị liền bị đau đớn quằn quại trong bụng dạ và một cơn bệnh hiểm nghèo khiến phải lo sợ cho tính mạng của chị. Chị đã nhận lãnh các bí tích cuối cùng với tâm tình sốt mến và đạo đức khiến tất cả mọi người chứng kiến phải khâm phục. Sau cùng, vào tháng Giêng vừa qua, chị đã đưa linh hồn mình về với Chúa và xứng đáng lên trời lãnh nhận triều thiên dành cho những kiệt sĩ anh hùng đức tin”.
Đó là chứng từ của Đức cha Lefebvre Ngãi trong lá thư ngài viết về Chủng Viện Hội Thừa Sai Paris ngày 25.5.1841, bốn tháng sau khi chị Hậu qua đời.
Năm 1857 cha Gilles Joseph Louis Delamotte được tôn lên là Đấng Đáng Kính.
THEO TIẾNG YÊU THƯƠNG
Những ngày cuối năm 2000, khi tôi vẫn chưa được gia nhập Hội Thánh, khi đó tôi mới “chập chững” sử dụng máy vi tính và Internet. Việc làm mà tôi rất yêu thích đó là tìm hiểu về các thánh, tôi tìm hiểu các thánh tây qua tên của các ngài được kính mỗi ngày và tôi luôn thắc mắc về các thánh Việt Nam vì tôi chỉ được nghe tên của các ngài vào mỗi Chúa nhật khi người phục vụ nhà thờ đọc lịch Công giáo.
Một hôm, tôi thấy Website “Simon Hoa Dalat” thì say sưa đọc bài trên trang web. Nhưng việc “đánh vần” tên website là cả một vấn đề vì khi đó tôi mới “bập bẹ” biết ngôn ngữ của Công giáo; tôi suy luận: “Simon” là thánh Simon Tông đồ, còn “Hoa Dalat” thì đơn giản là Hoa Đà Lạt vì Đà Lạt là xứ sở của các loài hoa tuyệt đẹp. Và phải một thời gian hơn một năm sau, tôi mới biết là mình nhầm to! Đó là khi tôi tha thiết muốn tìm hiểu về các thánh Tử Đạo Việt Nam, và tôi đã được cha xứ cho mượn sách để đọc hạnh các thánh, trong số các thánh có thánh Simon Phan Đắc Hòa, gọi tắt là thánh Simon Hòa. Những điều này không được dạy khi học Giáo lý và đối với tân tòng thì phải tự tìm hiểu. Tôi hiểu, vậy là Hội Ái Hữu đã nhận thánh Simon Hòa làm thánh Bổn mạng. Và tôi đã là độc giả thường xuyên của www.simonhoadalat.com.
Nhiều năm liên tiếp kể từ ngày tôi trở lại Đạo, từ năm 2002 đến nay tôi luôn gặp nhiều thử thách sống Đạo và không phải dễ dàng để có thể tự mình vượt qua. Một lần vào hè năm 2004, tôi gặp khủng hoảng tinh thần, tôi đã đi đến thành phố Huế mong được tới nhìn Nhà thờ Phú Bài, ngôi nhà thờ cổ, đổ nát như chính tâm hồn tôi đang điêu tàn. Đứng trước sân Nhà thờ, tôi lặng người đi khi thấy những hình ảnh về các thánh Tử đạo của Giáo phận Huế trong tâm trí tôi, có lời an ủi tôi khi tôi hiểu là mình đã là Kitô hữu, đang sống Đạo và tiếp tục trở thành Kitô hữu đích thực.
Trở về Hà Nội, tôi cầu nguyện xin Chúa và các thánh để được tìm hiểu về các thánh Tử Đạo Việt Nam như lòng mình ao ước.
Khi chuẩn bị viết về thánh Hòa, thì có hai việc khó nhất với tôi đó là:
- Tìm địa chỉ giáo xứ làng Nhu Lý vì theo sử liệu thì trong cuộc Văn Thân tàn sát năm 1885 và trước đó, từ suốt năm mươi năm làng Nhu Lý và Bố Liêu hoàn toàn thiệt mạng, giáo dân và các nữ tu dòng Mến Thánh Giá bị tàn sát, chôn sống, thiêu sống và lưu dày. Sau thời kỳ Văn Thân không còn tên làng nữa. Nhưng ơn thánh Hòa phù giúp, vào phút cuối ngày tôi đã được nhận một bản đồ Quảng Trị của những năm 1830–1840 từ cha Toản, nhờ vậy mà tôi đã xác định được địa chỉ làng Nhu Lý giúp cho việc hành hương của bạn đọc.
- Tìm phương châm sống đạo của thánh Hòa. Trong Uống Nước Nhớ Nguồn, tít về cuộc đời thánh Hòa được ghi là “Gương mẫu người tân tòng”, tôi thấy mâu thuẫn vì ngài được Rửa tội khi còn là cậu bé 12-13 tuổi; cuộc đời thánh Hòa đã có 44 năm là Kitô hữu; suốt thời gian hơn 10 năm trong Chủng viện An Ninh là thời gian khẳng định ngài qua thời kỳ “tân tòng” rồi! Tuy nhiên ngài sẽ vẫn luôn nhớ về tuổi thơ của mình. Tôi cầu nguyện xin thánh Hoà, nếu ý cầu nguyện đẹp ý ngài, xin ngài cho tôi biết điều gì đã dẫn đưa ngài trên con đường theo Chúa. Tôi đã nhận được câu trả lời, đó là: “Tình yêu thúc đảy những việc làm vì Chúa”.
Lúc này đây, trong tâm trí tôi có hình ảnh thánh Simon Phan Đắc Hòa với phong thái điềm đạm lại mạnh mẽ, ân cần trong yêu thương từ trái tim nhân hậu của một người chồng, một người cha, một người thầy thuốc.
Mừng Lễ kính 168 năm Thánh Phan Đắc Hoà Tử Đạo (12.12.1840 – 12.12.2008)
Thánh nhân: Simon Phan Đắc HoàĐã từng theo ơn gọi tu trì sau trở ra làm Lương y và lập gia đình.
Năm sinh: 1774
Tử Đạo: 12.12.1840
Hưởng dương: 66 tuổi
Nơi sinh: Làng Mai Vĩnh, xã Mông Thôn, Thừa Thiên Huế
(x.Uống Nước Nhớ Nguồn trang 394)
Năm 1786 chuyển tới: Làng Lượng Kim và làng Nhu Lý sống, theo Đạo
Giáo xứ quê hương: Giáo họ Nhu Lý, Giáo phận Huế (gần Cửa Việt) (Cách Toà Giám mục Hà Nội khoảng 647km)
Địa chỉ Giáo xứ: Làng Nhu Lý, xã Triệu An,
huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (địa chỉ xã chưa được xác định chính xác, xin đón đọc Hành Hương Theo Tiếng Yêu Thương của Teresa Avila Thùy Chi)
An táng: Giáo xứ quê nhà - làng Nhu Lý
Hiển thánh: 19.6.1988 đời Đức Giáo Hoàng Jonh Paul II.
Thánh tích: Cuộc đời của Thánh Simon Hòa luôn nêu cao đức tin và có sức thuyết phục làm cho những ai từng gặp ngài sẽ trở nên tốt hơn vì ngài đã trở thành một công dân lương thiện, một người cha đức độ, một tông đồ nhiệt thành trong thời kỳ bách hại đạo gắt gao. Ngài là thánh nhân trong Tình yêu của Thiên Chúa:
- Hình ảnh của một chứng nhân Tình yêu đích thực, một Kitô hữu đích thực;
- Âm thanh của lời cầu nguyện đó là những khoảng trống thinh lặng trong cuộc đời của ngài;
- Tiếng nói trung tín của người tín hữu luôn ý thức mình là Kitô hữu sau mỗi lần bước ra khỏi khoảng lặng.
![]() |
| Quảng Trị (1830–1840) Tư liệu LM Joseph Đào Quang Toản (Toulous - Pháp) |
Điều tôi tin, đó là tôi thấy sự cương quyết của gia đình yêu cầu chuyển viện cho cháu Bảo từ Bệnh Viện Đa khoa Saint Paul Hà Nội sang Viện Bỏng QG. Tôi lắng nghe chị Hoa, mẹ của cháu Bảo, kể cho tôi biết: “Gia đình không hề nghĩ tới Viện Bỏng QG cho đến sáng hôm sau, có một bác trung niên tới thăm người nhà đang cấp cứu tại Bệnh viện St.Paul khuyên gia đình nên chuyển viện cho cháu tới Viện Bỏng QG”. Sau hậu phẫu 2-3 ngày, cháu Bảo sẽ không còn thấy đau rát nữa vì việc ghép da được chỉ định nhằm giúp cho vết bỏng được bảo vệ, tránh vi khuẩn xâm nhập, vết thương dễ hồi phục hơn. Tôi thầm cảm ơn thánh Hòa vì gia đình tôi là bên lương và chỉ có mình tôi là người Công giáo.
Nhờ sự chia sẻ và giải thích của các cha giáo sư sử học, tôi đã được tìm hiểu hạnh thánh Phan Đắc Hoà trong năm ngày (6-11.12.2008), ơn Thiên Chúa ban và thánh Hòa trợ giúp tôi, tôi đã thấy hình ảnh của một chứng nhân Tình yêu đích thực, một Kitô hữu đích thực; tôi đã thấy những khoảng trống thinh lặng cầu nguyện trong cuộc đời của thánh Hoà; tôi đã thấy một tín hữu luôn ý thức mình trung tín sau mỗi lần bước ra khỏi khoảng lặng.
TÌNH YÊU THÚC ĐẨY NHỮNG VIỆC LÀM
Thánh Phan Đắc Hoà sinh năm 1774 trong một gia đình Nho giáo ở làng Mai Vĩnh, một làng ngoại giáo trong xã Mông Thôn thuộc tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Công thần Lại Bộ Thượng Thư Phan Đắc Thục (ngày nay chức quan Thượng Thư có thể được coi tương đương với chức Bộ trưởng), thân mẫu tên là Đóa chịu làm vợ lẽ và có hai người con một nam và một nữ với quan thượng thư. Cụ Phan Đắc Thục qua đời khi cậu Hòa 12 tuổi. Cuộc sống gia đình bắt đầu có những thay đổi, bà Đóa đưa hai chị em tới làng Nhu Lý sinh sống. Đây là làng Công giáo toàn tòng và có gia đình Công giáo ông Tảo tốt bụng đã giúp đỡ mẹ con cậu Hòa. Ít lâu sau, bà và các con đã trở lại đạo.
Ngay từ những ngày trở lại đạo, ông Tảo đã cho cậu Hòa vào nhà Đức Chúa Trời ở với cha Nhân mấy năm rồi vào học Chủng viện An Ninh. Thầy Hòa học trong Chủng Viện hơn mười năm nhưng vẫn chưa được chọn lên chức Linh mục vì hoàn cảnh gia đình, bề trên cho biết thầy là con vợ lẽ và như vậy thì có thể rất khó khăn bền đỗ ơn gọi. Thầy Hòa trở về gia đình khi đã 30 tuổi, sau những ngày tĩnh tâm cầu nguyện thầy đã quyết định đến ở nhà ông lang Phương để vừa giúp việc, vừa học nghề thuốc. Ai cũng yêu quý thầy, một thanh niên trẻ, có học, lịch sự và thương người. Một thời gian giúp việc cho ông lang Phương, thầy Hòa đã được gia đình ông lang Phương gả con gái tên là Yêm, thiếu nữ 18 tuổi.
Tình yêu trong cuộc sống hạnh phúc của hai ông bà đã sinh ra 12 người con mà sau này có ba cô con gái đều dâng mình vào dòng Mến Thánh Giá. Vợ chồng ông bà Hòa tiếp nối nghề thuốc truyền thống của gia đình. Người dân trong làng gọi thầy Hòa rất kính trọng là ông lang Hòa và những ai đã từng quen biết ông lang Hòa từ bé thì vẫn gọi ông là thầy Hòa. Với đời sống đạo đức và là người có thế giá trong làng, thầy được cử làm thủ chỉ làng Nhu Lý, kiêm trùm họ đạo và chánh trương hàng xứ. Thầy là người giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần cho giáo dân trong làng, cách đặc biệt với Cộng đoàn Dòng Mến Thánh Giá Nhu Lý mới thành lập đầu thế kỷ XIX (1805). Nhà dòng Nhu Lý là địa chỉ tạm trú thường xuyên của các cha Thừa Sai tới truyền giáo trong làng và các vùng phụ cận. Nhưng tình hình chung tại đây vào những năm 1830-1840 rất khó khăn vì vua Minh Mệnh bách hại người Công giáo không thương xót, chính tay vua đã ký gần 150 bản án tử đạo. Trong số 117 vị tử đạo tại Việt Nam đã được Giáo Hội tôn phong hiển thánh thì tới 58 vị chịu chết dưới triều đại vua Minh Mệnh.
Vào năm 1831, linh mục thừa sai trẻ 32 tuổi, cha Gilles Joseph Louis Delamotte (tên Việt: Y), mới từ Pháp đến Quảng Trị. Ngài ở tại Chủng viện An Ninh học tiếng Việt vài tháng trời, sau đó sang định cư bên làng Nhu Lý, ở nhà dòng các chị Mến Thánh Giá. Ngài là một trong những thừa sai hằng lưu tâm củng cố và xây dựng các cộng đoàn nữ tu. Sự hiện diện thường trực của ngài như vậy thực là một may mắn lớn cho giáo dân và các nữ tu ở cộng đoàn Nhu Lý. Tại đây, khi ngài đến vào quãng năm 1831-1832, giữa các nữ tu có một chị nữ tu trẻ tuổi tên Maria Mađalêna Nguyễn Thị Hậu là cháu thiêng liêng của thầy Hòa, chị được chỉ định để săn sóc cha Delamotte. Bên cạnh chị, cha còn một người học trò giúp việc thư ký cho cha tên là chú Điền, con trai của ông Gioan Baotixita Trang. Chú đã là người Nhà Đức Chúa Trời, quãng 15 tuổi. Người nữ tu trẻ sẽ được ơn phúc tử đạo sau này.
Ban đầu, cha đáng kính Delamotte sống khá bình yên tại Nhu Lý cho đến khi chiếu chỉ Minh Mệnh cấm đạo được ban ra vào ngày 06.1.1833. Lúc đó, ngài liền lo chuẩn bị các giáo hữu Nhu Lý đương đầu với cơn bách đạo có thể xảy đến lúc nào không hay. Ngài viết thư về Pháp kể chuyện cho cha mẹ ngài rằng: “Dù con mới chỉ tập sự nói tiếng ở đây (vì con mới học được 8 tháng thôi), con đã cắt nghĩa cho giáo dân, theo khả năng con có thể, về ân sủng và việc cao cả trong sự tử đạo. Con sai một thầy giảng và một quí chức bậc nhất trong xứ đạo đến nhà các giáo dân mà giải thích cho họ những điều ấy và thế nào là trọng tội chối đạo và chối bỏ Chúa Giêsu…”.
Với một thừa sai như vậy, chị Maria Mađalêna Hậu cũng như các chị nữ tu Mến Thánh Giá tại Nhu Lý và giáo dân làng Nhu Lý đương nhiên được nghe ngài chỉ bảo và được ngài hướng dẫn nhiều trong đời sống đạo và đời tu trì.
Thời gian sau đó, cha đáng kính Delamotte phải bỏ Nhu Lý lánh nạn bên Dương Sơn, rồi Nhu Lâm, sau cùng thì trở lại Nhu Lý. Trở lại Nhu Lý, lòng nhiệt thành của ngài không thể để ngài im lặng mà không làm việc mở mang Nước Chúa. Riêng trong năm 1835, ngài đã giải tội được 1.136 lần, cho rước lễ 1.068 lần. Với một sinh hoạt như vậy, đương nhiên nhiều người biết đến ngài, kể cả các kẻ bên lương trong vùng ấy.
Chính vào thời kỳ gay cấn này, thầy Hoà đã viết cho Đức cha Cuenot đang ở Qui Nhơn, ngày 20.10. 1839, những lời sau: “… Từ chiếu chỉ cấm đạo ngày 28 tháng Tám âm lịch, dân làng làm con bận tâm lắm và gây cho con trăm ngàn chuyện phức tạp; chỉ có duy ông lý trưởng là thuận tình giúp đỡ con !… Điều khiến con buồn phiền luôn là nghĩ rằng khi con bị bắt và con không còn có thể lo cho Cha ấy nữa (tức cha Delamotte), thì tất cả mọi người sẽ bỏ rơi ngài. Đó là chuyện quá chắc chắn. Tuy vậy, con không thể nào bắt chước thiên hạ mà lại không bất tòng phục Thiên Chúa, nếu con bỏ rơi Cha ấy…”.
Năm 1839, vì tình hình trở nên hoàn toàn bất an cho cha đáng kính. Thầy Hoà phải tính đến chuyện đem cha đi trốn sang nơi khác. Như mọi lần, thầy biết, cha đáng kính Delamotte trở lại Nhu Lý, sống ẩn kín trong nhà dòng Mến Thánh Giá tại đây, nhưng khó có thể ở lâu dài hơn được. Vì nghề nghiệp lương y của mình, thầy đã sắp đặt đưa cha sang làng An Ninh không xa Nhu Lý lắm về phía Bắc, bằng đường sông vào ban đêm. Nhưng khi đò đang trên đường đi thì bị quan quân chận xét, cha Delamotte nhẩy lên bờ chạy trốn mà bị kẻ ngoại giáo chận bắt giữ. Đêm đó là đêm ngày 12 rạng 13 tháng Tư năm 1839. (Khi cha Delamotte bị bắt, chú Điền đang ở nhà mình đã trốn đi được. Quan không bắt được chú nên đã khiến bắt thân phụ của chú thay vào chỗ của chú, tức ông Gioan Baotixita Trang mà tên trên giấy tờ là Nguyễn Công Nghiêm. Ông Trang từ trần trong nhà tù Trấn Phủ ngày 30.9.1840). Sau một thời gian tạm giam tại Quảng Trị, những kẻ bị bắt đêm đó được giải về giam trong ngục Trấn Phủ tại kinh đô Huế. Trong thời gian ở nhà tù Quảng Trị, Thầy Hòa chỉ phải đeo gông tre nhẹ và được mọi người kính trọng, được tự do đi lại.
Những ngày giam cầm ở Trấn Phủ, cha đánh kính luôn tìm dịp viết thư cho Đức cha Cuenot. Trong một thư kia, cha đã viết về tinh thần bảo vệ và sống đạo của chị Hậu khi con thuyền bị chận bắt, chị Hậu đã mau mắn ném rất nhiều đồ đạo đem theo xuống nước. Cha đáng kính Delamotte làm chứng trong lá thư của ngài gửi Đức cha Cuenot: “Đồ đạo mà người ta lấy của con thì chỉ có cái túi nhỏ để đem Của Ăn Đàng cho người bệnh… Khi người ta chận bắt con thuyền thì hình như dì Hậu đã ném xuống sông rất nhiều thứ: kinh nguyện, sách vở, thư từ, giấy má, dao cạo râu của con, vân vân; hình như dì cũng quăng cả cái hộp đựng các Dầu Thánh của con nữa. Con còn thích dì ấy ném đi như thế hơn là để rơi vào tay đám quan lại kẻo bị xúc phạm, gây cớ ra muôn điều vu khống mỉa mai chống đạo, và ép con cả hằng nghìn thứ tra vấn rất phiền phức, và có thể còn tra khảo con bằng những cực hình để tìm cho ra được những vu oan và những sự chẳng hề có…”.
Trong hai tháng bị giam ở Quảng Trị các con của thầy Hòa đều đến thăm, thầy ân cần khuyên:
- "Cha rất vui mừng tuân theo thánh ý Chúa, các con đừng buồn. Mọi đứa phải vâng lời mẹ dạy, săn sóc cửa nhà tử tế vì cha không thể lo lắng gì hơn được nữa".
Về nhà tù ở trấn phủ tại Huế, Thầy Hòa vẫn vui vẻ dọn mình lãnh triều thiên tử đạo. Có người học trò đến thăm, thầy tâm sự:
- "Con đến thăm lần này đủ rồi, đừng đến nữa kẻo lính bắt, các con không chịu được các hình khổ. Sáng chiều con hãy đọc kinh và xin Chúa cho thầy được chịu chém vì đạo thánh Chúa. Khi đầu thầy rơi xuống rồi thì trò hãy năng đến thăm viếng an ủi bà và các con cái thầy. Các trò, thầy cũng coi như con và sẽ theo để phù giúp trên đường đời gian nan".
Thầy Hòa luôn luôn là chỗ dựa tinh thần cho mọi người cùng bị giam, thày giúp họ mạnh sức xưng đạo và vui lòng chịu khổ vì Chúa. Các quan cũng đến nói thầy chối đạo để được về với vợ con, thầy thẳng thắn trả lời:
- "Dầu tôi phải mất vợ mất con mất hết của cải và cả sự sống nữa, tôi cũng không bao giờ bỏ Chúa tôi thờ".
Khi người vợ tới thăm, thầy thương vợ nhiều bao nhiêu thì lại càng nghĩ tới các con bấy nhiêu, thầy dặn dò kỹ với vợ:
- "Mình hãy can đảm đừng buồn sầu vì số phận tôi phải chịu. Cái chết của tôi làm vinh danh Chúa. Hãy xem việc gì đã xảy ra cho ông ký Ðạo bị giam tù chết vì bệnh thổ tả chẳng được lợi ích gì. Mình hãy thay tôi khuyên bảo con chúng ta biết tuân theo thánh ý Chúa. Việc tương lai của chúng, tôi đã ghi trong tờ di chúc. Còn về phần các học trò của tôi hãy coi chúng như con vậy. Tôi đã chỉ dạy cho ông lang Khiêm nhưng chưa giúp gì cho trò Thiện, vậy hãy tỏ tình thân ái và sau khi tôi chết đưa áo tang, giầy và khăn tang nếu bố của nó đồng ý, nếu bố nó không chịu thì thôi".
Đó là lần gặp cuối với vợ, và thầy Hòa đã sẵn sàng chờ đợi phúc tử đạo.
Mãi đến ngày 01.8. 1840, cha đáng kính Delamotte mới có thể lén biên thư từ trong tù ra Đức cha Cuenot: “Kính thưa Đức cha, cách đây 4 hôm, con đã nhận được hai lá thư tháng Ba và tháng Năm của Đức cha. Từ lúc con bị bắt, mỗi ngày con đều sẵn sàng viết cho Đức cha thật dài, mà chẳng thể được, bởi vì con luôn luôn bị canh giữ, trông chừng sát bên, chẳng khi nào được ở một mình, rồi con cũng chẳng có giấy… Con được vui và được an ủi vì thấy mọi người của con đều mạnh mẽ, can đảm, vững vàng và không thể lay chuyển được, tất cả đều nhất quyết chịu chết. Đức cha hẳn đã biết rằng nay họ gồm 7 người, là thầy Hoà, chị Hậu, thầy Phê, Vững, bị bắt cùng với con; sau đó người ta bắt ông xã Duyên và ông xã Trang người Nhu Lý và một ông người An Do. Con chưa biết nhiều về ông bị bắt sau này, nhưng cũng là một chuyện ấy thôi; ông ta cũng vững lòng không chịu quá khóa. Con tin rằng hai phụ nữ là những người cứng rắn nhất. Tất cả chúng con hiện ở Huế, trong nhà giam Trấn Phủ. Nhà giam này chia ra làm ba khu: thầy Hoà, ông xã Duyên và chị Hậu ở khu đông; thầy Phê, ông xã Trang và Vững ở khu giữa; con ở khu tây và người ta để ông người An Do với con…”
Sau khi viết lá thư này, cha Delamotte đã chết trong tù Trấn Phủ ngày 03.10.1840, do ốm bệnh cùng với vết thương bị lính đánh vào đầu hôm bị bắt. Tuy nhiên, cái chết của ngài cũng còn là một gương sáng và một động lực mạnh mẽ giúp các giáo hữu thêm kiên cường trong cơn thử thách. Riêng đối với chị Hậu, cha đáng kính Delamotte, quả thực, đã là người mà Thiên Chúa sai đến để làm chị trưởng thành hơn trong ơn gọi tu trì và ơn phúc tử đạo.
Hơn hai tháng sau đó, ngày 12 tháng Chạp năm 1840, tức ngày 12-12-1840, quan lãnh binh và quan bộ dẫn 30 lính đến đem thầy Hòa đi xử. Quan bộ cỡi ngựa đi đầu rồi đến quan giám sát, thầy Hòa đeo gông vắn đi giữa 4 tên lính cầm gươm sẵn sàng và ở giữa hai hàng lính, trước mặt thầy một tên lính cầm bản ghi án. Một tên khác đi sau cầm gươm dùng để chém. Khi thầy Hòa ra khỏi cửa thành có ba tiếng trống và quan tuyên đọc bản án. Khi đoàn người đến chợ An Hòa thuộc họ Ðốc Sơ (nay là xã Hương Sơ, thành phố Huế), quan giám sát truyền lệnh dừng lạị Ông Quán trải hai tấm chiếu xuống đất và một tấm vải trắng để Thầy Hòa quì lên trên. Từ khi bước ra khỏi tù, khuôn mặt Thầy Hòa vẫn điềm nhiên và chiếu rạng vui tươi. Vì được báo trước, cha Ngôn sẽ đứng đàng sau ông quan để ban phép giải tội cho thầy Hòa. Lúc ấy thầy Hòa biết chắc có cha Ngôn liền quì xuống thống hối để đón nhận phép giải tội trong khi quan ra lệnh cởi gông và trói tay sau lưng.
Quan giám sát đọc lại bản án viết trên thẻ gỗ và ra lệnh sau tiếng trống thứ ba thì chém đầu. Thế nhưng mới tiếng trống thứ nhất, lý hình đã chém đầu thầy gần rơi khỏi cổ. Chúng lấy gươm cắt đứt đầu khỏi cổ và tung lên trời cho mọi người xem thấy. Ðầu rơi xuống đất ngay chỗ xác ngài. Sau đó các quan và lính rút lui còn lại một mình quan đội canh cái đầu. Sau quan đội giao cho làng Ðức Sơ ngoại đạo để bêu đầu đủ ba ngày. Mọi việc hoàn tất vào lúc quá nửa trưa. Các người lo việc an táng lấy vải cuốn xác giữ lấy chờ khi lấy được đầu sẽ mang về chôn ở Nhu Lý.
Một ngày cuối năm, ngày 28 tháng Chạp năm 1840, hai nữ tù nhân can đảm là chị Hậu và bà Vững bị đưa đến chốn lưu đày. Nơi này, theo lời Đức cha Lefebvre Ngãi, gọi là Đồn Điền, “vùng núi non”, “một nơi mà nước thì xấu, khí trời thì độc, khiến những ai sống ở đó một thời gian thì sẽ xuống mồ ngay”. Nhưng may thay, ông quan trông coi nơi này lại là người Công giáo. Đức cha Cuenot trong thư gửi về Thánh bộ Truyền Giáo ngày 22.12.1842 cho biết thêm là ông quan có đạo ấy, mấy hôm sau, đã cho dẫn chị Hậu cùng bà Vững về một làng người Công giáo quen gọi là Đá Hàn, vào ngày 02.1.1841. Giáo hữu Đá Hàn đem hai người về Phủ Cam, cạnh kinh đô. Chị Hậu và bà Vững chỉ sống tại nơi bị phát lưu tối đa là 5 ngày.
Về Phủ Cam, chị Hậu được tiếp đón trong nhà các nữ tu Mến Thánh Giá tại đây. “Tuy nhiên, Maria Mađalêna Hậu đã mang trong người mình chất độc hại sẽ làm cho chị phải chết. Lui ẩn vào một căn nhà Công giáo, chị liền bị đau đớn quằn quại trong bụng dạ và một cơn bệnh hiểm nghèo khiến phải lo sợ cho tính mạng của chị. Chị đã nhận lãnh các bí tích cuối cùng với tâm tình sốt mến và đạo đức khiến tất cả mọi người chứng kiến phải khâm phục. Sau cùng, vào tháng Giêng vừa qua, chị đã đưa linh hồn mình về với Chúa và xứng đáng lên trời lãnh nhận triều thiên dành cho những kiệt sĩ anh hùng đức tin”.
Đó là chứng từ của Đức cha Lefebvre Ngãi trong lá thư ngài viết về Chủng Viện Hội Thừa Sai Paris ngày 25.5.1841, bốn tháng sau khi chị Hậu qua đời.
Năm 1857 cha Gilles Joseph Louis Delamotte được tôn lên là Đấng Đáng Kính.
THEO TIẾNG YÊU THƯƠNG
Những ngày cuối năm 2000, khi tôi vẫn chưa được gia nhập Hội Thánh, khi đó tôi mới “chập chững” sử dụng máy vi tính và Internet. Việc làm mà tôi rất yêu thích đó là tìm hiểu về các thánh, tôi tìm hiểu các thánh tây qua tên của các ngài được kính mỗi ngày và tôi luôn thắc mắc về các thánh Việt Nam vì tôi chỉ được nghe tên của các ngài vào mỗi Chúa nhật khi người phục vụ nhà thờ đọc lịch Công giáo.
Một hôm, tôi thấy Website “Simon Hoa Dalat” thì say sưa đọc bài trên trang web. Nhưng việc “đánh vần” tên website là cả một vấn đề vì khi đó tôi mới “bập bẹ” biết ngôn ngữ của Công giáo; tôi suy luận: “Simon” là thánh Simon Tông đồ, còn “Hoa Dalat” thì đơn giản là Hoa Đà Lạt vì Đà Lạt là xứ sở của các loài hoa tuyệt đẹp. Và phải một thời gian hơn một năm sau, tôi mới biết là mình nhầm to! Đó là khi tôi tha thiết muốn tìm hiểu về các thánh Tử Đạo Việt Nam, và tôi đã được cha xứ cho mượn sách để đọc hạnh các thánh, trong số các thánh có thánh Simon Phan Đắc Hòa, gọi tắt là thánh Simon Hòa. Những điều này không được dạy khi học Giáo lý và đối với tân tòng thì phải tự tìm hiểu. Tôi hiểu, vậy là Hội Ái Hữu đã nhận thánh Simon Hòa làm thánh Bổn mạng. Và tôi đã là độc giả thường xuyên của www.simonhoadalat.com.
Nhiều năm liên tiếp kể từ ngày tôi trở lại Đạo, từ năm 2002 đến nay tôi luôn gặp nhiều thử thách sống Đạo và không phải dễ dàng để có thể tự mình vượt qua. Một lần vào hè năm 2004, tôi gặp khủng hoảng tinh thần, tôi đã đi đến thành phố Huế mong được tới nhìn Nhà thờ Phú Bài, ngôi nhà thờ cổ, đổ nát như chính tâm hồn tôi đang điêu tàn. Đứng trước sân Nhà thờ, tôi lặng người đi khi thấy những hình ảnh về các thánh Tử đạo của Giáo phận Huế trong tâm trí tôi, có lời an ủi tôi khi tôi hiểu là mình đã là Kitô hữu, đang sống Đạo và tiếp tục trở thành Kitô hữu đích thực.
Trở về Hà Nội, tôi cầu nguyện xin Chúa và các thánh để được tìm hiểu về các thánh Tử Đạo Việt Nam như lòng mình ao ước.
Khi chuẩn bị viết về thánh Hòa, thì có hai việc khó nhất với tôi đó là:
- Tìm địa chỉ giáo xứ làng Nhu Lý vì theo sử liệu thì trong cuộc Văn Thân tàn sát năm 1885 và trước đó, từ suốt năm mươi năm làng Nhu Lý và Bố Liêu hoàn toàn thiệt mạng, giáo dân và các nữ tu dòng Mến Thánh Giá bị tàn sát, chôn sống, thiêu sống và lưu dày. Sau thời kỳ Văn Thân không còn tên làng nữa. Nhưng ơn thánh Hòa phù giúp, vào phút cuối ngày tôi đã được nhận một bản đồ Quảng Trị của những năm 1830–1840 từ cha Toản, nhờ vậy mà tôi đã xác định được địa chỉ làng Nhu Lý giúp cho việc hành hương của bạn đọc.
- Tìm phương châm sống đạo của thánh Hòa. Trong Uống Nước Nhớ Nguồn, tít về cuộc đời thánh Hòa được ghi là “Gương mẫu người tân tòng”, tôi thấy mâu thuẫn vì ngài được Rửa tội khi còn là cậu bé 12-13 tuổi; cuộc đời thánh Hòa đã có 44 năm là Kitô hữu; suốt thời gian hơn 10 năm trong Chủng viện An Ninh là thời gian khẳng định ngài qua thời kỳ “tân tòng” rồi! Tuy nhiên ngài sẽ vẫn luôn nhớ về tuổi thơ của mình. Tôi cầu nguyện xin thánh Hoà, nếu ý cầu nguyện đẹp ý ngài, xin ngài cho tôi biết điều gì đã dẫn đưa ngài trên con đường theo Chúa. Tôi đã nhận được câu trả lời, đó là: “Tình yêu thúc đảy những việc làm vì Chúa”.
Lúc này đây, trong tâm trí tôi có hình ảnh thánh Simon Phan Đắc Hòa với phong thái điềm đạm lại mạnh mẽ, ân cần trong yêu thương từ trái tim nhân hậu của một người chồng, một người cha, một người thầy thuốc.
Chứng nhân của Ánh sáng
+ TGM Giuse Ngô quang Kiệt
04:16 13/12/2008
Chúa nhật III Mùa Vọng
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA (Ga 1, 6.8.19–28)
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Ðức Chúa đi. Như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Ðấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?" Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của Ngài. Nhìn vào cuộc đời Ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh Ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiểng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng Ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo Ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của Ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời Ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của Ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của Ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Chúa Giêsu Kitô mà Ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên Ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên Ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Chúa Giêsu Kitô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Chúa Giêsu, nên Ngài nói: ” Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”(Ga 1, 27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Chúa Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ Ngài để đi theo Chúa Giêsu, Ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên Ngài nói: “ Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” ( Ga 3, 30 ).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1 – Thánh Gioan Baotixita luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa. Tôi có luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa không ?
2 – Vì ý thức mình là chứng nhân của Chúa, thánh Gioan Baotixita đã luôn khiêm nhường, quên mình, trung thực. Còn tôi, tôi đã làm gì ?
3 – Trong đời sống, tôi để ý làm chứng cho Chúa nhiều, hay tôi chỉ để ý làm chứng cho bản thân mình ?
4 – Trong tuần này, tôi quyết định làm gì để làm chứng cho Chúa ?
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA (Ga 1, 6.8.19–28)
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Dothái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?" Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Ðức Chúa đi. Như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Ðấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?" Ông Gioan trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của Ngài. Nhìn vào cuộc đời Ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh Ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiểng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng Ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo Ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của Ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời Ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của Ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của Ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Chúa Giêsu Kitô mà Ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên Ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên Ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Chúa Giêsu Kitô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Chúa Giêsu, nên Ngài nói: ” Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”(Ga 1, 27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Chúa Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ Ngài để đi theo Chúa Giêsu, Ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên Ngài nói: “ Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” ( Ga 3, 30 ).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1 – Thánh Gioan Baotixita luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa. Tôi có luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa không ?
2 – Vì ý thức mình là chứng nhân của Chúa, thánh Gioan Baotixita đã luôn khiêm nhường, quên mình, trung thực. Còn tôi, tôi đã làm gì ?
3 – Trong đời sống, tôi để ý làm chứng cho Chúa nhiều, hay tôi chỉ để ý làm chứng cho bản thân mình ?
4 – Trong tuần này, tôi quyết định làm gì để làm chứng cho Chúa ?
Gioan, Người Đã Được Chúa Sai Đến
Tuyết Mai
04:18 13/12/2008
Gioan, Người Đã Được Chúa Sai Đến
"Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải". "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo". (Ga 1, 6-8. 19-28).
Thời buổi ngày nay tìm ra một Gioan Tẩy Giả thứ hai, tôi thiết nghĩ thật là khó, bởi Gioan thời nay toàn là những Gioan giả mạo danh nghĩa chứ không phải Gioan Tẩy Giả như thời xưa mà sống để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ những lời chứng đó mà tin. Thỉnh thoảng tôi cũng có thấy vài người đứng ở một góc đường nào đó! Hô to lớn tiếng lên rằng: "Nước Trời đã gần đến; Hãy đến đây để tìm hiểu thêm", và tôi có thấy vài người cũng đến để nhận cuốn sách từ tay của người đàn ông phân phát ra. Nhìn bề ngoài của ông thì chẳng giống một tí ti nào là ông Gioan Tẩy Giả cả! Vì đầu tóc thì bù xù và loăn quăn dài. Đeo chiếc kiếng mát đen. Y phục thì màu mè đủ thứ y như thời hippy xưa. Chiếc xe van của anh cũng đủ sắc đủ mầu, nhìn cũng thấy hay hay, kéo thêm sự chú ý của mọi người. Không biết có phải đó cũng là cách để anh thu hút được nhiều người đến với ông hay không!? Nhưng tôi thấy cũng có nhiều người hưởng ứng. Đứng hồi lâu để quan sát ông và đánh giá thầm trong bụng là mình chẳng muốn mất thời giờ cho những gì ông nói, quảng bá, và đối với ông là lý tưởng. Bản tánh con người thì thích xem xét và đánh giá nhau ở cái vẻ bề ngoài, trước khi ta muốn đến gần họ!? Đôi khi tôi cũng phải công nhận những người như ông họ can đảm thật. Không biết họ sống bằng nghề gì? Không biết họ có gia đình hay không? Nhìn họ có vẻ bụi đời, cuộc sống không có vẻ có nhiều nhu cầu, hay lo lắng chi!?
Ông Gioan thời xa xưa, chắc cũng bị người đời nhìn ông bằng cặp mắt giống như tôi vậy! Bởi ông giống như một người du thủ du thực; Bởi ông là một con người giống như thời tiền sử, là ông mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng!?? Quả ông là một dị nhân, không giống ai. Hằng ngày người người phải đi ngang qua sa mạc nghe ông rao gì? Bao nhiêu người chịu đứng lại để nghe ông? Bao nhiêu người đã tin lời ông và đã chịu phép rửa từ nơi ông? Cái gì nơi ông để thu hút mọi người, chịu dừng lại tìm đến với ông mà xem và nghe điều ông muốn nói? Cái gì nơi ông đã làm cho nhiều người tin tưởng khi mà nơi chính con người của ông lại không có gì cả! Sao ông lại làm được điều ấy!???
Có những sự việc Thiên Chúa làm trên con người thì chúng ta không thể nào hiểu cho tường tận được, bởi sự suy nghĩ của Ngài trái ngược hẳn với bản tánh loài người cơ mà! Ngài giống con người làm sao được thưa có phải không anh chị em! Nếu Ngài giống loài người thì Ngài sẽ không chọn thế gian này để mà đến với chúng ta đâu! Nếu Ngài giống loài người gian ác thì Ngài sẽ không vào thế gian mà trở thành một phàm nhân, sinh ra trong hang đá của một chuồng bò. Không gì ngoài tấm vải được quấn trên con người bé nhỏ của Ngài. Song thân của Ngài cũng chẳng có gì để sắm sửa cho Ngài trong ngày sinh đẻ, ngoài tình yêu ngút ngàn mà hai Đấng có thể dành cho Ngài. Nhân loại chúng ta làm sao hiểu được thiên ý của Thiên Chúa, cho nên nhân loại chúng ta bao nhiêu thế kỷ qua cứ mải kiếm tìm những gì là vô bổ, vô nghĩa, và vô giá trị trước Nhan Thánh Chúa. Nhân loại chúng ta cứ mải tranh dành quyền hành, danh lợi, và những đắm mê tục trần, mà từ từ đánh mất nhân phẩm của một con người và đánh mất cả linh hồn quý giá vô cùng mà chỉ có Thiên Chúa ban cho con người chúng ta có được mà thôi!
Chúng ta chỉ thích chờ người đời hỏi chúng ta một câu: "Ông là ai?" Chỉ cần thế thôi! Thì sau đó Ông sẽ có dịp tha hồ mà bí ba bí bô khoe tất cả cái tôi cho thiên hạ nghe nhức cả hai cái lỗ tai. Có dịp cho ông tha hồ nổ tất cả những gì của mình không có. Có dịp cho ông tha hồ cho thiên hạ ăn cái bánh vẽ của ông mà ông mơ tưởng được có. Nếu ông thật sự là bác sĩ ư! À nếu thật sự ông là bác sĩ thì tôi xin chúc mừng cho ông, mong ông là một bác sĩ nhân đạo, có lương tâm nghề nghiệp, có tấm lòng và tận tụy khi chữa bệnh cho anh chị em. Chúa cần bàn tay yêu thương mà Chúa đã ban cho riêng ông, đã chọn ông, và hy vọng để ông có dịp mà nhờ đó làm cho linh hồn ông càng gần Chúa và Nước Trời hơn.
Nếu thật sự ông là thầy giáo ư! Thế thì càng tốt vì cả một thế hệ tương lai đang cần đến những người thầy có nhiệt huyết, giảng dậy cho các con em vì lý tưởng, vì mong cho hậu duệ mai sau được tốt lành. Vì muốn làm đẹp lòng mình, làm đẹp lòng người, và làm đẹp lòng Chúa; Vì muốn làm người hữu ích cho chính mình, cho đồng loại, và cho Chúa. Và tất cả các ông, ai đang làm những nghề gì của mình trong hiện tại từ chức vụ thật lớn hay thật nhỏ trong xã hội, xin Thiên Chúa luôn chúc lành cho hồn xác các ông được mạnh mẽ, để có thể tất cả chúng ta đều thi hành chức vụ của mình trong trách nhiệm, trong bổn phận, và trong tình yêu thương, bởi chúng ta sẽ phải chung sống với nhau. Đó là điều luật và không một ai có thể ra khỏi đạo luật đó! Vì tất cả Chúa ban cho con người là để biết chia sẻ. Không ai có thể dành cho mình cả một bầu trời để mà thở một mình, hay để mà ngắm một mình, hay để dành mà ăn một mình? Chẳng có ai lại đi ao ước với Chúa rằng hãy biến tất cả ra khỏi mặt đất để chỉ một mình mình, được hưởng thụ và hưởng dùng. Bởi thế cho nên sau khi Chúa tạo dựng nên ông Adong, ông đã sống một mình, đã hưởng thụ một mình, và đã chán ngán cái cảnh một mình, nên Chúa đã thông cảm và hiểu được ông buồn đến độ nào, và Chúa đã chờ khi ông ngủ, mà lấy xương sườn của ông để nắn tạo cho ông một người Nữ làm bạn đời với ông. Cảm tạ Ba Ngôi Thiên Chúa, và con người từ ngày đó trở đi không còn than thở với Chúa là họ không có bạn và buồn bã nữa!.
Ngày nay nếu chúng ta còn than thở không có bạn, thì có phải tại chúng ta chọn sống xa cách, hay tại chúng ta có tâm hồn thật nhỏ nhen, chia giai cấp giầu không chơi nghèo, và chúng ta trong thâm tâm khi dể những ai thua kém mình? Do đó chúng ta không có bạn, và dù của cải của chìm của nổi chúng ta có thật đầy, nhưng có phải chúng ta vẫn than thở là chúng ta cô đơn? Và rồi ngày nào đó chúng ta đã để cho sự tham lam và gian ác đã đi sâu vào tâm hồn và rồi chúng (mọi sự dữ) cũng xúi chúng ta bán linh hồn của chúng ta cho chúng, bằng cách chọn một cách chết thật thê thảm và thật hãi hùng cho những ai cố tình từ chối Chúa!
Xin hết thảy hãy là tiếng kêu trong hoang địa! Có lúc tiếng kêu thật im lặng, là những giờ cầu nguyện thật âm thầm, sốt sắng, mời gọi mọi người trở về cùng Chúa; Có lúc tiếng kêu thật thống thiết như van nài mọi người cùng ăn năn sám hối để được Thiên Chúa tha thứ tội; Có lúc tiếng kêu thật thôi thúc và thúc dục như tâm hồn được Chúa Thánh Linh biến đổi và vui mừng trong tình yêu của Chúa. Mong được vậy lắm thay!
Trong tâm tình chờ đợi Đấng Cứu Thế đến trong thế gian để đem Bình An và Hạnh Phúc cho toàn thể nhân loại, mong tất cả anh chị em chúng ta nghe được tiếng gọi trong sa mạc của tâm hồn, để tâm hồn chúng ta được gội rửa cho tươi mát cho sạch sẽ để xứng đáng Chào Đón Ngài Giêsu Hài Đồng ngự đến trong Hang Đá.. .. "Tâm Hồn" của chúng ta.
Vâng, xin tất cả hãy vui lên vì Đấng Cứu Thế sắp đến với nhân loại chúng ta.. .. Amen.
"Ông là ai?" Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Đấng Kitô". Họ liền hỏi: "Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". - "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải". "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo". (Ga 1, 6-8. 19-28).
Thời buổi ngày nay tìm ra một Gioan Tẩy Giả thứ hai, tôi thiết nghĩ thật là khó, bởi Gioan thời nay toàn là những Gioan giả mạo danh nghĩa chứ không phải Gioan Tẩy Giả như thời xưa mà sống để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ những lời chứng đó mà tin. Thỉnh thoảng tôi cũng có thấy vài người đứng ở một góc đường nào đó! Hô to lớn tiếng lên rằng: "Nước Trời đã gần đến; Hãy đến đây để tìm hiểu thêm", và tôi có thấy vài người cũng đến để nhận cuốn sách từ tay của người đàn ông phân phát ra. Nhìn bề ngoài của ông thì chẳng giống một tí ti nào là ông Gioan Tẩy Giả cả! Vì đầu tóc thì bù xù và loăn quăn dài. Đeo chiếc kiếng mát đen. Y phục thì màu mè đủ thứ y như thời hippy xưa. Chiếc xe van của anh cũng đủ sắc đủ mầu, nhìn cũng thấy hay hay, kéo thêm sự chú ý của mọi người. Không biết có phải đó cũng là cách để anh thu hút được nhiều người đến với ông hay không!? Nhưng tôi thấy cũng có nhiều người hưởng ứng. Đứng hồi lâu để quan sát ông và đánh giá thầm trong bụng là mình chẳng muốn mất thời giờ cho những gì ông nói, quảng bá, và đối với ông là lý tưởng. Bản tánh con người thì thích xem xét và đánh giá nhau ở cái vẻ bề ngoài, trước khi ta muốn đến gần họ!? Đôi khi tôi cũng phải công nhận những người như ông họ can đảm thật. Không biết họ sống bằng nghề gì? Không biết họ có gia đình hay không? Nhìn họ có vẻ bụi đời, cuộc sống không có vẻ có nhiều nhu cầu, hay lo lắng chi!?
Ông Gioan thời xa xưa, chắc cũng bị người đời nhìn ông bằng cặp mắt giống như tôi vậy! Bởi ông giống như một người du thủ du thực; Bởi ông là một con người giống như thời tiền sử, là ông mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong rừng!?? Quả ông là một dị nhân, không giống ai. Hằng ngày người người phải đi ngang qua sa mạc nghe ông rao gì? Bao nhiêu người chịu đứng lại để nghe ông? Bao nhiêu người đã tin lời ông và đã chịu phép rửa từ nơi ông? Cái gì nơi ông để thu hút mọi người, chịu dừng lại tìm đến với ông mà xem và nghe điều ông muốn nói? Cái gì nơi ông đã làm cho nhiều người tin tưởng khi mà nơi chính con người của ông lại không có gì cả! Sao ông lại làm được điều ấy!???
Có những sự việc Thiên Chúa làm trên con người thì chúng ta không thể nào hiểu cho tường tận được, bởi sự suy nghĩ của Ngài trái ngược hẳn với bản tánh loài người cơ mà! Ngài giống con người làm sao được thưa có phải không anh chị em! Nếu Ngài giống loài người thì Ngài sẽ không chọn thế gian này để mà đến với chúng ta đâu! Nếu Ngài giống loài người gian ác thì Ngài sẽ không vào thế gian mà trở thành một phàm nhân, sinh ra trong hang đá của một chuồng bò. Không gì ngoài tấm vải được quấn trên con người bé nhỏ của Ngài. Song thân của Ngài cũng chẳng có gì để sắm sửa cho Ngài trong ngày sinh đẻ, ngoài tình yêu ngút ngàn mà hai Đấng có thể dành cho Ngài. Nhân loại chúng ta làm sao hiểu được thiên ý của Thiên Chúa, cho nên nhân loại chúng ta bao nhiêu thế kỷ qua cứ mải kiếm tìm những gì là vô bổ, vô nghĩa, và vô giá trị trước Nhan Thánh Chúa. Nhân loại chúng ta cứ mải tranh dành quyền hành, danh lợi, và những đắm mê tục trần, mà từ từ đánh mất nhân phẩm của một con người và đánh mất cả linh hồn quý giá vô cùng mà chỉ có Thiên Chúa ban cho con người chúng ta có được mà thôi!
Chúng ta chỉ thích chờ người đời hỏi chúng ta một câu: "Ông là ai?" Chỉ cần thế thôi! Thì sau đó Ông sẽ có dịp tha hồ mà bí ba bí bô khoe tất cả cái tôi cho thiên hạ nghe nhức cả hai cái lỗ tai. Có dịp cho ông tha hồ nổ tất cả những gì của mình không có. Có dịp cho ông tha hồ cho thiên hạ ăn cái bánh vẽ của ông mà ông mơ tưởng được có. Nếu ông thật sự là bác sĩ ư! À nếu thật sự ông là bác sĩ thì tôi xin chúc mừng cho ông, mong ông là một bác sĩ nhân đạo, có lương tâm nghề nghiệp, có tấm lòng và tận tụy khi chữa bệnh cho anh chị em. Chúa cần bàn tay yêu thương mà Chúa đã ban cho riêng ông, đã chọn ông, và hy vọng để ông có dịp mà nhờ đó làm cho linh hồn ông càng gần Chúa và Nước Trời hơn.
Nếu thật sự ông là thầy giáo ư! Thế thì càng tốt vì cả một thế hệ tương lai đang cần đến những người thầy có nhiệt huyết, giảng dậy cho các con em vì lý tưởng, vì mong cho hậu duệ mai sau được tốt lành. Vì muốn làm đẹp lòng mình, làm đẹp lòng người, và làm đẹp lòng Chúa; Vì muốn làm người hữu ích cho chính mình, cho đồng loại, và cho Chúa. Và tất cả các ông, ai đang làm những nghề gì của mình trong hiện tại từ chức vụ thật lớn hay thật nhỏ trong xã hội, xin Thiên Chúa luôn chúc lành cho hồn xác các ông được mạnh mẽ, để có thể tất cả chúng ta đều thi hành chức vụ của mình trong trách nhiệm, trong bổn phận, và trong tình yêu thương, bởi chúng ta sẽ phải chung sống với nhau. Đó là điều luật và không một ai có thể ra khỏi đạo luật đó! Vì tất cả Chúa ban cho con người là để biết chia sẻ. Không ai có thể dành cho mình cả một bầu trời để mà thở một mình, hay để mà ngắm một mình, hay để dành mà ăn một mình? Chẳng có ai lại đi ao ước với Chúa rằng hãy biến tất cả ra khỏi mặt đất để chỉ một mình mình, được hưởng thụ và hưởng dùng. Bởi thế cho nên sau khi Chúa tạo dựng nên ông Adong, ông đã sống một mình, đã hưởng thụ một mình, và đã chán ngán cái cảnh một mình, nên Chúa đã thông cảm và hiểu được ông buồn đến độ nào, và Chúa đã chờ khi ông ngủ, mà lấy xương sườn của ông để nắn tạo cho ông một người Nữ làm bạn đời với ông. Cảm tạ Ba Ngôi Thiên Chúa, và con người từ ngày đó trở đi không còn than thở với Chúa là họ không có bạn và buồn bã nữa!.
Ngày nay nếu chúng ta còn than thở không có bạn, thì có phải tại chúng ta chọn sống xa cách, hay tại chúng ta có tâm hồn thật nhỏ nhen, chia giai cấp giầu không chơi nghèo, và chúng ta trong thâm tâm khi dể những ai thua kém mình? Do đó chúng ta không có bạn, và dù của cải của chìm của nổi chúng ta có thật đầy, nhưng có phải chúng ta vẫn than thở là chúng ta cô đơn? Và rồi ngày nào đó chúng ta đã để cho sự tham lam và gian ác đã đi sâu vào tâm hồn và rồi chúng (mọi sự dữ) cũng xúi chúng ta bán linh hồn của chúng ta cho chúng, bằng cách chọn một cách chết thật thê thảm và thật hãi hùng cho những ai cố tình từ chối Chúa!
Xin hết thảy hãy là tiếng kêu trong hoang địa! Có lúc tiếng kêu thật im lặng, là những giờ cầu nguyện thật âm thầm, sốt sắng, mời gọi mọi người trở về cùng Chúa; Có lúc tiếng kêu thật thống thiết như van nài mọi người cùng ăn năn sám hối để được Thiên Chúa tha thứ tội; Có lúc tiếng kêu thật thôi thúc và thúc dục như tâm hồn được Chúa Thánh Linh biến đổi và vui mừng trong tình yêu của Chúa. Mong được vậy lắm thay!
Trong tâm tình chờ đợi Đấng Cứu Thế đến trong thế gian để đem Bình An và Hạnh Phúc cho toàn thể nhân loại, mong tất cả anh chị em chúng ta nghe được tiếng gọi trong sa mạc của tâm hồn, để tâm hồn chúng ta được gội rửa cho tươi mát cho sạch sẽ để xứng đáng Chào Đón Ngài Giêsu Hài Đồng ngự đến trong Hang Đá.. .. "Tâm Hồn" của chúng ta.
Vâng, xin tất cả hãy vui lên vì Đấng Cứu Thế sắp đến với nhân loại chúng ta.. .. Amen.
Sống niềm vui trong ân tình Chúa
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
14:03 13/12/2008
Chúa Nhật III Mùa Vọng
SỐNG NIỀM VUI TRONG ÂN TÌNH CHÚA
Lúc màn đêm bắt đầu buông xuống, trên các nẻo đường biết bao công nhân vệ sinh đang lao động miệt mài. Từng nhát chổi của họ như là một sự cộng tác với thiên nhiên trả lại cho thành phố một bầu không khí trong lành. Dù công việc của họ âm thầm, nhỏ bé nhưng họ luôn ý thức rất rõ về công việc mình làm, mục đích họ đang vươn tới, và do đó họ đã tìm được niềm vui, một niềm vui thanh khiết và đáng quý.
Bên cạnh đó, hằng đêm tại các vũ trường, quán bar biết bao nhiêu bạn trẻ đang tìm kiếm niềm vui quay cuồng trong những điệu nhạc, niềm vui miên man trong làn khói thuốc, niềm vui lâng lâng cùng với men rượu... Họ đang vui niềm vui của thế tục.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Sở dĩ Giáo hội chọn chủ đề cho Chúa nhật III này là Chúa nhật của niềm vui vì Chúa Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta sắp đến. Phẩm phục màu hồng của chủ tế trong cử hành Phụng vụ nói lên điều đó. Tuy nhiên niềm vui mà Giáo hội khuyến khích mời gọi chúng ta là niềm vui nào? Tìm kiếm ở đâu? Có phải là niềm vui của các bạn trẻ trong các vũ trường, quán bar hay không ? Có phải là niềm vui của những tay anh chị khi gặp may mắn trong các trò đỏ đen hay không ? Hay là niềm vui của những kẻ lừa gạt hoặc những kẻ làm ăn phi pháp khi thực hiện được những phi vụ trót lọt hay không ? Chắc chắn không phải là những thứ niềm vui đó.
Vậy đâu là niềm vui mà Chúa và Giáo hội mong muốn con cái mình tìm kiếm trong Chúa nhật III Mùa Vọng ?
Chúa Giêsu, ngay khi còn tại thế, Ngài luôn đặt cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa Cha. Ngài đã luôn sống và hoạt động trong ân tình của Chúa Cha. Có thể nói cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc đời luôn tìm niềm vui trong Chúa Cha của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm niềm vui đó như Ngài, tức là niềm vui trong Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui trong Chúa ? Chúng ta chỉ có được niềm vui trong Chúa khi chúng ta biết sống trong ân tình của Chúa.
- Sống trong ân tình Chúa là ý thức sự hiện diện của mình là một hồng ân nhưng không phát xuất từ chính tình yêu Thiên Chúa. Một sự hiện diện ngoài sự mong đợi của một thụ tạo. Do đó, một khi ý thức về hồng ân hiện diện, chúng ta sẽ biết sống một đời tạ ơn. Và chính lúc sống đời tạ ơn đó, chúng ta sẽ tiếp tục được Thiên Chúa chăm sóc, nuôi dưỡng và đón nhận sự sống của Ngài, như một trẻ thơ luôn vui sống trong ánh mắt của cha mẹ mình, thì chắc chắn luôn được cha mẹ che chở, chăm sóc và nuôi dưỡng. Như thế, sự sống của chúng ta không chỉ được cắm rễ sâu trong sự sống của Thiên Chúa mà còn triển nở một cách tròn đầy trong Thiên Chúa nữa, và tâm hồn chúng ta chắc chắn sẽ có được niềm vui của Chúa, niềm vui của những người con thảo đối với Cha trên trời.
- Sống trong ân tình của Chúa còn là gì nữa, nếu không phải là nhận ra và sử dụng những nén bạc Chúa trao một cách hiệu quả nhất theo ý Ngài. Niềm vui của cha mẹ là nhìn thấy con cái mình khôn lớn và thành đạt bằng những phương tiện do mình trợ giúp. Hay nói một cách khác, chính khi người con biết tận dụng những phương tiện cha mẹ cung cấp để thành đạt trong cuộc sống, ấy là lời tri ân đẹp nhất dâng lên cha mẹ mình. Vậy khi chúng ta biết tận dụng và phát huy mọi ân huệ và tài năng Chúa ban lại không phải là bài ca chúc tụng và tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa sao ? Tất nhiên niềm vui đến từ đây là rất lớn.
- Sống trong ân tình Chúa còn là chu toàn mọi công việc bổn phận theo ý Chúa muốn trong từng ngày sống. Điều này cũng cho thấy chúng ta không còn sống cho riêng mình, nhưng là sống cho Chúa và cho tha nhân nữa. Như là những đầy tớ trung tín, không chỉ chu toàn mọi công việc được trao, mà còn luôn khao khát đón chờ chủ về và luôn cảm thấy vui sướng, hạnh phúc khi được sống với chủ. Thông thường chúng ta vẫn thích làm theo ý mình hơn là ý Chúa, chúng ta vẫn thích chiều theo cái tôi của mình hơn là lề luật của Giáo hội, nên chúng ta vẫn sống ngoài ân tình của Chúa và dĩ nhiên là cũng không nhận được niềm vui thực sự trong tâm hồn.
Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng thời gian Mùa Vọng này để luôn sống trong ân tình của Chúa, nhờ đó khi Chúa đến diện đối diện, thì tâm hồn chúng ta, cuộc đời của chúng ta luôn được chan chứa niềm vui và bình an, thứ niềm vui và bình an mà thế gian không ban được.
SỐNG NIỀM VUI TRONG ÂN TÌNH CHÚA
Lúc màn đêm bắt đầu buông xuống, trên các nẻo đường biết bao công nhân vệ sinh đang lao động miệt mài. Từng nhát chổi của họ như là một sự cộng tác với thiên nhiên trả lại cho thành phố một bầu không khí trong lành. Dù công việc của họ âm thầm, nhỏ bé nhưng họ luôn ý thức rất rõ về công việc mình làm, mục đích họ đang vươn tới, và do đó họ đã tìm được niềm vui, một niềm vui thanh khiết và đáng quý.
Bên cạnh đó, hằng đêm tại các vũ trường, quán bar biết bao nhiêu bạn trẻ đang tìm kiếm niềm vui quay cuồng trong những điệu nhạc, niềm vui miên man trong làn khói thuốc, niềm vui lâng lâng cùng với men rượu... Họ đang vui niềm vui của thế tục.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Sở dĩ Giáo hội chọn chủ đề cho Chúa nhật III này là Chúa nhật của niềm vui vì Chúa Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta sắp đến. Phẩm phục màu hồng của chủ tế trong cử hành Phụng vụ nói lên điều đó. Tuy nhiên niềm vui mà Giáo hội khuyến khích mời gọi chúng ta là niềm vui nào? Tìm kiếm ở đâu? Có phải là niềm vui của các bạn trẻ trong các vũ trường, quán bar hay không ? Có phải là niềm vui của những tay anh chị khi gặp may mắn trong các trò đỏ đen hay không ? Hay là niềm vui của những kẻ lừa gạt hoặc những kẻ làm ăn phi pháp khi thực hiện được những phi vụ trót lọt hay không ? Chắc chắn không phải là những thứ niềm vui đó.
Vậy đâu là niềm vui mà Chúa và Giáo hội mong muốn con cái mình tìm kiếm trong Chúa nhật III Mùa Vọng ?
Chúa Giêsu, ngay khi còn tại thế, Ngài luôn đặt cuộc đời mình trong bàn tay của Chúa Cha. Ngài đã luôn sống và hoạt động trong ân tình của Chúa Cha. Có thể nói cuộc đời của Chúa Giêsu là một cuộc đời luôn tìm niềm vui trong Chúa Cha của Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm niềm vui đó như Ngài, tức là niềm vui trong Chúa. Nhưng làm sao chúng ta có được niềm vui trong Chúa ? Chúng ta chỉ có được niềm vui trong Chúa khi chúng ta biết sống trong ân tình của Chúa.
- Sống trong ân tình Chúa là ý thức sự hiện diện của mình là một hồng ân nhưng không phát xuất từ chính tình yêu Thiên Chúa. Một sự hiện diện ngoài sự mong đợi của một thụ tạo. Do đó, một khi ý thức về hồng ân hiện diện, chúng ta sẽ biết sống một đời tạ ơn. Và chính lúc sống đời tạ ơn đó, chúng ta sẽ tiếp tục được Thiên Chúa chăm sóc, nuôi dưỡng và đón nhận sự sống của Ngài, như một trẻ thơ luôn vui sống trong ánh mắt của cha mẹ mình, thì chắc chắn luôn được cha mẹ che chở, chăm sóc và nuôi dưỡng. Như thế, sự sống của chúng ta không chỉ được cắm rễ sâu trong sự sống của Thiên Chúa mà còn triển nở một cách tròn đầy trong Thiên Chúa nữa, và tâm hồn chúng ta chắc chắn sẽ có được niềm vui của Chúa, niềm vui của những người con thảo đối với Cha trên trời.
- Sống trong ân tình của Chúa còn là gì nữa, nếu không phải là nhận ra và sử dụng những nén bạc Chúa trao một cách hiệu quả nhất theo ý Ngài. Niềm vui của cha mẹ là nhìn thấy con cái mình khôn lớn và thành đạt bằng những phương tiện do mình trợ giúp. Hay nói một cách khác, chính khi người con biết tận dụng những phương tiện cha mẹ cung cấp để thành đạt trong cuộc sống, ấy là lời tri ân đẹp nhất dâng lên cha mẹ mình. Vậy khi chúng ta biết tận dụng và phát huy mọi ân huệ và tài năng Chúa ban lại không phải là bài ca chúc tụng và tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa sao ? Tất nhiên niềm vui đến từ đây là rất lớn.
- Sống trong ân tình Chúa còn là chu toàn mọi công việc bổn phận theo ý Chúa muốn trong từng ngày sống. Điều này cũng cho thấy chúng ta không còn sống cho riêng mình, nhưng là sống cho Chúa và cho tha nhân nữa. Như là những đầy tớ trung tín, không chỉ chu toàn mọi công việc được trao, mà còn luôn khao khát đón chờ chủ về và luôn cảm thấy vui sướng, hạnh phúc khi được sống với chủ. Thông thường chúng ta vẫn thích làm theo ý mình hơn là ý Chúa, chúng ta vẫn thích chiều theo cái tôi của mình hơn là lề luật của Giáo hội, nên chúng ta vẫn sống ngoài ân tình của Chúa và dĩ nhiên là cũng không nhận được niềm vui thực sự trong tâm hồn.
Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng thời gian Mùa Vọng này để luôn sống trong ân tình của Chúa, nhờ đó khi Chúa đến diện đối diện, thì tâm hồn chúng ta, cuộc đời của chúng ta luôn được chan chứa niềm vui và bình an, thứ niềm vui và bình an mà thế gian không ban được.
Hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
14:05 13/12/2008
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG
Hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô
Một trong những khuôn mặt nổi bật được nhắc đến rất nhiều trong Phụng vụ Mùa Vọng đó chính là Gioan Tẩy giả, vị Tiền hô của Đấng Cứu Thế. Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu đã hết lời ca tụng Gioan, khi gọi ngài là người cao trọng hơn tất cả nam nhân do người nữ sinh ra; là “người có phúc hơn mọi người nam”. Dựa theo những gì Kinh Thánh thuật lại, chúng ta thấy ngài là một con người hết sức đặc biệt.
- Đặc biệt trong cách thức chào đời:
Cha mẹ ngài đã già nua tuổi tác, lại son sẻ không con. Nhưng rồi Thiên Chúa đã can thiệp cách kỳ diệu, qua biến cố truyền tin cho cha của ngài tại Đền thờ Giêrusalem. Có thể nói được rằng ngài là đứa con của lời hứa, đứa con của giáo ước. Ngài đã được thánh hóa ngay từ khi mới trong lòng mẹ 6 tháng tuổi, và được chính Thiên thần đặt tên cho là Gioan. Lúc được đặt tên cũng là lúc cha của ngài là ông Giacaria nói được. Bà con láng giềng cũng đã nhận ra nét đặc biệt này ngay khi ngài mới chào đời.
- Đặc biệt trong cung cách ăn mặc và lối sống:
Ngài là con của Giacaria thuộc giai cấp tư tế, mà tư tế là giai cấp được ưu tuyển để phục vụ Đền thờ. Hơn nữa ngài là người con duy nhất của gia đình, người có quyền thừa hưởng gia tài do cha mẹ để lại. Như vậy, ngài có quyền sống một cuộc sống sung túc. Thế nhưng vì lòng yêu mến Chúa, ngài đã sẵn lòng chấp nhận từ bỏ tất cả, để dành trọn cuộc đời cho Chúa. Điều này được biểu lộ qua cung cách ăn mặc và lối sống. Ăn thì ăn châu chấu. Uống thì uống mật ong rừng. Ở thì ở trong sa mạc, nơi khắc nghiệt và thiếu thốn đủ thứ. Mặc thì cũng mặc rất đơn sơ: chỉ là lông thú. Tin Mừng cho chúng ta những chi tiết rất rõ về đồ đạc mà ngài mang trên mình. Nói chung chẳng có gì đáng giá.
- Đặc biệt trong ơn gọi và sứ mạng:
Sứ mạng của Ngài là sứ mạng có một không hai. Là vị Tiền hô cho Đấng Cứu Thế, ngài được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng đặc biệt, đó là trực tiếp dọn đường cho Đức Kitô đến, và là người dẫn người ta vào một thời kỳ mới của Lịch sử Cứu độ, thời kỳ Tân Ước. Nói cách khác, ngài là gạch nối giữa Cựu Ước và Tân ước. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác nhận vai trò này của ngài, khi nói: Đây chính là Êlia mà Cựu ước đã báo trước. Ông đến để loan báo và chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Cứu Thế. Ngài còn đặc biệt cả trong cái chết của mình: bị chặt đầu vì dám nói những lời sự thật và dám sống sự thật.
Với con người, ơn gọi và sứ mạng đặc biệt như thế, nên Gioan đã được Chúa ca tụng là “lớn nhất trong số các con cái do người nữ sinh ra”. Nghĩa là Ngài được xếp ngang hàng với các tổ phụ cở Abraham hay các tiên tri như Elia, Isaia…. Ngài còn hơn hẳn họ, vì ngài được diễm phúc sát gần bên Chúa Cứu Thế, và làm phép rửa cho chính Đấng Cứu Thế.
Dĩ nhiên sự trỗi vượt của ngài chỉ là đem so sánh với thời Cựu ước thôi, chứ không thể so sánh với thời Tân ước được. Chúa Giêsu đã quả quyết điều này: “Nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông”. Những kẻ trong Nước trời là những kẻ đã được Chúa Giêsu cứu chuộc bằng máu châu báu của Người. Bởi đó Gioan không thể cao trọng hơn Đức Mẹ hay thánh Giuse được.
Dù chúng ta không giống Gioan trong cách thức chào đời, trong lối sống và trong ơn gọi Tiền hô, nhưng qua Bí tích Thánh Tẩy, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, chúng ta cũng được trao phó ơn gọi và sứ mạng làm chứng cho Tin mừng, sứ mạng loan báo Đấng Cứu Thế cho người khác. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về ơn gọi và sứ mạng đó. Đồng thời biết nổ lực cố gắng chu toàn với tất cả con tim, với tất cả lòng yêu mến. Có như thế mai sau chúng ta cũng được vinh dự đồng bàn với thánh Gioan Tiền hô và các thánh trên quê trời vĩnh phúc. Amen.
Hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô
Một trong những khuôn mặt nổi bật được nhắc đến rất nhiều trong Phụng vụ Mùa Vọng đó chính là Gioan Tẩy giả, vị Tiền hô của Đấng Cứu Thế. Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu đã hết lời ca tụng Gioan, khi gọi ngài là người cao trọng hơn tất cả nam nhân do người nữ sinh ra; là “người có phúc hơn mọi người nam”. Dựa theo những gì Kinh Thánh thuật lại, chúng ta thấy ngài là một con người hết sức đặc biệt.
- Đặc biệt trong cách thức chào đời:
Cha mẹ ngài đã già nua tuổi tác, lại son sẻ không con. Nhưng rồi Thiên Chúa đã can thiệp cách kỳ diệu, qua biến cố truyền tin cho cha của ngài tại Đền thờ Giêrusalem. Có thể nói được rằng ngài là đứa con của lời hứa, đứa con của giáo ước. Ngài đã được thánh hóa ngay từ khi mới trong lòng mẹ 6 tháng tuổi, và được chính Thiên thần đặt tên cho là Gioan. Lúc được đặt tên cũng là lúc cha của ngài là ông Giacaria nói được. Bà con láng giềng cũng đã nhận ra nét đặc biệt này ngay khi ngài mới chào đời.
- Đặc biệt trong cung cách ăn mặc và lối sống:
Ngài là con của Giacaria thuộc giai cấp tư tế, mà tư tế là giai cấp được ưu tuyển để phục vụ Đền thờ. Hơn nữa ngài là người con duy nhất của gia đình, người có quyền thừa hưởng gia tài do cha mẹ để lại. Như vậy, ngài có quyền sống một cuộc sống sung túc. Thế nhưng vì lòng yêu mến Chúa, ngài đã sẵn lòng chấp nhận từ bỏ tất cả, để dành trọn cuộc đời cho Chúa. Điều này được biểu lộ qua cung cách ăn mặc và lối sống. Ăn thì ăn châu chấu. Uống thì uống mật ong rừng. Ở thì ở trong sa mạc, nơi khắc nghiệt và thiếu thốn đủ thứ. Mặc thì cũng mặc rất đơn sơ: chỉ là lông thú. Tin Mừng cho chúng ta những chi tiết rất rõ về đồ đạc mà ngài mang trên mình. Nói chung chẳng có gì đáng giá.
- Đặc biệt trong ơn gọi và sứ mạng:
Sứ mạng của Ngài là sứ mạng có một không hai. Là vị Tiền hô cho Đấng Cứu Thế, ngài được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng đặc biệt, đó là trực tiếp dọn đường cho Đức Kitô đến, và là người dẫn người ta vào một thời kỳ mới của Lịch sử Cứu độ, thời kỳ Tân Ước. Nói cách khác, ngài là gạch nối giữa Cựu Ước và Tân ước. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác nhận vai trò này của ngài, khi nói: Đây chính là Êlia mà Cựu ước đã báo trước. Ông đến để loan báo và chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Cứu Thế. Ngài còn đặc biệt cả trong cái chết của mình: bị chặt đầu vì dám nói những lời sự thật và dám sống sự thật.
Với con người, ơn gọi và sứ mạng đặc biệt như thế, nên Gioan đã được Chúa ca tụng là “lớn nhất trong số các con cái do người nữ sinh ra”. Nghĩa là Ngài được xếp ngang hàng với các tổ phụ cở Abraham hay các tiên tri như Elia, Isaia…. Ngài còn hơn hẳn họ, vì ngài được diễm phúc sát gần bên Chúa Cứu Thế, và làm phép rửa cho chính Đấng Cứu Thế.
Dĩ nhiên sự trỗi vượt của ngài chỉ là đem so sánh với thời Cựu ước thôi, chứ không thể so sánh với thời Tân ước được. Chúa Giêsu đã quả quyết điều này: “Nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông”. Những kẻ trong Nước trời là những kẻ đã được Chúa Giêsu cứu chuộc bằng máu châu báu của Người. Bởi đó Gioan không thể cao trọng hơn Đức Mẹ hay thánh Giuse được.
Dù chúng ta không giống Gioan trong cách thức chào đời, trong lối sống và trong ơn gọi Tiền hô, nhưng qua Bí tích Thánh Tẩy, đặc biệt là Bí tích Thêm Sức, chúng ta cũng được trao phó ơn gọi và sứ mạng làm chứng cho Tin mừng, sứ mạng loan báo Đấng Cứu Thế cho người khác. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa về ơn gọi và sứ mạng đó. Đồng thời biết nổ lực cố gắng chu toàn với tất cả con tim, với tất cả lòng yêu mến. Có như thế mai sau chúng ta cũng được vinh dự đồng bàn với thánh Gioan Tiền hô và các thánh trên quê trời vĩnh phúc. Amen.
Dọn Đường Cho Chúa Là Dọn Lòng
Pt JB Nguyễn văn Định
21:20 13/12/2008
Cảm nghiệm Sống # 73:
DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA LÀ DỌN LÒNG
(Mc 1, 1-8)
Dọn đường cho Chúa đến đây là một câu nói và hình ảnh khá quen thuộc với người Tín hữu. Ai cũng biết đường xá hôm nay qúa đẹp, rộng rãi thênh thang, mà Chúa cũng chẳng cần đi đường này.
“Có tiếng người hô trong hoang điạ: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Mc 1, 3)
1- Chúa không đến qua xa lộ: Ai ai cũng chuẩn bị đón Chúa; nhưng Chúa không đến qua xa lộ, qua xe hơi! Chúa đến với mùi hôi của chuồng bò, Chúa đến qua làng mạc, qua cánh đồng khô cháy, trên bãi biển bao la, bên sườn núi vắng vẻ, đến giữa đám người nghèo khó để rao giảng Tin Mừng cho các con chiên lạc.
2- Chúa không đến hang đá đẹp: Người ta trang hoàng hang đá đẹp, tập những bài hát du dương là cho ta, còn Chúa đến qua con đường lên núi sọ, qua những lời chửi bới, khinh chê, không có hòn đá gối đầu, chấp nhận cái chết không mảnh vải che thân, bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Chúa chẳng cần ai dọn đường xa lộ đẹp đẽ.
3- Chúa muốn đi tới lòng người: Chúa chỉ muốn đi trên những con đường dẫn tới trái tim mọi người, đem tình thương và không hận thù, đem thứ tha khi bị lăng nhục, đem an hoà khi phải tranh chấp, đem chân lý khi gặp bất công. Nếu ta làm được như thế là dọn đường đón nhận Chúa Cứu Thế và Tin Mừng của Ngài.
4- Chúa muốn sửa lối cho thẳng: Khi nói tới sửa lối là tôi dọn lòng đi xưng tội, nhưng tôi lại không thật lòng đón nhận Chúa: vẫn chứng nào tật ấy, tôi vẫn khoá cửa lòng trước giáo huấn của Chúa. Vẫn bất công, gian ác, hận thù, chia rẽ, bè đảng, tham lam của công, chèn ép, trục lợi để có địa vị với đủ mọi hình thức…!!!
5- Chúa muốn tôi đi đường hẹp: Con đường có nhiều chông gai, nhiều hy sinh, gian khổ, đòi tôi phải dẹp bỏ những trở ngại như lòng tham, chia rẽ đang chiếm hữu, để đón nhận cái mới, đó là sự hiện diện của Chúa đang ở giữa tôi qua những người trong gia đình, người cô đơn, bất hạnh, nghèo hèn, khổ cực, mất hy vọng.
* Dọn đường như thế, chính là dọn lòng, là cởi bỏ những ràng buộc, định kiến, cạm bẫy, ích kỷ, cái tôi, những quyền lợi có vẻ cao thượng, nhưng chẳng có chút tình người nào cả!
* Tôi mới có thể tự do đón nhận Chúa trong Mùa Giáng Sinh này, như Mẹ Maria khiêm tốn sinh Chúa trong chuồng bò lừa nghèo nàn; nhưng luôn suy đi nghĩ lại Lời Chúa trong lòng.
Giáo hội muốn các Tín hữu dọn đường cho Chúa đến là:
1/ Các Tín hữu hãy khiêm tốn chú tâm đọc, lắng nghe, chia sẻ, cầu nguyện với Lời Chúa và áp dụng vào đời sống hiện tại.
2/ Giáo hội muốn có một phương án cụ thể để giúp các LM và Ptế soạn thảo và trình bày bài giảng đúng với Tin Mừng.
3/Giáo hội muốn soạn lại các bài đọc Kinh Thánh trong Thánh lễ thật dễ hiểu để các Tín hữu nhớ và đem ra thực hành.
4/ Giáo hội muốn nói rõ cho Tín hữu biết đi tham dự Thánh lễ là đích thân tham dự một bữa tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
5/ Giáo hội muốn dịch thuật, phổ biến, in ấn thật nhiều sách Kinh Thánh cho mọi Tín hữu và những người sắp đón Chúa.
6/ Giáo hội muốn các Tín hữu hiểu dễ dàng nghiã đen và nghiã bóng của Lời Chúa và giáo huấn truyền thống Giáo hội.
7/ Giáo hội muốn bảo trợ một hội nghị thế giới về Kinh Thánh để mọi người thiết tha với Lời Chúa là Bánh Sự Sống.
8/ Giáo hội muốn đưa Kinh Thánh lên tầm quan trọng để tìm kiếm một sự hiệp nhất giữa các Kitô giáo trên thế giới.
9/ Giáo hội muốn các Tín hữu Kitô xướng lên một phong trào học hỏi, chia sẻ Kinh Thánh trong các giờ sinh hoạt mục vụ.
10/Giáo hội muốn dung hoà việc gặp gỡ Liên tôn để xác quyết về Tín lý Thiên Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
11/ Giáo hội muốn dùng nghệ thuật, văn hóa, và các phương tiện truyền thông để giúp dân chúng mộ mến Lời Chúa.
Lạy Cha, khi thực hiện những điều trên là con dốc lòng dọn đường cho Chúa đến và sửa lối cho thẳng để Người đi. Xin Chúa Thánh Thần giúp con quyết tâm cùng Mẹ Maria và Hội Thánh thực hành những nguyện ước trên. Nhờ Đức Giêsu Kitô…
Phó tế: JB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA LÀ DỌN LÒNG
(Mc 1, 1-8)
Dọn đường cho Chúa đến đây là một câu nói và hình ảnh khá quen thuộc với người Tín hữu. Ai cũng biết đường xá hôm nay qúa đẹp, rộng rãi thênh thang, mà Chúa cũng chẳng cần đi đường này.
“Có tiếng người hô trong hoang điạ: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” (Mc 1, 3)
1- Chúa không đến qua xa lộ: Ai ai cũng chuẩn bị đón Chúa; nhưng Chúa không đến qua xa lộ, qua xe hơi! Chúa đến với mùi hôi của chuồng bò, Chúa đến qua làng mạc, qua cánh đồng khô cháy, trên bãi biển bao la, bên sườn núi vắng vẻ, đến giữa đám người nghèo khó để rao giảng Tin Mừng cho các con chiên lạc.
2- Chúa không đến hang đá đẹp: Người ta trang hoàng hang đá đẹp, tập những bài hát du dương là cho ta, còn Chúa đến qua con đường lên núi sọ, qua những lời chửi bới, khinh chê, không có hòn đá gối đầu, chấp nhận cái chết không mảnh vải che thân, bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Chúa chẳng cần ai dọn đường xa lộ đẹp đẽ.
3- Chúa muốn đi tới lòng người: Chúa chỉ muốn đi trên những con đường dẫn tới trái tim mọi người, đem tình thương và không hận thù, đem thứ tha khi bị lăng nhục, đem an hoà khi phải tranh chấp, đem chân lý khi gặp bất công. Nếu ta làm được như thế là dọn đường đón nhận Chúa Cứu Thế và Tin Mừng của Ngài.
4- Chúa muốn sửa lối cho thẳng: Khi nói tới sửa lối là tôi dọn lòng đi xưng tội, nhưng tôi lại không thật lòng đón nhận Chúa: vẫn chứng nào tật ấy, tôi vẫn khoá cửa lòng trước giáo huấn của Chúa. Vẫn bất công, gian ác, hận thù, chia rẽ, bè đảng, tham lam của công, chèn ép, trục lợi để có địa vị với đủ mọi hình thức…!!!
5- Chúa muốn tôi đi đường hẹp: Con đường có nhiều chông gai, nhiều hy sinh, gian khổ, đòi tôi phải dẹp bỏ những trở ngại như lòng tham, chia rẽ đang chiếm hữu, để đón nhận cái mới, đó là sự hiện diện của Chúa đang ở giữa tôi qua những người trong gia đình, người cô đơn, bất hạnh, nghèo hèn, khổ cực, mất hy vọng.
* Dọn đường như thế, chính là dọn lòng, là cởi bỏ những ràng buộc, định kiến, cạm bẫy, ích kỷ, cái tôi, những quyền lợi có vẻ cao thượng, nhưng chẳng có chút tình người nào cả!
* Tôi mới có thể tự do đón nhận Chúa trong Mùa Giáng Sinh này, như Mẹ Maria khiêm tốn sinh Chúa trong chuồng bò lừa nghèo nàn; nhưng luôn suy đi nghĩ lại Lời Chúa trong lòng.
Giáo hội muốn các Tín hữu dọn đường cho Chúa đến là:
1/ Các Tín hữu hãy khiêm tốn chú tâm đọc, lắng nghe, chia sẻ, cầu nguyện với Lời Chúa và áp dụng vào đời sống hiện tại.
2/ Giáo hội muốn có một phương án cụ thể để giúp các LM và Ptế soạn thảo và trình bày bài giảng đúng với Tin Mừng.
3/Giáo hội muốn soạn lại các bài đọc Kinh Thánh trong Thánh lễ thật dễ hiểu để các Tín hữu nhớ và đem ra thực hành.
4/ Giáo hội muốn nói rõ cho Tín hữu biết đi tham dự Thánh lễ là đích thân tham dự một bữa tiệc Lời Chúa và Thánh Thể.
5/ Giáo hội muốn dịch thuật, phổ biến, in ấn thật nhiều sách Kinh Thánh cho mọi Tín hữu và những người sắp đón Chúa.
6/ Giáo hội muốn các Tín hữu hiểu dễ dàng nghiã đen và nghiã bóng của Lời Chúa và giáo huấn truyền thống Giáo hội.
7/ Giáo hội muốn bảo trợ một hội nghị thế giới về Kinh Thánh để mọi người thiết tha với Lời Chúa là Bánh Sự Sống.
8/ Giáo hội muốn đưa Kinh Thánh lên tầm quan trọng để tìm kiếm một sự hiệp nhất giữa các Kitô giáo trên thế giới.
9/ Giáo hội muốn các Tín hữu Kitô xướng lên một phong trào học hỏi, chia sẻ Kinh Thánh trong các giờ sinh hoạt mục vụ.
10/Giáo hội muốn dung hoà việc gặp gỡ Liên tôn để xác quyết về Tín lý Thiên Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
11/ Giáo hội muốn dùng nghệ thuật, văn hóa, và các phương tiện truyền thông để giúp dân chúng mộ mến Lời Chúa.
Lạy Cha, khi thực hiện những điều trên là con dốc lòng dọn đường cho Chúa đến và sửa lối cho thẳng để Người đi. Xin Chúa Thánh Thần giúp con quyết tâm cùng Mẹ Maria và Hội Thánh thực hành những nguyện ước trên. Nhờ Đức Giêsu Kitô…
Phó tế: JB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:41 13/12/2008
MIỄN DỊCH
Rất nhiều người cảm thấy kỳ quặc, hình như đại sư hoàn toàn không nhiệt tình trong việc bồi dưỡng thanh niên trau dồi về tôn giáo.
Họ đến thăm và hỏi nguyên nhân, đại sư nói: “Khi chúng nó còn thanh niên, các ngươi tiêm cho chúng nó rất nhiều các loại nguyên tố kháng sinh miễn dịch, khiến cho chúng nó trong quá trình trưởng thành không thể nghiệm được sự chân thực của thế giới.”
(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)
Suy tư:
Thời nay, vì hạn chế sinh đẻ mà mỗi gia đình vợ chồng trẻ chỉ có một hoặc hai đứa con mà thôi, cho nên vì con cái ít nên sợ...mất dòng mất giống, do đó mà cha mẹ ra sức bồi dưỡng cho chúng nó:
- Cưng chiều hết mực, chúng nó muốn làm gì thì làm, cha mẹ cũng không ngăn cản, cho nên mới có những đứa con coi cha mẹ như đầy tớ của chúng nó.
- Học hành cũng được mà không học hành cũng chẳng sao cả, cho nên có những đứa con đi bụi với chúng bạn, mà cha mẹ cứ tưởng là đi học với tụi nó.
- Con xin gì thì đáp ứng ngay, cho nên có một ngày cha mẹ tá hỏa khi tin nó bị bắt vì tiêm ma túy, đi cướp giựt để chó tiền hút thuốc phiện.
Con cái còn nhỏ mà cha mẹ đã tiêm vào trong tâm hồn chúng nó những sinh tố đối nghịch với đạo đức, nhân bản mà lẽ ra cha mẹ phải hết sức dạy dỗ chúng nó, cho nên không lạ gì khi có những đứa con quý tử mà thầy cô ngán ngẫm, bạn bè tránh xa. Đừng sợ con cái đau khi dạy dỗ chúng nó, đừng sợ con cái thua chúng bạn khi thiếu cái này cái nọ, nhưng hãy sợ con cái hơn chúng bạn về khoảng chơi bời, hút xách, vô giáo dục và trở thành hệ miễn dịch với tất cả những điều tốt cho mình và cho mọi người.
Cha mẹ là người Ki-tô hữu thì luôn dạy dỗ con cái sống theo tinh thần Phúc Âm, biết hy sinh, biết vâng lời cha mẹ, biết giúp đỡ bạn bè, và biết sống đúng là người Ki-tô hữu trong cuộc sống ở trường học, hoặc bất kỳ nơi đâu...
![]() |
| N2T |
Rất nhiều người cảm thấy kỳ quặc, hình như đại sư hoàn toàn không nhiệt tình trong việc bồi dưỡng thanh niên trau dồi về tôn giáo.
Họ đến thăm và hỏi nguyên nhân, đại sư nói: “Khi chúng nó còn thanh niên, các ngươi tiêm cho chúng nó rất nhiều các loại nguyên tố kháng sinh miễn dịch, khiến cho chúng nó trong quá trình trưởng thành không thể nghiệm được sự chân thực của thế giới.”
(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)
Suy tư:
Thời nay, vì hạn chế sinh đẻ mà mỗi gia đình vợ chồng trẻ chỉ có một hoặc hai đứa con mà thôi, cho nên vì con cái ít nên sợ...mất dòng mất giống, do đó mà cha mẹ ra sức bồi dưỡng cho chúng nó:
- Cưng chiều hết mực, chúng nó muốn làm gì thì làm, cha mẹ cũng không ngăn cản, cho nên mới có những đứa con coi cha mẹ như đầy tớ của chúng nó.
- Học hành cũng được mà không học hành cũng chẳng sao cả, cho nên có những đứa con đi bụi với chúng bạn, mà cha mẹ cứ tưởng là đi học với tụi nó.
- Con xin gì thì đáp ứng ngay, cho nên có một ngày cha mẹ tá hỏa khi tin nó bị bắt vì tiêm ma túy, đi cướp giựt để chó tiền hút thuốc phiện.
Con cái còn nhỏ mà cha mẹ đã tiêm vào trong tâm hồn chúng nó những sinh tố đối nghịch với đạo đức, nhân bản mà lẽ ra cha mẹ phải hết sức dạy dỗ chúng nó, cho nên không lạ gì khi có những đứa con quý tử mà thầy cô ngán ngẫm, bạn bè tránh xa. Đừng sợ con cái đau khi dạy dỗ chúng nó, đừng sợ con cái thua chúng bạn khi thiếu cái này cái nọ, nhưng hãy sợ con cái hơn chúng bạn về khoảng chơi bời, hút xách, vô giáo dục và trở thành hệ miễn dịch với tất cả những điều tốt cho mình và cho mọi người.
Cha mẹ là người Ki-tô hữu thì luôn dạy dỗ con cái sống theo tinh thần Phúc Âm, biết hy sinh, biết vâng lời cha mẹ, biết giúp đỡ bạn bè, và biết sống đúng là người Ki-tô hữu trong cuộc sống ở trường học, hoặc bất kỳ nơi đâu...
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:44 13/12/2008
![]() |
| N2T |
34. Con đường của thần thánh không thể cho rằng đó là con đường khó đi.
(Thánh Francis de Sales)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha dậy giới trẻ làm sao để tin “nhiều hơn và mạnh mẽ hơn”
Bùi Hữu Thư
06:02 13/12/2008
Đức Thánh Cha dậy giới trẻ làm sao để tin “nhiều hơn và mạnh mẽ hơn”
VATICAN, ngày 12 tháng12, 2008 (Zenit.org).- Vào lúc Giáo Hội ở vào khoảng giữa của Năm Thánh Phaolô, ĐTC Benedict XVI tặng một đĩa CD có các Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma cho một nhóm đại diện cho các sinh viên Đại Học.
ĐTC gửi quà tặng ngày Thứ Năm sau Thánh Lễ truyền thống cho các đại học Rôma để chuẩn bị cho Lễ Giáng Sinh. Thánh lễ được Đức Hồng Y Agostino Vallini, Đại Diện Tông Tòa chủ tế. Đồng tế có Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Sydney.
ĐTC nói với giới trẻ "Sinh nhật thứ 2.000 của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại giúp cho tất cả Giáo Hội tái khám phá ơn gọi mục vụ thích nghi và căn bản của mình, và đồng thời, tận dụng di sản bất diệt về thần học và tu đức của các lá thư Thánh Phaolô. Tôi tin rằng các bạn đã thấy, trên phương diện cá nhân cũng như cộng đồng và tông đồ của đại học, việc học hỏi con người và sứ điệp của Thánh Phaolô là một cơ hội rất bổ ích."
ĐTC Benedict XVI đề nghị rằng Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma “chắc chắn là một trong những tài liệu văn hóa quan trọng nhất của mọi thời đại."
Ngài nói, "Thư đó là và tiếp tục chính là sứ điệp sống động cho Giáo Hội. Ngài cũng bầy tỏ hy vọng là các lá thư nuôi dưỡng đức tin của các sinh viên, và đưa dẫn họ đến chỗ “tin nhiều hơn và mạnh mẽ hơn, suy nghĩ để có một ‘đức tin trưởng thành hơn’, và đồng thời sống đức tin ấy, và đem ra thực hành theo chân lý của các giới răn Đức Kitô.”
ĐTC kết luận, “Chỉ bằng cách này đức tin được một người tuyên xưng mới trở nên ‘dễ tin’ đối với người khác, để họ bị chinh phục bởi chứng tá hùng hồn của những việc lành của các bạn."
Khi đến với nhóm sinh viên, ĐTC được đón tiếp bởi TS Luigi Frati, viện trưởng Đại Học Sapienza tại Rôma. ĐTC Benedict XVI dự trù viếng thăm đại học này tháng Giêng vừa qua, nhưng đã hủy bỏ chuyến đi vì có sự phản đối của một nhóm nhỏ sinh viên và giáo sư.
Viện trưởng lại một lần nữa mời Đức Giáo Hoàng tới, và khẳng định rằng ông vẫn chưa hiểu được lý do của sự phản đối cuộc viếng thăm.
Sứ điệp của ĐTC Biển Đức 16 nhân ngày Hòa Bình Thế Giới 1-1-2009
ĐGH Benedictô XVI
14:16 13/12/2008
Sứ điệp của ĐTC Biển Đức 16 nhân ngày Hòa Bình Thế Giới 1-1-2009
BÀI TRỪ ĐÓI NGHÈO, XÂY DỰNG HÒA BÌNH
1. Vào đầu năm mới này, tôi cũng muốn gửi đến tất cả mọi người lời cầu chúc hòa bình, và qua Sứ Điệp này, tôi mời gọi suy tư về đề tài: Bài trừ nghèo đói, xây dựng hòa bình. Trong Sứ điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 1993, vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Gioan Phaolô 2, đã từng nêu rõ những ảnh hưởng tiêu cực mà tình trạng nghèo đói của các dân tộc gây ra cho hòa bình. Thực vậy, nghèo đói thường là một trong những nhân tố góp phần hoặc làm cho các cuộc xung đột trầm trọng thêm, kể cả các cuộc xung đột võ trang. Đối lại, các cuộc xung đột này nuôi dưỡng thảm trạng nghèo đói. Đức Gioan Phaolô 2 đã viết: ”Một đe dọa nghiêm trọng khác đối với hòa bình đang xảy ra và ngày càng trầm trọng hơn trên thế giới, đó là nhiều người, hay đúng hơn, nhiều dân tộc ngày nay đang sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng rõ rệt hơn, ngay cả tại những nước phát triển về kinh tế. Đây là một vấn đề mà lương tâm nhân loại phải quan tâm, vì tình cảnh của nhiều người đau thương đến độ làm thương tổn phẩm giá bẩm sinh của họ và vì thế cũng làm thiệt hại cho sự phát triển chân thực và sự hòa hợp của cộng đồng thế giới” (1).
2. Trong bối cảnh đó, việc bài trừ nghèo đói cũng đòi phải cứu xét kỹ lưỡng hiện tượng phức tạp là sự hoàn cầu hóa. Việc cứu xét này quan trọng cả về phương diện phương pháp, vì nó nhắc nhở nên sử dụng kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế và xã hội học về bao nhiêu khía cạnh của nạn nghèo đói. Nhưng việc kêu gọi để ý đến sự hoàn cầu hóa cũng phải mang một ý nghĩa tinh thần và luân lý, thúc giục hãy nhìn người nghèo với ý thức rằng tất cả mọi người đều tham phần vào một dự án duy nhất của Thiên Chúa, dự án mời gọi họp thành một gia đình duy nhất, trong đó mọi người - cá nhân, dân tộc và quốc gia - phải cư xử theo các nguyên tắc huynh đệ và trách nhiệm.
Trong viễn tượng ấy, cần có một cái nhìn bao quát và rõ ràng về nạn nghèo đói. Giả sử đó chỉ là nghèo đói về vật chất mà thôi, thì chỉ cần các khoa học xã hội nêu rõ những đặc tính chính yếu của hiện tượng nghèo đói là đủ; các khoa này giúp chúng ta đo lường nghèo đói dựa trên các dữ kiện, chủ yếu là số lượng. Nhưng chúng ta biết rằng có những thứ nghèo đói không thuộc vật chất, và chúng không phải là hậu quả trực tiếp và đương nhiên của sự thiếu thốn vật chất. Ví dụ, trong các xã hội sung túc và tiến bộ, có tình trạng những người bị gạt ra ngoài lề, họ nghèo về tương quan, về luân lý và tinh thần: đó là những người bị mất định hướng trong nội tâm, mặc dù sống trong sung túc về kinh tế, nhưng họ vẫn không cảm thấy thoải mái và thấy khó chịu. Một đàng tôi nghĩ đến điều gọi là ”chậm tiến về tinh thần” (2), và đàng khác, tôi nghĩ đến những hậu quả tiêu cực của sự ”siêu phát triển” (3). Tôi cũng không quên rằng, trong các xã hội gọi là ”nghèo”, sự tăng trưởng kinh tế thường bị cản trở vì những chướng ngại văn hóa, không cho phép sử dụng đúng đắn các nguồn tài nguyên. Dầu sao đi nữa, điều rất đúng là mỗi hình thức nghèo đói đều có căn cội là sự thiếu tôn trọng phẩm giá siêu việt của nhân vị. Khi con người không được coi trọng trong ơn gọi toàn diện của họ và khi người ta không tôn trọng những đòi hỏi của một nền ”sinh thái học về con người” (4) thì những năng động xấu xa của nghèo đói cũng bùng lên, như ta thấy rõ trong một số môi trường mà tôi sắp gợi lên sau đây.
Nghèo đói và những hệ lụy về luân lý
3. Nghèo đói thường được đặt trong quan hệ với sự gia tăng dân số, như thể đây là nguyên nhân gây nên nghèo đói. Vì thế, có những chiến dịch giảm bớt sinh sản đang được phát động trên bình diện quốc tế, và người ta dùng cả những phương pháp không tôn trọng phẩm giá của phụ nữ cũng như không tôn trọng quyền của đôi vợ chồng được xác định số con của họ trong tinh thần trách nhiệm (5) và nhiều khi, trầm trọng hơn nữa, người ta dùng cả những phương pháp không tôn trọng quyền sống. Sự tiêu diệt hàng triệu hài nhi chưa sinh ra, nhân danh cuộc chiến chống nghèo đói, trong thực tế, đó là một sự loại trừ những người nghèo nhất trong nhân loại. Đứng trước tình trạng đó, có sự kiện này là: hồi năm 1981, khoảng 40% dân số thế giới sống dưới mức nghèo đói tuyệt đối, nhưng ngày nay tỷ lệ ấy được giảm bớt một nửa, và có những dân tộc đã ra khỏi tình trạng nghèo đói, và hơn nữa dân số gia tăng đáng kể. Sự kiện ấy chứng tỏ điều này là: có những nguồn tài nguyên để giải quyết vấn đề nghèo đói, cho dù dân số gia tăng. Cũng không nên quên rằng, từ cuối thế chiến thứ hai đến nay, dân số trên trái đất tăng thêm 4 tỷ người, và phần lớn hiện tượng này có liên quan tới những nước mới trổi lên trên trường quốc tế như những tân cường quốc kinh tế và đã phát triển mau lẹ nhờ dân số đông. Ngoài ra, trong số những nước phát triển cao, nước nào có tỷ số sinh sản cao hơn thì có tiềm năng phát triển nhiều hơn. Nói khác đi, dân số đang tỏ ra là điều phong phú chứ không phải là một nhân tố gây nên nghèo đói.
4. Một lãnh vực khác gây lo âu là các bệnh truyền nhiễm lan rộng, chẳng hạn bệnh sốt rét ngã nước, lao phổi và Sida. Tùy theo mức độ tác động trên các thành phần sản xuất trong dân chúng, chúng có ảnh hưởng lớn trong việc làm suy thoái tình trạng chung của đất nước. Những cố gắng ngăn chặn hậu quả của các bệnh ấy nơi dân chúng không luôn luôn đạt được những kết quả đáng kể. Ngoài ra, để nhận được viện trợ kinh tế hầu có thể đương đầu với các bệnh dịch vừa nói, các nước nạn nhân thường phải thi hành những chính sách trái ngược với sự sống. Đặc biệt, thật là khó bài trừ bệnh Sida, vốn là một nguyên nhân thê thảm gây ra nghèo đói, nếu không để ý tới các vấn đề luân lý có liên hệ tới sự lan tràn vi trùng bệnh này. Trước tiên cần thực hiện những chiến dịch nhắm giáo dục đặc biệt cho người trẻ về tính dục trong tinh thần trách nhiệm hoàn toàn tương ứng với phẩm giá con người; các sáng kiến trong chiều hướng này đã mang lại những thành quả quan trọng, làm giảm bớt sự lan tràn bệnh Sida. Tiếp đến cần cung cấp cho dân nghèo những thuốc men và các biện pháp trị liệu cần thiết; điều này đòi phải có một sự quyết liệt cổ võ nghiên cứu y khoa và những canh tân phương pháp trị liệu, và nếu cần, nên áp dụng uyển chuyển các qui luật quốc tế về việc bảo vệ tài sản trí thức, để đảm bảo cho tất cả mọi người sự săn sóc cơ bản về y tế.
5. Một lãnh vực thứ ba cần chú ý trong các chương trình chiến đấu chống nghèo đói, và nó chứng tỏ chiều kích luân lý nội tại của chương trình này, đó là tình trạng nghèo đói của các trẻ em. Khi gia đình lâm vào tình trạng nghèo đói, thì các trẻ em là những nạn nhân dễ bị thương tổn nhất: hầu như một nửa những người sống trong nghèo đói cùng cực ngày nay là trẻ em. Đứng về phía các trẻ em khi cứu xét vấn đề nghèo đói, sẽ giúp dành ưu tiên cho những mục tiêu có liên hệ trực tiếp tới các em, ví dụ chăm sóc người mẹ, dấn thân giáo dục, giúp chủng ngừa, chữa trị bệnh tật và cung cấp nước uống, bảo vệ môi sinh, và nhất là dấn thân bảo vệ gia đình cũng như quan hệ bền vững của gia đình. Khi gia đình bị suy yếu thì những thiệt hại chắc chắn sẽ đổ trên các trẻ em. Nơi nào phẩm giá phụ nữ và người mẹ không được tôn trọng, thì con cái là những người càng cảm thấy điều đó hơn cả.
6. Một phạm vi thứ tư đáng được đặc biệt chú ý xét về phương diện luân lý, đó là tương quan giữa sự giải trừ võ trang và phát triển. Mức độ chi phí quân sự hiện nay trên thế giới đang gây lo âu. Như tôi đã có dịp nhấn mạnh, hiện nay ”những tài nguyên lớn lao về vật chất và nhân sự đang được sử dụng cho những chi phí quân sự và cho việc võ trang. Thực tế là các tài nguyên đó bị rút từ các dự án phát triển các dân tộc, nhất là những dân nghèo túng nhất cần được giúp đỡ. Và đây là trái ngược với Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Văn kiện này đòi cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia, phải ”thăng tiến sự ổn định và duy trì hòa bình, an ninh quốc tế với chi phí tối thiểu về nhân lực và tài lực cho việc võ trang” (điều 26) (6).
Tình trạng vừa nói không tạo điều kiện dễ dàng, và tệ hơn nửa, nó cản trở nghiêm trọng việc đạt tới những mục tiêu lớn về phát triển mà cộng đồng quốc tế nhắm tới. Ngoài ra, sự gia tăng thái quá các chi phí quân sự có nguy cơ đẩy mạnh cuộc chạy đua võ trang, tạo nên những vùng chậm tiến và tuyệt vọng, và do đó trở thành yếu tố gây ra bất ổn, căng thẳng và xung đột. Như vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, Đức Phaolô 6, đã quả quyết chí lý ‘Phát triển chính là danh xưng mới của hòa bình’ (7). Vì thế, các nước được kêu mời hãy suy tư nghiêm túc về những lý do sâu xa nhất gây nên các cuộc xung đột, thường là do bất công khơi lên, và hãy can đảm xét mình về vấn đề này. Nếu người ta đạt tới sự cải tiến các quan hệ, thì tình trạng này sẽ giúp giảm bớt các chi phí võ trang. Các tài nguyên tiết kiệm được có thể dành cho các dự án phát triển con người và các dân tộc nghèo túng nhất: việc dấn thân trong chiều hướng này chính là dấn thân cho nền hòa bình giữa lòng gia đình nhân loại”.
7. Lãnh vực thứ năm liên quan tới cuộc chiến chống nghèo đói vật chất là cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay, đang gây nguy hiểm trầm trọng cho việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Cuộc khủng hoảng này không phải vì thiếu lương thực cho bằng vì những khó khăn trong việc kiếm được lương thực và vì những hiện tượng đầu cơ, và vì thiếu những tổ chức chính trị và kinh tế có khả năng đương đầu với các nhu cầu và tình trạng khẩn cấp. Nạn suy dinh dưỡng cũng có thể gây ra những thiệt hại nặng nề về tâm vật lý cho dân chúng, khiến cho nhiều người không có năng lực cần thiết để ra khỏi cảnh nghèo đói, nếu không được trợ giúp đặc biệt. Và điều này góp phần làm cho sự chênh lệch thêm sâu rộng, tạo nên những phản ứng có nguy cơ trở thành bạo lực. Các dữ kiện về nạn nghèo đói trong những thập niên gần đây cho thấy hố chia cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu rộng. Những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng ấy, một đàng chắc chắn là sự thay đổi kỹ thuật mà giai cấp có lợi tức cao trong xã hội được hưởng, và đàng khác là do tình trạng giá cả sản phẩm công nghệ gia tăng mau lẹ hơn giá nông phẩm và nguyên liệu mà các nước nghèo sở hữu. Và thế là phần lớn dân chúng tại các nước nghèo nhất bị gạt ra ngoài lề hai lần, xét về lợi tức thấp và về giá cả cao.
Chiến đấu chống nghèo đói và tình liên đới hoàn cầu
8. Một trong những con đường tốt nhất để xây dựng hòa bình là sự hoàn cầu hóa nhắm đến lợi ích của đại gia đình nhân loại (8). Nhưng để quản trị sự hoàn cầu hóa, cần có một sự liên đới hoàn cầu (9) mạnh mẽ giữa các nước giàu và các nước nghèo, cũng như giữa lòng mỗi nước, dù đó là nước giàu. Cần có một ”bộ qui luật luân lý đạo đức chung” (10), các qui luật này không phải chỉ có tính chất qui ước, nhưng được ăn rễ sâu nơi luật tự nhiên mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong lương tâm mỗi người (Xc Rm 2,14-15). Phải chăng mỗi người chúng ta không cảm thấy trong lương tâm mình tiếng gọi hãy đóng góp phần của mình cho công ích và cho hòa bình xã hội sao? Sự hoàn cầu hóa loại bỏ một số hàng rào, nhưng điều này không có nghĩa là người ta không thể dựng lên những hàng rào mới; Hoàn cầu hóa làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, nhưng sự lân cận về không gian và thời gian tự nó không tạo nên những điều kiện để có sự hiệp thông đích thực và một nền hòa bình chân chính. Tình trạng người nghèo trên trái đất bị gạt ra ngoài lề chỉ có thể tìm thấy những phương thế hữu hiệu trong sự hoàn cầu hóa để sửa chữa, nếu mỗi người cảm thấy bản thân mình bị thương tổn vì những bất công hiện hữu trên thế giới và những vi phạm nhân quyền đi kèm những bất công ấy. Giáo Hội, vốn là ”dấu chỉ và là phương thế để kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại” (11), sẽ tiếp tục đóng góp phần của mình để khắc phục những bất công và hiểu lầm, để xây dựng một thế giới an bình và liên đới hơn.
9. Trong lãnh vực thương mại quốc tế và những giao dịch tài chánh, ngày nay đang có những tiến trình giúp hội nhập tích cực các nền kinh tế, góp phần cải tiến tình trạng chung; nhưng cũng có những tiến trình ngược lại, gây chia rẽ và gạt các dân tộc ra ngoài lề, tạo nên những tiền đề cho chiến tranh và xung đột. Trong những thập niên sau thế chiến thứ hai, việc trao đổi các hàng hóa và dịch vụ trên trường quốc tế đã gia tăng rất mau lẹ, với một năng động chưa từng có trong lịch sử. Phần lớn nền thương mại thế giới, với sự tham gia đáng kể của nhiều nước đang lên, trở nên quan trọng. Nhưng cũng có những nước khác, với lợi tức thấp, vẫn còn bị ở ngoài lề trào lưu thương mại. Sự tăng trưởng của các nước này bị giảm bớt mau lẹ vì sự mất giá của các nguyên liệu vốn chiếm hầu hết sản phẩm xuất khẩu của họ, trong những thập niên gần đây. Tại các nước ấy, phần lớn là Phi châu, sự lệ thuộc việc xuất khẩu các nguyên liệu tiếp tục là một yếu tố có nhiều rủi ro. Ở đây tôi muốn tái kêu gọi làm sao để tất cả các nước cùng được cơ may được tham gia vào thị trường thế giới, tránh tình trạng bị loại trừ và gạt ra ngoài lề.
10. Một suy tư tương tự cũng có thể được đưa ra đối với tài chánh, vốn liên hệ tới một trong những khía cạnh cơ bản của hiện tượng hoàn cầu hóa, nhờ sự tiến bộ của ngành điện tử và các chính sách cho tự do di chuyển tiền bạc giữa các nước. Chức năng quan trọng nhất của tài chánh, xét một cách khách quan, là hỗ trợ dài hạn khả năng đầu tư và phát triển. Chắc năng ấy ngày nay đang tỏ ra mong manh hơn bao giờ hết: nó đang chịu những hậu quả tiêu cực của một hệ thống trao đổi tài chánh - trên bình diện quốc gia và hoàn vũ - dựa trên một thứ tiêu chuẩn rất ngắn hạn, nhắm gia tăng giá trị của các hoạt động tài chánh và tập trung vào việc quản trị về mặt kỹ thuật những hình thức rủi ro khác nhau. Cuộc khủng hoảng mới đây cũng cho thấy hoạt động tài chánh nhiều khi bị hướng dẫn bởi những tiêu chuẩn hoàn toàn tự tham chiếu và không để ý tới công ích về lâu về dài. Sự kiện các chuyên gia tài chánh chỉ nhắm tới các mục tiêu rất ngắn hạn thu hẹp khả năng của tài chánh trong việc thi hành chức năng bắc cầu giữa hiện tại và tương lai, hỗ trợ việc kiến tạo những cơ may mới trong việc sản xuất và lao động trong thời kỳ lâu dài. Một nền tài chánh chỉ nhắm tới mục tiêu ngắn và rất ngắn hạn trở thành nguy hiểm cho tất cả mọi người, kể cả những người đã hưởng lợi nhờ đó trong những thời kỳ phồn thịnh về tài chánh (12).
11. Từ tất cả những điều vừa nói người ta thấy rõ cuộc chiến chống nghèo đói đòi phải có một sự cộng tác trên bình diện kinh tế cũng như pháp lý, giúp cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước nghèo, đề ra và thực thi những giải pháp có phối hợp để đương đầu với những vấn đề nói trên đây bằng cách thực hiện một khuôn khổ pháp lý hữu hiệu đối với nền kinh tế. Ngoài ra nó cũng đòi phải khích lệ thành lập những tổ chức hữu hiệu và được sự tham gia của nhiều thành phần, cũng như những nâng đỡ để chiến đấu chống nạn tội phạm và thăng tiến một nền văn hóa tôn trọng luật pháp. Đàng khác, người ta cũng không thể phủ nhận rằng các chính sách chỉ nhắm viện trợ chính là nguyên do gây nên nhiều thất bại trong việc trợ giúp các nước nghèo. Đầu tư vào việc huấn luyện nhân sự và phát triển một cách toàn diện nền văn hóa chuyên biệt đề cao sáng kiến, hiện nay dường như là một dự án thực sự có tính cách trung hạn và dài hạn. Nếu các hoạt động kinh tế cần một bối cảnh thuận lợi để phát triển, thì điều đó không có nghĩa là không được chú ý đến vấn đề lợi tức. Mặc dù nên nhấn mạnh rằng sự gia tăng lợi tức mỗi đầu người không thể là mục tiêu tuyệt đối của hoạt động chính trị kinh tế, nhưng không nên quên rằng lợi tức là một dụng cụ quan trọng để đạt tới mục tiêu của cuộc chiến đấu chống nghèo đói tuyệt đối. Về phương diện này cần loại bỏ ảo tưởng cho rằng chỉ cần một chính sách phân phối tài nguyện hiện hữu là có thể giải quyết chung kết vấn đề. Thực vậy, trong nền kinh tế hiện đại, giá trị của sự sung túc phần lớn tùy thuộc khả năng kiến tạo lợi tức hiện tại và tương lai. Vì thế, việc kiến tạo giá trị là một sự ràng buộc không thể tránh né, và phải để ý tới nó nếu muốn chiến đấu chống nghèo đói vật chất một cách hữu hiệu và lâu bền.
12. Sau cùng, đặt người nghèo ở chỗ thứ nhất có nghĩa là: những người hoạt động trong thị trường quốc tế phải dành vị trí thích hợp cho một tiêu chuẩn đúng đắn về kinh tế, những người lãnh đạo các tổ chức dành chỗ thích hợp cho một tiêu chuẩn chính trị đúng đắn, và một tiêu chuẩn tham gia đúng đắn, có khả năng nêu cao giá trị của xã hội dân sự địa phương và quốc tế. Chính các tổ chức quốc tế ngày nay nhìn nhận sự quí giá và lợi điểm của các sáng kiến kinh tế do xã hội dân sự hoặc do các chính quyền địa phương đề ra, để thăng tiến sự cải tiến và hội nhập vào xã hội những thành phần dân chúng thường ở dưới mức độ nghèo đói cùng cực, khó nhận được những trợ giúp từ phía chính quyền. Lịch sử phát triển kinh tế trong thế kỷ 20 dạy rằng những chính sách phát triển tốt đã được ủy thác cho trách nhiệm của con người và cho việc kiến tạo sự hợp lực tích cực giữa thị trường, xã hội dân sự và Nhà Nước. Đặc biệt xã hội dân sự giữ một vai trò chủ yếu trong mỗi tiến trình phát triển, vì sự phát triển chủ yếu là một hiện tượng văn hóa và văn hóa nảy sinh và phát triển trong những môi trường dân sự (13).
13. Như vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, Đức Gioan Phaolô 2, đã quả quyết, ”sự hoàn cầu hóa xuất hiện với đặc tính nổi bật là có hai mặt” (14) và vì thế cần được quản trị một cách khôn ngoan thận trọng. Trong sự khôn ngoan này, trước tiên cần để ý đến những đòi hỏi của người nghèo trên thế giới, vượt thắng gương mù là sự chênh lệch thái quá giữa những tình trạng nghèo đói và các biện pháp mà con người đưa ra để đối phó với chúng. Sự thiếu tương ứng đó thuộc bình diện văn hóa và chính trị cũng như trên bình diện tinh thần và luân lý. Thực vậy, thường thường người ta chỉ dừng lại ở những nguyên nhân hời hợt và phụ thuộc gây ra nghèo đói, mà không đi tới những nguyên nhân ở trong tâm hồn con người, như sự hám lợi và quan niệm hẹp hòi. Nhiều khi người ta đối phó với các vấn đề phát triển, trợ giúp và cộng tác quốc tế mà không có sự can dự đích thực của nhân sự, và họ chỉ coi đó là một vấn đề kỹ thuật chuyên môn mà thôi. Vì thế họ chỉ lo điều chỉnh các cơ cấu, thiết lập các hiệp định về giá cả và cung cấp những khoản tài trợ vô danh. Trái lại cuộc chiến chống nghèo cần những người nam nữ sống tinh thần huynh đệ sâu xa, và có khả năng tháp tùng con người, các gia đình và cộng đoàn trong hành trình phát triển nhân bản đích thực.
Kết luận
14. Trong Thông điệp ”Centesimus annus” (Năm Thứ 100), Đức Gioan Phaolô 2 đã cảnh giác về sự cần thiết phải ‘từ bỏ não trạng coi người nghèo - cá nhân và các dân tộc - như gánh nặng và như một điều gây phiền toái, khó chịu, những người muốn tiêu xài những gì mà người khác làm ra”. Ngài viết: ”Người nghèo yêu cầu được quyền tham gia vào việc hưởng các của cải vật chất và làm cho khả năng làm việc của họ được sinh lợi, nhờ đó tạo nên một thế giới công bằng và thịnh vượng hơn cho tất cả mọi người” (15). Trong thế giới hoàn cầu hóa hiện nay, càng ngày người ta càng thấy rõ rằng ta chỉ kiến tạo hòa bình nếu đảm bảo cho tất cả mọi người cơ hội được tăng trưởng hợp lý: sự sai trái của các hệ thống bất công, sớm muộn gì cũng gây ra thiệt hại cho tất cả mọi người. Vì thế chỉ có sự điên rồ mới có thể khiến cho người ta xây cất một căn nhà vàng, nhưng xung quanh là sa mạc hoặc những cảnh sa sút. Sự hoàn cầu hóa tự nó không thể xây dựng hòa bình, và trong nhiều trường hợp nó còn tạo nên chia rẽ và xung đột. Đúng hơn, sự hoàn cầu hóa cho thấy một nhu cầu: đó là phải hướng về một mục tiêu liên đới sâu rộng, nhắm đến thiện ích của mỗi người và mọi người. Theo chiều hướng đó, hoàn cầu hóa phải được coi như một cơ may thuận lợi để thực hiện một cái gì quan trọng trong cuộc chiến chống nghèo đói và để tận dụng những nguồn lợi cho đến nay không được nghĩ tới hầu phục vụ cho công lý và hòa bình.
15. Đạo lý xã hội của Hội Thánh vẫn luôn quan tâm đến người nghèo. Vào thời Thông điệp ”Rerum novarum” (Tân Sự), người nghèo thường là những công nhân trong một xã hội mới được công nghệ hóa; giáo huấn xã hội của Đức Piô 11, Piô 12, Gioan 23, Phaolô 6 và Gioan Phaolô 2, đã làm nổi bật trước ánh sáng những nạn nghèo mới khi chân trời của vấn đề xã hội dần dần mở rộng thêm, đến mức độ có những chiều kích hoàn vũ (16).. Sự mở rộng vấn đề xã hội theo chiều kích hoàn cầu cần được cứu xét không những như một sự mở rộng về lượng nhưng còn như một sự đào sâu chất lượng về con người và về các nhu cầu của gia đình nhân loại. Vì thế, trong khi quan tâm theo dõi những hiện tượng hoàn cầu hóa ngày nay và ảnh hưởng của chúng trên sự nghèo đói của con người, Giáo Hội chỉ cho thấy những khía cạnh mới của vấn đề xã hội, không những về chiều rộng, nhưng cả về chiều sâu nữa, xét vì chúng liên hệ tới căn tính của con người và quan hệ của con người với Thiên Chúa. Chính những nguyên tắc đạo lý xã hội nhắm làm sáng tỏ những mối liên hệ giữa nghèo đói và sự hoàn cầu hóa và qui hướng hành động về việc xây dựng hòa bình. Trong số các nguyên tắc ấy nên đặc biệt nhắc lại ở đây ”tình yêu thương ưu tiên dành cho người nghèo” (17), dưới ánh sáng tầm quan trọng trổi vượt của đức bác ái, vốn được toàn thể truyền thống Kitô giáo làm chứng, bắt đầu từ truyền thống của Giáo Hội nguyên thủy (Xc Cv 4,32-36; 1 Cr 16,1; 2 Cr 8-9; Gal 2,10).
”Mỗi người hãy thi hành phận vụ của mình và đừng trì hoãn” đó là điều Đức Lêô 13 đã viết hồi năm 1891, và ngài thêm rằng: ”Về phần mình, Giáo Hội sẽ không bao giờ thiếu sót công việc bổn phận bằng bất cứ cách nào” (19). Ý thức này ngày nay cũng tháp tùng hoạt động của Giáo Hội đối với người nghèo, trong đó Giáo Hội nhìn thấy Chúa Kitô (19) và luôn nghe văng vẳng trong tâm hồn mình mệnh lệnh của vị Vua Hòa Bình nói với các Tông Đồ: ”Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9,13). Trung thành với lời mời gọi của Chúa, cộng đồng Kitô giáo sẽ không quên bảo đảm với toàn thể gia đình nhân loại sự hỗ trợ trong những nỗ lực liên đới một cách sáng tạo, không những để rộng ban những gì là thừa thãi, nhưng nhất là để thay đổi ”lối sống, những kiểu mẫu sản xuất và tiêu thụ, những cơ cấu quyền bính được củng cố đang điều hành các xã hội ngày nay” (20). Tôi nồng nhiệt mời gọi mỗi môn đệ Chúa Kitô, cũng như mỗi người thiện chí, vào đầu năm mới này, hãy mở rộng con tim đối với những nhu cầu của người nghèo và làm những gì cụ thể có thể giúp đỡ họ. Thực vậy, châm ngôn này vẫn luôn đúng, đó là ”bài trừ nghèo đói chính là xây dựng hòa bình”.
Vatican ngày 8-12-2008
Biển Đức 16, Giáo Hoàng
(LM Trần Đức Anh OP chuyển ý từ nguyên bản tiếng Ý)
——–
Chú Thích
1. Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế giới, n.1.
2. Phaolô 6, Thông điệp ‘Popolorum progressio’, 19.
3. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Sollicitudo rei socialis’, 29.
4. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ”Centesimus annus”, 38.
5. Xc. Phaolô 6, Thông Điệp ‘Populorum progressio’, 37; Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Sollicitudo rei socialis’, 25.
6. Biển Đức 16, Thư gửi ĐHY Renato Raffaele Martino nhân dịp cuộc Hội Luận quốc tế do Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức về đề tài ‘Giải trừ võ trang, phát triển và hòa bình. Viễn tượng một cuộc giải trừ võ trang toàn bộ ‘, 10-4-2008: l’Osservatore Romano, 13.4.2008, p.8)
7. Thông Điệp ‘Populorum progressio’, 87.
8. Xc. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Centesimus annus’, 58
9. Xc Gioan Phaolô 2, Diễn văn trong buổi tiếp kiến Công giáo Tiến hành, 27-4-2002, 4: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXV, 1 [2002], 637.
10. Gioan Phaolô 2, Diễn văn cho Đại hội Hàn lâm viện Tòa Thánh các khoa xã hội, 27-4-2001, 4: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXIV, 1 [2001], 802.
11. Vatican II, Hiến Chế ‘Lumen gentium’, 1
12. Xc. Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, Toát Yếu đạo lý xã hội của Hội Thánh, 368
13. Xc. Ibid., 356
14. Diễn văn với giới lãnh đạo công đoàn công nhân và các công ty lớn, 2-5-2000, 3: Insegnamenti di Gioavanni Paolo II, XXIII, 1 [2000], 726.
15. N.28
16. Xc. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Populorum progressio’, 3
17. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Sollicitudo rei socialis’, 42; cf Idem, Thông điệp ‘Centesimus annus’, 57
18. Thông điệp ‘Rerum novarum’, 45
19. Xc. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Centesimus annus’, 58.
20. Ibid.
Nguồn: Đài Vatican Việt ngữ
BÀI TRỪ ĐÓI NGHÈO, XÂY DỰNG HÒA BÌNH
1. Vào đầu năm mới này, tôi cũng muốn gửi đến tất cả mọi người lời cầu chúc hòa bình, và qua Sứ Điệp này, tôi mời gọi suy tư về đề tài: Bài trừ nghèo đói, xây dựng hòa bình. Trong Sứ điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 1993, vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Gioan Phaolô 2, đã từng nêu rõ những ảnh hưởng tiêu cực mà tình trạng nghèo đói của các dân tộc gây ra cho hòa bình. Thực vậy, nghèo đói thường là một trong những nhân tố góp phần hoặc làm cho các cuộc xung đột trầm trọng thêm, kể cả các cuộc xung đột võ trang. Đối lại, các cuộc xung đột này nuôi dưỡng thảm trạng nghèo đói. Đức Gioan Phaolô 2 đã viết: ”Một đe dọa nghiêm trọng khác đối với hòa bình đang xảy ra và ngày càng trầm trọng hơn trên thế giới, đó là nhiều người, hay đúng hơn, nhiều dân tộc ngày nay đang sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng rõ rệt hơn, ngay cả tại những nước phát triển về kinh tế. Đây là một vấn đề mà lương tâm nhân loại phải quan tâm, vì tình cảnh của nhiều người đau thương đến độ làm thương tổn phẩm giá bẩm sinh của họ và vì thế cũng làm thiệt hại cho sự phát triển chân thực và sự hòa hợp của cộng đồng thế giới” (1).
2. Trong bối cảnh đó, việc bài trừ nghèo đói cũng đòi phải cứu xét kỹ lưỡng hiện tượng phức tạp là sự hoàn cầu hóa. Việc cứu xét này quan trọng cả về phương diện phương pháp, vì nó nhắc nhở nên sử dụng kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế và xã hội học về bao nhiêu khía cạnh của nạn nghèo đói. Nhưng việc kêu gọi để ý đến sự hoàn cầu hóa cũng phải mang một ý nghĩa tinh thần và luân lý, thúc giục hãy nhìn người nghèo với ý thức rằng tất cả mọi người đều tham phần vào một dự án duy nhất của Thiên Chúa, dự án mời gọi họp thành một gia đình duy nhất, trong đó mọi người - cá nhân, dân tộc và quốc gia - phải cư xử theo các nguyên tắc huynh đệ và trách nhiệm.
Trong viễn tượng ấy, cần có một cái nhìn bao quát và rõ ràng về nạn nghèo đói. Giả sử đó chỉ là nghèo đói về vật chất mà thôi, thì chỉ cần các khoa học xã hội nêu rõ những đặc tính chính yếu của hiện tượng nghèo đói là đủ; các khoa này giúp chúng ta đo lường nghèo đói dựa trên các dữ kiện, chủ yếu là số lượng. Nhưng chúng ta biết rằng có những thứ nghèo đói không thuộc vật chất, và chúng không phải là hậu quả trực tiếp và đương nhiên của sự thiếu thốn vật chất. Ví dụ, trong các xã hội sung túc và tiến bộ, có tình trạng những người bị gạt ra ngoài lề, họ nghèo về tương quan, về luân lý và tinh thần: đó là những người bị mất định hướng trong nội tâm, mặc dù sống trong sung túc về kinh tế, nhưng họ vẫn không cảm thấy thoải mái và thấy khó chịu. Một đàng tôi nghĩ đến điều gọi là ”chậm tiến về tinh thần” (2), và đàng khác, tôi nghĩ đến những hậu quả tiêu cực của sự ”siêu phát triển” (3). Tôi cũng không quên rằng, trong các xã hội gọi là ”nghèo”, sự tăng trưởng kinh tế thường bị cản trở vì những chướng ngại văn hóa, không cho phép sử dụng đúng đắn các nguồn tài nguyên. Dầu sao đi nữa, điều rất đúng là mỗi hình thức nghèo đói đều có căn cội là sự thiếu tôn trọng phẩm giá siêu việt của nhân vị. Khi con người không được coi trọng trong ơn gọi toàn diện của họ và khi người ta không tôn trọng những đòi hỏi của một nền ”sinh thái học về con người” (4) thì những năng động xấu xa của nghèo đói cũng bùng lên, như ta thấy rõ trong một số môi trường mà tôi sắp gợi lên sau đây.
Nghèo đói và những hệ lụy về luân lý
3. Nghèo đói thường được đặt trong quan hệ với sự gia tăng dân số, như thể đây là nguyên nhân gây nên nghèo đói. Vì thế, có những chiến dịch giảm bớt sinh sản đang được phát động trên bình diện quốc tế, và người ta dùng cả những phương pháp không tôn trọng phẩm giá của phụ nữ cũng như không tôn trọng quyền của đôi vợ chồng được xác định số con của họ trong tinh thần trách nhiệm (5) và nhiều khi, trầm trọng hơn nữa, người ta dùng cả những phương pháp không tôn trọng quyền sống. Sự tiêu diệt hàng triệu hài nhi chưa sinh ra, nhân danh cuộc chiến chống nghèo đói, trong thực tế, đó là một sự loại trừ những người nghèo nhất trong nhân loại. Đứng trước tình trạng đó, có sự kiện này là: hồi năm 1981, khoảng 40% dân số thế giới sống dưới mức nghèo đói tuyệt đối, nhưng ngày nay tỷ lệ ấy được giảm bớt một nửa, và có những dân tộc đã ra khỏi tình trạng nghèo đói, và hơn nữa dân số gia tăng đáng kể. Sự kiện ấy chứng tỏ điều này là: có những nguồn tài nguyên để giải quyết vấn đề nghèo đói, cho dù dân số gia tăng. Cũng không nên quên rằng, từ cuối thế chiến thứ hai đến nay, dân số trên trái đất tăng thêm 4 tỷ người, và phần lớn hiện tượng này có liên quan tới những nước mới trổi lên trên trường quốc tế như những tân cường quốc kinh tế và đã phát triển mau lẹ nhờ dân số đông. Ngoài ra, trong số những nước phát triển cao, nước nào có tỷ số sinh sản cao hơn thì có tiềm năng phát triển nhiều hơn. Nói khác đi, dân số đang tỏ ra là điều phong phú chứ không phải là một nhân tố gây nên nghèo đói.
4. Một lãnh vực khác gây lo âu là các bệnh truyền nhiễm lan rộng, chẳng hạn bệnh sốt rét ngã nước, lao phổi và Sida. Tùy theo mức độ tác động trên các thành phần sản xuất trong dân chúng, chúng có ảnh hưởng lớn trong việc làm suy thoái tình trạng chung của đất nước. Những cố gắng ngăn chặn hậu quả của các bệnh ấy nơi dân chúng không luôn luôn đạt được những kết quả đáng kể. Ngoài ra, để nhận được viện trợ kinh tế hầu có thể đương đầu với các bệnh dịch vừa nói, các nước nạn nhân thường phải thi hành những chính sách trái ngược với sự sống. Đặc biệt, thật là khó bài trừ bệnh Sida, vốn là một nguyên nhân thê thảm gây ra nghèo đói, nếu không để ý tới các vấn đề luân lý có liên hệ tới sự lan tràn vi trùng bệnh này. Trước tiên cần thực hiện những chiến dịch nhắm giáo dục đặc biệt cho người trẻ về tính dục trong tinh thần trách nhiệm hoàn toàn tương ứng với phẩm giá con người; các sáng kiến trong chiều hướng này đã mang lại những thành quả quan trọng, làm giảm bớt sự lan tràn bệnh Sida. Tiếp đến cần cung cấp cho dân nghèo những thuốc men và các biện pháp trị liệu cần thiết; điều này đòi phải có một sự quyết liệt cổ võ nghiên cứu y khoa và những canh tân phương pháp trị liệu, và nếu cần, nên áp dụng uyển chuyển các qui luật quốc tế về việc bảo vệ tài sản trí thức, để đảm bảo cho tất cả mọi người sự săn sóc cơ bản về y tế.
5. Một lãnh vực thứ ba cần chú ý trong các chương trình chiến đấu chống nghèo đói, và nó chứng tỏ chiều kích luân lý nội tại của chương trình này, đó là tình trạng nghèo đói của các trẻ em. Khi gia đình lâm vào tình trạng nghèo đói, thì các trẻ em là những nạn nhân dễ bị thương tổn nhất: hầu như một nửa những người sống trong nghèo đói cùng cực ngày nay là trẻ em. Đứng về phía các trẻ em khi cứu xét vấn đề nghèo đói, sẽ giúp dành ưu tiên cho những mục tiêu có liên hệ trực tiếp tới các em, ví dụ chăm sóc người mẹ, dấn thân giáo dục, giúp chủng ngừa, chữa trị bệnh tật và cung cấp nước uống, bảo vệ môi sinh, và nhất là dấn thân bảo vệ gia đình cũng như quan hệ bền vững của gia đình. Khi gia đình bị suy yếu thì những thiệt hại chắc chắn sẽ đổ trên các trẻ em. Nơi nào phẩm giá phụ nữ và người mẹ không được tôn trọng, thì con cái là những người càng cảm thấy điều đó hơn cả.
6. Một phạm vi thứ tư đáng được đặc biệt chú ý xét về phương diện luân lý, đó là tương quan giữa sự giải trừ võ trang và phát triển. Mức độ chi phí quân sự hiện nay trên thế giới đang gây lo âu. Như tôi đã có dịp nhấn mạnh, hiện nay ”những tài nguyên lớn lao về vật chất và nhân sự đang được sử dụng cho những chi phí quân sự và cho việc võ trang. Thực tế là các tài nguyên đó bị rút từ các dự án phát triển các dân tộc, nhất là những dân nghèo túng nhất cần được giúp đỡ. Và đây là trái ngược với Hiến Chương Liên Hợp Quốc. Văn kiện này đòi cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia, phải ”thăng tiến sự ổn định và duy trì hòa bình, an ninh quốc tế với chi phí tối thiểu về nhân lực và tài lực cho việc võ trang” (điều 26) (6).
Tình trạng vừa nói không tạo điều kiện dễ dàng, và tệ hơn nửa, nó cản trở nghiêm trọng việc đạt tới những mục tiêu lớn về phát triển mà cộng đồng quốc tế nhắm tới. Ngoài ra, sự gia tăng thái quá các chi phí quân sự có nguy cơ đẩy mạnh cuộc chạy đua võ trang, tạo nên những vùng chậm tiến và tuyệt vọng, và do đó trở thành yếu tố gây ra bất ổn, căng thẳng và xung đột. Như vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, Đức Phaolô 6, đã quả quyết chí lý ‘Phát triển chính là danh xưng mới của hòa bình’ (7). Vì thế, các nước được kêu mời hãy suy tư nghiêm túc về những lý do sâu xa nhất gây nên các cuộc xung đột, thường là do bất công khơi lên, và hãy can đảm xét mình về vấn đề này. Nếu người ta đạt tới sự cải tiến các quan hệ, thì tình trạng này sẽ giúp giảm bớt các chi phí võ trang. Các tài nguyên tiết kiệm được có thể dành cho các dự án phát triển con người và các dân tộc nghèo túng nhất: việc dấn thân trong chiều hướng này chính là dấn thân cho nền hòa bình giữa lòng gia đình nhân loại”.
7. Lãnh vực thứ năm liên quan tới cuộc chiến chống nghèo đói vật chất là cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay, đang gây nguy hiểm trầm trọng cho việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Cuộc khủng hoảng này không phải vì thiếu lương thực cho bằng vì những khó khăn trong việc kiếm được lương thực và vì những hiện tượng đầu cơ, và vì thiếu những tổ chức chính trị và kinh tế có khả năng đương đầu với các nhu cầu và tình trạng khẩn cấp. Nạn suy dinh dưỡng cũng có thể gây ra những thiệt hại nặng nề về tâm vật lý cho dân chúng, khiến cho nhiều người không có năng lực cần thiết để ra khỏi cảnh nghèo đói, nếu không được trợ giúp đặc biệt. Và điều này góp phần làm cho sự chênh lệch thêm sâu rộng, tạo nên những phản ứng có nguy cơ trở thành bạo lực. Các dữ kiện về nạn nghèo đói trong những thập niên gần đây cho thấy hố chia cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu rộng. Những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng ấy, một đàng chắc chắn là sự thay đổi kỹ thuật mà giai cấp có lợi tức cao trong xã hội được hưởng, và đàng khác là do tình trạng giá cả sản phẩm công nghệ gia tăng mau lẹ hơn giá nông phẩm và nguyên liệu mà các nước nghèo sở hữu. Và thế là phần lớn dân chúng tại các nước nghèo nhất bị gạt ra ngoài lề hai lần, xét về lợi tức thấp và về giá cả cao.
Chiến đấu chống nghèo đói và tình liên đới hoàn cầu
8. Một trong những con đường tốt nhất để xây dựng hòa bình là sự hoàn cầu hóa nhắm đến lợi ích của đại gia đình nhân loại (8). Nhưng để quản trị sự hoàn cầu hóa, cần có một sự liên đới hoàn cầu (9) mạnh mẽ giữa các nước giàu và các nước nghèo, cũng như giữa lòng mỗi nước, dù đó là nước giàu. Cần có một ”bộ qui luật luân lý đạo đức chung” (10), các qui luật này không phải chỉ có tính chất qui ước, nhưng được ăn rễ sâu nơi luật tự nhiên mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong lương tâm mỗi người (Xc Rm 2,14-15). Phải chăng mỗi người chúng ta không cảm thấy trong lương tâm mình tiếng gọi hãy đóng góp phần của mình cho công ích và cho hòa bình xã hội sao? Sự hoàn cầu hóa loại bỏ một số hàng rào, nhưng điều này không có nghĩa là người ta không thể dựng lên những hàng rào mới; Hoàn cầu hóa làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, nhưng sự lân cận về không gian và thời gian tự nó không tạo nên những điều kiện để có sự hiệp thông đích thực và một nền hòa bình chân chính. Tình trạng người nghèo trên trái đất bị gạt ra ngoài lề chỉ có thể tìm thấy những phương thế hữu hiệu trong sự hoàn cầu hóa để sửa chữa, nếu mỗi người cảm thấy bản thân mình bị thương tổn vì những bất công hiện hữu trên thế giới và những vi phạm nhân quyền đi kèm những bất công ấy. Giáo Hội, vốn là ”dấu chỉ và là phương thế để kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại” (11), sẽ tiếp tục đóng góp phần của mình để khắc phục những bất công và hiểu lầm, để xây dựng một thế giới an bình và liên đới hơn.
9. Trong lãnh vực thương mại quốc tế và những giao dịch tài chánh, ngày nay đang có những tiến trình giúp hội nhập tích cực các nền kinh tế, góp phần cải tiến tình trạng chung; nhưng cũng có những tiến trình ngược lại, gây chia rẽ và gạt các dân tộc ra ngoài lề, tạo nên những tiền đề cho chiến tranh và xung đột. Trong những thập niên sau thế chiến thứ hai, việc trao đổi các hàng hóa và dịch vụ trên trường quốc tế đã gia tăng rất mau lẹ, với một năng động chưa từng có trong lịch sử. Phần lớn nền thương mại thế giới, với sự tham gia đáng kể của nhiều nước đang lên, trở nên quan trọng. Nhưng cũng có những nước khác, với lợi tức thấp, vẫn còn bị ở ngoài lề trào lưu thương mại. Sự tăng trưởng của các nước này bị giảm bớt mau lẹ vì sự mất giá của các nguyên liệu vốn chiếm hầu hết sản phẩm xuất khẩu của họ, trong những thập niên gần đây. Tại các nước ấy, phần lớn là Phi châu, sự lệ thuộc việc xuất khẩu các nguyên liệu tiếp tục là một yếu tố có nhiều rủi ro. Ở đây tôi muốn tái kêu gọi làm sao để tất cả các nước cùng được cơ may được tham gia vào thị trường thế giới, tránh tình trạng bị loại trừ và gạt ra ngoài lề.
10. Một suy tư tương tự cũng có thể được đưa ra đối với tài chánh, vốn liên hệ tới một trong những khía cạnh cơ bản của hiện tượng hoàn cầu hóa, nhờ sự tiến bộ của ngành điện tử và các chính sách cho tự do di chuyển tiền bạc giữa các nước. Chức năng quan trọng nhất của tài chánh, xét một cách khách quan, là hỗ trợ dài hạn khả năng đầu tư và phát triển. Chắc năng ấy ngày nay đang tỏ ra mong manh hơn bao giờ hết: nó đang chịu những hậu quả tiêu cực của một hệ thống trao đổi tài chánh - trên bình diện quốc gia và hoàn vũ - dựa trên một thứ tiêu chuẩn rất ngắn hạn, nhắm gia tăng giá trị của các hoạt động tài chánh và tập trung vào việc quản trị về mặt kỹ thuật những hình thức rủi ro khác nhau. Cuộc khủng hoảng mới đây cũng cho thấy hoạt động tài chánh nhiều khi bị hướng dẫn bởi những tiêu chuẩn hoàn toàn tự tham chiếu và không để ý tới công ích về lâu về dài. Sự kiện các chuyên gia tài chánh chỉ nhắm tới các mục tiêu rất ngắn hạn thu hẹp khả năng của tài chánh trong việc thi hành chức năng bắc cầu giữa hiện tại và tương lai, hỗ trợ việc kiến tạo những cơ may mới trong việc sản xuất và lao động trong thời kỳ lâu dài. Một nền tài chánh chỉ nhắm tới mục tiêu ngắn và rất ngắn hạn trở thành nguy hiểm cho tất cả mọi người, kể cả những người đã hưởng lợi nhờ đó trong những thời kỳ phồn thịnh về tài chánh (12).
11. Từ tất cả những điều vừa nói người ta thấy rõ cuộc chiến chống nghèo đói đòi phải có một sự cộng tác trên bình diện kinh tế cũng như pháp lý, giúp cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước nghèo, đề ra và thực thi những giải pháp có phối hợp để đương đầu với những vấn đề nói trên đây bằng cách thực hiện một khuôn khổ pháp lý hữu hiệu đối với nền kinh tế. Ngoài ra nó cũng đòi phải khích lệ thành lập những tổ chức hữu hiệu và được sự tham gia của nhiều thành phần, cũng như những nâng đỡ để chiến đấu chống nạn tội phạm và thăng tiến một nền văn hóa tôn trọng luật pháp. Đàng khác, người ta cũng không thể phủ nhận rằng các chính sách chỉ nhắm viện trợ chính là nguyên do gây nên nhiều thất bại trong việc trợ giúp các nước nghèo. Đầu tư vào việc huấn luyện nhân sự và phát triển một cách toàn diện nền văn hóa chuyên biệt đề cao sáng kiến, hiện nay dường như là một dự án thực sự có tính cách trung hạn và dài hạn. Nếu các hoạt động kinh tế cần một bối cảnh thuận lợi để phát triển, thì điều đó không có nghĩa là không được chú ý đến vấn đề lợi tức. Mặc dù nên nhấn mạnh rằng sự gia tăng lợi tức mỗi đầu người không thể là mục tiêu tuyệt đối của hoạt động chính trị kinh tế, nhưng không nên quên rằng lợi tức là một dụng cụ quan trọng để đạt tới mục tiêu của cuộc chiến đấu chống nghèo đói tuyệt đối. Về phương diện này cần loại bỏ ảo tưởng cho rằng chỉ cần một chính sách phân phối tài nguyện hiện hữu là có thể giải quyết chung kết vấn đề. Thực vậy, trong nền kinh tế hiện đại, giá trị của sự sung túc phần lớn tùy thuộc khả năng kiến tạo lợi tức hiện tại và tương lai. Vì thế, việc kiến tạo giá trị là một sự ràng buộc không thể tránh né, và phải để ý tới nó nếu muốn chiến đấu chống nghèo đói vật chất một cách hữu hiệu và lâu bền.
12. Sau cùng, đặt người nghèo ở chỗ thứ nhất có nghĩa là: những người hoạt động trong thị trường quốc tế phải dành vị trí thích hợp cho một tiêu chuẩn đúng đắn về kinh tế, những người lãnh đạo các tổ chức dành chỗ thích hợp cho một tiêu chuẩn chính trị đúng đắn, và một tiêu chuẩn tham gia đúng đắn, có khả năng nêu cao giá trị của xã hội dân sự địa phương và quốc tế. Chính các tổ chức quốc tế ngày nay nhìn nhận sự quí giá và lợi điểm của các sáng kiến kinh tế do xã hội dân sự hoặc do các chính quyền địa phương đề ra, để thăng tiến sự cải tiến và hội nhập vào xã hội những thành phần dân chúng thường ở dưới mức độ nghèo đói cùng cực, khó nhận được những trợ giúp từ phía chính quyền. Lịch sử phát triển kinh tế trong thế kỷ 20 dạy rằng những chính sách phát triển tốt đã được ủy thác cho trách nhiệm của con người và cho việc kiến tạo sự hợp lực tích cực giữa thị trường, xã hội dân sự và Nhà Nước. Đặc biệt xã hội dân sự giữ một vai trò chủ yếu trong mỗi tiến trình phát triển, vì sự phát triển chủ yếu là một hiện tượng văn hóa và văn hóa nảy sinh và phát triển trong những môi trường dân sự (13).
13. Như vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi, Đức Gioan Phaolô 2, đã quả quyết, ”sự hoàn cầu hóa xuất hiện với đặc tính nổi bật là có hai mặt” (14) và vì thế cần được quản trị một cách khôn ngoan thận trọng. Trong sự khôn ngoan này, trước tiên cần để ý đến những đòi hỏi của người nghèo trên thế giới, vượt thắng gương mù là sự chênh lệch thái quá giữa những tình trạng nghèo đói và các biện pháp mà con người đưa ra để đối phó với chúng. Sự thiếu tương ứng đó thuộc bình diện văn hóa và chính trị cũng như trên bình diện tinh thần và luân lý. Thực vậy, thường thường người ta chỉ dừng lại ở những nguyên nhân hời hợt và phụ thuộc gây ra nghèo đói, mà không đi tới những nguyên nhân ở trong tâm hồn con người, như sự hám lợi và quan niệm hẹp hòi. Nhiều khi người ta đối phó với các vấn đề phát triển, trợ giúp và cộng tác quốc tế mà không có sự can dự đích thực của nhân sự, và họ chỉ coi đó là một vấn đề kỹ thuật chuyên môn mà thôi. Vì thế họ chỉ lo điều chỉnh các cơ cấu, thiết lập các hiệp định về giá cả và cung cấp những khoản tài trợ vô danh. Trái lại cuộc chiến chống nghèo cần những người nam nữ sống tinh thần huynh đệ sâu xa, và có khả năng tháp tùng con người, các gia đình và cộng đoàn trong hành trình phát triển nhân bản đích thực.
Kết luận
14. Trong Thông điệp ”Centesimus annus” (Năm Thứ 100), Đức Gioan Phaolô 2 đã cảnh giác về sự cần thiết phải ‘từ bỏ não trạng coi người nghèo - cá nhân và các dân tộc - như gánh nặng và như một điều gây phiền toái, khó chịu, những người muốn tiêu xài những gì mà người khác làm ra”. Ngài viết: ”Người nghèo yêu cầu được quyền tham gia vào việc hưởng các của cải vật chất và làm cho khả năng làm việc của họ được sinh lợi, nhờ đó tạo nên một thế giới công bằng và thịnh vượng hơn cho tất cả mọi người” (15). Trong thế giới hoàn cầu hóa hiện nay, càng ngày người ta càng thấy rõ rằng ta chỉ kiến tạo hòa bình nếu đảm bảo cho tất cả mọi người cơ hội được tăng trưởng hợp lý: sự sai trái của các hệ thống bất công, sớm muộn gì cũng gây ra thiệt hại cho tất cả mọi người. Vì thế chỉ có sự điên rồ mới có thể khiến cho người ta xây cất một căn nhà vàng, nhưng xung quanh là sa mạc hoặc những cảnh sa sút. Sự hoàn cầu hóa tự nó không thể xây dựng hòa bình, và trong nhiều trường hợp nó còn tạo nên chia rẽ và xung đột. Đúng hơn, sự hoàn cầu hóa cho thấy một nhu cầu: đó là phải hướng về một mục tiêu liên đới sâu rộng, nhắm đến thiện ích của mỗi người và mọi người. Theo chiều hướng đó, hoàn cầu hóa phải được coi như một cơ may thuận lợi để thực hiện một cái gì quan trọng trong cuộc chiến chống nghèo đói và để tận dụng những nguồn lợi cho đến nay không được nghĩ tới hầu phục vụ cho công lý và hòa bình.
15. Đạo lý xã hội của Hội Thánh vẫn luôn quan tâm đến người nghèo. Vào thời Thông điệp ”Rerum novarum” (Tân Sự), người nghèo thường là những công nhân trong một xã hội mới được công nghệ hóa; giáo huấn xã hội của Đức Piô 11, Piô 12, Gioan 23, Phaolô 6 và Gioan Phaolô 2, đã làm nổi bật trước ánh sáng những nạn nghèo mới khi chân trời của vấn đề xã hội dần dần mở rộng thêm, đến mức độ có những chiều kích hoàn vũ (16).. Sự mở rộng vấn đề xã hội theo chiều kích hoàn cầu cần được cứu xét không những như một sự mở rộng về lượng nhưng còn như một sự đào sâu chất lượng về con người và về các nhu cầu của gia đình nhân loại. Vì thế, trong khi quan tâm theo dõi những hiện tượng hoàn cầu hóa ngày nay và ảnh hưởng của chúng trên sự nghèo đói của con người, Giáo Hội chỉ cho thấy những khía cạnh mới của vấn đề xã hội, không những về chiều rộng, nhưng cả về chiều sâu nữa, xét vì chúng liên hệ tới căn tính của con người và quan hệ của con người với Thiên Chúa. Chính những nguyên tắc đạo lý xã hội nhắm làm sáng tỏ những mối liên hệ giữa nghèo đói và sự hoàn cầu hóa và qui hướng hành động về việc xây dựng hòa bình. Trong số các nguyên tắc ấy nên đặc biệt nhắc lại ở đây ”tình yêu thương ưu tiên dành cho người nghèo” (17), dưới ánh sáng tầm quan trọng trổi vượt của đức bác ái, vốn được toàn thể truyền thống Kitô giáo làm chứng, bắt đầu từ truyền thống của Giáo Hội nguyên thủy (Xc Cv 4,32-36; 1 Cr 16,1; 2 Cr 8-9; Gal 2,10).
”Mỗi người hãy thi hành phận vụ của mình và đừng trì hoãn” đó là điều Đức Lêô 13 đã viết hồi năm 1891, và ngài thêm rằng: ”Về phần mình, Giáo Hội sẽ không bao giờ thiếu sót công việc bổn phận bằng bất cứ cách nào” (19). Ý thức này ngày nay cũng tháp tùng hoạt động của Giáo Hội đối với người nghèo, trong đó Giáo Hội nhìn thấy Chúa Kitô (19) và luôn nghe văng vẳng trong tâm hồn mình mệnh lệnh của vị Vua Hòa Bình nói với các Tông Đồ: ”Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9,13). Trung thành với lời mời gọi của Chúa, cộng đồng Kitô giáo sẽ không quên bảo đảm với toàn thể gia đình nhân loại sự hỗ trợ trong những nỗ lực liên đới một cách sáng tạo, không những để rộng ban những gì là thừa thãi, nhưng nhất là để thay đổi ”lối sống, những kiểu mẫu sản xuất và tiêu thụ, những cơ cấu quyền bính được củng cố đang điều hành các xã hội ngày nay” (20). Tôi nồng nhiệt mời gọi mỗi môn đệ Chúa Kitô, cũng như mỗi người thiện chí, vào đầu năm mới này, hãy mở rộng con tim đối với những nhu cầu của người nghèo và làm những gì cụ thể có thể giúp đỡ họ. Thực vậy, châm ngôn này vẫn luôn đúng, đó là ”bài trừ nghèo đói chính là xây dựng hòa bình”.
Vatican ngày 8-12-2008
Biển Đức 16, Giáo Hoàng
(LM Trần Đức Anh OP chuyển ý từ nguyên bản tiếng Ý)
——–
Chú Thích
1. Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế giới, n.1.
2. Phaolô 6, Thông điệp ‘Popolorum progressio’, 19.
3. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Sollicitudo rei socialis’, 29.
4. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ”Centesimus annus”, 38.
5. Xc. Phaolô 6, Thông Điệp ‘Populorum progressio’, 37; Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Sollicitudo rei socialis’, 25.
6. Biển Đức 16, Thư gửi ĐHY Renato Raffaele Martino nhân dịp cuộc Hội Luận quốc tế do Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình tổ chức về đề tài ‘Giải trừ võ trang, phát triển và hòa bình. Viễn tượng một cuộc giải trừ võ trang toàn bộ ‘, 10-4-2008: l’Osservatore Romano, 13.4.2008, p.8)
7. Thông Điệp ‘Populorum progressio’, 87.
8. Xc. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Centesimus annus’, 58
9. Xc Gioan Phaolô 2, Diễn văn trong buổi tiếp kiến Công giáo Tiến hành, 27-4-2002, 4: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXV, 1 [2002], 637.
10. Gioan Phaolô 2, Diễn văn cho Đại hội Hàn lâm viện Tòa Thánh các khoa xã hội, 27-4-2001, 4: Insegnamenti di Giovanni Paolo II, XXIV, 1 [2001], 802.
11. Vatican II, Hiến Chế ‘Lumen gentium’, 1
12. Xc. Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, Toát Yếu đạo lý xã hội của Hội Thánh, 368
13. Xc. Ibid., 356
14. Diễn văn với giới lãnh đạo công đoàn công nhân và các công ty lớn, 2-5-2000, 3: Insegnamenti di Gioavanni Paolo II, XXIII, 1 [2000], 726.
15. N.28
16. Xc. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Populorum progressio’, 3
17. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Sollicitudo rei socialis’, 42; cf Idem, Thông điệp ‘Centesimus annus’, 57
18. Thông điệp ‘Rerum novarum’, 45
19. Xc. Gioan Phaolô 2, Thông điệp ‘Centesimus annus’, 58.
20. Ibid.
Nguồn: Đài Vatican Việt ngữ
Tin Giáo Hội Việt Nam
Cảm nghĩ về chuyến viếng thăm của Đức TGM Hà Nội tới Giáo phận Vinh
Hương Giang
14:46 13/12/2008
VINH - Chuyến viếng thăm của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt tại hạt Thuận Nghĩa-gp Vinh làm tôi liên tưởng đến câu chuyện trong sách Xuất Hành khi Thiên Chúa tuyển chọn ông Môsê và giao cho ông nhiệm vụ là đưa dân Israle ra khỏi cảnh sống nô lệ ở Aicập. Trước nhiệm vụ quá nặng nề như thế ông đã van xin Chúa: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con xin Chúa sai ai làm môi giới thì sai..", không giải thích cho ông hiểu Chúa còn nổi dận với ông. Tuy nhiên, Ngài vẫn cho ông biết về sự giúp đỡ, ủi an của những người thuộc về ông: "Nào chẳng có A-ha-ron là người Lê-vi đó sao ? Ta biết, nó ăn nói được lắm, hơn nữa...kìa nó ra đón ngươi và khi thấy ngươi lòng nó đầy hoan hỷ."
... Khi thấy Ngươi lòng nó đầy hoan hỷ... Vâng ! Chuyến viếng thăm của Đức Tổng tuy không được báo trước hay ngài không muốn bởi ngại giáo dân tưng bừng đón tiếp ngài chăng, vậy mà chưa đầy mấy tiếng đồng hồ đã có rất đông linh mục và hàng vạn giáo dân cùng anh chị em tôn giáo bạn đã tuôn về hạt Thuận Nghĩa-giáo phận Vinh để đón chào Đức Tổng. Nói như cha thư kí toà giám mục Vinh: "Cám tạ Chúa đã ban cho chúng con một sự giàu có rất quý giá: đó là đức tin công giáo. Thì lúc ấy cả một rừng cờ như muốn giật tung, và cả ngàn chục cánh tay giơ lên vẫy chào ngài trong tiếng hò reo vang dậy: "Hoan hô Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, vị ngôn sứ của thời đại, vị chứng nhân cho công lý và hoà bình ! Chúng con yêu mến ngài, chúng con yêu mến Đức Tổng." Ôi ! Thưa quý vị, lúc ấy chúng tôi được quyện vào nhau với một cảm xúc chưa từng có trong đời, một cái gì đó thật khó tả... Đã bao nhiêu năm từ khi có trí khôn đến nay, tôi chưa hề có được cái hạnh phúc, cái sung sướng trào dâng như ngày hôm ấy, đó là ngày 10/12/2008 ngày mà giáo phận Vinh hân hạnh được đón chào Đức Tổng.
Chính sự hiệp thông sâu xa của con cái, nên ngài đã mủi lòng và đáp lời: "Tôi quả thực rất cảm động. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để mỗi ngày chúng ta hiệp nhất và yêu thương nhau hơn nữa như điều Chúa truyền dạy và chờ đợi nơi chúng ta. Chúng ta hãy làm cho đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta tràn ngập yêu thương để mỗi ngày trở nên văn minh và giàu đẹp hơn".
Nói đến Đức Tổng kính yêu ai lại không nghĩ tới sự kiện xảy ra tại Toà Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà và nhất là gần đây toà án xét xứ 08 giáo dân. Qua vụ việc xét xử này nhiều người đã vui mừng cho đó là một thắng lợi, vì đã phần nào trút đi nỗi lo âu về sự bất công mà toà án sẽ dành cho 08 anh chị em (tạ ơn Chúa, cám ơn Mẹ). Tuy nhiên, đối với tôi cũng như nhiều người khác qua việc xét xử này công lý và hoà bình vẫn đang còn bị chà đạp. Trong giai đoạn này nếu đem ra so sánh với Dân Chúa trong thời Cựu ước thì chúng ta cũng như dân Israel là đang từ trên núi nhìn xuống và lúc này mới chỉ nhìn thấy Đất Hứa chứ chưa vào được nơi Đất Chảy Sữa và Mật Ong. Nói cách khác, bao lâu chính quyền vẫn còn cố tình kết tội 08 người con của giáo hội trong khi họ vô tội, thì bấy lâu thầy trò Môsen vẫn đang còn nằm "ngoài vùng Phủ Sóng".
Chúng ta biết, cuộc tiến vào đất hứa của thầy và trò Môse đâu phải dễ dàng gì, cả thầy lẫn trò đã phải trải qua không ít gian truân thử thách. Cụ thể, phải băng rừng lội suối trong suốt 40 năm trường mới thực hiện được Lời đã hứa. Trong giai đoạn này, nếu nói theo ngôn ngữ bóng đá thì đây cũng chỉ là mới hết hiệp một, nên chúng ta phải nêu cao tinh thần hiệp nhất. Nói cách khác mọi người phải nói lên như Dân Chúa ngày xưa: "Chúng tôi thi hành những gì Thiên Chúa đã nói." Và nhất là xin các vị mục tử hãy đồng loạt vâng lời Chúa mà nói lên sự thật như Môse xưa đã can đảm nói với Pha-ra-ô: "hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở Lễ kính Ta." Nói dễ hiểu hơn là hãy luôn đặt câu hỏi cho các nhà chức trách: Tại sao giáo dân cầu nguyện mà các ông bảo là gây rối trật tự ??? Tại sao xô đổ mấy mét tường đã bị người khác xây trên phần đất của mình mà các ông lại kết tội cho họ là phá hoại tài sản??? Phải giải quyết cho bằng được những thắc mắc đó, có như thế giáo hội Công giáo mới làm tròn sứ mệnh của mình, có như vậy Dân Chúa và những người yêu chuộng công lý và hoà bình mới hưởng được nền dân chủ công bằng và văn minh.
Để đưa dân vào được Đất Hứa, Môse cũng như dân xưa đã từng kinh qua biết bao nhiêu gian khó, thì giờ đây khi hoà bình và công lý ít nhiều gì ( c/q không dám kết nặng tội cho 08 giáo dân) đã đâm chồi nảy lộc trên quê hương Đất Việt thì Đức Tổng và bao nhiêu người khác cũng đã không ít phải chịu cảnh bị đánh đấm tơi bời.
Chúng ta tạ ơn Chúa, tri ân Mẹ là Mẹ chúng ta là Đấng chẳng hề có tội chi, chúng ta cám ơn Đức Tổng và mọi người trong cũng như ngoài nước đã anh dũng đứng lên để bảo vệ công lý và sự thật để hôm nay phần nào chúng ta đã được sống trong bầu khí dễ chịu hơn.
Tuy nhiên, khi cố tình kết tội cho 08 giáo dân dù là nhẹ hay là gì đi chăng nữa trong khi họ vô tội thì bất công vẫn còn đó. Thực ra nhà cầm quyền không giám nặng tay với anh chị em của chúng ta vì một phần do thái độ can trường của các cha và giáo dân Thái Hà, và đồng thời do những áp lực từ quốc nội và quốc tế, nếu không thì sẽ không có kết quả như vậy.
Bởi đó, con xin quý cha và toàn thể giáo dân và mọi người yêu chuộng công lý và hoà bình hãy tiếp tục lên án sự bất công, không chấp nhận sự ra ơn của chính quyền, đó cũng chính là sự mệnh mà Chúa đã trao cho giáo hội trước khi Ngài về trời: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em, để anh em ra đi và mang lại hoa trái, để hoa trái của anh em tồn tại." Hoa trái ở đây chính là hoa trái của yêu thương của sự thật của công lý và hoà bình.
Nói như Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh: "Đòi lại tự do, dân chủ là trách nhiệm của mọi người dân Việt nam, và hình như trong tình hình hiện tại, không có tập thể nào có những yếu tố thuận lợi hơn là giáo hội Công giáo. Vấn đề ở chỗ: chúng ta có thực lòng muốn đồng hành với dân tộc hay không."
Vâng ! Cuộc đấu tranh nào cũng khó khăn và đòi hỏi những hy sinh. Con đường đấu tranh cho tự do và công lý như trên đã nói chưa phải là hồi kết thúc. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng: "Tại Toà Khâm Sứ cũ ở Hà Nội và giáo xứ Thái Hà, nhà cầm quyền đã chôn Chúa Giêsu Kitô, chôn công lý và sự thật. Nhưng từ đó, Chúa Giêsu Kitô sẽ sống lại, sự thật và công lý sẽ phục sinh".
"Lạy Thầy ! Xin ban thêm đức tin cho chúng con" để chúng con làm tròn bổn phận đã được trao phó. Amen.
... Khi thấy Ngươi lòng nó đầy hoan hỷ... Vâng ! Chuyến viếng thăm của Đức Tổng tuy không được báo trước hay ngài không muốn bởi ngại giáo dân tưng bừng đón tiếp ngài chăng, vậy mà chưa đầy mấy tiếng đồng hồ đã có rất đông linh mục và hàng vạn giáo dân cùng anh chị em tôn giáo bạn đã tuôn về hạt Thuận Nghĩa-giáo phận Vinh để đón chào Đức Tổng. Nói như cha thư kí toà giám mục Vinh: "Cám tạ Chúa đã ban cho chúng con một sự giàu có rất quý giá: đó là đức tin công giáo. Thì lúc ấy cả một rừng cờ như muốn giật tung, và cả ngàn chục cánh tay giơ lên vẫy chào ngài trong tiếng hò reo vang dậy: "Hoan hô Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, vị ngôn sứ của thời đại, vị chứng nhân cho công lý và hoà bình ! Chúng con yêu mến ngài, chúng con yêu mến Đức Tổng." Ôi ! Thưa quý vị, lúc ấy chúng tôi được quyện vào nhau với một cảm xúc chưa từng có trong đời, một cái gì đó thật khó tả... Đã bao nhiêu năm từ khi có trí khôn đến nay, tôi chưa hề có được cái hạnh phúc, cái sung sướng trào dâng như ngày hôm ấy, đó là ngày 10/12/2008 ngày mà giáo phận Vinh hân hạnh được đón chào Đức Tổng.Chính sự hiệp thông sâu xa của con cái, nên ngài đã mủi lòng và đáp lời: "Tôi quả thực rất cảm động. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để mỗi ngày chúng ta hiệp nhất và yêu thương nhau hơn nữa như điều Chúa truyền dạy và chờ đợi nơi chúng ta. Chúng ta hãy làm cho đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta tràn ngập yêu thương để mỗi ngày trở nên văn minh và giàu đẹp hơn".
Nói đến Đức Tổng kính yêu ai lại không nghĩ tới sự kiện xảy ra tại Toà Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà và nhất là gần đây toà án xét xứ 08 giáo dân. Qua vụ việc xét xử này nhiều người đã vui mừng cho đó là một thắng lợi, vì đã phần nào trút đi nỗi lo âu về sự bất công mà toà án sẽ dành cho 08 anh chị em (tạ ơn Chúa, cám ơn Mẹ). Tuy nhiên, đối với tôi cũng như nhiều người khác qua việc xét xử này công lý và hoà bình vẫn đang còn bị chà đạp. Trong giai đoạn này nếu đem ra so sánh với Dân Chúa trong thời Cựu ước thì chúng ta cũng như dân Israel là đang từ trên núi nhìn xuống và lúc này mới chỉ nhìn thấy Đất Hứa chứ chưa vào được nơi Đất Chảy Sữa và Mật Ong. Nói cách khác, bao lâu chính quyền vẫn còn cố tình kết tội 08 người con của giáo hội trong khi họ vô tội, thì bấy lâu thầy trò Môsen vẫn đang còn nằm "ngoài vùng Phủ Sóng".
Chúng ta biết, cuộc tiến vào đất hứa của thầy và trò Môse đâu phải dễ dàng gì, cả thầy lẫn trò đã phải trải qua không ít gian truân thử thách. Cụ thể, phải băng rừng lội suối trong suốt 40 năm trường mới thực hiện được Lời đã hứa. Trong giai đoạn này, nếu nói theo ngôn ngữ bóng đá thì đây cũng chỉ là mới hết hiệp một, nên chúng ta phải nêu cao tinh thần hiệp nhất. Nói cách khác mọi người phải nói lên như Dân Chúa ngày xưa: "Chúng tôi thi hành những gì Thiên Chúa đã nói." Và nhất là xin các vị mục tử hãy đồng loạt vâng lời Chúa mà nói lên sự thật như Môse xưa đã can đảm nói với Pha-ra-ô: "hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở Lễ kính Ta." Nói dễ hiểu hơn là hãy luôn đặt câu hỏi cho các nhà chức trách: Tại sao giáo dân cầu nguyện mà các ông bảo là gây rối trật tự ??? Tại sao xô đổ mấy mét tường đã bị người khác xây trên phần đất của mình mà các ông lại kết tội cho họ là phá hoại tài sản??? Phải giải quyết cho bằng được những thắc mắc đó, có như thế giáo hội Công giáo mới làm tròn sứ mệnh của mình, có như vậy Dân Chúa và những người yêu chuộng công lý và hoà bình mới hưởng được nền dân chủ công bằng và văn minh.
Để đưa dân vào được Đất Hứa, Môse cũng như dân xưa đã từng kinh qua biết bao nhiêu gian khó, thì giờ đây khi hoà bình và công lý ít nhiều gì ( c/q không dám kết nặng tội cho 08 giáo dân) đã đâm chồi nảy lộc trên quê hương Đất Việt thì Đức Tổng và bao nhiêu người khác cũng đã không ít phải chịu cảnh bị đánh đấm tơi bời.
Chúng ta tạ ơn Chúa, tri ân Mẹ là Mẹ chúng ta là Đấng chẳng hề có tội chi, chúng ta cám ơn Đức Tổng và mọi người trong cũng như ngoài nước đã anh dũng đứng lên để bảo vệ công lý và sự thật để hôm nay phần nào chúng ta đã được sống trong bầu khí dễ chịu hơn.
Tuy nhiên, khi cố tình kết tội cho 08 giáo dân dù là nhẹ hay là gì đi chăng nữa trong khi họ vô tội thì bất công vẫn còn đó. Thực ra nhà cầm quyền không giám nặng tay với anh chị em của chúng ta vì một phần do thái độ can trường của các cha và giáo dân Thái Hà, và đồng thời do những áp lực từ quốc nội và quốc tế, nếu không thì sẽ không có kết quả như vậy.
Bởi đó, con xin quý cha và toàn thể giáo dân và mọi người yêu chuộng công lý và hoà bình hãy tiếp tục lên án sự bất công, không chấp nhận sự ra ơn của chính quyền, đó cũng chính là sự mệnh mà Chúa đã trao cho giáo hội trước khi Ngài về trời: "Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em, để anh em ra đi và mang lại hoa trái, để hoa trái của anh em tồn tại." Hoa trái ở đây chính là hoa trái của yêu thương của sự thật của công lý và hoà bình.
Nói như Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh: "Đòi lại tự do, dân chủ là trách nhiệm của mọi người dân Việt nam, và hình như trong tình hình hiện tại, không có tập thể nào có những yếu tố thuận lợi hơn là giáo hội Công giáo. Vấn đề ở chỗ: chúng ta có thực lòng muốn đồng hành với dân tộc hay không."
Vâng ! Cuộc đấu tranh nào cũng khó khăn và đòi hỏi những hy sinh. Con đường đấu tranh cho tự do và công lý như trên đã nói chưa phải là hồi kết thúc. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng: "Tại Toà Khâm Sứ cũ ở Hà Nội và giáo xứ Thái Hà, nhà cầm quyền đã chôn Chúa Giêsu Kitô, chôn công lý và sự thật. Nhưng từ đó, Chúa Giêsu Kitô sẽ sống lại, sự thật và công lý sẽ phục sinh".
"Lạy Thầy ! Xin ban thêm đức tin cho chúng con" để chúng con làm tròn bổn phận đã được trao phó. Amen.
Nữ tu người Việt Nam đầu tiên của Dòng Bác Ái Miyazaki Nhật Bản
Fx Đức Thịnh
15:43 13/12/2008
ANS – TOKYO - Ngày Lễ Trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 08 tháng 12 vừa qua Cha Orlando Puppo SDB Giám Tỉnh của Tỉnh Dòng Nhật Bản đã chủ sự Thánh Lễ Tuyên Khấn Lần đầu của Sơ Maria Machaela Huỳnh Thị Thu Hà gia nhập Dòng Bác Ái Miyazaki.
Sơ Maria Machaela Huỳnh Thị Thu Hà là Nữ Tu người Việt Nam đầu tiên của Dòng Nữ Tử Bác Ái Miyazaki. Chị từ Việt Nam đã tới Nhật Bản được 6 năm qua và nay đã tuyên khấn lần đầu trong Dòng Bác Ái Miyazaki, Chị đã phải vượt qua được rất nhiều những khó khăn trong việc học ngôn ngữ Nhật Bản, ngoài ra, vào tháng 10 vừa qua Bà Cố của Chị cũng vừa được Chúa gọi về.
Thánh Lễ tuyên khấn lần đầu đã được cử hành tại Nhà Nguyện của Nhà Mẹ Dòng Bác Ái Miyazaki ở Thủ Đô TOKYO Nhật Bản. Hiện diện trong Thánh Lễ cũng có một vài thân nhân của Sơ Maria Machaela Thu Hà và các bạn bè, và cả cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản cũng như Gia Đình Salêdiêng
Quý Sơ trong Dòng đã vui mừng tiếp nhận Tân Khấn Sinh mới gia nhập. Sự góp mặt của Tân Khấn Sinh Việt Nam này đã làm tăng thêm tính chất quốc tế của Dòng Tử Bác Ái Miyazaki.
Dòng Bác Ái Miyazaki được Đấng Đáng Kính Cha Cimatti sáng lập năm 1937 với sự giúp đỡ của Cha Antôniô Cavoli. Hiện nay, Dòng Bác Ái Miyazaki hiện diện không dưới 13 Quốc Gia trên 4 lục địa với con số 1019 Hội viên. Dòng Bác Ái Miyazaki là 1 trong 23 nhóm của Đại Gia Đình Salêdiêng.
Sơ Maria Machaela Huỳnh Thị Thu Hà là Nữ Tu người Việt Nam đầu tiên của Dòng Nữ Tử Bác Ái Miyazaki. Chị từ Việt Nam đã tới Nhật Bản được 6 năm qua và nay đã tuyên khấn lần đầu trong Dòng Bác Ái Miyazaki, Chị đã phải vượt qua được rất nhiều những khó khăn trong việc học ngôn ngữ Nhật Bản, ngoài ra, vào tháng 10 vừa qua Bà Cố của Chị cũng vừa được Chúa gọi về.Thánh Lễ tuyên khấn lần đầu đã được cử hành tại Nhà Nguyện của Nhà Mẹ Dòng Bác Ái Miyazaki ở Thủ Đô TOKYO Nhật Bản. Hiện diện trong Thánh Lễ cũng có một vài thân nhân của Sơ Maria Machaela Thu Hà và các bạn bè, và cả cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản cũng như Gia Đình Salêdiêng
Quý Sơ trong Dòng đã vui mừng tiếp nhận Tân Khấn Sinh mới gia nhập. Sự góp mặt của Tân Khấn Sinh Việt Nam này đã làm tăng thêm tính chất quốc tế của Dòng Tử Bác Ái Miyazaki.
Dòng Bác Ái Miyazaki được Đấng Đáng Kính Cha Cimatti sáng lập năm 1937 với sự giúp đỡ của Cha Antôniô Cavoli. Hiện nay, Dòng Bác Ái Miyazaki hiện diện không dưới 13 Quốc Gia trên 4 lục địa với con số 1019 Hội viên. Dòng Bác Ái Miyazaki là 1 trong 23 nhóm của Đại Gia Đình Salêdiêng.
Khóa Ca Trưởng Cấp 1 Đợt 2 tại Hoa Thịnh Đốn
Bùi Hữu Thư
19:49 13/12/2008
Khóa Ca Trưởng Cấp 1 Đợt 2 tại Hoa Thịnh Đốn
Arlington, VA, ngày 13 tháng 12, 2008: Khóa Ca Trưởng Cấp 1 Đợt 2 được tổ chức tại Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Arlington, VA từ ngày Thứ Sáu 12 đến ngày Chủ Nhật 14 tháng 12, năm 2008 dưới sự hướng dẫn của Nhạc Sư Phạm Đức Huyến từ California, và ba phụ giáo: NS Kiều Văn Tập từ Richmond, Ca Trưởng Đỗ Thanh Liêm từ Maryland, và Ca Trưởng Trần Tuyết Mai, từ Virginia.
Khóa học quy tụ được tất cả 34 học viên: 19 từ Arlington, Virginia (trong đó có ca trưởng Lê văn Kiểm và Lê Trần Kiều thuộc ca đoàn Cecilia, và ca gia đình ông Nguyễn Văn Sự, phu nhân Nguyễn Thị Lan, và thứ nam Nguyễn Minh Ngọc, thuộc ca đoàn Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận), 13 từ Silver Spring, Maryland (trong đó có Sơ Trần Thị Sâm và Thầy Nguyễn Quốc Hoàng, và Liên Ca Đoàn Trưởng Phan Phương Thảo), và 2 từ Connecticut (Anh Nguyễn Văn và Nguyễn Hùng Cường.) Đa số học viên đã theo học Khóa Ca Trưởng Cấp 1 Đợt 1 vào ba ngày 11, 12, 13 tháng 4, 2008.
Khóa học được cha xứ Nguyễn Đức Vượng cho phép tổ chức và chị Nguyễn Kim Anh đã tình nguyện làm trưởng ban, với sự giúp đỡ của Ông Bùi Hữu Thư, CT/HĐMV. Nhờ sự quảng bá trên vietcatholic.net con số học viên đã gia tăng rất nhiều. Có một số học viên từ Pennsylvania phút chót đã rút tên.
Chương trình học tập rất bận rộn, mỗi ngày khởi sự từ 7:30 sáng cho đến 7 giờ tối. Khóa học còn có tên là “Lớp Huấn Luyện Thánh Nhạc và Điều Khiển Hợp Ca.” Chương trình bao gồm các bài về Kỹ Thuật Đánh Nhịp và Kỹ Thuật Tập Hát cùng các giờ thực tập các kỹ thuât này. Ngoài ra còn các bài về Kỹ Thuật Huấn Luyện Ca Đoàn, Luyện Giọng Hợp Ca, Nhạc Lý, Xướng Âm, Cách Đọc Tiếng Latinh và Hát Nhạc Bình Ca.
Được biết đây là khóa Ca Trưởng thứ 88 thầy Huyến hướng dẫn, ngoài ra thầy còn dậy 10 Khóa Sáng Tác Ca Khúc. Tại Việt Nam, thầy Huyến cũng dậy các khóa Ca Trưởng tại Dòng Chúa Cứu Thế, tại Tổng Giáo Phận Hà Nội và Saigon. Một khóa ca trưởng cấp 3 cũng mới được tổ chức tại Việt Nam. Tại Hoa Thịnh Đốn, thầy Huyến đã dậy tất cả 8 khóa Ca Trưởng và 2 Khóa Sáng Tác Ca Khúc.
Chương trình năm 2009 của thầy Huyến gồm có: Khóa Ca Trưởng Cấp 1 Đợt 3 Hoa Thịnh Đốn vào Mùa Xuân 2009; Khóa Ca Trưởng Cấp 3 Đợt 1 tại Hoa Thịnh Đốn vào Trung tuần tháng 6, sau đó thì tham dự Đại Hội Đức Mẹ La Vang Hoa Thịnh Đốn; Tháng 7, tuần thứ 3 thầy sẽ dậy tại Tổng Giáo Phận Hà Nội, và tuần thứ 4 tại Hải Phòng.
Các học viên khóa ca trưởng Cấp 1 Đợt 2 sẽ sinh hoạt chung với Liên Ca Đoàn gồm 9 ca đoàn tại Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Arlington, VA buổi chiều Chủ Nhật 14/12/08, trước khi tham dự thánh lễ bế mạc lúc 5 giờ chiều và tiệc chia tay lúc 6:30 tối.
Mặc dầu thời tiết hơi lạnh hôm qua, sang nay trời có nắng khiến cho mọi người được hưởng chút ấm áp của mùa đông tại Virginia.
| Cha Xứ Nguyễn Đức Vượng tiếp đón các Giảng Sư và Học Viên |
| Hình chụp chung trên cung thánh |
| Kim Anh chào mừng thầy Huyến và các Phụ Giáo |
| Kim Anh đang thực tập |
| Thiên Nga đang thực tập |
| Sơ Sâm đang thực tập |
| Đọc Kinh Lạy Cha |
| Thầy Huyến đang hướng dẫn |
| Quang Cảnh Lớp Học |
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Một Tấm Gương Soi
Người Thái Hà
01:23 13/12/2008
Một Tấm Gương Soi
Cảm động quá, cha Chung thăm lũ lụt !
Cây gậy dẫn đường, bên các thiếu nhi
Đức Tổng Kiệt ơi, con biết nói gì ?
Nhìn hình Cha, mắt con trào ứa lệ. ..!
Đường Cha đi, đồng hành cùng với Mẹ
Đem yêu thương, để san sẻ cho đời
Nhìn Giáo Dân, đón tiếp, rạng niềm vui !
Từ xa xôi, con gửi lời chào kính
Năm tháng qua, Cha nhận nhiều cay đắng !
Bọn vô thần, chúng diễn võ, dương oai
Dùng bọn lưu manh, và bọn tay sai
Bọn cặn bã, đóng vai người bất mãn
Chúng tung hỏa mù, bao điều đểu cáng
Bọn Văn nô, trên hệ thống Truyền thông
Chúng cuồn điên, như một bọn khùng ?
Bịa đặt, điêu ngoa, buông lời nói xấu
Để kiếm bát cơm. Được pha bằng máu
Của người dân, đang đòi hỏi Tự Do !
Đàn áp dã man, chúng diễn đủ trò
Cướp nắm cơm chim, cướp nhà, cướp đất
Xảo trá, lọc lừa, xa đường chân thật
Tham nhũng, ô dù đồng bọn bao che
Nhìn cảnh Thủ Đô di chuyển bằng ghe
Nhục nhã quá, những đỉnh cao trí tuệ !
Đàn áp giống nòi, thì nhiều mưu kế
Quốc kế, dân sinh, đúng loại ị tờ
Từ nửa Tinh Cầu, xin gửi bài thơ
Về số bốn mươi hai, phố Nhà Chung Hà Nội
Gói trọn tâm tình, vào trong tiếng nói
Vấn an Cha, xin Chúa Mẹ giữ gìn ?
Noi Gương Cha, sống kiên vững niềm tin
Giữa bầy Sói, đang cuồn điên đánh phá !
Tòa Khâm Sứ, đất Thái Hà còn đó
Bầy kên kên, định xẻ thịt chia nhau
Nuốt không trôi, tiếc đứt ruột vì đau !
Nên đàn áp, thẳng tay những Giáo Dân cầu nguyện
Xịt hơi cay, dùi cui, và roi điện
Chúng mong rằng, bịt tiếng nói người dân
Hãy mở mắt ra, hởi bọn vô thần ?
Lũ lụt tràn về, người dân khốn khổ !
Đang gào kêu, đòi cứu trợ từng ngày
Cán Bộ đâu rồi, có biết không đây ?
Hay còn đợi chia phần xong mới đến
Hãy nhìn gương người Cha Chung yêu mến ?
Đang sắn quần, lội nước đếm thăm dân
Sống hy sinh, và Ngài biết dấn thân. ..!
Phụng sự Chúa, và anh em đồng loại
Công an đâu, sao giờ không thấy tới ?
Bảo vệ Ngài, đang thể hiện thương yêu !
Vì Lý Tưởng, Ngài chỉ biết cho nhiều
Không tham vọng, ghét những điều dối trá ?
Chỉ biết hy sinh, xả thân vì Chúa !
Đem tin yêu, đến từng lớp dân nghèo
Biết quên mình, luôn tô đậm chữ "YÊU" !
Kính Chúa, yêu người mới là trên hết
Đời qua đi, mọi người vào cỏi chết. ..
Nhưng danh thơm, còn tồn tại muôn đời !
Đừng đắm chìm, vào vũng dục tanh hôi ?
Trang Uế Sử, muôn đời còn lưu mãi. ..
Tham vọng giầu sang, bạc vàng thừa thãi
Ta hỏi người, lúc nhắm mắt xuôi tay
Mang được gì, hay bỏ lại nơi đây ?
Thân rữa mục, tàn theo vào cát bụi. ..!
Trước Đấng Chí Tôn, quyền uy tuyệt đối !
Phân xử dữ lành, rất mực quang minh
Không giống trần gian, Tòa Án trá hình
Của kẻ cường quyền, hại dân, hại nước !
Làm trò hề, cho Thế Giới cười chê ?
Tuy ghét người, vẫn mong đợi người về
Cùng dân tộc, cùng giống nòi, Lạc Việt
Biết tiếp bước, theo Giám Mục Ngô Quang Kiệt...!
Biết hiến thân, làm rạng rỡ giống nòi
Đừng cúi lòn Phương Bắc, bị dể ngươi ?
Trang Sử Việt muôn đời, còn rực rỡ !
Trần Hưng Đạo, sông Bạch Đằng còn đó
Bao chiến công hiển hách, để cho đời
Trống Hạ Hồi, hòa tiếng thét Quang Trung
Gò Đống Đa, xác Mãn Thanh còn đó ?
Ấp Thái Hà, còn lưu danh Lịch Sử
Để ngàn sau, dân tộc Việt noi theo. ..?
Tổ Quốc VIỆT NAM, tôi rất mến yêu !
Nhưng khốn nỗi, sống giữa bầy Lang Sói !
Cướp mất Tự Do, triệt tiêu tiếng nói
Của người dân, đòi Công Lý, Hòa Bình !
Hoa Kỳ, ngày 12 tháng 12 năm 2008
người THÁI HÀ
Cảm động quá, cha Chung thăm lũ lụt !Cây gậy dẫn đường, bên các thiếu nhi
Đức Tổng Kiệt ơi, con biết nói gì ?
Nhìn hình Cha, mắt con trào ứa lệ. ..!
Đường Cha đi, đồng hành cùng với Mẹ
Đem yêu thương, để san sẻ cho đời
Nhìn Giáo Dân, đón tiếp, rạng niềm vui !
Từ xa xôi, con gửi lời chào kính
Năm tháng qua, Cha nhận nhiều cay đắng !
Bọn vô thần, chúng diễn võ, dương oai
Dùng bọn lưu manh, và bọn tay sai
Bọn cặn bã, đóng vai người bất mãn
Chúng tung hỏa mù, bao điều đểu cáng
Bọn Văn nô, trên hệ thống Truyền thông
Chúng cuồn điên, như một bọn khùng ?
Bịa đặt, điêu ngoa, buông lời nói xấu
Để kiếm bát cơm. Được pha bằng máu
Của người dân, đang đòi hỏi Tự Do !
Đàn áp dã man, chúng diễn đủ trò
Cướp nắm cơm chim, cướp nhà, cướp đất
Xảo trá, lọc lừa, xa đường chân thật
Tham nhũng, ô dù đồng bọn bao che
Nhìn cảnh Thủ Đô di chuyển bằng ghe
Nhục nhã quá, những đỉnh cao trí tuệ !
Đàn áp giống nòi, thì nhiều mưu kế
Quốc kế, dân sinh, đúng loại ị tờ
Từ nửa Tinh Cầu, xin gửi bài thơ
Về số bốn mươi hai, phố Nhà Chung Hà Nội
Gói trọn tâm tình, vào trong tiếng nói
Vấn an Cha, xin Chúa Mẹ giữ gìn ?
Noi Gương Cha, sống kiên vững niềm tin
Giữa bầy Sói, đang cuồn điên đánh phá !
Tòa Khâm Sứ, đất Thái Hà còn đó
Bầy kên kên, định xẻ thịt chia nhau
Nuốt không trôi, tiếc đứt ruột vì đau !
Nên đàn áp, thẳng tay những Giáo Dân cầu nguyện
Xịt hơi cay, dùi cui, và roi điện
Chúng mong rằng, bịt tiếng nói người dân
Hãy mở mắt ra, hởi bọn vô thần ?
Lũ lụt tràn về, người dân khốn khổ !
Đang gào kêu, đòi cứu trợ từng ngày
Cán Bộ đâu rồi, có biết không đây ?
Hay còn đợi chia phần xong mới đến
Hãy nhìn gương người Cha Chung yêu mến ?
Đang sắn quần, lội nước đếm thăm dân
Sống hy sinh, và Ngài biết dấn thân. ..!
Phụng sự Chúa, và anh em đồng loại
Công an đâu, sao giờ không thấy tới ?
Bảo vệ Ngài, đang thể hiện thương yêu !
Vì Lý Tưởng, Ngài chỉ biết cho nhiều
Không tham vọng, ghét những điều dối trá ?
Chỉ biết hy sinh, xả thân vì Chúa !
Đem tin yêu, đến từng lớp dân nghèo
Biết quên mình, luôn tô đậm chữ "YÊU" !
Kính Chúa, yêu người mới là trên hết
Đời qua đi, mọi người vào cỏi chết. ..
Nhưng danh thơm, còn tồn tại muôn đời !
Đừng đắm chìm, vào vũng dục tanh hôi ?
Trang Uế Sử, muôn đời còn lưu mãi. ..
Tham vọng giầu sang, bạc vàng thừa thãi
Ta hỏi người, lúc nhắm mắt xuôi tay
Mang được gì, hay bỏ lại nơi đây ?
Thân rữa mục, tàn theo vào cát bụi. ..!
Trước Đấng Chí Tôn, quyền uy tuyệt đối !
Phân xử dữ lành, rất mực quang minh
Không giống trần gian, Tòa Án trá hình
Của kẻ cường quyền, hại dân, hại nước !
Làm trò hề, cho Thế Giới cười chê ?
Tuy ghét người, vẫn mong đợi người về
Cùng dân tộc, cùng giống nòi, Lạc Việt
Biết tiếp bước, theo Giám Mục Ngô Quang Kiệt...!
Biết hiến thân, làm rạng rỡ giống nòi
Đừng cúi lòn Phương Bắc, bị dể ngươi ?
Trang Sử Việt muôn đời, còn rực rỡ !
Trần Hưng Đạo, sông Bạch Đằng còn đó
Bao chiến công hiển hách, để cho đời
Trống Hạ Hồi, hòa tiếng thét Quang Trung
Gò Đống Đa, xác Mãn Thanh còn đó ?
Ấp Thái Hà, còn lưu danh Lịch Sử
Để ngàn sau, dân tộc Việt noi theo. ..?
Tổ Quốc VIỆT NAM, tôi rất mến yêu !
Nhưng khốn nỗi, sống giữa bầy Lang Sói !
Cướp mất Tự Do, triệt tiêu tiếng nói
Của người dân, đòi Công Lý, Hòa Bình !
Hoa Kỳ, ngày 12 tháng 12 năm 2008
người THÁI HÀ
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà (phần 2)
LM. Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT
01:27 13/12/2008
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà 08/12/2008 (phần 2)
2. TRƯỚC UBND PHƯỜNG Ô CHỢ DỪA: CUỘC HỘI NGỘ KHÔNG NHƯ LÒNG MONG MUỐN
Tới UBND phường Ô Chợ Dừa, nơi xử án, cảnh sát cơ động chặn lối không cho đoàn linh mục và giáo dân vào UBND. Ông Trưởng Công an quận Đống Đa ra gặp chúng con. Cha Phượng và con đề nghị ông cho mở lối để các linh mục và đại diện giáo dân vào dự toà. Vì toà xét xử công khai và theo yêu cầu của Toà, một số bị cáo cũng đã ghi vào mục thân nhân tham dự là các linh mục, tu sĩ và giáo dân Thái Hà. Ông nói vì phòng xử án không đủ chỗ cho nên các linh mục vào mà thôi. Ông lệnh cho thuộc cấp mở hàng rào cho các giáo dân bị cáo và cho các linh mục đi vào bên trong UBND. Thái độ của ông hôm nay khá nhỏ nhẹ, lịch sự.
Các cha vào hết, còn lại cha Phong và con vào sau, vì còn can thiệp cho thân nhân bà Hợi và bà Nhi vào dự Toà. Không hiểu vì lý do gì mà gia đình bà Nhi, bố mẹ và các con bà không nhận được bất cứ giấy tờ gì báo ngày xử án và thẻ vào tham dự phiên Toà. Chúng con hỏi cán bộ Phòng An ninh thuộc Sở Công an Hà Nội đang đứng đó, họ nói không biết, cái đó thuộc cấp quận. Chúng con tìm Ông Trưởng Công an Quận, thì ông đã chạy đâu mất, may có ông Phó Trưởng Công an Quận.
Trước yêu cầu mạnh mẽ và tha thiết của các linh mục và giáo dân, các cán bộ hữu trách Toà án và Công an đã cho bố mẹ và một người con của chị Nhi và chị Thuỷ con bà Hợi vào dự phiên toà. Dù vậy, vẫn còn nhiều thân nhân ruột thịt khác không được vào. Những anh chị em này khóc lóc thảm thiết và phản ứng mạnh mẽ trước việc ngăn chặn quyền chính đáng này của người thân lắm!
Khi các cuộc dàn xếp bên ngoài tạm ổn, chúng con hỏi xem bà Nhi và bà Dung đã được đưa về đây chưa, thì được biết rằng cả hai đã được đưa đến từ sớm. Thật tiếc, chúng con muốn đến trước giờ họ chở hai người đến, để có dịp cổ vũ tinh thần các bà và cũng để cho các bà thấy anh chị em và thân nhân của mình yêu mến hai bà thế nào. Thế mà cơ hội đã qua đi, chỉ vì công an đưa các bà đến toà sớm quá. Buổi tối, sau khi đã được tự do, bà Dung nói rằng, hai bà đến trước, từ trên lầu cao nhìn xuống có nhìn thấy đoàn giáo dân và linh mục chúng con và bà rất xúc động và vui mừng.
Trong khi đang dàn xếp, con đứng trước UBND nhìn ngược ra phố, thấy khung cảnh thật ấn tượng: Dọc các hàng rào cảnh sát phấp phới những nhành lá tử đạo và hàng trăm biểu ngữ được giương cao mang các nội dung rất chí lý và rất hài hoà, chẳng hạn: “Phúc thay anh em khi vì danh Thầy mà bị người ta bắt bớ, xét xử”, “Chúng tôi yêu mến anh chị em”. “Hoan hô anh chị em”, “Chúng tôi đồng trách nhiệm”, “Chúng tôi xin đi tù thay anh chị em”, “Anh chị em vô tội”, “Chớ gì anh chị em được xét xử công bằng”, “Pháp luật phải được thượng tôn”, “Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”, “ Mẹ tôi vô tội”, etc. Có người dán biểu ngữ sau lưng, có người giơ lên, có người cuốn thành mũ đội trên đầu trông rất ngộ nghĩnh.
Thấy giáo dân kéo đến đông quá, chính quyền tăng cường thêm cảnh sát cơ động. Họ triển khai thêm một hàng cảnh sát dọc hè phố bên kia và dọc dải phân cách giữa đường, họ đứng trước mặt hàng giáo dân và và ngăn cản không cho giáo dân từ hai hàng ở giữa đường và bên kia đường chạy sang phía đường bên này, nơi có UBND đang dùng làm nơi xét xử. Họ còn bao vây và cô lập từng nhóm giáo dân, không cho nhóm nhập với nhóm kia. Các cảnh sát cơ động không kịp làm việc thì cả các nhân viêit nam an ninh mang thường phục cũng vào cuộc ngăn chặn giáo dân.
Lúc này ở bên trong hàng rào bằng dây thừng và cảnh sát cơ động, khu vực trước UBND, có rất đông các cán bộ an ninh quen mặt của phòng PA 38 ở đây, các cán bộ của công an Quận Đống Đa và nhiều cán bộ khác chúng con không biết tên. Tất cả đều mặc thường phục. Cũng có mấy người ngoại quốc đi lại. Về sau chúng con mới biết đấy là cán bộ các cơ quan ngoại giao của một số nước đến theo dõi phiên toà và phóng viên của một số hãng thông tấn quốc tế có văn phòng ở Hà Nội. Một số phóng viên chạy dọc chạy ngang trên mặt đường Hoàng Cầu. Một số được vào bên trong toà nhà.
Một lát sau, thấy giáo dân đến đông quá, cảnh sát phong toả nốt nửa phần đường còn lại của phố Hoàng Cầu, không cho người qua lại. Cảnh sát cũng đặt luôn hàng rào sắt ở hai đầu khiến cho các đoàn giáo dân đi muộn không còn vào được đọan phố nơi UBND toạ lạc. Thế là nội bất xuất ngoại bất nhập, tạo thành 3 khu vực tập trung lớn trên phố Hoàng Cầu. Số giáo dân ở hai đầu phố phải làm công tác hậu cần và nhắn tin: Chuyển nước, bánh, và những thứ cần thiết vào cho số người bên trong. Nhiều người ở xa về muộn chỉ còn đưoc đứng ở hai đầu phố, hoặc về nhà thờ cầu nguyện.
Khi các nạn nhân bị cáo đều đã có người thân vào tham dự phiên toà, con mới đi vào UBND dự cuộc xét xử. Tới cửa kiểm tra an ninh, các nhân viên chặn lại, vì con không có giấy mời của Toà. Con phản ứng vì vừa nãy ở ngoài phố thì ông Trưởng Công an Quận mời chúng con vào mà bây giờ đến cửa lại bị lực lượng khác ngăn chặn. Con cứ đứng đấy kêu. Ông Phó Trưởng Quận ra mời con đi tránh sang một bên cửa kiểm tra an ninh để vào một phòng ở tầng 1. Ông nói cứ vào đây các cán bộ sẽ nói chuyện. Khi con vào thì thấy hoá ra các cha vào trước cũng đang ở cả đây, chưa ai được lên tầng 4 để dự cuộc xét xử.
Tiếp chúng con là ông Trần Hồng Quân, (nếu con nhớ không nhầm), Chánh án TAND Quận Đống Đa. Cha Phượng và cha Phong nói rằng toà xét xử công khai các cha cũng đã có giấy uỷ quyền của cha Bề trên-Chính xứ Vũ Khởi Phụng, cho nên các cán bộ phải để cho các cha tham dự. Ông Chánh án nói rằng vì phòng xét xử không đủ chỗ cho nên chỉ có thể mời một linh mục đại diện tham dự. Ông nói phải tôn trọng pháp luật.
Hai cha nói rằng “chúng tôi cũng chỉ mong muốn như vậy. Chính vì tôn trọng pháp luật mà chúng tôi yêu cầu được tham dự phiên toà với tư cách là những người liên quan…” Các cha cũng nói trường hợp không cho các linh mục chúng con vào thì chúng con cũng chấp hành và khi ấy buộc chúng con phải ra đường đứng chầu với dân oan và khi ấy chẳng đẹp gì cho Toà án, cho chế độ. Trước những lời lẽ đanh thép, có cơ sở của quý cha, chúng con thấy mặt ông chánh án sạm đi và ông im lặng bỏ ra khỏi phòng.
Sau đấy cha Phong còn nói với một cán bộ, vì toà xét xử công khai cho nên nếu không đủ chỗ thì phải bắc màn hình hoặc loa phóng thanh ra ngoài cho mọi người theo dõi. Ông cán bộ này nói rằng cái đó còn phải trình báo cấp trên và bây giờ lắp đặt thì không kịp. Cha Phong nói ngài sẵn sàng về nhà thờ mang hệ thống âm thanh ra phòng xử lắp đặt giúp, nhanh chóng, kịp thời tham dự phiên toà, nhưng ông cán bộ này đánh trống lảng.
Thực ra không cho các linh mục tu sĩ và đại diện giáo dân vào tham dự phiên toà là một điều không hay cho chính các cán bộ. Chúng con không thể ra về và giáo dân thấy chúng con không được tham dự, họ cũng sẽ bức xúc hơn. Phần chúng con, không được vào toà, chúng con cũng an lòng chấp nhận ở lại trên phố cùng hát thánh ca với giáo dân, cầu nguyện cho công lý, cầu nguyện cho phiên toà được xét xử công bằng, cầu nguyện cho các anh chị em đang bị xét xử được vững tâm. Cha Phó Bề trên Giám Tỉnh Cao Đình Trị điện thoại nói với con rằng giải pháp nào cũng tốt trong đức tin.
( Hết phần 2, còn tiếp)
Tu viện Thái Hà, ngày 09 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
2. TRƯỚC UBND PHƯỜNG Ô CHỢ DỪA: CUỘC HỘI NGỘ KHÔNG NHƯ LÒNG MONG MUỐN
Tới UBND phường Ô Chợ Dừa, nơi xử án, cảnh sát cơ động chặn lối không cho đoàn linh mục và giáo dân vào UBND. Ông Trưởng Công an quận Đống Đa ra gặp chúng con. Cha Phượng và con đề nghị ông cho mở lối để các linh mục và đại diện giáo dân vào dự toà. Vì toà xét xử công khai và theo yêu cầu của Toà, một số bị cáo cũng đã ghi vào mục thân nhân tham dự là các linh mục, tu sĩ và giáo dân Thái Hà. Ông nói vì phòng xử án không đủ chỗ cho nên các linh mục vào mà thôi. Ông lệnh cho thuộc cấp mở hàng rào cho các giáo dân bị cáo và cho các linh mục đi vào bên trong UBND. Thái độ của ông hôm nay khá nhỏ nhẹ, lịch sự.
Các cha vào hết, còn lại cha Phong và con vào sau, vì còn can thiệp cho thân nhân bà Hợi và bà Nhi vào dự Toà. Không hiểu vì lý do gì mà gia đình bà Nhi, bố mẹ và các con bà không nhận được bất cứ giấy tờ gì báo ngày xử án và thẻ vào tham dự phiên Toà. Chúng con hỏi cán bộ Phòng An ninh thuộc Sở Công an Hà Nội đang đứng đó, họ nói không biết, cái đó thuộc cấp quận. Chúng con tìm Ông Trưởng Công an Quận, thì ông đã chạy đâu mất, may có ông Phó Trưởng Công an Quận.
Trước yêu cầu mạnh mẽ và tha thiết của các linh mục và giáo dân, các cán bộ hữu trách Toà án và Công an đã cho bố mẹ và một người con của chị Nhi và chị Thuỷ con bà Hợi vào dự phiên toà. Dù vậy, vẫn còn nhiều thân nhân ruột thịt khác không được vào. Những anh chị em này khóc lóc thảm thiết và phản ứng mạnh mẽ trước việc ngăn chặn quyền chính đáng này của người thân lắm!
Khi các cuộc dàn xếp bên ngoài tạm ổn, chúng con hỏi xem bà Nhi và bà Dung đã được đưa về đây chưa, thì được biết rằng cả hai đã được đưa đến từ sớm. Thật tiếc, chúng con muốn đến trước giờ họ chở hai người đến, để có dịp cổ vũ tinh thần các bà và cũng để cho các bà thấy anh chị em và thân nhân của mình yêu mến hai bà thế nào. Thế mà cơ hội đã qua đi, chỉ vì công an đưa các bà đến toà sớm quá. Buổi tối, sau khi đã được tự do, bà Dung nói rằng, hai bà đến trước, từ trên lầu cao nhìn xuống có nhìn thấy đoàn giáo dân và linh mục chúng con và bà rất xúc động và vui mừng.
Trong khi đang dàn xếp, con đứng trước UBND nhìn ngược ra phố, thấy khung cảnh thật ấn tượng: Dọc các hàng rào cảnh sát phấp phới những nhành lá tử đạo và hàng trăm biểu ngữ được giương cao mang các nội dung rất chí lý và rất hài hoà, chẳng hạn: “Phúc thay anh em khi vì danh Thầy mà bị người ta bắt bớ, xét xử”, “Chúng tôi yêu mến anh chị em”. “Hoan hô anh chị em”, “Chúng tôi đồng trách nhiệm”, “Chúng tôi xin đi tù thay anh chị em”, “Anh chị em vô tội”, “Chớ gì anh chị em được xét xử công bằng”, “Pháp luật phải được thượng tôn”, “Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”, “ Mẹ tôi vô tội”, etc. Có người dán biểu ngữ sau lưng, có người giơ lên, có người cuốn thành mũ đội trên đầu trông rất ngộ nghĩnh.
Thấy giáo dân kéo đến đông quá, chính quyền tăng cường thêm cảnh sát cơ động. Họ triển khai thêm một hàng cảnh sát dọc hè phố bên kia và dọc dải phân cách giữa đường, họ đứng trước mặt hàng giáo dân và và ngăn cản không cho giáo dân từ hai hàng ở giữa đường và bên kia đường chạy sang phía đường bên này, nơi có UBND đang dùng làm nơi xét xử. Họ còn bao vây và cô lập từng nhóm giáo dân, không cho nhóm nhập với nhóm kia. Các cảnh sát cơ động không kịp làm việc thì cả các nhân viêit nam an ninh mang thường phục cũng vào cuộc ngăn chặn giáo dân.
Lúc này ở bên trong hàng rào bằng dây thừng và cảnh sát cơ động, khu vực trước UBND, có rất đông các cán bộ an ninh quen mặt của phòng PA 38 ở đây, các cán bộ của công an Quận Đống Đa và nhiều cán bộ khác chúng con không biết tên. Tất cả đều mặc thường phục. Cũng có mấy người ngoại quốc đi lại. Về sau chúng con mới biết đấy là cán bộ các cơ quan ngoại giao của một số nước đến theo dõi phiên toà và phóng viên của một số hãng thông tấn quốc tế có văn phòng ở Hà Nội. Một số phóng viên chạy dọc chạy ngang trên mặt đường Hoàng Cầu. Một số được vào bên trong toà nhà.
Một lát sau, thấy giáo dân đến đông quá, cảnh sát phong toả nốt nửa phần đường còn lại của phố Hoàng Cầu, không cho người qua lại. Cảnh sát cũng đặt luôn hàng rào sắt ở hai đầu khiến cho các đoàn giáo dân đi muộn không còn vào được đọan phố nơi UBND toạ lạc. Thế là nội bất xuất ngoại bất nhập, tạo thành 3 khu vực tập trung lớn trên phố Hoàng Cầu. Số giáo dân ở hai đầu phố phải làm công tác hậu cần và nhắn tin: Chuyển nước, bánh, và những thứ cần thiết vào cho số người bên trong. Nhiều người ở xa về muộn chỉ còn đưoc đứng ở hai đầu phố, hoặc về nhà thờ cầu nguyện.
Khi các nạn nhân bị cáo đều đã có người thân vào tham dự phiên toà, con mới đi vào UBND dự cuộc xét xử. Tới cửa kiểm tra an ninh, các nhân viên chặn lại, vì con không có giấy mời của Toà. Con phản ứng vì vừa nãy ở ngoài phố thì ông Trưởng Công an Quận mời chúng con vào mà bây giờ đến cửa lại bị lực lượng khác ngăn chặn. Con cứ đứng đấy kêu. Ông Phó Trưởng Quận ra mời con đi tránh sang một bên cửa kiểm tra an ninh để vào một phòng ở tầng 1. Ông nói cứ vào đây các cán bộ sẽ nói chuyện. Khi con vào thì thấy hoá ra các cha vào trước cũng đang ở cả đây, chưa ai được lên tầng 4 để dự cuộc xét xử.
Tiếp chúng con là ông Trần Hồng Quân, (nếu con nhớ không nhầm), Chánh án TAND Quận Đống Đa. Cha Phượng và cha Phong nói rằng toà xét xử công khai các cha cũng đã có giấy uỷ quyền của cha Bề trên-Chính xứ Vũ Khởi Phụng, cho nên các cán bộ phải để cho các cha tham dự. Ông Chánh án nói rằng vì phòng xét xử không đủ chỗ cho nên chỉ có thể mời một linh mục đại diện tham dự. Ông nói phải tôn trọng pháp luật.
Hai cha nói rằng “chúng tôi cũng chỉ mong muốn như vậy. Chính vì tôn trọng pháp luật mà chúng tôi yêu cầu được tham dự phiên toà với tư cách là những người liên quan…” Các cha cũng nói trường hợp không cho các linh mục chúng con vào thì chúng con cũng chấp hành và khi ấy buộc chúng con phải ra đường đứng chầu với dân oan và khi ấy chẳng đẹp gì cho Toà án, cho chế độ. Trước những lời lẽ đanh thép, có cơ sở của quý cha, chúng con thấy mặt ông chánh án sạm đi và ông im lặng bỏ ra khỏi phòng.
Sau đấy cha Phong còn nói với một cán bộ, vì toà xét xử công khai cho nên nếu không đủ chỗ thì phải bắc màn hình hoặc loa phóng thanh ra ngoài cho mọi người theo dõi. Ông cán bộ này nói rằng cái đó còn phải trình báo cấp trên và bây giờ lắp đặt thì không kịp. Cha Phong nói ngài sẵn sàng về nhà thờ mang hệ thống âm thanh ra phòng xử lắp đặt giúp, nhanh chóng, kịp thời tham dự phiên toà, nhưng ông cán bộ này đánh trống lảng.
Thực ra không cho các linh mục tu sĩ và đại diện giáo dân vào tham dự phiên toà là một điều không hay cho chính các cán bộ. Chúng con không thể ra về và giáo dân thấy chúng con không được tham dự, họ cũng sẽ bức xúc hơn. Phần chúng con, không được vào toà, chúng con cũng an lòng chấp nhận ở lại trên phố cùng hát thánh ca với giáo dân, cầu nguyện cho công lý, cầu nguyện cho phiên toà được xét xử công bằng, cầu nguyện cho các anh chị em đang bị xét xử được vững tâm. Cha Phó Bề trên Giám Tỉnh Cao Đình Trị điện thoại nói với con rằng giải pháp nào cũng tốt trong đức tin.
( Hết phần 2, còn tiếp)
Tu viện Thái Hà, ngày 09 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà (phần 3)
LM. Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT
01:29 13/12/2008
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà 08/12/2008 (phần 3)
3. BUỔI SÁNG TRONG PHÒNG XÉT XỬ: ĐIỂM DANH, ĐỌC CÁO TRẠNG VÀ XÉT HỎI
Thấy cần thiết phải có ít là một cha tham dự phiên toà để an ủi các giáo dân bị xét xử và để biết cuộc xét xử diễn ra thế nào, các cha đã cử con làm đại diện vào tham dự. Cha Phong trao cho con tờ giấy uỷ quyền và thẻ tham dự của cha Bề trên-Chính xứ.
Chúa xếp đặt thế nào từ phòng họp ở tầng 1 con có thể đi lên tầng 4 ngay mà không cần qua cửa kiểm tra an ninh, vì thế điện thoại con vẫn còn trong túi mà không bị nhân viên an ninh tạm giữ, nhờ thế con có thể nhắn tin cho các cha và các giáo dân đang theo dõi bên ngoài cho biết tình hình xét xử bên trong phiên toà.
Từ tầng 1 đến tầng 4, ở các lối đi, dọc theo hai hành lang, cảnh sát đứng dầy. Trước mỗi tầng lại có một trạm xét hỏi giấy tờ. Công an chặn hỏi bất cứ ai đi vào tham dự phiên toà. Con cũng thấy công an CAND mà văn hoá kém, khá nhiều cán bộ công an khi xét hỏi con cứ kêu bằng anh ngon lành. Có đời thuở nào người Việt Nam có văn hoá lại đi gọi những người tu hành đang mang tu phục đứng trước mặt mình như thế là anh bao giờ! Có mấy lần con đã phản ứng với các cán bộ công an về cách xưng hô này và có lần con đã bỏ ngang cuộc làm việc chỉ vì cách gọi kém văn hoá và thiếu tôn trọng người tu hành này.
Tới phòng xử ở tầng 4 thì toà đã đang điểm danh các bị cáo. Con đi vào giữa hội phòng xử ngay khu vực phía sau các bị cáo, nhưng không còn chỗ, cảnh sát tư pháp và những thành phần nào đó đã ngồi hết khu vực này. Con đang loay hoay tìm chỗ thì có một cảnh sát mời con sang dãy ghế giáp tường, nhìn ra mặt phố, trông xuống lòng đường qua cửa sổ. Lát sau con đếm được khu vực này còn trống rải rác 6 ghế.
Phòng xử rộng độ 120 mét vuông. Số người tham dự khoảng 120 người. Từ dưới nhìn lên, ở giữa giữ ghế chủ toạ phiên toà là một nữ thẩm phán còn khá trẻ. Hai bên chị là hai hội thẩm nhân dân, một ông và một bà, cả hai đều khá lớn tuổi. Bên trái nhìn xuống là 2 nam công tố viên cũng còn khá trẻ. Hai thư ký Toà, một nam một nữ ngồi ở góc phải, tiếp theo ở bên dưới là hai luật sư Lê Trần Luật và Lê Như Hương. Cũng còn có khu vực trước các công tố viên là bên nguyên đơn, các nhân chứng. Ngoài ra còn có bộ phận kỹ thuật quay phim truyền hình trực tiếp xuống tầng 3 cho các đại diện ngoại giao, các nhà báo và các cán bộ theo dõi. Hai nhóm quay phim, 3 máy, đặt ở hai góc phòng, phía sau các công tố viên và các thư ký.
Số người tham dự phiên toà: Có vài cán bộ, có lẽ là cán bộ chỉ đạo cuộc xét xử, ngồi trên hàng ghế đầu phía trước chỗ con ngồi. Mấy cán bộ an ninh quen mặt đối với giới công giáo Hà Nội thì ngồi theo dõi phiên toà từ hàng ghế sau, gần cửa ra vào. Số giáo dân tham dự rất ít. Chỉ có khoảng 1 chục người là thân nhân của các bị cáo. Còn lại là những thành phần nào đấy rất đông, phần lớn là những người đứng tuổi, con đoán là thành viên của các đoàn thể xã hội và các tổ dân phố mấy phường xung quanh thuộc quận Đống Đa. Con hỏi một số người xem họ tham dự phiên toà thuộc diện nào. Họ không dám nói. Chỉ có một bà nói là đại diện Hội phụ nữ. Dường như Toà cố ý mời đông đảo những người này thay vì dành chỗ cho các linh mục và giáo dân, đồng thời cũng tìm sự tán đồng, hậu thuẫn trong khi buộc tội các bị cáo.
Lúc con vào phòng xét xử, thì đã khoảng 8 giờ 30, lúc này chủ toạ đang điểm danh các bị cáo và các nhân chứng.
Khoảng 8 h 45’ đến 9 h 15’ công tố viên đọc cáo trạng. Nội dung bản cáo trạng này thuộc vào loại điển hình cho sự phi lý và xuyên tạc sự thật.
Chẳng hạn: Ai cũng biết giáo dân xếp hàng ra Linh địa Đức Bà cầu nguyện rất trật tự. Thế mà cáo trạng bảo giáo dân gây rối loạn trật tự công cộng. Ai cũng thấy đang khi giáo dân xếp hàng đi trên ngách 49, ngõ 64 thì xe hơi vẫn chạy qua chạy lại được, thế mà cáo trạng bảo giáo dân làm ách tắc giao thông. Ai cũng biết giáo dân không bạo ngôn với ai và cũng chẳng bạo hành ai, thế mà cáo trạng bảo giao dân đe dọa, hành hung những người khác. Trong khi đó, cáo trạng chỉ đưa ra được một bằng chứng về cáo buộc này, ấy là hành vi ông Lân ném vỏ chai la vie vào người quay phim. Etc.
Dối láo trơ trẽn đến mức khôi hài là việc cáo trạng nói: “Do bức xúc, phẫn nộ trước những hành vi vi phạm pháp luật của linh mục và giáo dân Thái Hà, đặc biệt là sau khi nghe những lời phát biểu của Tổng Giám Mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt tại buổi làm việc với UBND TP Hà Nội vào ngày 20/9/2008, quần chúng nhân dân từ nhiều nơi đã đến khu vực cổng sau nhà thờ Thái Hà yêu cầu nhà thờ cử người ra đưa ảnh tượng về nhà thờ, nhưng các linh mục và giáo dân đã đóng cửa lại, không đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Chính quyền và Công an quận Đống Đa đã kịp thời ngăn cản, thuyết phục nhân dân kiềm chế, tránh những hành vi quá khích, bảo vệ giáo dân, không cho người dân đập phá”.
Những người có lương tri biết sự thật ngược lại với những điều trên đây của cáo trạng. Có tin được không khi ai cũng đã nghe ông Bí thư Thành uỷ Hà Nội nói trong trận lũ lụt vừa qua rằng: “Do đang đi kiểm tra dưới cơ sở nên tôi thấy nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chưa không đem hết sức ra tự làm”. Như thế làm sao ai tin được rằng có “quần chúng nhân dân” nào lại nhiệt tình và vô văn hoá đến nỗi tự ý đang đêm dậy đi làm việc thất đức là đến nơi thờ tự gây rối chống phá giáo dân, xúc phạm ảnh tượng thánh?! Mà sao “quần chúng nhân dân” đến từ nhiều nơi mà lại đến cùng nhau và đến đúng giờ thế?!
Một điều dối trá xuyên tạc vu cáo điển hình là việc cáo buộc bà Nhi gây rối trật tự công cộng ở Toà Khâm Sứ, trong khi ai cũng biết nguyên nhân trực tiếp của sự kiện Toà Khâm Sứ ngày 25/1/2008 là do các cán bộ đứng bên trong Toà Khâm Sứ bắt giữ người và đánh người trái phép trước mặt bàn dân thiên hạ, gây đổ máu. Khi đựơc kêu gọi thả người bị bắt ra, thì các cán bộ này không chịu thả mới dẫn đến việc giáo dân xô đổ tường rào để vào bên trong giải cứu nạn nhân. Các đức giám mục, các phóng viên quốc tế và ngay chính các nhân viên an ninh theo dõi buổi cầu nguyện ở Toà Khâm Sứ hôm đó cũng biết điều này. Thế mà cáo trạng đổ hết mọi tội lỗi cho chị thì thật là phi lý và bất công.
Một điều phi lý và bất công nữa là trong khi cáo trạng đề cập đến Đức TGM Ngô Quang Kiệt và các linh mục nhà thờ Thái Hà, cáo buộc các vị này phạm những tội tày đình, là những người “cố tình vi phạm pháp luật và kích động giáo dân vi phạm pháp luật”. Ấy thế mà tại sao các cơ quan công quyền lại không bắt giữ, truy tố và xét xử các vị này? Tại sao hàng chục giáo dân tham gia phá tường, hàng nghìn giáo dân tham gia cầu nguyện mà hôm nay lại chỉ truy tố, xét xử có 8 người? Etc.
Những cáo buộc trơ trẽn, không có cơ sở, bằng chứng cụ thể, lấp liếm sự thật chất chứa trong từng câu chữ của cáo trạng. Nghe xong người ta không hiểu nghiệp vụ của cơ quan điều tra và trình độ hiểu biết pháp luật của cơ quan tố tụng hiện đang ở trình độ nào. Nếu không phải vậy, thì chỉ có thể nói các cơ quan này đã cố tình dựng nên vụ án “huỷ hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng” để bắt giữ và truy tố 8 giáo dân trên đây nhằm phục vụ cho một mục đích mờ ám, biện minh cho những hành động sai lầm và bảo vệ quyền lợi của những ai đó.
Hết phần cáo trạng đến phần xét hỏi các bị cáo. Cảnh sát đưa các bị cáo sang phòng khác và xét hỏi riêng từng bị cáo trước Toà. Các giáo dân của chúng ta trả lời rất thẳng thắn, rất hay.
Thẩm phán hỏi: “Mục đích đến Thái Hà cầu nguyện để làm gì? Chị Nhi nói: “Chúng em đánh nhau không biết đánh nhau, chửi không biết chửi, chúng em chỉ biết cầu nguyện để đòi công bằng cho Giáo hội”. Ông Kiện nói: “Cầu nguyện để xin Thiên Chúa soi sáng cho các cấp chính quyền sáng suốt giải quyết trả lại đất cho nhà thờ. Càu nguyện để chính quyền giải quyết cho dễ chứ để mọc lên mấy cái biệt thự thì khó giải quyết!”. Anh Hùng nói: “Mục đích ra cầu nguyện là để chính quyền giải quyết trả lại đất cho nhà thờ”. Toà hỏi anh thêm: “Đất đã là đất nhà thờ sao còn phải đòi?”- Anh trả lời: “Vì người ta lấn chiếm nên phải đòi”. Các giáo dân khác cũng trả lời tương tự như vậy.
Thẩm phán hỏi: “Ai giao nhiệm vụ cho bị cáo? Do đâu mà bị cáo lại đến cầu nguyện? Có phải Giáo xứ Thái Hà kêu gọi không?” Các giáo dân đều nói không ai giao nhiệm vụ, không ai kêu gọi mà do chính mình tự nguyện tham gia. Chị Nhi còn nói: “ Do tâm linh và tâm nguyện”, “ Do ti vi đài báo đưa tin và tôi muốn đến để tìm hiểu sự thật. Người công giáo phải có trách nhiệm tìm hiểu và bảo vệ danh dự và tài sản của Giáo Hội”.
Thẩm phán hỏi: “Đập tường để làm gì và bị cáo có nhận thức hành vi bị cáo đập bức tường không phải của mình là sai không? Các giáo dân đều trả lời là “đập tường để mở lối vào cầu nguyện trong khu đất”, “đập tường không sai”. Anh Hải nói: “Mở lối đi là đúng. Cháu biết đấy là đất nhà thờ cho nên không vi phạm pháp luật”. Ông Năng nói: “Tôi không có gì đáng ân hận khi đập tường. Tôi biết bức tường ấy và tôi xây 500 nghìn đồng còn được bức tường đẹp hơn”. Bà Hợi nói: “Đập tường thì tôi có đập nhưng vi phạm pháp luật thì không”. Toà hỏi: “Nhưng đập tường của người khác xây dựng mà lại bảo không sai thì là sao?! Bà trả lời: “Nếu tôi xây bức tường trên đất của người ta mà người ta đập phá đi thì tôi cũng chẳng làm gì được!”
Thẩm phán hỏi: “Bị cáo có biết đây là đất công ty May Chiến Thắng đang quản lý và sử dụng hợp pháp không? Tại sao bị cáo lại khẳng định là đất nhà thờ? Anh Hải nói: “Nghe các cha nói”. Anh Hùng nói: “Nghe người ta nói và nhờ đọc các bảng thông tin của giáo xứ”. Bà Hợi và ông Kiện nói đại ý: Đấy là đất nhà thờ, từ bé hai người đã sống ở đó và biết đó là đất nhà thờ. Trên khu đất đó còn có các cơ sở nhà thờ xây dựng. Đất đấy đã bị chiếm dụng bất hợp pháp và bị bỏ hoang một. Nếu nhà nước lấy thì phải có giấy tờ văn bản làm chứng. Nếu nhà nước lấy không giấy tờ, thì không hợp pháp…
Sau khi thẩm phán xét hỏi thì đến lượt các công tố viên. Những người này chỉ xoay quanh một vài chi tiết các bị cáo vừa nói khác với biên bản điều tra. Giải thích điều này, anh Hải nói: “Lúc đi lên công an, tinh thần hoảng loạn nên cháu không nhận thức được!”. Anh Hùng nói: “Lúc đấy công an viết và đọc cho tôi chứ tôi không viết vậy!” Ông Kiện nói: “Lúc ấy tinh thần tôi căng thẳng cho nên tôi khai thế. Nay trước toà tôi nói đúng”.
Công tố viên cũng yêu cầu trình chiếu đọan video các giáo dân đang đập phá đoạn tường và đọan video cha Bề trên Vũ Khởi Phụng và cộng đoàn đang đi rước vừa đi vừa hát kinh hoà bình. Giữa phòng xét xử, Chúa an bài cách lạ lùng cho chúng con được lặng nghe nhìn và hiệp thông cầu nguyện, kể cũng thú vị. Nhiều người trong số “nhân dân” dự phiên toà khen phim quay rõ nét và hình ảnh đẹp, âm thanh tốt. Thân nhân của các bị cáo ngồi gần con cũng như bản thân con đều cảm thấy phấn chấn, an ủi và hào hùng khi nghe nhìn những âm thanh và hình ảnh kia. Con nghĩ các giáo dân là bị cáo của chúng ta cũng tự hào khi xem lại những cảnh này.
Người hỏi từng bị cáo sau cùng là các luật sư: Ông chỉ mỗi bị cáo một câu có cùng nội dung: “Ông/bà/anh chị đập tường và cầu nguyện ở khu đất có sai không? Có phạm pháp luật không? Tất cả các giáo dân đều nói: “Không sai!” hoặc “Không vi phạm pháp luật”.
Cũng phải xin nói thêm trong phần trình đọc cáo trạng và xét hỏi. Các giáo dân bị cáo luôn ngẩng cao đầu, ra vào phòng xét xử rất hiên ngang, thái độ rất xác tín về những hành động mình đã làm, dung nhan rất tươi tỉnh. Con thấy những người nở nụ cười nhiều hơn cả trong toà án chính là các giáo dân đang đứng ở ghế bị cáo này. Thỉnh thoảng họ lại quay sang nhìn con và mỉm cười. Khi bị áp giải đi qua chỗ con, con ra dấu chúc lành cho họ và khích lệ họ, thì có người còn nói lại với con rằng: “Cha đừng lo cho con”. Thái độ của họ khiến con vô cùng xúc động và tự hào.
Sau phần xét hỏi các bị cáo, toà mời nguyên đơn là Công ty May Chiến Thắng trình bày và toà xét hỏi. Hai bà đại diện Công ty này trình bày sự việc cho có, coi như phải có một vai diễn để có cơ sở kết án nhà thờ Thái Hà, truy tố và xét xử các giáo dân mà thôi. Hai người này nói sự việc giáo dân phá tường, đặt tượng, đốt rác, thắp hương, cầu nguyện trong “khu đất của Công ty” làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của công nhân, làm sụt giảm năng suất lao động của công ty, thiệt hại tổng cộng hơn 1 tỷ đồng. Cuối cùng bà tuyên bố không đòi các bị cáo bồi thường, nhưng đề nghị xứ lý nghiêm minh để ngăn ngừa những trường hợp khác. Luật sư hỏi: “Tại sao công ty không đề nghị bồi thường?”. Bà đại diện trả lời: “Vì người ta nhận thức pháp luật chưa tới và người ta cũng thấy khuyết điểm rồi!”. Cử toạ phải phì cười vì “lòng tốt” đột xuất của Công ty May Chiến Thắng.
Tiếp theo là phần trình bày của các nhân chứng. Một nhân chứng liên quan đến vụ Thái Hà vắng mặt. Chỉ còn một trình bày. Ông nói sáng ông dậy tập thể dục thì thấy tường đã đổ và ngày 19/8/2008 tổ dân phố làm đơn kiến nghị gửi lên các cấp chính quyền khiếu nại giáo dân làm ồn ào và đi lại mất trật tự. Một giáo dân bị cáo sau đó đã nói với toà rằng, các ông bảo chúng tôi phá tường vào lúc trưa, mà người làm chứng lại bảo sáng ông dậy đi tập thể dục thì thấy tường đổ là thế nào?
Liên quan đến vụ Toà Khâm Sứ, có hai nhân chứng là cán là cán bộ của phòng văn hoá và nhà văn hoá quận Hoàn Kiếm. Một trong hai anh đấy chúng con biết rõ mặt. Cả hai anh này đều làm chứng gian khi mô tả bà Nhi là nguyên nhân sự kiện giáo dân đẩy đổ tường rào Toà Khâm Sứ ngày 25/1/2008, trong khi nguyên nhân chủ yếu là do các cán bộ trong Toà Khâm Sứ bắt giữ và đánh đập luật sư Lê Quốc Quân và không chịu thả anh này ngay cả khi đã được yêu cầu. Trong lúc người dân tràn vào, chị Nhi còn đang ở trong sân, thì mấy cán bộ đang đứng ở sân Toà Khâm Sứ mặt cắt không còn giọt máu, chạy biến vào bên trong, còn đâu thấy được điều gì bên ngoài mà làm chứng! Con biết rõ sự kiện này vì con đứng nhìn vào sân Toà Khâm Sứ và con còn có cả phim ảnh để làm chứng cho sự làm chứng gian dối của hai cán bộ này.
Lúc này đã gần 12 h 30 bà chủ toạ tuyên bố chấm dứt phần xét hỏi và cho tạm nghỉ để ăn trưa, đến 13 h 15 phiên toà sẽ tiếp tục.
Các cán bộ toà án, công an, viện kiểm sát, hai bị cáo đang bị tạm giam và hầu hết số người tham dự cuộc xét xử được lo phần ăn trưa tại UBND. Trong khi đó thân nhân của các bị cáo, các bị cáo tại ngoại, các luật sư tự lo phần ăn của mình. May mắn có các cha và các giáo dân ở bên ngoài đã chuyển qua mấy hàng rào cảnh sát để người bên trong phòng xử có thể nhận được một ít bánh mì và nước uống.
Con tranh thủ 45 phút Toà tạm dừng để chạy về nhà dòng ăn trưa và uống thuốc. Khi đi trên đường Hoàng Cầu con thấy cha Giuse Nguyễn Văn Bình, Quản lý Toà Tổng Giám Mục, đang đi dọc phố cùng giáo dân. Con nghe nói có cha Giuse Vũ Văn Ruẫn, Chính xứ Cửa Bắc, cha Giacôbê Nguyễn Văn Lý và Giuse Phạm Minh Triệu, Chánh và Phó xứ Hàm Long cũng đến từ lúc 9 h sáng và ở giữa các giáo dân cầu nguyện trên phố rất sốt sắng. Trong khi ấy, các giáo dân nhiều người mắc việc công sở, tranh thủ buổi trưa chạy xe máy đến phố Hoàng Cầu xem tình hình thế nào, nhưng bị các cảnh sát cơ động chặn lại chỗ hàng rào sắt. Con thấy thật là đẹp tinh thần hiệp thông của các linh mục và giáo dâ Hà Nội.
Nhiều người hỏi con tình hình bên trong toà thế nào, con chỉ có thể nói vội rằng TOÀ MUỐN ÁP ĐẢO CÁC NẠN NHÂN BẰNG SỐ LƯỢNG NGƯỜI THAM DỰ THUỘC CÁNH CỦA MÌNH. ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT CÔNG BỐ MỘT CÁO TRẠNG PHI LÝ, BẤT CÔNG VÀ XUYÊN TẠC. CÒN ĐỐI VỚI GIÁO DÂN CỦA CHÚNG TA THÌ ĐÃ CÓ MỘT CUỘC LÀM CHỨNG RẤT ĐẸP CHO CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT TRƯỚC TOÀ BẰNG NHỮNG CÂU TRẢ LỜI RẤT KHẢNG KHÁI, THẲNG THẮN.
( hết phần 3, còn tiếp)
Tu viện Thái Hà, ngày 10 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
3. BUỔI SÁNG TRONG PHÒNG XÉT XỬ: ĐIỂM DANH, ĐỌC CÁO TRẠNG VÀ XÉT HỎI
Thấy cần thiết phải có ít là một cha tham dự phiên toà để an ủi các giáo dân bị xét xử và để biết cuộc xét xử diễn ra thế nào, các cha đã cử con làm đại diện vào tham dự. Cha Phong trao cho con tờ giấy uỷ quyền và thẻ tham dự của cha Bề trên-Chính xứ.
Chúa xếp đặt thế nào từ phòng họp ở tầng 1 con có thể đi lên tầng 4 ngay mà không cần qua cửa kiểm tra an ninh, vì thế điện thoại con vẫn còn trong túi mà không bị nhân viên an ninh tạm giữ, nhờ thế con có thể nhắn tin cho các cha và các giáo dân đang theo dõi bên ngoài cho biết tình hình xét xử bên trong phiên toà.
Từ tầng 1 đến tầng 4, ở các lối đi, dọc theo hai hành lang, cảnh sát đứng dầy. Trước mỗi tầng lại có một trạm xét hỏi giấy tờ. Công an chặn hỏi bất cứ ai đi vào tham dự phiên toà. Con cũng thấy công an CAND mà văn hoá kém, khá nhiều cán bộ công an khi xét hỏi con cứ kêu bằng anh ngon lành. Có đời thuở nào người Việt Nam có văn hoá lại đi gọi những người tu hành đang mang tu phục đứng trước mặt mình như thế là anh bao giờ! Có mấy lần con đã phản ứng với các cán bộ công an về cách xưng hô này và có lần con đã bỏ ngang cuộc làm việc chỉ vì cách gọi kém văn hoá và thiếu tôn trọng người tu hành này.
Tới phòng xử ở tầng 4 thì toà đã đang điểm danh các bị cáo. Con đi vào giữa hội phòng xử ngay khu vực phía sau các bị cáo, nhưng không còn chỗ, cảnh sát tư pháp và những thành phần nào đó đã ngồi hết khu vực này. Con đang loay hoay tìm chỗ thì có một cảnh sát mời con sang dãy ghế giáp tường, nhìn ra mặt phố, trông xuống lòng đường qua cửa sổ. Lát sau con đếm được khu vực này còn trống rải rác 6 ghế.
Phòng xử rộng độ 120 mét vuông. Số người tham dự khoảng 120 người. Từ dưới nhìn lên, ở giữa giữ ghế chủ toạ phiên toà là một nữ thẩm phán còn khá trẻ. Hai bên chị là hai hội thẩm nhân dân, một ông và một bà, cả hai đều khá lớn tuổi. Bên trái nhìn xuống là 2 nam công tố viên cũng còn khá trẻ. Hai thư ký Toà, một nam một nữ ngồi ở góc phải, tiếp theo ở bên dưới là hai luật sư Lê Trần Luật và Lê Như Hương. Cũng còn có khu vực trước các công tố viên là bên nguyên đơn, các nhân chứng. Ngoài ra còn có bộ phận kỹ thuật quay phim truyền hình trực tiếp xuống tầng 3 cho các đại diện ngoại giao, các nhà báo và các cán bộ theo dõi. Hai nhóm quay phim, 3 máy, đặt ở hai góc phòng, phía sau các công tố viên và các thư ký.
Số người tham dự phiên toà: Có vài cán bộ, có lẽ là cán bộ chỉ đạo cuộc xét xử, ngồi trên hàng ghế đầu phía trước chỗ con ngồi. Mấy cán bộ an ninh quen mặt đối với giới công giáo Hà Nội thì ngồi theo dõi phiên toà từ hàng ghế sau, gần cửa ra vào. Số giáo dân tham dự rất ít. Chỉ có khoảng 1 chục người là thân nhân của các bị cáo. Còn lại là những thành phần nào đấy rất đông, phần lớn là những người đứng tuổi, con đoán là thành viên của các đoàn thể xã hội và các tổ dân phố mấy phường xung quanh thuộc quận Đống Đa. Con hỏi một số người xem họ tham dự phiên toà thuộc diện nào. Họ không dám nói. Chỉ có một bà nói là đại diện Hội phụ nữ. Dường như Toà cố ý mời đông đảo những người này thay vì dành chỗ cho các linh mục và giáo dân, đồng thời cũng tìm sự tán đồng, hậu thuẫn trong khi buộc tội các bị cáo.
Lúc con vào phòng xét xử, thì đã khoảng 8 giờ 30, lúc này chủ toạ đang điểm danh các bị cáo và các nhân chứng.
Khoảng 8 h 45’ đến 9 h 15’ công tố viên đọc cáo trạng. Nội dung bản cáo trạng này thuộc vào loại điển hình cho sự phi lý và xuyên tạc sự thật.
Chẳng hạn: Ai cũng biết giáo dân xếp hàng ra Linh địa Đức Bà cầu nguyện rất trật tự. Thế mà cáo trạng bảo giáo dân gây rối loạn trật tự công cộng. Ai cũng thấy đang khi giáo dân xếp hàng đi trên ngách 49, ngõ 64 thì xe hơi vẫn chạy qua chạy lại được, thế mà cáo trạng bảo giáo dân làm ách tắc giao thông. Ai cũng biết giáo dân không bạo ngôn với ai và cũng chẳng bạo hành ai, thế mà cáo trạng bảo giao dân đe dọa, hành hung những người khác. Trong khi đó, cáo trạng chỉ đưa ra được một bằng chứng về cáo buộc này, ấy là hành vi ông Lân ném vỏ chai la vie vào người quay phim. Etc.
Dối láo trơ trẽn đến mức khôi hài là việc cáo trạng nói: “Do bức xúc, phẫn nộ trước những hành vi vi phạm pháp luật của linh mục và giáo dân Thái Hà, đặc biệt là sau khi nghe những lời phát biểu của Tổng Giám Mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt tại buổi làm việc với UBND TP Hà Nội vào ngày 20/9/2008, quần chúng nhân dân từ nhiều nơi đã đến khu vực cổng sau nhà thờ Thái Hà yêu cầu nhà thờ cử người ra đưa ảnh tượng về nhà thờ, nhưng các linh mục và giáo dân đã đóng cửa lại, không đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Chính quyền và Công an quận Đống Đa đã kịp thời ngăn cản, thuyết phục nhân dân kiềm chế, tránh những hành vi quá khích, bảo vệ giáo dân, không cho người dân đập phá”.
Những người có lương tri biết sự thật ngược lại với những điều trên đây của cáo trạng. Có tin được không khi ai cũng đã nghe ông Bí thư Thành uỷ Hà Nội nói trong trận lũ lụt vừa qua rằng: “Do đang đi kiểm tra dưới cơ sở nên tôi thấy nhân dân ta bây giờ so với ngày xưa ỷ lại nhà nước lắm. Cứ chờ trên về, chờ cung cấp cái này, hỗ trợ cái kia chưa không đem hết sức ra tự làm”. Như thế làm sao ai tin được rằng có “quần chúng nhân dân” nào lại nhiệt tình và vô văn hoá đến nỗi tự ý đang đêm dậy đi làm việc thất đức là đến nơi thờ tự gây rối chống phá giáo dân, xúc phạm ảnh tượng thánh?! Mà sao “quần chúng nhân dân” đến từ nhiều nơi mà lại đến cùng nhau và đến đúng giờ thế?!
Một điều dối trá xuyên tạc vu cáo điển hình là việc cáo buộc bà Nhi gây rối trật tự công cộng ở Toà Khâm Sứ, trong khi ai cũng biết nguyên nhân trực tiếp của sự kiện Toà Khâm Sứ ngày 25/1/2008 là do các cán bộ đứng bên trong Toà Khâm Sứ bắt giữ người và đánh người trái phép trước mặt bàn dân thiên hạ, gây đổ máu. Khi đựơc kêu gọi thả người bị bắt ra, thì các cán bộ này không chịu thả mới dẫn đến việc giáo dân xô đổ tường rào để vào bên trong giải cứu nạn nhân. Các đức giám mục, các phóng viên quốc tế và ngay chính các nhân viên an ninh theo dõi buổi cầu nguyện ở Toà Khâm Sứ hôm đó cũng biết điều này. Thế mà cáo trạng đổ hết mọi tội lỗi cho chị thì thật là phi lý và bất công.
Một điều phi lý và bất công nữa là trong khi cáo trạng đề cập đến Đức TGM Ngô Quang Kiệt và các linh mục nhà thờ Thái Hà, cáo buộc các vị này phạm những tội tày đình, là những người “cố tình vi phạm pháp luật và kích động giáo dân vi phạm pháp luật”. Ấy thế mà tại sao các cơ quan công quyền lại không bắt giữ, truy tố và xét xử các vị này? Tại sao hàng chục giáo dân tham gia phá tường, hàng nghìn giáo dân tham gia cầu nguyện mà hôm nay lại chỉ truy tố, xét xử có 8 người? Etc.
Những cáo buộc trơ trẽn, không có cơ sở, bằng chứng cụ thể, lấp liếm sự thật chất chứa trong từng câu chữ của cáo trạng. Nghe xong người ta không hiểu nghiệp vụ của cơ quan điều tra và trình độ hiểu biết pháp luật của cơ quan tố tụng hiện đang ở trình độ nào. Nếu không phải vậy, thì chỉ có thể nói các cơ quan này đã cố tình dựng nên vụ án “huỷ hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng” để bắt giữ và truy tố 8 giáo dân trên đây nhằm phục vụ cho một mục đích mờ ám, biện minh cho những hành động sai lầm và bảo vệ quyền lợi của những ai đó.
Hết phần cáo trạng đến phần xét hỏi các bị cáo. Cảnh sát đưa các bị cáo sang phòng khác và xét hỏi riêng từng bị cáo trước Toà. Các giáo dân của chúng ta trả lời rất thẳng thắn, rất hay.
Thẩm phán hỏi: “Mục đích đến Thái Hà cầu nguyện để làm gì? Chị Nhi nói: “Chúng em đánh nhau không biết đánh nhau, chửi không biết chửi, chúng em chỉ biết cầu nguyện để đòi công bằng cho Giáo hội”. Ông Kiện nói: “Cầu nguyện để xin Thiên Chúa soi sáng cho các cấp chính quyền sáng suốt giải quyết trả lại đất cho nhà thờ. Càu nguyện để chính quyền giải quyết cho dễ chứ để mọc lên mấy cái biệt thự thì khó giải quyết!”. Anh Hùng nói: “Mục đích ra cầu nguyện là để chính quyền giải quyết trả lại đất cho nhà thờ”. Toà hỏi anh thêm: “Đất đã là đất nhà thờ sao còn phải đòi?”- Anh trả lời: “Vì người ta lấn chiếm nên phải đòi”. Các giáo dân khác cũng trả lời tương tự như vậy.
Thẩm phán hỏi: “Ai giao nhiệm vụ cho bị cáo? Do đâu mà bị cáo lại đến cầu nguyện? Có phải Giáo xứ Thái Hà kêu gọi không?” Các giáo dân đều nói không ai giao nhiệm vụ, không ai kêu gọi mà do chính mình tự nguyện tham gia. Chị Nhi còn nói: “ Do tâm linh và tâm nguyện”, “ Do ti vi đài báo đưa tin và tôi muốn đến để tìm hiểu sự thật. Người công giáo phải có trách nhiệm tìm hiểu và bảo vệ danh dự và tài sản của Giáo Hội”.
Thẩm phán hỏi: “Đập tường để làm gì và bị cáo có nhận thức hành vi bị cáo đập bức tường không phải của mình là sai không? Các giáo dân đều trả lời là “đập tường để mở lối vào cầu nguyện trong khu đất”, “đập tường không sai”. Anh Hải nói: “Mở lối đi là đúng. Cháu biết đấy là đất nhà thờ cho nên không vi phạm pháp luật”. Ông Năng nói: “Tôi không có gì đáng ân hận khi đập tường. Tôi biết bức tường ấy và tôi xây 500 nghìn đồng còn được bức tường đẹp hơn”. Bà Hợi nói: “Đập tường thì tôi có đập nhưng vi phạm pháp luật thì không”. Toà hỏi: “Nhưng đập tường của người khác xây dựng mà lại bảo không sai thì là sao?! Bà trả lời: “Nếu tôi xây bức tường trên đất của người ta mà người ta đập phá đi thì tôi cũng chẳng làm gì được!”
Thẩm phán hỏi: “Bị cáo có biết đây là đất công ty May Chiến Thắng đang quản lý và sử dụng hợp pháp không? Tại sao bị cáo lại khẳng định là đất nhà thờ? Anh Hải nói: “Nghe các cha nói”. Anh Hùng nói: “Nghe người ta nói và nhờ đọc các bảng thông tin của giáo xứ”. Bà Hợi và ông Kiện nói đại ý: Đấy là đất nhà thờ, từ bé hai người đã sống ở đó và biết đó là đất nhà thờ. Trên khu đất đó còn có các cơ sở nhà thờ xây dựng. Đất đấy đã bị chiếm dụng bất hợp pháp và bị bỏ hoang một. Nếu nhà nước lấy thì phải có giấy tờ văn bản làm chứng. Nếu nhà nước lấy không giấy tờ, thì không hợp pháp…
Sau khi thẩm phán xét hỏi thì đến lượt các công tố viên. Những người này chỉ xoay quanh một vài chi tiết các bị cáo vừa nói khác với biên bản điều tra. Giải thích điều này, anh Hải nói: “Lúc đi lên công an, tinh thần hoảng loạn nên cháu không nhận thức được!”. Anh Hùng nói: “Lúc đấy công an viết và đọc cho tôi chứ tôi không viết vậy!” Ông Kiện nói: “Lúc ấy tinh thần tôi căng thẳng cho nên tôi khai thế. Nay trước toà tôi nói đúng”.
Công tố viên cũng yêu cầu trình chiếu đọan video các giáo dân đang đập phá đoạn tường và đọan video cha Bề trên Vũ Khởi Phụng và cộng đoàn đang đi rước vừa đi vừa hát kinh hoà bình. Giữa phòng xét xử, Chúa an bài cách lạ lùng cho chúng con được lặng nghe nhìn và hiệp thông cầu nguyện, kể cũng thú vị. Nhiều người trong số “nhân dân” dự phiên toà khen phim quay rõ nét và hình ảnh đẹp, âm thanh tốt. Thân nhân của các bị cáo ngồi gần con cũng như bản thân con đều cảm thấy phấn chấn, an ủi và hào hùng khi nghe nhìn những âm thanh và hình ảnh kia. Con nghĩ các giáo dân là bị cáo của chúng ta cũng tự hào khi xem lại những cảnh này.
Người hỏi từng bị cáo sau cùng là các luật sư: Ông chỉ mỗi bị cáo một câu có cùng nội dung: “Ông/bà/anh chị đập tường và cầu nguyện ở khu đất có sai không? Có phạm pháp luật không? Tất cả các giáo dân đều nói: “Không sai!” hoặc “Không vi phạm pháp luật”.
Cũng phải xin nói thêm trong phần trình đọc cáo trạng và xét hỏi. Các giáo dân bị cáo luôn ngẩng cao đầu, ra vào phòng xét xử rất hiên ngang, thái độ rất xác tín về những hành động mình đã làm, dung nhan rất tươi tỉnh. Con thấy những người nở nụ cười nhiều hơn cả trong toà án chính là các giáo dân đang đứng ở ghế bị cáo này. Thỉnh thoảng họ lại quay sang nhìn con và mỉm cười. Khi bị áp giải đi qua chỗ con, con ra dấu chúc lành cho họ và khích lệ họ, thì có người còn nói lại với con rằng: “Cha đừng lo cho con”. Thái độ của họ khiến con vô cùng xúc động và tự hào.
Sau phần xét hỏi các bị cáo, toà mời nguyên đơn là Công ty May Chiến Thắng trình bày và toà xét hỏi. Hai bà đại diện Công ty này trình bày sự việc cho có, coi như phải có một vai diễn để có cơ sở kết án nhà thờ Thái Hà, truy tố và xét xử các giáo dân mà thôi. Hai người này nói sự việc giáo dân phá tường, đặt tượng, đốt rác, thắp hương, cầu nguyện trong “khu đất của Công ty” làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của công nhân, làm sụt giảm năng suất lao động của công ty, thiệt hại tổng cộng hơn 1 tỷ đồng. Cuối cùng bà tuyên bố không đòi các bị cáo bồi thường, nhưng đề nghị xứ lý nghiêm minh để ngăn ngừa những trường hợp khác. Luật sư hỏi: “Tại sao công ty không đề nghị bồi thường?”. Bà đại diện trả lời: “Vì người ta nhận thức pháp luật chưa tới và người ta cũng thấy khuyết điểm rồi!”. Cử toạ phải phì cười vì “lòng tốt” đột xuất của Công ty May Chiến Thắng.
Tiếp theo là phần trình bày của các nhân chứng. Một nhân chứng liên quan đến vụ Thái Hà vắng mặt. Chỉ còn một trình bày. Ông nói sáng ông dậy tập thể dục thì thấy tường đã đổ và ngày 19/8/2008 tổ dân phố làm đơn kiến nghị gửi lên các cấp chính quyền khiếu nại giáo dân làm ồn ào và đi lại mất trật tự. Một giáo dân bị cáo sau đó đã nói với toà rằng, các ông bảo chúng tôi phá tường vào lúc trưa, mà người làm chứng lại bảo sáng ông dậy đi tập thể dục thì thấy tường đổ là thế nào?
Liên quan đến vụ Toà Khâm Sứ, có hai nhân chứng là cán là cán bộ của phòng văn hoá và nhà văn hoá quận Hoàn Kiếm. Một trong hai anh đấy chúng con biết rõ mặt. Cả hai anh này đều làm chứng gian khi mô tả bà Nhi là nguyên nhân sự kiện giáo dân đẩy đổ tường rào Toà Khâm Sứ ngày 25/1/2008, trong khi nguyên nhân chủ yếu là do các cán bộ trong Toà Khâm Sứ bắt giữ và đánh đập luật sư Lê Quốc Quân và không chịu thả anh này ngay cả khi đã được yêu cầu. Trong lúc người dân tràn vào, chị Nhi còn đang ở trong sân, thì mấy cán bộ đang đứng ở sân Toà Khâm Sứ mặt cắt không còn giọt máu, chạy biến vào bên trong, còn đâu thấy được điều gì bên ngoài mà làm chứng! Con biết rõ sự kiện này vì con đứng nhìn vào sân Toà Khâm Sứ và con còn có cả phim ảnh để làm chứng cho sự làm chứng gian dối của hai cán bộ này.
Lúc này đã gần 12 h 30 bà chủ toạ tuyên bố chấm dứt phần xét hỏi và cho tạm nghỉ để ăn trưa, đến 13 h 15 phiên toà sẽ tiếp tục.
Các cán bộ toà án, công an, viện kiểm sát, hai bị cáo đang bị tạm giam và hầu hết số người tham dự cuộc xét xử được lo phần ăn trưa tại UBND. Trong khi đó thân nhân của các bị cáo, các bị cáo tại ngoại, các luật sư tự lo phần ăn của mình. May mắn có các cha và các giáo dân ở bên ngoài đã chuyển qua mấy hàng rào cảnh sát để người bên trong phòng xử có thể nhận được một ít bánh mì và nước uống.
Con tranh thủ 45 phút Toà tạm dừng để chạy về nhà dòng ăn trưa và uống thuốc. Khi đi trên đường Hoàng Cầu con thấy cha Giuse Nguyễn Văn Bình, Quản lý Toà Tổng Giám Mục, đang đi dọc phố cùng giáo dân. Con nghe nói có cha Giuse Vũ Văn Ruẫn, Chính xứ Cửa Bắc, cha Giacôbê Nguyễn Văn Lý và Giuse Phạm Minh Triệu, Chánh và Phó xứ Hàm Long cũng đến từ lúc 9 h sáng và ở giữa các giáo dân cầu nguyện trên phố rất sốt sắng. Trong khi ấy, các giáo dân nhiều người mắc việc công sở, tranh thủ buổi trưa chạy xe máy đến phố Hoàng Cầu xem tình hình thế nào, nhưng bị các cảnh sát cơ động chặn lại chỗ hàng rào sắt. Con thấy thật là đẹp tinh thần hiệp thông của các linh mục và giáo dâ Hà Nội.
Nhiều người hỏi con tình hình bên trong toà thế nào, con chỉ có thể nói vội rằng TOÀ MUỐN ÁP ĐẢO CÁC NẠN NHÂN BẰNG SỐ LƯỢNG NGƯỜI THAM DỰ THUỘC CÁNH CỦA MÌNH. ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT CÔNG BỐ MỘT CÁO TRẠNG PHI LÝ, BẤT CÔNG VÀ XUYÊN TẠC. CÒN ĐỐI VỚI GIÁO DÂN CỦA CHÚNG TA THÌ ĐÃ CÓ MỘT CUỘC LÀM CHỨNG RẤT ĐẸP CHO CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT TRƯỚC TOÀ BẰNG NHỮNG CÂU TRẢ LỜI RẤT KHẢNG KHÁI, THẲNG THẮN.
( hết phần 3, còn tiếp)
Tu viện Thái Hà, ngày 10 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà (phần 4)
LM. Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT
03:42 13/12/2008
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà 08/12/2008 (4)
4. BUỔI CHIỀU TRONG PHÒNG XÉT XỬ: LUẬN TỘI VÀ TUYÊN ÁN
Khoảng 13 h 20 phiên toà tiếp tục: Phần luận tội, công tố viên đại diện viện Kiểm sát khẳng định bằng chứng kết tội các bị cáo tại phiên toà là đầy đủ, trong khi ngoài bút lục, các lời khai trước toà, thì chỉ có hai lá đơn của hai tổ dân phổ và hai đoạn video, một chiếu cảnh đập tường, một chiếu cảnh đi rước ra linh địa cầu nguyện. Cũng xin nói thêm là cả hai đoạn video này chưa được giám định.
Cũng chẳng hiểu sao trong bản luận tội công tố viên lại trình bày một phần rất dài về đến vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng Sản và Chính phủ Việt Nam. Chẳng biết để làm gì và như thế có đủ “giác ngộ” cho các phóng viên chuyên nghiệp của một số hãng thông tấn ở tầng dưới nhận thức được “chính sách tốt đẹp” về tôn giáo” của Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam chăng?
Sau đó, bản luận tội đề cập đến Đức TGM Hà Nội và các linh mục nhà thờ Thái Hà, tưởng tượng và quy kết cho những vị này những “tội” tày trời và còn đe doạ sẽ xử lý các vị này ở hình thức cao hơn nếu tiếp tục “vi phạm”.
Nghe đến đấy con thắc mắc tại sao Đức TGM và các linh mục nhà thờ Thái Hà “vi phạm pháp luật” mà toà lại không đưa ra xét xử? Xử lý vụ việc như thế các cơ quan công quyền có vi phạm pháp luật không? Sau cùng công tố viên nói một câu rằng: “Vì các vị này đã bị Chủ tịch UBND TP cảnh cáo cho nên không đề cập xét xử trong vụ án này”. Nhưng nếu vậy thì ông Chủ tịch cũng vẫn vi phạm pháp luật: Tại sao không có một biên bản “vi phạm” nào được lập, không có một quyết định “xử phạt hành chính” nào được đưa ra làm cơ sở, toà án cũng chưa xét xử mà ông Chủ tịch UBND TP lại đã ngang nhiên và mau chóng làm công văn kết tội và cảnh cáo Đức TGM và một số giáo sĩ nhà thờ Thái Hà?
Công tố viên quy kết cho các linh mục, giáo dân Thái Hà nhiều thứ tội: Huỷ hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng, làm cản trở giao thông, vi phạm trật tự xây dựng, đe doạ hành hung các bảo vệ của công ty May Chiến Thắng và những người có ý kiến phản đối. Tuy nhiên, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị hình phạt khá nhẹ so với tội trạng đã nêu ra: Viện Kiểm sát đề nghị 4 người bị án tù treo, 3 người bị cải tạo không giam giữ và 1 người bị cảnh cáo.
Toà hỏi các bị cáo có ý kiến gì về bản án rất nhẹ đó không? Bà Nhi và ông Năng đặt vấn đề tại sao chính quyền không giải quyết thoả đáng vấn đề đất đai cho Giáo Hội. Anh Hùng nói: “Bản án quá nặng. Yêu cầu toà xử sao cho công bằng hợp lý”. Bà Hợi nói: “Bản án như thế là quá nặng. Xin toà tôn trọng công lý và sự thật”. Ông Kiện nói: “Bản luận tội ấy là oan cho tôi quá”. Bà Dung nói: “Phản đối cáo trạng sai trái”.
Tiếp theo đến phần bào chữa cho các bị cáo. Luật sư Lê Như Hương bào chữa cho bà Ngô Thị Dung. Luật sư chỉ nói vài lời, nói nhỏ, trong khi bộ phận kỹ thuật không bật tăng âm cho nên con không nhớ bà nói gì. Có điều con biết hai luật sư đã thống nhất với nhau luật sư Lê Trần Luật sẽ thực hiện phần bào chữa chính.
Luật sư Lê Trần Luật bào chữa cho bà Nguyễn Thị Việt, nhưng thực chất cũng là bào chữa cho các bị cáo còn lại trong vụ Thái Hà. Vì cả 8 bị cáo có hành bi tương đối giống nhau. Luật sư mở đầu bằng phần trình bày về nguồn gốc đất và quá trình khiếu kiện của Giáo xứ Thái Hà cũng như mục đích cầu nguyện của giáo dân. Đây là vấn đề căn bản, liên quan trực tiếp đến vấn đề vụ án hình sự đang xét xử. Tuy nhiên, khi vừa bắt đầu thì HĐXX không cho trình bày. HĐXX cho rằng nếu có tranh chấp về vấn đề đất đai thì phải có đơn từ và giải quyết trong một vụ án dân sự khác với vụ án đang xét xử.
Phần tiếp theo luật sư bác bỏ một cách thuyết phục các buộc của Viện Kiểm sát đối với bà Nguyễn Thị Việt. Khẳng định việc buộc tội “huỷ hoại tài sản” đối với bà Việt bị là hết sức vô duyên, vô lý. Khẳng định bà Việt không phạm tội “gây rối trật tự công cộng”. Các hành vi của bà chẳng có mối liên hệ nhân quả gì với “các hậu quả nghiêm trọng” mà cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát bày đặt ra. Ông cũng nêu lên những vấn đề nhức nhối, bất hợp lý liên quan đến vụ án là: Những kẻ phạm tội thật không bị truy tố; vụ án không có vật chứng, đưa trường hợp Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt vào trong cáo trạng, vật chứng không có và không được giám định.
Mặc dù có 3 lần HĐXX buộc dừng lại, nhưng luật sư vẫn bình tĩnh và lịch sự trình bày hết phần bào chữa. Luật sư trình bày rất hùng hồn, những lý lẽ và bằng chứng đưa ra rất chặt chẽ và thuyết phục, những vấn đề được đề cập hết sức thẳng thắng. Con ngồi nghe có cảm tưởng bài bào chữa của ông không đơn thuần là bảo vệ một nạn nhân, bảo vệ công lý mà còn là một cáo trạng đanh thép đối với những hành động đen tối, sai trái có hệ thống của chế độ.
Ông trình bày xong, HĐXX phiên toà lặng im như thóc giống. Có người không phải thân nhân của các bị cáo vỗ tay tán thưởng. Có người khác tức giận lại nói: “không nghe đâu!” Con đoán ông phát ngôn lời kia thuộc nhóm người được mời đến dự phiên toà để hậu thuẫn cho việc cáo buộc các nạn nhân.
HĐXX không chất vấn gì mà đi hỏi bà Việt có ý kiến gì không. Bà nói: “Ngoài việc tôi tham gia đập phá bức tường chẳng có bàng chứng gì cho thấy tôi đánh cái nhau, xúc giục kích động người khác. Tôi không nhận sự buộc tội tôi gây rối trật tự công cộng. Nếu không có những người như chúng tôi thì làm sao người dân chung quanh có vườn hoa để mà ra Vậy mà hôm nay lại ngồi cười khẩy. Tội danh buộc tôi hôm nay là quá nặng”.
Bà Việt nói với HĐXX mà cũng là nói với những những người thuộc các đoàn thể khác nhau, trong đó có nhiều người thuộc các tổ dân phố xung quanh Linh địa Đức Bà. Cả phòng xử lặng im. Nhiều người còn chút lương tri cúi gằm mặt xuống. Không khí thật nặng nề. Vì những người hiện diện ở đấy biết chuyện Thái Hà và biết lời bà nói là sự thật.
Con cũng xin nói thêm hầu hết những người tham dự phiên toà thuộc các đoàn thể xã hội khác nhau ở các phường trong quận được mời đến tham dự phiên toà hôm nay- tất cả đều tỏ ra mệt mỏi, miễn cưỡng và đôi khi chính họ như là các tội nhân trước các bị cáo.
Luật sư sẵn sàng tranh luận với HĐXX về các luận điểm mình đưa ra. Đại diện Viện Kiểm sát cứ khăng khăng khẳng định đất 178 Nguyễn Lương Bằng là của công ty May Chiến Thắng đang quản lý và sử dụng một cách hợp pháp và các hành vi của các bị cáo cùng những người khác gây nên hậu quả nghiêm trọng đối với công ty, đối với người dân trong khu vực và đối với đường lối, chính sách ngoại giao của nhà nước, etc.
Luật sư Lê Trần Luật hỏi lại đại diện Viện Kiểm sát nhiều câu hỏi. Chẳng hạn luật sư đặt vấn đề: “Phần phát biểu của Đức TGM có liên quan đến vụ án này không, nếu không thì phải cắt bỏ”, hoặc: “Căn cứ vào bằng chứng cụ thể nào mà đại diện Viện Kiểm sát lại kết tội các bị cáo phạm tội huỷ hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng”. Các công tố viên hiểu thế nào là tài sản?”. “Các bị cáo gây hậu quả nghiêm trọng cụ thể như thế nào?”
Các đại diện Viện Kiểm sát đã lúng túng, hoặc im lặng, hoặc trả lời lấy được, trả lời cho có, hoặc đánh trống lảng bằng cách yêu cầu chiếu lại hai đọan phim đập tường và cầu nguyện ở Linh địa Đức Bà. Có khi thẩm phán cũng tham gia giải quyết vấn đề luật sư nêu lên, nhưng càng gỡ càng rối, càng giải thích càng mơ hồ, thiếu thuyết phục khiến người ta khó chấp nhận và cử toạ xì xào. Những lúc như vậy, con lại thấy anh cán bộ, có lẽ là cán bộ chỉ đạo phiên toà, ngồi ở phía trước con, chạy ra cửa, cuối phòng xử nhìn lên, đứng giữa các công an, đưa tay ra hiệu chấm dứt và cho qua mục khác.
Rồi chủ toạ tuyên bố cho bên nguyên đơn và các bị cáo cần nói gì thêm trước khi nghị án. Bên nguyên đơn là Công ty May Chiến Thắng không nói gì. Nói hay không nói thì họ cũng chẳng được thêm hay mất thêm cái gì. Họ chỉ miễn cưỡng đóng vai diễn của họ ở mức vừa đủ theo yêu cầu.
Các bị cáo là giáo dân có anh Hải không ý kiến gì thêm. Còn lại đều phản đối bản luận tội của Viện Kiểm sát. Phản đối việc kết tội các bị can phạm tội “huỷ hoại tài sản” và “gây rối trật tự công cộng”. Riêng ông Kiện còn khẳng định việc các giáo dân làm còn là chống tham nhũng và ông yêu cầu nhà nước thực hiện tự do tôn giáo, tự do báo chí, chống vu khống. Bà Nhi còn khiếu nại sao khép tội bà trong vụ 42 Nhà Chung mà không đề cập gì đến vấn đề đất đai ở đây? Tức thì chủ toạ lại buộc bà dừng lại trình bày sang ý kiến khác. Nói chung cứ đề cập đến vấn đề đất đai, quyền quản lý đất đai của 42 Nhà Chung hay của 178 Nguyễn Lương Bằng, là bị chủ toạ gạt phắt đi.
Lúc khoảng 15 h, chủ toạ tuyên bố toà tạm dừng để HĐXX nghị án. Lúc này con nhìn qua cửa sổ thì thấy lực lượng cảnh sát cơ động được tăng cường. Ngay phần sân trước cửa UBND có thêm một hàng cảnh sát nữa. Mặc dù vậy giáo dân vẫn không ngừng tìm cách áp sát hàng rào và hô vang những khẩu hiệu, những lời ca đòi công lý. Chứng kiến các cảnh sát lúng túng trước lời kinh tiếng hát của các linh mục và giáo dân, con thấy quả thật bạo lực không đủ dập tắt khát vọng tìm công bằng và chân lý. Quả thật niềm tin mới là mạnh nhất chứ không phải khẩu súng.
Khi thấy một xe chở tù nhân chạy vào khu vực UBND các cha và các giáo dân đoán rằng có lẽ toà xử có ai bị tù, cho nên giáo dân tập trung ở bên dưới cầu nguyện lại càng tha thiết hơn, hô khẩu hiệu càng mạnh mẽ hơn, mặc dù từ sáng đến giờ các cha và giáo dân ở lòng đã hát đã nhiều. Con thấy hết hát Kinh hoà bình, Đây bài ca ngàn trùng, Magnificat và các bài thánh ca khác lại hô vang hai chữ “Vô tội! Vô tội! Vô tội”.
Tiếng hát lời kinh vang dội vào trong phòng xử từng đợt, đôi khi khiến nhiều lúc người trong phòng xét xử hướng hết về các cửa sổ phía mặt đường như một phản ứng tự nhiên. Các cảnh sát tư pháp cố đóng mà cửa kính vẫn hở do có các đường cáp truyền hình dẫn từ tầng 4 xuống tầng 3. Ở trong phòng xử khi nghe thấy cộng đoàn hát các anh chị em bị cáo, các thân nhân và bản thân con thấy rất xúc động, rất được an ủi và nâng đỡ và chúng con lại càng xác tín về việc làm chứng cho công lý của mình.
Con tin rằng vì lời kinh, tiếng hát, tiếng hô kia cùng với thái độ hiên ngang, khẳng khái của các anh chị em đang bị xét xử- đã khiến các cán bộ HĐXX đôi khi mất bình tĩnh. Chính con thấy các cán bộ Viện Kiểm sát thường xuyên đọc hay nói bằng cung giọng run run, đôi khi lạc giọng. Vị nữ thẩm phán chủ toạ, khá lạnh lùng, sắc sảo mà đôi lúc giọng cũng run như các công tố viên. Trong khi đó các giáo dân lúc nào cũng đầu cao, mắt sáng, dõng dạc, hiên ngang. Dù là các bị cáo, nhưng quả thực họ mới là những người giữ vị trí của người xử án thật hôm nay.
Trong khi toà đang họp nghị án trong lúc giải lao con đã nhắn tin xuống bên dưới xin các cha và giáo dân chuẩn bị hoa chúc mừng các “tội nhân” và các luật sư. Con cũng cho biết là Theo mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị thì không ai bị tù giam. Lúc này không khí ở trước UBND phường càng ngày càng phấn khích. Giáo dân không ngớt reo hò, cổ vũ, vỗ tay. Họ chẳng còn biết đến hàng trăm cảnh sát chìm nổi đang vây quanh.
Khoảng 15 h 30, bà nữ thẩm phán chủ toạ phiên toà tuyên án. Dù đang nôn nao chờ đợi công bố hình phạt các bị cáo, song con vẫn thấy ngỡ ngàng khi nghe bà chủ toạ kết án các bị cáo phạm tội “huỷ hoại tài sản” và ‘gây rối trật tự công cộng”. Ngỡ ngàng khi nghe kết án nhà thờ Thái Hà vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, xây dựng, tôn giáo. Ngỡ ngàng khi nghe kết án các linh mục nhà thờ Thái Hà kích động giáo dân tham gia cầu nguyện. Ngỡ ngàng khi nghe kết tội các linh mục và giáo dân ở các tỉnh thành khác về Thái Hà hiệp thông tham gia cầu nguyện. Ngỡ ngàng khi kết án giáo dân Thái Hà đe doạ, hành hung những người có ý kiến yêu cầu chấm dứt cầu nguyện. Etc.
Bà đọc bản án khá dài. Có lẽ đến 40 phút mà theo con nội dung cơ bản chẳng khác bản cáo trạng của Viện Kiểm sát là bao nhiêu. Có khác chăng là phần công bố hình phạt đi kèm. Khi đọc đến phần này, giọng bà thẩm phán chủ toạ khá run. Trong khi đó, các giáo dân của chúng ta lại rất bình tĩnh.
Con ngỡ ngàng một lần nữa là hình phạt được công bố khá nhẹ so với phần kết tội. Quy kết cho người ta những tội tày đình thế kia thì hình phạt phải nặng lắm, nhưng cuối cùng HĐXX lại không cho ai được cái diễm phúc tù giam cho tương xứng với tội trạng của mình. Chỉ có 4 người bị án tù treo, 3 người cải tạo không giam giữ và 1 người bị cảnh cáo. Cụ thể là bà Nguyễn Thị Nhi bị phạt 17 tháng tù treo, bà Ngô Thị Dung và ông Lê Quang Kiện 13 tháng tù treo, bà Nguyễn Thị Việt 12 tháng tù treo, bà Lê Thị Hợi 15 tháng cải tạo không giam giữ, ông Giuse Phạm Trí Năng 12 tháng cải tạo không giam giữ, anh Nguyễn Đắc Hùng 12 tháng cải tạo không giam giữ, anh Thái Thanh Hải bị cảnh cáo.
THÂN NHÂN CỦA CÁC BỊ CÁO VÀ CON RẤT BẤT BÌNH KHI NGHE TOÀ TYUÊN BẢN ÁN ẤY. CÁC LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN CHÚNG CON KHÔNG PHẢI LÀ CÁC TỘI NHÂN. NGAY CẢ SỰ KIỆN TOÀ TUYÊN BỐ HÌNH PHẠT KHÔNG CÓ ÁN TÙ GIAM CŨNG KHÔNG LÀM CHÚNG CON THỎA MÃN. QUẢ THẬT CÁC GIÁO DÂN “BỊ” XỬ CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ “ĐỰƠC” XỬ TÙ TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM VÀ CẢNH CÁO. VÌ TẤT CẢ ĐÃ HIÊN NGANG LÀM CHỨNG CHO CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT, ĐÒI HỎI CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT TRƯỚC TOÀ VÀ SẴN SÀNG NHẬN MỘT HÌNH PHẠT NẶNG HƠN, NẾU VÌ VIỆC ĐÒI HỎI CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT ẤY MÀ TOÀ KẾT TỘI.
( Hết phần 4, còn tiếp)
Tu viện Thái Hà, ngày 10 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
4. BUỔI CHIỀU TRONG PHÒNG XÉT XỬ: LUẬN TỘI VÀ TUYÊN ÁN
Khoảng 13 h 20 phiên toà tiếp tục: Phần luận tội, công tố viên đại diện viện Kiểm sát khẳng định bằng chứng kết tội các bị cáo tại phiên toà là đầy đủ, trong khi ngoài bút lục, các lời khai trước toà, thì chỉ có hai lá đơn của hai tổ dân phổ và hai đoạn video, một chiếu cảnh đập tường, một chiếu cảnh đi rước ra linh địa cầu nguyện. Cũng xin nói thêm là cả hai đoạn video này chưa được giám định.
Cũng chẳng hiểu sao trong bản luận tội công tố viên lại trình bày một phần rất dài về đến vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng Sản và Chính phủ Việt Nam. Chẳng biết để làm gì và như thế có đủ “giác ngộ” cho các phóng viên chuyên nghiệp của một số hãng thông tấn ở tầng dưới nhận thức được “chính sách tốt đẹp” về tôn giáo” của Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam chăng?
Sau đó, bản luận tội đề cập đến Đức TGM Hà Nội và các linh mục nhà thờ Thái Hà, tưởng tượng và quy kết cho những vị này những “tội” tày trời và còn đe doạ sẽ xử lý các vị này ở hình thức cao hơn nếu tiếp tục “vi phạm”.
Nghe đến đấy con thắc mắc tại sao Đức TGM và các linh mục nhà thờ Thái Hà “vi phạm pháp luật” mà toà lại không đưa ra xét xử? Xử lý vụ việc như thế các cơ quan công quyền có vi phạm pháp luật không? Sau cùng công tố viên nói một câu rằng: “Vì các vị này đã bị Chủ tịch UBND TP cảnh cáo cho nên không đề cập xét xử trong vụ án này”. Nhưng nếu vậy thì ông Chủ tịch cũng vẫn vi phạm pháp luật: Tại sao không có một biên bản “vi phạm” nào được lập, không có một quyết định “xử phạt hành chính” nào được đưa ra làm cơ sở, toà án cũng chưa xét xử mà ông Chủ tịch UBND TP lại đã ngang nhiên và mau chóng làm công văn kết tội và cảnh cáo Đức TGM và một số giáo sĩ nhà thờ Thái Hà?
Công tố viên quy kết cho các linh mục, giáo dân Thái Hà nhiều thứ tội: Huỷ hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng, làm cản trở giao thông, vi phạm trật tự xây dựng, đe doạ hành hung các bảo vệ của công ty May Chiến Thắng và những người có ý kiến phản đối. Tuy nhiên, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị hình phạt khá nhẹ so với tội trạng đã nêu ra: Viện Kiểm sát đề nghị 4 người bị án tù treo, 3 người bị cải tạo không giam giữ và 1 người bị cảnh cáo.
Toà hỏi các bị cáo có ý kiến gì về bản án rất nhẹ đó không? Bà Nhi và ông Năng đặt vấn đề tại sao chính quyền không giải quyết thoả đáng vấn đề đất đai cho Giáo Hội. Anh Hùng nói: “Bản án quá nặng. Yêu cầu toà xử sao cho công bằng hợp lý”. Bà Hợi nói: “Bản án như thế là quá nặng. Xin toà tôn trọng công lý và sự thật”. Ông Kiện nói: “Bản luận tội ấy là oan cho tôi quá”. Bà Dung nói: “Phản đối cáo trạng sai trái”.
Tiếp theo đến phần bào chữa cho các bị cáo. Luật sư Lê Như Hương bào chữa cho bà Ngô Thị Dung. Luật sư chỉ nói vài lời, nói nhỏ, trong khi bộ phận kỹ thuật không bật tăng âm cho nên con không nhớ bà nói gì. Có điều con biết hai luật sư đã thống nhất với nhau luật sư Lê Trần Luật sẽ thực hiện phần bào chữa chính.
Luật sư Lê Trần Luật bào chữa cho bà Nguyễn Thị Việt, nhưng thực chất cũng là bào chữa cho các bị cáo còn lại trong vụ Thái Hà. Vì cả 8 bị cáo có hành bi tương đối giống nhau. Luật sư mở đầu bằng phần trình bày về nguồn gốc đất và quá trình khiếu kiện của Giáo xứ Thái Hà cũng như mục đích cầu nguyện của giáo dân. Đây là vấn đề căn bản, liên quan trực tiếp đến vấn đề vụ án hình sự đang xét xử. Tuy nhiên, khi vừa bắt đầu thì HĐXX không cho trình bày. HĐXX cho rằng nếu có tranh chấp về vấn đề đất đai thì phải có đơn từ và giải quyết trong một vụ án dân sự khác với vụ án đang xét xử.
Phần tiếp theo luật sư bác bỏ một cách thuyết phục các buộc của Viện Kiểm sát đối với bà Nguyễn Thị Việt. Khẳng định việc buộc tội “huỷ hoại tài sản” đối với bà Việt bị là hết sức vô duyên, vô lý. Khẳng định bà Việt không phạm tội “gây rối trật tự công cộng”. Các hành vi của bà chẳng có mối liên hệ nhân quả gì với “các hậu quả nghiêm trọng” mà cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát bày đặt ra. Ông cũng nêu lên những vấn đề nhức nhối, bất hợp lý liên quan đến vụ án là: Những kẻ phạm tội thật không bị truy tố; vụ án không có vật chứng, đưa trường hợp Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt vào trong cáo trạng, vật chứng không có và không được giám định.
Mặc dù có 3 lần HĐXX buộc dừng lại, nhưng luật sư vẫn bình tĩnh và lịch sự trình bày hết phần bào chữa. Luật sư trình bày rất hùng hồn, những lý lẽ và bằng chứng đưa ra rất chặt chẽ và thuyết phục, những vấn đề được đề cập hết sức thẳng thắng. Con ngồi nghe có cảm tưởng bài bào chữa của ông không đơn thuần là bảo vệ một nạn nhân, bảo vệ công lý mà còn là một cáo trạng đanh thép đối với những hành động đen tối, sai trái có hệ thống của chế độ.
Ông trình bày xong, HĐXX phiên toà lặng im như thóc giống. Có người không phải thân nhân của các bị cáo vỗ tay tán thưởng. Có người khác tức giận lại nói: “không nghe đâu!” Con đoán ông phát ngôn lời kia thuộc nhóm người được mời đến dự phiên toà để hậu thuẫn cho việc cáo buộc các nạn nhân.
HĐXX không chất vấn gì mà đi hỏi bà Việt có ý kiến gì không. Bà nói: “Ngoài việc tôi tham gia đập phá bức tường chẳng có bàng chứng gì cho thấy tôi đánh cái nhau, xúc giục kích động người khác. Tôi không nhận sự buộc tội tôi gây rối trật tự công cộng. Nếu không có những người như chúng tôi thì làm sao người dân chung quanh có vườn hoa để mà ra Vậy mà hôm nay lại ngồi cười khẩy. Tội danh buộc tôi hôm nay là quá nặng”.
Bà Việt nói với HĐXX mà cũng là nói với những những người thuộc các đoàn thể khác nhau, trong đó có nhiều người thuộc các tổ dân phố xung quanh Linh địa Đức Bà. Cả phòng xử lặng im. Nhiều người còn chút lương tri cúi gằm mặt xuống. Không khí thật nặng nề. Vì những người hiện diện ở đấy biết chuyện Thái Hà và biết lời bà nói là sự thật.
Con cũng xin nói thêm hầu hết những người tham dự phiên toà thuộc các đoàn thể xã hội khác nhau ở các phường trong quận được mời đến tham dự phiên toà hôm nay- tất cả đều tỏ ra mệt mỏi, miễn cưỡng và đôi khi chính họ như là các tội nhân trước các bị cáo.
Luật sư sẵn sàng tranh luận với HĐXX về các luận điểm mình đưa ra. Đại diện Viện Kiểm sát cứ khăng khăng khẳng định đất 178 Nguyễn Lương Bằng là của công ty May Chiến Thắng đang quản lý và sử dụng một cách hợp pháp và các hành vi của các bị cáo cùng những người khác gây nên hậu quả nghiêm trọng đối với công ty, đối với người dân trong khu vực và đối với đường lối, chính sách ngoại giao của nhà nước, etc.
Luật sư Lê Trần Luật hỏi lại đại diện Viện Kiểm sát nhiều câu hỏi. Chẳng hạn luật sư đặt vấn đề: “Phần phát biểu của Đức TGM có liên quan đến vụ án này không, nếu không thì phải cắt bỏ”, hoặc: “Căn cứ vào bằng chứng cụ thể nào mà đại diện Viện Kiểm sát lại kết tội các bị cáo phạm tội huỷ hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng”. Các công tố viên hiểu thế nào là tài sản?”. “Các bị cáo gây hậu quả nghiêm trọng cụ thể như thế nào?”
Các đại diện Viện Kiểm sát đã lúng túng, hoặc im lặng, hoặc trả lời lấy được, trả lời cho có, hoặc đánh trống lảng bằng cách yêu cầu chiếu lại hai đọan phim đập tường và cầu nguyện ở Linh địa Đức Bà. Có khi thẩm phán cũng tham gia giải quyết vấn đề luật sư nêu lên, nhưng càng gỡ càng rối, càng giải thích càng mơ hồ, thiếu thuyết phục khiến người ta khó chấp nhận và cử toạ xì xào. Những lúc như vậy, con lại thấy anh cán bộ, có lẽ là cán bộ chỉ đạo phiên toà, ngồi ở phía trước con, chạy ra cửa, cuối phòng xử nhìn lên, đứng giữa các công an, đưa tay ra hiệu chấm dứt và cho qua mục khác.
Rồi chủ toạ tuyên bố cho bên nguyên đơn và các bị cáo cần nói gì thêm trước khi nghị án. Bên nguyên đơn là Công ty May Chiến Thắng không nói gì. Nói hay không nói thì họ cũng chẳng được thêm hay mất thêm cái gì. Họ chỉ miễn cưỡng đóng vai diễn của họ ở mức vừa đủ theo yêu cầu.
Các bị cáo là giáo dân có anh Hải không ý kiến gì thêm. Còn lại đều phản đối bản luận tội của Viện Kiểm sát. Phản đối việc kết tội các bị can phạm tội “huỷ hoại tài sản” và “gây rối trật tự công cộng”. Riêng ông Kiện còn khẳng định việc các giáo dân làm còn là chống tham nhũng và ông yêu cầu nhà nước thực hiện tự do tôn giáo, tự do báo chí, chống vu khống. Bà Nhi còn khiếu nại sao khép tội bà trong vụ 42 Nhà Chung mà không đề cập gì đến vấn đề đất đai ở đây? Tức thì chủ toạ lại buộc bà dừng lại trình bày sang ý kiến khác. Nói chung cứ đề cập đến vấn đề đất đai, quyền quản lý đất đai của 42 Nhà Chung hay của 178 Nguyễn Lương Bằng, là bị chủ toạ gạt phắt đi.
Lúc khoảng 15 h, chủ toạ tuyên bố toà tạm dừng để HĐXX nghị án. Lúc này con nhìn qua cửa sổ thì thấy lực lượng cảnh sát cơ động được tăng cường. Ngay phần sân trước cửa UBND có thêm một hàng cảnh sát nữa. Mặc dù vậy giáo dân vẫn không ngừng tìm cách áp sát hàng rào và hô vang những khẩu hiệu, những lời ca đòi công lý. Chứng kiến các cảnh sát lúng túng trước lời kinh tiếng hát của các linh mục và giáo dân, con thấy quả thật bạo lực không đủ dập tắt khát vọng tìm công bằng và chân lý. Quả thật niềm tin mới là mạnh nhất chứ không phải khẩu súng.
Khi thấy một xe chở tù nhân chạy vào khu vực UBND các cha và các giáo dân đoán rằng có lẽ toà xử có ai bị tù, cho nên giáo dân tập trung ở bên dưới cầu nguyện lại càng tha thiết hơn, hô khẩu hiệu càng mạnh mẽ hơn, mặc dù từ sáng đến giờ các cha và giáo dân ở lòng đã hát đã nhiều. Con thấy hết hát Kinh hoà bình, Đây bài ca ngàn trùng, Magnificat và các bài thánh ca khác lại hô vang hai chữ “Vô tội! Vô tội! Vô tội”.
Tiếng hát lời kinh vang dội vào trong phòng xử từng đợt, đôi khi khiến nhiều lúc người trong phòng xét xử hướng hết về các cửa sổ phía mặt đường như một phản ứng tự nhiên. Các cảnh sát tư pháp cố đóng mà cửa kính vẫn hở do có các đường cáp truyền hình dẫn từ tầng 4 xuống tầng 3. Ở trong phòng xử khi nghe thấy cộng đoàn hát các anh chị em bị cáo, các thân nhân và bản thân con thấy rất xúc động, rất được an ủi và nâng đỡ và chúng con lại càng xác tín về việc làm chứng cho công lý của mình.
Con tin rằng vì lời kinh, tiếng hát, tiếng hô kia cùng với thái độ hiên ngang, khẳng khái của các anh chị em đang bị xét xử- đã khiến các cán bộ HĐXX đôi khi mất bình tĩnh. Chính con thấy các cán bộ Viện Kiểm sát thường xuyên đọc hay nói bằng cung giọng run run, đôi khi lạc giọng. Vị nữ thẩm phán chủ toạ, khá lạnh lùng, sắc sảo mà đôi lúc giọng cũng run như các công tố viên. Trong khi đó các giáo dân lúc nào cũng đầu cao, mắt sáng, dõng dạc, hiên ngang. Dù là các bị cáo, nhưng quả thực họ mới là những người giữ vị trí của người xử án thật hôm nay.
Trong khi toà đang họp nghị án trong lúc giải lao con đã nhắn tin xuống bên dưới xin các cha và giáo dân chuẩn bị hoa chúc mừng các “tội nhân” và các luật sư. Con cũng cho biết là Theo mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị thì không ai bị tù giam. Lúc này không khí ở trước UBND phường càng ngày càng phấn khích. Giáo dân không ngớt reo hò, cổ vũ, vỗ tay. Họ chẳng còn biết đến hàng trăm cảnh sát chìm nổi đang vây quanh.
Khoảng 15 h 30, bà nữ thẩm phán chủ toạ phiên toà tuyên án. Dù đang nôn nao chờ đợi công bố hình phạt các bị cáo, song con vẫn thấy ngỡ ngàng khi nghe bà chủ toạ kết án các bị cáo phạm tội “huỷ hoại tài sản” và ‘gây rối trật tự công cộng”. Ngỡ ngàng khi nghe kết án nhà thờ Thái Hà vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, xây dựng, tôn giáo. Ngỡ ngàng khi nghe kết án các linh mục nhà thờ Thái Hà kích động giáo dân tham gia cầu nguyện. Ngỡ ngàng khi nghe kết tội các linh mục và giáo dân ở các tỉnh thành khác về Thái Hà hiệp thông tham gia cầu nguyện. Ngỡ ngàng khi kết án giáo dân Thái Hà đe doạ, hành hung những người có ý kiến yêu cầu chấm dứt cầu nguyện. Etc.
Bà đọc bản án khá dài. Có lẽ đến 40 phút mà theo con nội dung cơ bản chẳng khác bản cáo trạng của Viện Kiểm sát là bao nhiêu. Có khác chăng là phần công bố hình phạt đi kèm. Khi đọc đến phần này, giọng bà thẩm phán chủ toạ khá run. Trong khi đó, các giáo dân của chúng ta lại rất bình tĩnh.
Con ngỡ ngàng một lần nữa là hình phạt được công bố khá nhẹ so với phần kết tội. Quy kết cho người ta những tội tày đình thế kia thì hình phạt phải nặng lắm, nhưng cuối cùng HĐXX lại không cho ai được cái diễm phúc tù giam cho tương xứng với tội trạng của mình. Chỉ có 4 người bị án tù treo, 3 người cải tạo không giam giữ và 1 người bị cảnh cáo. Cụ thể là bà Nguyễn Thị Nhi bị phạt 17 tháng tù treo, bà Ngô Thị Dung và ông Lê Quang Kiện 13 tháng tù treo, bà Nguyễn Thị Việt 12 tháng tù treo, bà Lê Thị Hợi 15 tháng cải tạo không giam giữ, ông Giuse Phạm Trí Năng 12 tháng cải tạo không giam giữ, anh Nguyễn Đắc Hùng 12 tháng cải tạo không giam giữ, anh Thái Thanh Hải bị cảnh cáo.
THÂN NHÂN CỦA CÁC BỊ CÁO VÀ CON RẤT BẤT BÌNH KHI NGHE TOÀ TYUÊN BẢN ÁN ẤY. CÁC LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN CHÚNG CON KHÔNG PHẢI LÀ CÁC TỘI NHÂN. NGAY CẢ SỰ KIỆN TOÀ TUYÊN BỐ HÌNH PHẠT KHÔNG CÓ ÁN TÙ GIAM CŨNG KHÔNG LÀM CHÚNG CON THỎA MÃN. QUẢ THẬT CÁC GIÁO DÂN “BỊ” XỬ CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ “ĐỰƠC” XỬ TÙ TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM VÀ CẢNH CÁO. VÌ TẤT CẢ ĐÃ HIÊN NGANG LÀM CHỨNG CHO CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT, ĐÒI HỎI CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT TRƯỚC TOÀ VÀ SẴN SÀNG NHẬN MỘT HÌNH PHẠT NẶNG HƠN, NẾU VÌ VIỆC ĐÒI HỎI CÔNG LÝ VÀ SỰ THẬT ẤY MÀ TOÀ KẾT TỘI.
( Hết phần 4, còn tiếp)
Tu viện Thái Hà, ngày 10 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
Thư gửi những người đang bị đối xử bất công và bị áp bức tại Việt Nam
Một Dân Đen – Hà Tây
03:43 13/12/2008
Thư gửi những người đang bị đối xử bất công và bị áp bức tại Việt Nam
Kính thưa quý vị, tôi là một nông dân ở một vùng quê (Hà Tây cũ). Gia đình tôi và một số gia đình khác bị chính quyền địa phương dùng thủ đoạn để cướp đất với lý do là đất của chúng tôi nằm trong khu vực qui hoạch. Họ cấp cho chúng tôi một miếng đất ở một khu vực xa xôi, hẻo lánh, được gọi là tái định cư. Sau này chúng tôi mới biết là các cán bộ đã chia nhau số đất của chúng tôi để bán với giá rất cao cho một công ty của nước ngoài, rồi số tiền đó vào túi của các cán bộ.
Đã nhiều lần chúng tôi gặp chính quyền để đặt vấn đề này, nhưng đều bị từ chối không tiếp, khi chúng tôi làm đơn kiện thì không thấy trả lời. Thậm chí có những lúc chúng tôi bị hăm dọa là nếu còn kiện việc này thì gia đình sẽ không yên ổn. Có nhiều người nản chí bỏ cuộc, chấp nhận sự thiệt thòi, mất mát mà không biết kêu cùng ai.
Nhiều khi đi chỗ này, chỗ khác, tôi thấy cũng có những nhóm người biểu tình về vấn đề đất đai, nhưng hình như cuối cùng rồi cũng “ai về nhà nấy”, những người dân thấp cổ bé miệng vẫn phải chịu những thiệt thòi, bất công mà không biết kêu cùng ai, vì tất cả mọi quyền lực đều nằm trong tay nhà nước.
Hôm rồi, vào ngày 8/12/2008, tình cờ tôi có việc đi Hà Nội và tôi chứng kiến một việc lạ lùng là có một đoàn người đi về phía UBND Phường Ô Chợ Dừa, khi hỏi ra thì tôi mới biết đó là những người thiên chúa giáo đưa tiễn những người đồng đạo của mình ra tòa án vì họ phạm tội “cố ý phá hoại của công” gì đó. Không hiểu sao ra tòa mà họ tổ chức như một cuộc mít tinh vậy !!! Và điều đặc biệt là các “bị can” ăn mặc rất đẹp và rất vui vẻ, chứ không lo sợ hay buồn phiền như những bị can khác. Thấy chuyện lạ nên tôi cùng hòa theo dòng người để tìm hiểu thêm về sự việc. Sau này thì tôi được biết họ (những bị can) là những con người bị oan.
Có rất nhiều cảnh sát cơ động được huy động để “bảo vệ” cho phiên tòa, nhưng tôi thấy những người theo đạo thiên chúa rất ôn hòa, họ có làm gì đâu mà nhà nước lại huy động nhiều cảnh sát như thế ? Nếu những ngày ngập lụt cách đây khoảng một tháng ở Hà Nội mà cảnh sát được huy động nhiều như lúc này thì có lẽ nhân dân cũng được nhờ phần nào. Tôi ở lại suốt ngày với họ (những người theo đạo thiên chúa) để xem kết cục thế nào và tôi chứng kiến cảnh họ đoàn kết, gắn bó với nhau, chia cho nhau những ổ bánh mì, những củ đậu, những bình nước… như là những người trong cùng một gia đình vậy. Có những lúc họ hát hò rất vui vẻ, có những lúc họ tụng kinh. Tất cả đều đồng một lòng.
Có người khi nói chuyện với tôi, biết tôi là người bên lương nên dè dặt vì sợ tôi là cán bộ trà trộn vào, nhưng khi nghe tôi giải bày về sự bất mãn đối với chính quyền thì họ lại tiếp tục nói chuyện vui vẻ với tôi, tôi đã tìm hiểu và biết rõ ngọn nguồn, nguyên nhân về câu chuyện xử án hôm nay.
Cuối cùng thì những “bị cáo” hôm đó đều được hưởng án treo, khi họ đi ra, tôi thấy người ta vỗ tay và chúc mừng. Tôi có cảm giác như họ là những người chiến thắng. Nghe đâu là mặc dù được hưởng án treo, nhưng họ vẫn cho là bị kết án bất công, và hình như là họ sẽ kháng án lên tòa án tối cao gì đó.
Kính thưa quý vị, những người đang bị đối xử bất công và áp bức trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tại sao chúng ta không bắt chước những người đạo chúa: đoàn kết và đồng lòng với nhau để chống lại những bất công, áp bức của chính quyền ? Từ trước tới nay, chúng ta vẫn hay sợ chính quyền, chấp nhận những thiệt thòi về mình mà không dám kêu ca với ai cả. Có lẽ vì chúng ta không biết đoàn kết với nhau như những người đạo chúa đã làm, người ta thường nói: “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết” mà.
Đã đến lúc chúng ta không phải sợ hãi nữa. Nếu chúng ta biết hiệp lòng với nhau thì những con người đại diện chính quyền kia sẽ không có cơ hội để áp bức chúng ta nữa. Chúng ta có quyền bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình. Chúng ta cần phải lên án những bất công và những áp bức của những người cầm quyền phi đạo đức.
Cám ơn những người đạo chúa ở Hà Nội đã cho chúng tôi một bài học thật quý giá, đã cho chúng tôi có một cái nhìn can đảm hơn, hiên ngang hơn, chứ không phải là những con người rụt rè, sợ hãi như trước đây nữa.
Kính thưa quý vị, tôi là một nông dân ở một vùng quê (Hà Tây cũ). Gia đình tôi và một số gia đình khác bị chính quyền địa phương dùng thủ đoạn để cướp đất với lý do là đất của chúng tôi nằm trong khu vực qui hoạch. Họ cấp cho chúng tôi một miếng đất ở một khu vực xa xôi, hẻo lánh, được gọi là tái định cư. Sau này chúng tôi mới biết là các cán bộ đã chia nhau số đất của chúng tôi để bán với giá rất cao cho một công ty của nước ngoài, rồi số tiền đó vào túi của các cán bộ.
Đã nhiều lần chúng tôi gặp chính quyền để đặt vấn đề này, nhưng đều bị từ chối không tiếp, khi chúng tôi làm đơn kiện thì không thấy trả lời. Thậm chí có những lúc chúng tôi bị hăm dọa là nếu còn kiện việc này thì gia đình sẽ không yên ổn. Có nhiều người nản chí bỏ cuộc, chấp nhận sự thiệt thòi, mất mát mà không biết kêu cùng ai.
Nhiều khi đi chỗ này, chỗ khác, tôi thấy cũng có những nhóm người biểu tình về vấn đề đất đai, nhưng hình như cuối cùng rồi cũng “ai về nhà nấy”, những người dân thấp cổ bé miệng vẫn phải chịu những thiệt thòi, bất công mà không biết kêu cùng ai, vì tất cả mọi quyền lực đều nằm trong tay nhà nước.
Hôm rồi, vào ngày 8/12/2008, tình cờ tôi có việc đi Hà Nội và tôi chứng kiến một việc lạ lùng là có một đoàn người đi về phía UBND Phường Ô Chợ Dừa, khi hỏi ra thì tôi mới biết đó là những người thiên chúa giáo đưa tiễn những người đồng đạo của mình ra tòa án vì họ phạm tội “cố ý phá hoại của công” gì đó. Không hiểu sao ra tòa mà họ tổ chức như một cuộc mít tinh vậy !!! Và điều đặc biệt là các “bị can” ăn mặc rất đẹp và rất vui vẻ, chứ không lo sợ hay buồn phiền như những bị can khác. Thấy chuyện lạ nên tôi cùng hòa theo dòng người để tìm hiểu thêm về sự việc. Sau này thì tôi được biết họ (những bị can) là những con người bị oan.
Có rất nhiều cảnh sát cơ động được huy động để “bảo vệ” cho phiên tòa, nhưng tôi thấy những người theo đạo thiên chúa rất ôn hòa, họ có làm gì đâu mà nhà nước lại huy động nhiều cảnh sát như thế ? Nếu những ngày ngập lụt cách đây khoảng một tháng ở Hà Nội mà cảnh sát được huy động nhiều như lúc này thì có lẽ nhân dân cũng được nhờ phần nào. Tôi ở lại suốt ngày với họ (những người theo đạo thiên chúa) để xem kết cục thế nào và tôi chứng kiến cảnh họ đoàn kết, gắn bó với nhau, chia cho nhau những ổ bánh mì, những củ đậu, những bình nước… như là những người trong cùng một gia đình vậy. Có những lúc họ hát hò rất vui vẻ, có những lúc họ tụng kinh. Tất cả đều đồng một lòng.
Có người khi nói chuyện với tôi, biết tôi là người bên lương nên dè dặt vì sợ tôi là cán bộ trà trộn vào, nhưng khi nghe tôi giải bày về sự bất mãn đối với chính quyền thì họ lại tiếp tục nói chuyện vui vẻ với tôi, tôi đã tìm hiểu và biết rõ ngọn nguồn, nguyên nhân về câu chuyện xử án hôm nay.
Cuối cùng thì những “bị cáo” hôm đó đều được hưởng án treo, khi họ đi ra, tôi thấy người ta vỗ tay và chúc mừng. Tôi có cảm giác như họ là những người chiến thắng. Nghe đâu là mặc dù được hưởng án treo, nhưng họ vẫn cho là bị kết án bất công, và hình như là họ sẽ kháng án lên tòa án tối cao gì đó.
Kính thưa quý vị, những người đang bị đối xử bất công và áp bức trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tại sao chúng ta không bắt chước những người đạo chúa: đoàn kết và đồng lòng với nhau để chống lại những bất công, áp bức của chính quyền ? Từ trước tới nay, chúng ta vẫn hay sợ chính quyền, chấp nhận những thiệt thòi về mình mà không dám kêu ca với ai cả. Có lẽ vì chúng ta không biết đoàn kết với nhau như những người đạo chúa đã làm, người ta thường nói: “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết” mà.
Đã đến lúc chúng ta không phải sợ hãi nữa. Nếu chúng ta biết hiệp lòng với nhau thì những con người đại diện chính quyền kia sẽ không có cơ hội để áp bức chúng ta nữa. Chúng ta có quyền bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình. Chúng ta cần phải lên án những bất công và những áp bức của những người cầm quyền phi đạo đức.
Cám ơn những người đạo chúa ở Hà Nội đã cho chúng tôi một bài học thật quý giá, đã cho chúng tôi có một cái nhìn can đảm hơn, hiên ngang hơn, chứ không phải là những con người rụt rè, sợ hãi như trước đây nữa.
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà (phần 5)
LM. Phêrô Nguyễn Văn Khải, DCCT
03:44 13/12/2008
Tường trình cuộc ra tòa của giáo dân Thái Hà 08/12/2008 (phần 5)
5. TRỞ VỀ NHÀ THỜ - MỘT BUỔI TỐI TẠ ƠN VUI CHƯA TỪNG CÓ
Ngay khi chủ toạ phiên toà tuyên bố phiên tòa kết thúc, thì các luật sư và con ở lại đợi các thân nhân của các giáo dân vừa bị kết án làm thủ tục cuối cùng với HĐXX. Trong lúc đó, công an đưa bà Nhi và bà Dung ra khỏi nơi xét xử bằng cửa sau và chở bằng xe tù để đưa về trại giam làm thủ tục xuất trại. Giáo dân may mắn được báo kịp thời điều này, chứ nếu không, họ hiểu là có người bị kết án tù giam, thì khó lòng cái xe bít bùng kia đi khỏi được vòng người dày đặc đang tập trung trước toà lên đến mấy nghìn người.
Trong lúc chờ làm thủ tục ra toà, con hỏi một số thân nhân của các “tội nhân” xem cảm tưởng của họ thế nào về cuộc xét xử này và có hài lòng với bản án và hình phạt đi kèm không, thì thấy chẳng ai hài lòng. Ông Thông, chồng bà Dung nói: “Con thấy thứ nhất toà không thực sự công khai. Thứ hai lý luận của Viện Kiểm sát không đủ căn cứ để kết tội”. Chị Hiền, con ông Kiện nói: “Con thấy rất hay và tòa án không công bằng khi xử bố con”. Anh Trung, con ông Kiện: “Con không đồng ý với bản án kết tội bố con”. Anh Tuân, con ông Năng nói: “Nói chung là chưa thực sự công khai, chưa phanh phui ra các cơ sở để từ đó thấy được sự vô tội của các giáo dân. Hành vi của các giáo dân ấy chưa thể gọi là có tội. Còn như người ta có quyền thì muốn làm gì mà chẳng được”. Anh Vũ, con bà Nhi nói: “Bất công, phiên toà xử bất công. Công lý chưa được sáng tỏ, tội trạng chưa rõ ràng. Con rất tự hào về Mẹ con. Con hài lòng về những gì mẹ con đã làm đê bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội. Con sẽ theo tinh thần của mẹ con”.
Mấy nhân viên cảnh sát ở phòng xét xử đẩy con ra khỏi phòng yêu cầu con đi xuống dưới cùng các thân nhân của các ‘tội nhân”, dù các ‘tội nhân” còn đang làm thủ tục ra toà. Mấy thân nhân của các tội nhân và con dừng lại ở tầng 2, lối xuống sân UBND, một vị lãnh đạo ngành công an cũng vừa dự toà xong thúc giục con về; con nói phải đợi để cùng ra với các “tội nhân”.
Con hỏi ông có nhận xét gì về cuộc xét xử hôm nay, ông không dám nói. Thế là con nói ngay với ông rằng con không bằng lòng với cuộc xét xử hôm nay. Đây là một cuộc xét xử bất công và kết cục cũng là một bản án bất công.
Đứng trên cầu thang dẫn lên tầng 2, nhìn xuống phố Hoàng Cầu, con thấy lực lượng cảnh sát phải đông gấp rưỡi buổi sáng. Hình như có bao nhiêu công an trong Quận đều kéo hết đến đây thì phải. Ngả nào cũng đầy công an. Lúc về nhà con mới nghe một cha trong nhà cho biết không kể các lực lượng đặc biệt như cảnh sát cơ động, thì công an 21 phường trong quận Đống Đa đã đựơc huy động đến phiên toà
Khi thấy quá đông cảnh sát vây lấy giáo dân và UBND vòng trong vòng ngoài, con nói với ông lãnh đạo công anh đang đứng cạnh thân nhân của các “tội nhân” và cạnh con rằng: “Các ông đưa nhiều cảnh sát cơ động, trang bị tận răng như thế kia đến đây là không đẹp và không nên! Vì càng làm thế giáo dân tập trung ở đây càng bị kích thích, hơn nữa các ông coi giáo dân chúng tôi bị xử ở toà thì đáng sợ hơn phường trộm cướp giết người, buôn bán ma tuý à?! Có phiên toà nào trên đất nước này mà lại phải cần triển khai và phô trương nhiều bạo lực như thế không? Mà như thế thì cũng đẹp mặt cho chế độ, vì có các nhà báo, nhà ngoại giao người ta đang ở đây cả!” Ông lãnh đạo kia trả lời đại khái rằng có những điều không đơn giản và linh mục không biết được.
Chúng con xếp hàng một đi xuống sân UBND và ra ngoài, giáo dân ùa vào chúc mừng các “tội nhân”, công kênh luật sư Lê Trần Luật, ông Lê Quang Kiện, Phạm Trí Năng và Nguyễn Đắc Hùng.
Ngay ở sân UBND, cảnh sát muốn giáo dân giẽ ngang ngõ tắt về nhà thờ, nhưng giáo dân cứ đường ngay nẻo chính mà đi, dù xa hơn gấp 3 lần. Ra đến khu vực đường Hoàng Cầu, giáo dân vẫn tập trung rất đông, con muốn nói mấy lời với cộng đoàn, con mượn cái loa nén của cảnh sát cơ động, họ bảo không có! May có cha Lê Quang Uy, ngồi từ sáng trên phố cùng giáo dân, đối diện cả ngày với cảnh sát cơ động và vì thế có vẻ hai bên đã biết nhau- cha Uy can thiệp rằng: “Các anh cứ đi tìm loa tay cho ông linh mục này, ông nói là dân họ nghe ngay, họ sẽ về ngay thôi!”.
Thế là mấy cảnh sát cơ động đưa đến một cái loa cực mạnh, một anh cầm phần loa cho con cầm phần micro nói thật nhanh: “Toà xử xong. Không ai tù giam cả! Tù treo tất. Xin anh chị em bình tĩnh và tạ ơn Chúa. Chúng ta biết đây là cuộc xét xử bất công, một bản án bất công, vì anh chị em giáo dân chúng ta vô tội mà toà xử là có tội, nhưng trong đức tin chúng ta chấp nhận. Bây giờ chúng ta xếp hàng một theo tôi về nhà thờ. Chúng ta hát kinh hoà bình”. Khi con vừa cất lên câu đầu tiên, thì mấy anh cảnh sát đến giật lại cái micro của họ khỏi tay con.
Các cha và đoàn giáo dân hồ hởi lên đường về lại nhà thờ theo lối ban sáng đã đi. Con để ý thấy có mấy xe du lịch, loại 30 chỗ, chở cảnh sát cơ động ngồi bên trong đang đậu bên lề đường, có lẽ nhà cầm quyền sợ khi tuyên án, giáo dân phản ứng mạnh cho nên chuẩn bị sẵn lực lượng trợ giúp chăng? Lực lượng này chưa được triển khai xuống phố. Các xe chở chó cũng vẫn còn đậu bên trong hè phố. Lúc về nhà, con có nghe các cha ngồi trên phố kể lại lúc chiều, lực lượng cơ động đang đổ bộ triển khai đội hình trên phố thì bị một quan chức lệnh lên xe trở lại, không hiểu vì sao.
Đi đến giữa phố chúng con gặp cha Giacôbê Nguyễn Văn Lý, quản hạt Hà Nội, Chính xứ Hàm Long, ngài cũng đi bộ cùng chúng con, vượt qua các hàng rào cảnh sát đang chặn buộc đoàn người giẽ phải về nhà thờ qua ngõ tắt. Hàng ngàn người tay cầm lá vạn tuế, hồ hởi, rầm rập tiến bước. Một không khí vui tươi chưa từng có bắt đầu. Nhiều giáo dân phấn khởi thấy không ai bị tù giam đã bắt đầu hô: “Một hai ba vô tội! Một hai ba chiến thắng!” Cảnh sát giao thông và dân phòng chạy theo dẹp đường, một số nhân viên an ninh cũng chạy theo quay phim. Nhiều người ở hai bên đường dừng lại hỏi xem có sự kiện gì, một số giáo dân thợ đang làm thuê hai bên đường cũng đổ ra chào mừng và hỏi thăm kết cục cuộc xét xử và thân phận các giáo dân.
Giáo dân về nhà thờ. Tại sân nhà thờ Cha Bề trên-Chính xứ Mátthêu Vũ Khởi Phụng đã tươi cười đón đoàn rước ra toà trở về. Mọi người tiếp tục chúc mừng các “tội nhân” và các luật sư. Tiếng hô “Chiến thắng! Chiến Thắng! Chiến Thắng!” Vô Tội! Vô tội! Vô Tội!” tiếp tục vang lên! Ai cũng biết và con chắc các cán bộ chính quyền cũng biết sự kiện toà kết án 8 giáo dân phạm tội “huỷ hoại tài sản” và “gây rối trật tự công cộng” là bất công và phi lý, tuy nhiên, toà không áp dụng khung hình phạt tù giam cho các nạn nhân, thì đấy là một thắng lợi bước đầu đối với giáo dân tham gia làm chứng cho công lý!
Quý cha bên toà giám mục cũng sang kịp thời để chúc mừng các nạn nhân và chia vui với cộng đoàn! Thể theo yêu cầu của mọi người hiện diện, 1 thánh lễ đồng tế trọng thể được tổ chức tức thì ngay tại nhà thờ vào lúc 17 h 15. Cùng với các cha trong tu viện, còn có cha Brunô Phạm Bá Quế, GS Chủng viện và cha Antôn Phạm Văn Dũng, Phó Chánh Văn phòng. Sau đó 2 lễ khác tiếp theo vào lúc 18 h 30 và 20 h. Trong các thánh lễ, tiếng hò reo và vỗ tay vang lên không ngừng!
Đang lễ thứ 2 thì ông Thông chồng bà Dung lái xe chở bà Dung, vợ ông và bà Nhi về tới nhà thờ Thái Hà, thế là toàn bộ 8 giáo dân đã được đoàn tụ cùng gia đình và cộng đoàn. Cộng đồng giáo dân trong ngoài nhà thờ đồng loạt vỗ tay chúc mừng và tặng hoa hai người nạn nhân bị giam lâu nhất và bị hình phạt cao nhất của phiên toà.
Trong khi ấy, rất nhiều người đã điện thoại hỏi thăm, chúc mừng và chia vui với các nạn nhân, với tu viện và giáo xứ chúng con. Cũng có rất nhiều người gọi điện báo tin vui đi các nơi và hẹn nơi ăn mừng.
Cuộc tạ ơn tiếp tục bên ngoài thánh lễ ở sân nhà thờ và ở các nơi khác. Nhóm chúc mừng các nạn nhân, nhóm cầu nguyện, nhóm hát thánh ca, nhóm kéo nhau đi ăn mừng, nhóm chia sẻ cho nhau những video và hình ảnh mình quay chụp được. Chúng con thấy chưa bao giờ ở Thái Hà có một buổi tối vui như hôm 8/12 này!
Vui nhất vẫn là các nhóm cầu nguyện ở sân nhà thờ, trước tượng Đức Mẹ mà cộng đoàn gọi là Đức Mẹ Công Lý. Những lời kinh tiếng hát thiết tha, sốt sắng vẫn liên tục được dâng lên ngai toà Đức Mẹ. Cộng đoàn chúng con thực sự tin rằng Đức Mẹ luôn che chở và giữ gìn các con cái của Mẹ và cung vì thế không phải là ngẫu nhiên khi phiên toà diễn ra vào đúng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng là ngày lễ bổn mạng của Nhà Dòng Chúa Cứu Thế.
Chúng con xin cám ơn sự nâng đỡ thiết thực và lời cầu nguyện của Đức Tổng Giám Mục, của Cha Bề Trên Giám Tỉnh DCCT, của quý cha quý thầy trong Tổng Giáo Phận Hà Nội, trong DCCT và của mọi người xa gần quan tâm đến việc đấu tranh cho công lý và hoà bình.
Chúng con xác tín rằng chính nhờ sự hiệp thông nâng đỡ và cầu nguyện ấy mà bạo quyền mới chùn tay trấn áp, anh chị em giáo dân của chúng ta mới đàng hoàng bước ra khỏi nỗi sợ hãi, can đảm làm chứng cho công lý và sự thật và cuối cùng lại được tự do và đoàn tụ với gia đình như hôm nay.
Chúng con xin Đức Tổng Giám Mục, Cha Bề Trên Giám Tỉnh DCCT, quý cha quý thầy trong Tổng Giáo Phận Hà Nội, trong DCCT và mọi của mọi người gần quan tâm đến vụ Thái Hà-Toà Khâm Sứ tiếp tục cầu nguyện cho các giáo dân và các linh mục chúng con./.
Tu viện Thái Hà, ngày 10 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
5. TRỞ VỀ NHÀ THỜ - MỘT BUỔI TỐI TẠ ƠN VUI CHƯA TỪNG CÓ
Ngay khi chủ toạ phiên toà tuyên bố phiên tòa kết thúc, thì các luật sư và con ở lại đợi các thân nhân của các giáo dân vừa bị kết án làm thủ tục cuối cùng với HĐXX. Trong lúc đó, công an đưa bà Nhi và bà Dung ra khỏi nơi xét xử bằng cửa sau và chở bằng xe tù để đưa về trại giam làm thủ tục xuất trại. Giáo dân may mắn được báo kịp thời điều này, chứ nếu không, họ hiểu là có người bị kết án tù giam, thì khó lòng cái xe bít bùng kia đi khỏi được vòng người dày đặc đang tập trung trước toà lên đến mấy nghìn người.
Trong lúc chờ làm thủ tục ra toà, con hỏi một số thân nhân của các “tội nhân” xem cảm tưởng của họ thế nào về cuộc xét xử này và có hài lòng với bản án và hình phạt đi kèm không, thì thấy chẳng ai hài lòng. Ông Thông, chồng bà Dung nói: “Con thấy thứ nhất toà không thực sự công khai. Thứ hai lý luận của Viện Kiểm sát không đủ căn cứ để kết tội”. Chị Hiền, con ông Kiện nói: “Con thấy rất hay và tòa án không công bằng khi xử bố con”. Anh Trung, con ông Kiện: “Con không đồng ý với bản án kết tội bố con”. Anh Tuân, con ông Năng nói: “Nói chung là chưa thực sự công khai, chưa phanh phui ra các cơ sở để từ đó thấy được sự vô tội của các giáo dân. Hành vi của các giáo dân ấy chưa thể gọi là có tội. Còn như người ta có quyền thì muốn làm gì mà chẳng được”. Anh Vũ, con bà Nhi nói: “Bất công, phiên toà xử bất công. Công lý chưa được sáng tỏ, tội trạng chưa rõ ràng. Con rất tự hào về Mẹ con. Con hài lòng về những gì mẹ con đã làm đê bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội. Con sẽ theo tinh thần của mẹ con”.
Mấy nhân viên cảnh sát ở phòng xét xử đẩy con ra khỏi phòng yêu cầu con đi xuống dưới cùng các thân nhân của các ‘tội nhân”, dù các ‘tội nhân” còn đang làm thủ tục ra toà. Mấy thân nhân của các tội nhân và con dừng lại ở tầng 2, lối xuống sân UBND, một vị lãnh đạo ngành công an cũng vừa dự toà xong thúc giục con về; con nói phải đợi để cùng ra với các “tội nhân”.
Con hỏi ông có nhận xét gì về cuộc xét xử hôm nay, ông không dám nói. Thế là con nói ngay với ông rằng con không bằng lòng với cuộc xét xử hôm nay. Đây là một cuộc xét xử bất công và kết cục cũng là một bản án bất công.
Đứng trên cầu thang dẫn lên tầng 2, nhìn xuống phố Hoàng Cầu, con thấy lực lượng cảnh sát phải đông gấp rưỡi buổi sáng. Hình như có bao nhiêu công an trong Quận đều kéo hết đến đây thì phải. Ngả nào cũng đầy công an. Lúc về nhà con mới nghe một cha trong nhà cho biết không kể các lực lượng đặc biệt như cảnh sát cơ động, thì công an 21 phường trong quận Đống Đa đã đựơc huy động đến phiên toà
Khi thấy quá đông cảnh sát vây lấy giáo dân và UBND vòng trong vòng ngoài, con nói với ông lãnh đạo công anh đang đứng cạnh thân nhân của các “tội nhân” và cạnh con rằng: “Các ông đưa nhiều cảnh sát cơ động, trang bị tận răng như thế kia đến đây là không đẹp và không nên! Vì càng làm thế giáo dân tập trung ở đây càng bị kích thích, hơn nữa các ông coi giáo dân chúng tôi bị xử ở toà thì đáng sợ hơn phường trộm cướp giết người, buôn bán ma tuý à?! Có phiên toà nào trên đất nước này mà lại phải cần triển khai và phô trương nhiều bạo lực như thế không? Mà như thế thì cũng đẹp mặt cho chế độ, vì có các nhà báo, nhà ngoại giao người ta đang ở đây cả!” Ông lãnh đạo kia trả lời đại khái rằng có những điều không đơn giản và linh mục không biết được.
Chúng con xếp hàng một đi xuống sân UBND và ra ngoài, giáo dân ùa vào chúc mừng các “tội nhân”, công kênh luật sư Lê Trần Luật, ông Lê Quang Kiện, Phạm Trí Năng và Nguyễn Đắc Hùng.
Ngay ở sân UBND, cảnh sát muốn giáo dân giẽ ngang ngõ tắt về nhà thờ, nhưng giáo dân cứ đường ngay nẻo chính mà đi, dù xa hơn gấp 3 lần. Ra đến khu vực đường Hoàng Cầu, giáo dân vẫn tập trung rất đông, con muốn nói mấy lời với cộng đoàn, con mượn cái loa nén của cảnh sát cơ động, họ bảo không có! May có cha Lê Quang Uy, ngồi từ sáng trên phố cùng giáo dân, đối diện cả ngày với cảnh sát cơ động và vì thế có vẻ hai bên đã biết nhau- cha Uy can thiệp rằng: “Các anh cứ đi tìm loa tay cho ông linh mục này, ông nói là dân họ nghe ngay, họ sẽ về ngay thôi!”.
Thế là mấy cảnh sát cơ động đưa đến một cái loa cực mạnh, một anh cầm phần loa cho con cầm phần micro nói thật nhanh: “Toà xử xong. Không ai tù giam cả! Tù treo tất. Xin anh chị em bình tĩnh và tạ ơn Chúa. Chúng ta biết đây là cuộc xét xử bất công, một bản án bất công, vì anh chị em giáo dân chúng ta vô tội mà toà xử là có tội, nhưng trong đức tin chúng ta chấp nhận. Bây giờ chúng ta xếp hàng một theo tôi về nhà thờ. Chúng ta hát kinh hoà bình”. Khi con vừa cất lên câu đầu tiên, thì mấy anh cảnh sát đến giật lại cái micro của họ khỏi tay con.
Các cha và đoàn giáo dân hồ hởi lên đường về lại nhà thờ theo lối ban sáng đã đi. Con để ý thấy có mấy xe du lịch, loại 30 chỗ, chở cảnh sát cơ động ngồi bên trong đang đậu bên lề đường, có lẽ nhà cầm quyền sợ khi tuyên án, giáo dân phản ứng mạnh cho nên chuẩn bị sẵn lực lượng trợ giúp chăng? Lực lượng này chưa được triển khai xuống phố. Các xe chở chó cũng vẫn còn đậu bên trong hè phố. Lúc về nhà, con có nghe các cha ngồi trên phố kể lại lúc chiều, lực lượng cơ động đang đổ bộ triển khai đội hình trên phố thì bị một quan chức lệnh lên xe trở lại, không hiểu vì sao.
Đi đến giữa phố chúng con gặp cha Giacôbê Nguyễn Văn Lý, quản hạt Hà Nội, Chính xứ Hàm Long, ngài cũng đi bộ cùng chúng con, vượt qua các hàng rào cảnh sát đang chặn buộc đoàn người giẽ phải về nhà thờ qua ngõ tắt. Hàng ngàn người tay cầm lá vạn tuế, hồ hởi, rầm rập tiến bước. Một không khí vui tươi chưa từng có bắt đầu. Nhiều giáo dân phấn khởi thấy không ai bị tù giam đã bắt đầu hô: “Một hai ba vô tội! Một hai ba chiến thắng!” Cảnh sát giao thông và dân phòng chạy theo dẹp đường, một số nhân viên an ninh cũng chạy theo quay phim. Nhiều người ở hai bên đường dừng lại hỏi xem có sự kiện gì, một số giáo dân thợ đang làm thuê hai bên đường cũng đổ ra chào mừng và hỏi thăm kết cục cuộc xét xử và thân phận các giáo dân.
Giáo dân về nhà thờ. Tại sân nhà thờ Cha Bề trên-Chính xứ Mátthêu Vũ Khởi Phụng đã tươi cười đón đoàn rước ra toà trở về. Mọi người tiếp tục chúc mừng các “tội nhân” và các luật sư. Tiếng hô “Chiến thắng! Chiến Thắng! Chiến Thắng!” Vô Tội! Vô tội! Vô Tội!” tiếp tục vang lên! Ai cũng biết và con chắc các cán bộ chính quyền cũng biết sự kiện toà kết án 8 giáo dân phạm tội “huỷ hoại tài sản” và “gây rối trật tự công cộng” là bất công và phi lý, tuy nhiên, toà không áp dụng khung hình phạt tù giam cho các nạn nhân, thì đấy là một thắng lợi bước đầu đối với giáo dân tham gia làm chứng cho công lý!
Quý cha bên toà giám mục cũng sang kịp thời để chúc mừng các nạn nhân và chia vui với cộng đoàn! Thể theo yêu cầu của mọi người hiện diện, 1 thánh lễ đồng tế trọng thể được tổ chức tức thì ngay tại nhà thờ vào lúc 17 h 15. Cùng với các cha trong tu viện, còn có cha Brunô Phạm Bá Quế, GS Chủng viện và cha Antôn Phạm Văn Dũng, Phó Chánh Văn phòng. Sau đó 2 lễ khác tiếp theo vào lúc 18 h 30 và 20 h. Trong các thánh lễ, tiếng hò reo và vỗ tay vang lên không ngừng!
Đang lễ thứ 2 thì ông Thông chồng bà Dung lái xe chở bà Dung, vợ ông và bà Nhi về tới nhà thờ Thái Hà, thế là toàn bộ 8 giáo dân đã được đoàn tụ cùng gia đình và cộng đoàn. Cộng đồng giáo dân trong ngoài nhà thờ đồng loạt vỗ tay chúc mừng và tặng hoa hai người nạn nhân bị giam lâu nhất và bị hình phạt cao nhất của phiên toà.
Trong khi ấy, rất nhiều người đã điện thoại hỏi thăm, chúc mừng và chia vui với các nạn nhân, với tu viện và giáo xứ chúng con. Cũng có rất nhiều người gọi điện báo tin vui đi các nơi và hẹn nơi ăn mừng.
Cuộc tạ ơn tiếp tục bên ngoài thánh lễ ở sân nhà thờ và ở các nơi khác. Nhóm chúc mừng các nạn nhân, nhóm cầu nguyện, nhóm hát thánh ca, nhóm kéo nhau đi ăn mừng, nhóm chia sẻ cho nhau những video và hình ảnh mình quay chụp được. Chúng con thấy chưa bao giờ ở Thái Hà có một buổi tối vui như hôm 8/12 này!
Vui nhất vẫn là các nhóm cầu nguyện ở sân nhà thờ, trước tượng Đức Mẹ mà cộng đoàn gọi là Đức Mẹ Công Lý. Những lời kinh tiếng hát thiết tha, sốt sắng vẫn liên tục được dâng lên ngai toà Đức Mẹ. Cộng đoàn chúng con thực sự tin rằng Đức Mẹ luôn che chở và giữ gìn các con cái của Mẹ và cung vì thế không phải là ngẫu nhiên khi phiên toà diễn ra vào đúng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng là ngày lễ bổn mạng của Nhà Dòng Chúa Cứu Thế.
Chúng con xin cám ơn sự nâng đỡ thiết thực và lời cầu nguyện của Đức Tổng Giám Mục, của Cha Bề Trên Giám Tỉnh DCCT, của quý cha quý thầy trong Tổng Giáo Phận Hà Nội, trong DCCT và của mọi người xa gần quan tâm đến việc đấu tranh cho công lý và hoà bình.
Chúng con xác tín rằng chính nhờ sự hiệp thông nâng đỡ và cầu nguyện ấy mà bạo quyền mới chùn tay trấn áp, anh chị em giáo dân của chúng ta mới đàng hoàng bước ra khỏi nỗi sợ hãi, can đảm làm chứng cho công lý và sự thật và cuối cùng lại được tự do và đoàn tụ với gia đình như hôm nay.
Chúng con xin Đức Tổng Giám Mục, Cha Bề Trên Giám Tỉnh DCCT, quý cha quý thầy trong Tổng Giáo Phận Hà Nội, trong DCCT và mọi của mọi người gần quan tâm đến vụ Thái Hà-Toà Khâm Sứ tiếp tục cầu nguyện cho các giáo dân và các linh mục chúng con./.
Tu viện Thái Hà, ngày 10 tháng 12 năm 2008
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
Đất dòng Thánh Phaolô: Cướp không được xoay qua làm công viên
Vĩnh Long
12:22 13/12/2008
Bổn cũ soạn lại
Các nữ tu Dòng Thánh Phaolô ở Vĩnh Long đã bị đuổi ra khỏi tu viện vì lý do dám nuôi lũ trẻ mồ côi. Quyết định 1958/QĐ.UBT ngày 06/07/1977 của UBND Tỉnh ghi rằng đó "là nơi đào tạo lớp trẻ bất hạnh trở thành lực lượng chống đối cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam" !
Đểu hơn nữa là... Nhà thì mất rồi, mà quyết định tịch thu nhà đến... 28 năm sau mới nhận được ! (27.8.2005). Và cái quyết định hình như lại có bàn tay lông lá của "photoshop" !
Chuyện Tu viện Dòng Thánh Phaolô Vĩnh Long chúng tôi đã đăng rồi trên website cũ, nay mai chúng tôi sẽ đưa lên lại để quý bạn biết rõ đầu đuôi sự kiện. Còn bây giờ thì... mới đây:
Ngày 3.12.2008 UBND Tỉnh Vĩnh Long đã gởi giấy mời Chị Giám Tỉnh lên "trao đổi bàn bạc cụ thể". Giấy mời thì nói thế nhưng đến nơi thì đây là một cuộc HỌP BÁO để công bố... miễn bàn... rằng: đất ấy sẽ thành công viên vì "Dòng Thánh đã từng nói rằng nếu nhà nước sử dụng vào mục đích công cộng sẽ không yêu cầu bồi hoàn".
Công nhận là các bác nhà nước dàn cảnh hơi bị đẹp ! Công bố làm công viên có mặt cả chủ đất cũ nữa đấy nhá, nhà báo nhà đài quay phim chụp hình lia lịa đấy nhá, đồng ý cả làng rồi nhá (không đồng ý thì im mồm) ! Phải công nhận lãnh đạo ta anh hùng, sẵn sàng hiếp đáp các bà sơ và cướp cơm chim của trẻ mồ côi.
Mời các bạn xem bản thông báo của UBND Tỉnh Vĩnh Long:

Các nữ tu Dòng Thánh Phaolô ở Vĩnh Long đã bị đuổi ra khỏi tu viện vì lý do dám nuôi lũ trẻ mồ côi. Quyết định 1958/QĐ.UBT ngày 06/07/1977 của UBND Tỉnh ghi rằng đó "là nơi đào tạo lớp trẻ bất hạnh trở thành lực lượng chống đối cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam" !
Đểu hơn nữa là... Nhà thì mất rồi, mà quyết định tịch thu nhà đến... 28 năm sau mới nhận được ! (27.8.2005). Và cái quyết định hình như lại có bàn tay lông lá của "photoshop" !
Chuyện Tu viện Dòng Thánh Phaolô Vĩnh Long chúng tôi đã đăng rồi trên website cũ, nay mai chúng tôi sẽ đưa lên lại để quý bạn biết rõ đầu đuôi sự kiện. Còn bây giờ thì... mới đây:
Ngày 3.12.2008 UBND Tỉnh Vĩnh Long đã gởi giấy mời Chị Giám Tỉnh lên "trao đổi bàn bạc cụ thể". Giấy mời thì nói thế nhưng đến nơi thì đây là một cuộc HỌP BÁO để công bố... miễn bàn... rằng: đất ấy sẽ thành công viên vì "Dòng Thánh đã từng nói rằng nếu nhà nước sử dụng vào mục đích công cộng sẽ không yêu cầu bồi hoàn".
Công nhận là các bác nhà nước dàn cảnh hơi bị đẹp ! Công bố làm công viên có mặt cả chủ đất cũ nữa đấy nhá, nhà báo nhà đài quay phim chụp hình lia lịa đấy nhá, đồng ý cả làng rồi nhá (không đồng ý thì im mồm) ! Phải công nhận lãnh đạo ta anh hùng, sẵn sàng hiếp đáp các bà sơ và cướp cơm chim của trẻ mồ côi.
Mời các bạn xem bản thông báo của UBND Tỉnh Vĩnh Long:

Đồng hành không đồng điệu
hiền Thạch
14:37 13/12/2008
ĐỒNG HÀNH KHÔNG ĐỒNG ĐIỆU
Cùng tiếp nhịp đồng hành
Với dân tộc của con
Một Việt Nam yêu dấu
Dù ngày mỏi tháng mòn
Nguyện tiếp tục đồng hành
Với đồng bào Việt Nam
Giữa hỗn mang thế sự
Giữa gian trá tà man
Con xác tín đồng hành
Với đồng đạo, chủ chăn
Có Hội Đồng Giám Mục
Khác nào kim chỉ nam
Trong tư thế đồng hành
Với các Thánh tử đạo
Càng bách hại, ngược đãi
Giáo Hội càng trường tồn
Dứt khoát không đồng điệu
Với chủ nghĩa Mác Lê
Một độc chất quái dị
Của thuốc lú bùa mê
Dứt khoát không đồng diệu
Với cộng sản Việt Nam
Một tập đoàn xôi thịt
Gian ác còn ngoa điêu
Dứt khoát không đồng diệu
Với chủ nghĩa Việt gian
Nước tàn hơn mất đảng
Mặc dân oán trời than
Đồng hành không đồng điệu.
Cùng tiếp nhịp đồng hành
Với dân tộc của con
Một Việt Nam yêu dấu
Dù ngày mỏi tháng mòn
Nguyện tiếp tục đồng hành
Với đồng bào Việt Nam
Giữa hỗn mang thế sự
Giữa gian trá tà man
Con xác tín đồng hành
Với đồng đạo, chủ chăn
Có Hội Đồng Giám Mục
Khác nào kim chỉ nam
Trong tư thế đồng hành
Với các Thánh tử đạo
Càng bách hại, ngược đãi
Giáo Hội càng trường tồn
Dứt khoát không đồng điệu
Với chủ nghĩa Mác Lê
Một độc chất quái dị
Của thuốc lú bùa mê
Dứt khoát không đồng diệu
Với cộng sản Việt Nam
Một tập đoàn xôi thịt
Gian ác còn ngoa điêu
Dứt khoát không đồng diệu
Với chủ nghĩa Việt gian
Nước tàn hơn mất đảng
Mặc dân oán trời than
Đồng hành không đồng điệu.
Thư Cộng Đoàn CGVN tại Tiểu Bang Vermont gửi 8 anh chị em ờ Thái Hà
CGVN Vermont
15:02 13/12/2008
CỘNG ĐOÀN CGVN TẠI TIỂU BANG VERMONT GỬI 8 ANH CHỊ EM Ở THÁI HÀ
Thưa Anh Chị Em,
Chúng tôi là những giáo dân Việt Nam hiện đang sinh sống tại tiểu bang Vermont, Hoa Kỳ, nơi cách xa Anh Chị Em đến nửa vòng trái đất. Trong cộng đoàn chúng tôi có nhiều người đã đến Hà Nội nhưng chưa có ai biết đến Thái Hà, địa danh mà ngày nay đã trở nên nổi tiếng, hầu như cả thế giới đều biết đến.
Chúng tôi chỉ bắt đầu nghe nói đến Thái Hà hồi cuối năm ngoái từ khi giáo dân Thái Hà trong đó có Anh Chị Em can đảm đứng lên ngăn chặn mưu toan ăn cướp của bọn cường quyền tham ô. Họ định “thừa nước đục thả câu”, lợi dụng lúc mọi người đang chú tâm đến sự kiện Tòa Khâm sứ, họ toan tính chia chác vớI nhau mảnh đất của Dòng Cứu Thế- Giáo xứ Thái Hà nhưng đã bị giáo dân chặn đứng.
Chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến Thái Hà khi những buổi cầu nguyện để đòi lại tài sản của giáo hội bắt đầu, từ khi “Phố Đức Bà” ngẫu nhiên thành hình, hàng ngày thu hút nhiều người từ khắp nơi đến hiệp thông cầu nguyện với Thái Hà cũng như những biến cố dồn dập diễn ra hàng ngày ở Thái Hà.
Chúng tôi thực sự bất bình khi bạo quyền hạ lệnh bắt bớ Anh Chị Em và dùng bạo lực đàn áp dã man những người đồng đạo chỉ vì họ cầu nguyện trong ôn hòa đòi hỏi trả tự do cho Anh Chị Em. Công cụ đàn áp với giày đinh, dùi cui, roi điện…đã không hề nương tay cả với đàn bà phụ nữ.
Chúng tôi vô cùng phẫn nộ khi bạo quyền ban hành quyết định khởi tố Anh Chị Em với tội danh vô cùng phi lý. Họ cố tình khủng bố tinh thần nhằm làm nhụt nhuệ khí của Anh Chị Em và những người dám đòi hỏi công bằng và công lý nhưng Anh chị Em đã không hề chịu khuất phục.
Chúng tôi đau xót nhưng thán phục Anh Chị Em và giáo dân Thái Hà đã phải đối diện với những trò khiêu khích trắng trợn và bỉ ổi. Anh Chị Em và giáo dân đã nhẫn nhục chịu đựng để khỏi rơi vào bẫy của những mưu đồ đen tối nhưng cũng còn vì muốn noi gương Thầy Chí Thánh. Chúa Giêsu khi xưa đã chịu bỏ vạ cáo gian, bị lăng nhục, bị xỉ vả, bị đánh đập và cuối cùng đã bị đóng đinh trên thập gía. Nhưng trước khi tắt thở Người vẫn xin Đức Chúa Cha tha tôi cho kẻ làm khốn mình. Anh Chị Em đã đi theo đúng đường lối của Thầy Chí Thánh.
Chúng tôi không khỏi lo ngại cho Anh Chị Em trước những thủ đoạn đê tiện và ngang ngược bất chấp lẽ phải đã được tung ra nhằm đè bẹp ý chí của Anh Chị Em trước ngày người ta đem Anh Chị Em ra xét xử.
Cùng với hàng trịệu giáo hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới, Cộng đoàn chúng tôi đã không ngừng cầu nguyện cho Anh Chị Em. Hôm Chúa nhật thứ hai mùa Vọng, tại nhà thờ Đồng Chính Tòa Saint Joseph ở thành phố Burlington, linh mục linh hướng của cộng đoàn đã giảng tĩnh tâm, giúp mọi người dọn mình xưng tội. Trong thánh lễ tiếp theo đó trong phần Lời nguyện giáo dân, Cộng đoàn đã dâng lời cầu nguyện cho các vị chủ chăn và giáo dân Thái Hà đang ở trong những ngày đầy khó khăn. Cuối thánh lễ vào lúc 5 giờ (ở Việt Nam là 5 giờ sang thư hai) tức là chỉ còn 3 tiếng đồng hồ trước giờ khai mạc phiên tòa xét xử Anh Chị Em, toàn thể Cộng đoàn đã hợp ý đọc ba kinh Kính Mừng sốt sắng xin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội gìn giữ và thêm sức mạnh cho Anh Chị Em để Anh chị Em thêm dũng cảm và kiên vững khi ra trước vành móng ngựa.
Chúng tôi vô cùng ngưỡng mộAnh Chị Em khi biết được Anh chị Em đã ăn mặc đẹp đẽ và ngẩng cao đầu bước vào phòng xử như tổ tiên của chúng ta đã hiên ngang tiến ra pháp trường không một chút sợ hãi. Anh Chị Em đã không hề nao núng trước những bộ mặt lạnh như tiền đang muốn áp đảo tinh thần Anh Chị Em. Trước tòa xử Anh Chị Em đã dõng dạc nói lên tiếng nói của sự thật và hiên ngang bênh vực lẽ phải. Anh Chị Em thật xứng đáng là con cháu các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Sau khi phiên tòa chấm dứt, chúng tôi thật vui mừng khi thấy Anh Chị Em ở giữa đoàn người đón rước Anh Chị Em trên đường trở về nhà thờ Thái Hà. Đoàn người đi thật hiên ngang, hùng dũng chẳng khác gì một đoàn quân chiến thắng trở về.
Không biết người ta có thấy hổ thẹn khi sợ bóng sợ gió để rồi lúng ta lúng túng trong việc chọn địa điểm, thay đổi ngày xét xử cũng như đã phải bố trí một lực lượng hùng hậu để răn đe trong thời gian diễn ra phiên tòa xử Anh Chị Em?
Không biết người ta có thấy bẽ mặt trước những hình ảnh được gửi đi khắp nơi với hai nét tương phản. Một bên là một lực lượng trang bị đến tận răng. Còn một bên là những giáo dân đến ủng hộ Anh chị Em trên tay chỉ với cành thiên tuế?
Không biết người ta có biết họ đang làm trò cười cho thế giới qua phiên tòa 8/12? Trong phòng xử công an chìm nổi chiếm gần hết chỗ ngồi không còn chỗ cho thân nhân và bạn hữu của người bị xét xử. Bên ngoài lực lượng trấn áp vẻ mặt đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người khác. Trong lúc trên nét mặt những giáo dân đến ủng hộ Anh Chị Em lại thật thanh thản, rạng rỡ.
Chúng tôi xin chúc mừng Anh Chị Em, không phải vì những mức án đã được tưyên cho Anh Chị Em. Nhưng chúc mừng về thái độ qủa cảm và những lời lẽ thẳng thắn của Anh Chị Em trước phiên xử.
Xin cám ơn Anh Chị Em đã sẵn sàng chấp nhận mọi thiệt thòi về phần mình để làm chứng cho Sự thật, Công bằng và Công lý. Qua vụ án Thái Hà Anh Chị Em đã chỉ rõ cho mọi người điều này: bạo lực và thủ đoạn không bao giờ khuất phục được những người đã có niềm tin sắt đá.
Nhân mùa Gíang sinh sắp đến xin kính chúc Anh Chị Em, kính chúc các vị chủ chăn và giáo dân Thái Hà một mùa Giáng sinh an bình và hạnh phúc như lời hoan ca của Thiên thần thuở nào:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
Vermont 13/12/2008
Linh hướng Cộng đoàn: Linh mục Đaminh Nguyễn
Đại diện Cộng đoàn: Gioan Baotixita Lại Thế Lãng
Thưa Anh Chị Em,
Chúng tôi là những giáo dân Việt Nam hiện đang sinh sống tại tiểu bang Vermont, Hoa Kỳ, nơi cách xa Anh Chị Em đến nửa vòng trái đất. Trong cộng đoàn chúng tôi có nhiều người đã đến Hà Nội nhưng chưa có ai biết đến Thái Hà, địa danh mà ngày nay đã trở nên nổi tiếng, hầu như cả thế giới đều biết đến.
Chúng tôi chỉ bắt đầu nghe nói đến Thái Hà hồi cuối năm ngoái từ khi giáo dân Thái Hà trong đó có Anh Chị Em can đảm đứng lên ngăn chặn mưu toan ăn cướp của bọn cường quyền tham ô. Họ định “thừa nước đục thả câu”, lợi dụng lúc mọi người đang chú tâm đến sự kiện Tòa Khâm sứ, họ toan tính chia chác vớI nhau mảnh đất của Dòng Cứu Thế- Giáo xứ Thái Hà nhưng đã bị giáo dân chặn đứng.
Chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến Thái Hà khi những buổi cầu nguyện để đòi lại tài sản của giáo hội bắt đầu, từ khi “Phố Đức Bà” ngẫu nhiên thành hình, hàng ngày thu hút nhiều người từ khắp nơi đến hiệp thông cầu nguyện với Thái Hà cũng như những biến cố dồn dập diễn ra hàng ngày ở Thái Hà.
Chúng tôi thực sự bất bình khi bạo quyền hạ lệnh bắt bớ Anh Chị Em và dùng bạo lực đàn áp dã man những người đồng đạo chỉ vì họ cầu nguyện trong ôn hòa đòi hỏi trả tự do cho Anh Chị Em. Công cụ đàn áp với giày đinh, dùi cui, roi điện…đã không hề nương tay cả với đàn bà phụ nữ.
Chúng tôi vô cùng phẫn nộ khi bạo quyền ban hành quyết định khởi tố Anh Chị Em với tội danh vô cùng phi lý. Họ cố tình khủng bố tinh thần nhằm làm nhụt nhuệ khí của Anh Chị Em và những người dám đòi hỏi công bằng và công lý nhưng Anh chị Em đã không hề chịu khuất phục.
Chúng tôi đau xót nhưng thán phục Anh Chị Em và giáo dân Thái Hà đã phải đối diện với những trò khiêu khích trắng trợn và bỉ ổi. Anh Chị Em và giáo dân đã nhẫn nhục chịu đựng để khỏi rơi vào bẫy của những mưu đồ đen tối nhưng cũng còn vì muốn noi gương Thầy Chí Thánh. Chúa Giêsu khi xưa đã chịu bỏ vạ cáo gian, bị lăng nhục, bị xỉ vả, bị đánh đập và cuối cùng đã bị đóng đinh trên thập gía. Nhưng trước khi tắt thở Người vẫn xin Đức Chúa Cha tha tôi cho kẻ làm khốn mình. Anh Chị Em đã đi theo đúng đường lối của Thầy Chí Thánh.
Chúng tôi không khỏi lo ngại cho Anh Chị Em trước những thủ đoạn đê tiện và ngang ngược bất chấp lẽ phải đã được tung ra nhằm đè bẹp ý chí của Anh Chị Em trước ngày người ta đem Anh Chị Em ra xét xử.
Cùng với hàng trịệu giáo hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới, Cộng đoàn chúng tôi đã không ngừng cầu nguyện cho Anh Chị Em. Hôm Chúa nhật thứ hai mùa Vọng, tại nhà thờ Đồng Chính Tòa Saint Joseph ở thành phố Burlington, linh mục linh hướng của cộng đoàn đã giảng tĩnh tâm, giúp mọi người dọn mình xưng tội. Trong thánh lễ tiếp theo đó trong phần Lời nguyện giáo dân, Cộng đoàn đã dâng lời cầu nguyện cho các vị chủ chăn và giáo dân Thái Hà đang ở trong những ngày đầy khó khăn. Cuối thánh lễ vào lúc 5 giờ (ở Việt Nam là 5 giờ sang thư hai) tức là chỉ còn 3 tiếng đồng hồ trước giờ khai mạc phiên tòa xét xử Anh Chị Em, toàn thể Cộng đoàn đã hợp ý đọc ba kinh Kính Mừng sốt sắng xin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội gìn giữ và thêm sức mạnh cho Anh Chị Em để Anh chị Em thêm dũng cảm và kiên vững khi ra trước vành móng ngựa.
Chúng tôi vô cùng ngưỡng mộAnh Chị Em khi biết được Anh chị Em đã ăn mặc đẹp đẽ và ngẩng cao đầu bước vào phòng xử như tổ tiên của chúng ta đã hiên ngang tiến ra pháp trường không một chút sợ hãi. Anh Chị Em đã không hề nao núng trước những bộ mặt lạnh như tiền đang muốn áp đảo tinh thần Anh Chị Em. Trước tòa xử Anh Chị Em đã dõng dạc nói lên tiếng nói của sự thật và hiên ngang bênh vực lẽ phải. Anh Chị Em thật xứng đáng là con cháu các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Sau khi phiên tòa chấm dứt, chúng tôi thật vui mừng khi thấy Anh Chị Em ở giữa đoàn người đón rước Anh Chị Em trên đường trở về nhà thờ Thái Hà. Đoàn người đi thật hiên ngang, hùng dũng chẳng khác gì một đoàn quân chiến thắng trở về.
Không biết người ta có thấy hổ thẹn khi sợ bóng sợ gió để rồi lúng ta lúng túng trong việc chọn địa điểm, thay đổi ngày xét xử cũng như đã phải bố trí một lực lượng hùng hậu để răn đe trong thời gian diễn ra phiên tòa xử Anh Chị Em?
Không biết người ta có thấy bẽ mặt trước những hình ảnh được gửi đi khắp nơi với hai nét tương phản. Một bên là một lực lượng trang bị đến tận răng. Còn một bên là những giáo dân đến ủng hộ Anh chị Em trên tay chỉ với cành thiên tuế?
Không biết người ta có biết họ đang làm trò cười cho thế giới qua phiên tòa 8/12? Trong phòng xử công an chìm nổi chiếm gần hết chỗ ngồi không còn chỗ cho thân nhân và bạn hữu của người bị xét xử. Bên ngoài lực lượng trấn áp vẻ mặt đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người khác. Trong lúc trên nét mặt những giáo dân đến ủng hộ Anh Chị Em lại thật thanh thản, rạng rỡ.
Chúng tôi xin chúc mừng Anh Chị Em, không phải vì những mức án đã được tưyên cho Anh Chị Em. Nhưng chúc mừng về thái độ qủa cảm và những lời lẽ thẳng thắn của Anh Chị Em trước phiên xử.
Xin cám ơn Anh Chị Em đã sẵn sàng chấp nhận mọi thiệt thòi về phần mình để làm chứng cho Sự thật, Công bằng và Công lý. Qua vụ án Thái Hà Anh Chị Em đã chỉ rõ cho mọi người điều này: bạo lực và thủ đoạn không bao giờ khuất phục được những người đã có niềm tin sắt đá.
Nhân mùa Gíang sinh sắp đến xin kính chúc Anh Chị Em, kính chúc các vị chủ chăn và giáo dân Thái Hà một mùa Giáng sinh an bình và hạnh phúc như lời hoan ca của Thiên thần thuở nào:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
Vermont 13/12/2008
Linh hướng Cộng đoàn: Linh mục Đaminh Nguyễn
Đại diện Cộng đoàn: Gioan Baotixita Lại Thế Lãng
Hiệp thông và Tự hào
Hạnh Nguyên
15:06 13/12/2008
Hiệp Thông và Tự Hào
Phiên tòa xét xử 8 giáo dân Thái Hà, cứ coi như là khép lại ( mặc dù tòa chưa xử phúc thẩm). Bản thân tôi thật sự không tin được kết quả bản án dành cho các giáo dân. Tôi đi tìm lý giãi, tại sao có sự nhượng bộ dễ thương đến như vậy của chính quyền Hà Nội, và tại sao họ lại hiền lành với việc, được dịp phán xử, dù là gián tiếp qua 8 giáo dân Thái Hà, phủ đầu dằn mặt đức TGM Kiệt và các cha DCCT.
Vẫn biết rằng, người cộng sản thấm đòn, đau đầu về câu nói đầy tính tiên tri: " nhục nhã..." của TGM Kiệt trước UBND thành phố Hà Nội.
- Vụ Cộng Hòa Séc không cấp Visa cho người Việt Nam.
- Vụ việc bà Bí thư thứ nhất của Tòa Đại sứ Quán VN tại Nam Phi, Vũ Mộc Anh, buôn lậu sừng tê giác, bị hệ thống truyền hình của Nam Phi phát hiện.
- Kết án hai nhà báo, đưa PMU 18 làm điển hình tham nhũng.
- Đảo Hoàng Sa, Trường Sa và mới đây là các đảo nhỏ thuộc đảo Côn Sơn bi Trung Quốc xâm phạm và dành chủ quyền. Nhất là sự mạnh miệng khẳng định: 70% Biển Đông là của Trung Quốc.
- Vụ án PCI, đại lộ Đông Tây đưa hối lộ, dẫn đến kết quả Nhật ngưng cấp vốn ODA không thời hạn.
- Và mới nhất là, Nhà Nước Hồi Giáo Quatar ngừng cấp Visa cho lao động VN.
-. ..
Không phải là một phép liệt kê, nhưng tôi vẫn lấy làm lạ, là tại sao nhiều nổi nhục liên tục đến như vậy, chỉ trong vòng 70 ngày ( từ ngày 20/09/2008 ).
"Ưu Sầu và Lo Lắng", "Vui Mừng và Hy Vọng", vượt lên trên tất cả, sau vụ xử 8 giáo dân Thái Hà, tôi thật sự vô cùng tự hào:
- Là người công giáo VN, sau biến cố 1945 luôn sống trong ách lầm than, không có tiếng nói, chịu cảnh mất đất, mất nhà thờ, mất tu viện, mất các cơ sở y tế, giáo dục.Thích đối thọai chân thành, dù vẫn biết mình đối thọai trên thế yếu, đối thoại của kẻ chỉ biết cúi mặt.
Tự hào thay người Công giáo VN - Thái Hà, thời điểm 08/12/2008 đã biết ngẫng cao đầu. Và âm vang Thái Hà đã vọng khắp cùng bờ cõi trái đất.
- Ngay từ buổi đầu Sáng Thế, Thiên Chúa đã hứa ban cho con - người - phận - nhỏ, một Người - Mẹ - Vĩ - Đại, Maria, Mẹ của Công Lý và Sự Thật.
Chúng ta rất tự hào vì có một người Cha nhân hậu và yêu thương vô cùng.
- Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và định ngày mừng 08/12, ngày mà cả giáo phận Hà Nội, người công giáo VN và được toàn thế giới hiệp thông, tin rằng " Mẹ tôi vô tội ".
Xin cám ơn Đức PIÔ IX và tự hào thay chân lý cao cả của Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
- Ngày 8/12 luôn luôn nằm trong mùa Vọng, mùa trông chờ Mặt Trời Công lý và Ánh Sáng Sự Thật, từ nơi Đức KiTô giáng trần chiếu rọi muôn dân..
- Bài học " nhục nhã " mà Đức TGM Kiệt ban cho UBND Hà Nội, đựoc nối tiếp bằng bài học " tự hào" qua vụ xử người công giáo VN - Thái Hà: cho thấy lòng kiện định và tinh thần đoàn kết, ý thức phản kháng mãnh liệt chống lại sự bất công, cái xấu trong xã hội, niềm tin không gì lay chuyển vào công lý và sự thật, dẫu có thịt nát xương tan.
63 năm đã qua rồi, người công giáo VN " Gieo trong lệ sầu " thì thời điểm 08/12/2008 là " Gặt trong hân hoan"
- 8 giáo dân Thái Hà ăn mặc lịch sự, giống như đi trẫy hội chùa Hương, nói năng đối đáp dõng dạc y như hát Quan Họ, một điều hiếm thấy nơi chốn công đường, hiên ngang ngẫng cao đầu trong phiên tòa. Tôi thật bái phục và ngàn lần, vạn lần tự hào lắm thay.
- Tư hào vô cùng hình ảnh em bé hiên ngang cõng trên lưng biểu ngữ vô tội, vẫn buớc tới trên đôi chân thánh thoát diệu kỳ. Tay cầm nhành lá Thiên Tuế, chiến thắng đi giữa rừng người áo xanh. Đẹp hết sức tưởng tưởng hình ảnh đầy tính tương phản và đối xứng này.
Tôi vẫn tin rằng vào những thời điểm ngặt nghèo nhất, vô vọng nhất của dân tộc, sự thật và công lý vẫn tồn tại chứ không mất đi trên mãnh đất VN nhỏ bé này.
Đến lượt người CSVN, họ phải làm gì đó cho sự thật và công lý. Bởi vì, thái độ và cách hành xử của thế giới đối với VN hiện tại, CSVN cần phãi tự soi rọi lại mình và kịp thời thay đổi.
Tôi không anh hùng như giáo dân Hà Nội.
Tôi không hiên ngang trước tòa như giáo dân Thái Hà.
Tôi không dám dõng dạc nói lời ngay lẽ phải.
Nhưng tôi vẫn biết tự hào và thật sự, tôi tự hào vô cùng....
Phiên tòa xét xử 8 giáo dân Thái Hà, cứ coi như là khép lại ( mặc dù tòa chưa xử phúc thẩm). Bản thân tôi thật sự không tin được kết quả bản án dành cho các giáo dân. Tôi đi tìm lý giãi, tại sao có sự nhượng bộ dễ thương đến như vậy của chính quyền Hà Nội, và tại sao họ lại hiền lành với việc, được dịp phán xử, dù là gián tiếp qua 8 giáo dân Thái Hà, phủ đầu dằn mặt đức TGM Kiệt và các cha DCCT.
Vẫn biết rằng, người cộng sản thấm đòn, đau đầu về câu nói đầy tính tiên tri: " nhục nhã..." của TGM Kiệt trước UBND thành phố Hà Nội.
- Vụ Cộng Hòa Séc không cấp Visa cho người Việt Nam.
- Vụ việc bà Bí thư thứ nhất của Tòa Đại sứ Quán VN tại Nam Phi, Vũ Mộc Anh, buôn lậu sừng tê giác, bị hệ thống truyền hình của Nam Phi phát hiện.
- Kết án hai nhà báo, đưa PMU 18 làm điển hình tham nhũng.
- Đảo Hoàng Sa, Trường Sa và mới đây là các đảo nhỏ thuộc đảo Côn Sơn bi Trung Quốc xâm phạm và dành chủ quyền. Nhất là sự mạnh miệng khẳng định: 70% Biển Đông là của Trung Quốc.
- Vụ án PCI, đại lộ Đông Tây đưa hối lộ, dẫn đến kết quả Nhật ngưng cấp vốn ODA không thời hạn.
- Và mới nhất là, Nhà Nước Hồi Giáo Quatar ngừng cấp Visa cho lao động VN.
-. ..
Không phải là một phép liệt kê, nhưng tôi vẫn lấy làm lạ, là tại sao nhiều nổi nhục liên tục đến như vậy, chỉ trong vòng 70 ngày ( từ ngày 20/09/2008 ).
"Ưu Sầu và Lo Lắng", "Vui Mừng và Hy Vọng", vượt lên trên tất cả, sau vụ xử 8 giáo dân Thái Hà, tôi thật sự vô cùng tự hào:
- Là người công giáo VN, sau biến cố 1945 luôn sống trong ách lầm than, không có tiếng nói, chịu cảnh mất đất, mất nhà thờ, mất tu viện, mất các cơ sở y tế, giáo dục.Thích đối thọai chân thành, dù vẫn biết mình đối thọai trên thế yếu, đối thoại của kẻ chỉ biết cúi mặt.
Tự hào thay người Công giáo VN - Thái Hà, thời điểm 08/12/2008 đã biết ngẫng cao đầu. Và âm vang Thái Hà đã vọng khắp cùng bờ cõi trái đất.
- Ngay từ buổi đầu Sáng Thế, Thiên Chúa đã hứa ban cho con - người - phận - nhỏ, một Người - Mẹ - Vĩ - Đại, Maria, Mẹ của Công Lý và Sự Thật.
Chúng ta rất tự hào vì có một người Cha nhân hậu và yêu thương vô cùng.
- Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và định ngày mừng 08/12, ngày mà cả giáo phận Hà Nội, người công giáo VN và được toàn thế giới hiệp thông, tin rằng " Mẹ tôi vô tội ".
Xin cám ơn Đức PIÔ IX và tự hào thay chân lý cao cả của Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
- Ngày 8/12 luôn luôn nằm trong mùa Vọng, mùa trông chờ Mặt Trời Công lý và Ánh Sáng Sự Thật, từ nơi Đức KiTô giáng trần chiếu rọi muôn dân..
- Bài học " nhục nhã " mà Đức TGM Kiệt ban cho UBND Hà Nội, đựoc nối tiếp bằng bài học " tự hào" qua vụ xử người công giáo VN - Thái Hà: cho thấy lòng kiện định và tinh thần đoàn kết, ý thức phản kháng mãnh liệt chống lại sự bất công, cái xấu trong xã hội, niềm tin không gì lay chuyển vào công lý và sự thật, dẫu có thịt nát xương tan.
63 năm đã qua rồi, người công giáo VN " Gieo trong lệ sầu " thì thời điểm 08/12/2008 là " Gặt trong hân hoan"
- 8 giáo dân Thái Hà ăn mặc lịch sự, giống như đi trẫy hội chùa Hương, nói năng đối đáp dõng dạc y như hát Quan Họ, một điều hiếm thấy nơi chốn công đường, hiên ngang ngẫng cao đầu trong phiên tòa. Tôi thật bái phục và ngàn lần, vạn lần tự hào lắm thay.
- Tư hào vô cùng hình ảnh em bé hiên ngang cõng trên lưng biểu ngữ vô tội, vẫn buớc tới trên đôi chân thánh thoát diệu kỳ. Tay cầm nhành lá Thiên Tuế, chiến thắng đi giữa rừng người áo xanh. Đẹp hết sức tưởng tưởng hình ảnh đầy tính tương phản và đối xứng này.
Tôi vẫn tin rằng vào những thời điểm ngặt nghèo nhất, vô vọng nhất của dân tộc, sự thật và công lý vẫn tồn tại chứ không mất đi trên mãnh đất VN nhỏ bé này.
Đến lượt người CSVN, họ phải làm gì đó cho sự thật và công lý. Bởi vì, thái độ và cách hành xử của thế giới đối với VN hiện tại, CSVN cần phãi tự soi rọi lại mình và kịp thời thay đổi.
Tôi không anh hùng như giáo dân Hà Nội.
Tôi không hiên ngang trước tòa như giáo dân Thái Hà.
Tôi không dám dõng dạc nói lời ngay lẽ phải.
Nhưng tôi vẫn biết tự hào và thật sự, tôi tự hào vô cùng....
Vinh danh các giáo dân Hà Nội và Thái Hà
Sàigòn Viễn Tử
17:09 13/12/2008
VINH DANH CÁC GIÁO DÂN HÀ NỘI VÀ THÁI HÀ,
NHỮNG NGƯỜI MANG DÒNG MÁU ANH HÙNG BẤT KHUẤT
1-Tiếng chuông Thái Hà
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi kinh hoảng!
Đồng bào ơi! Đất Nhà Chung Cộng nó chiếm mất rồi!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi phẫn nộ!
Đồng bào ơi! Đức tin đang nguy khốn bởi Cộng nô!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi giục giã!
Đồng bào ơi! Lũ côn đồ giả dạng phá Thánh gia!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi ô nhục!
Đồng bào ơi! Công an nào phục vụ lũ du côn!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi lệ ướt!
Đồng bào ơi! Những roi đòn đẫm nước mắt quê tôi!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi thất vọng!
Đồng bào ơi! Kinh Hòa Bình tại sao lại phạm pháp!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi chán nản!
Đồng bào ơi! Nạn nhân oan, đòi lại đất, ra tòa!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi uy dũng!
Đồng bào ơi! Hãy cùng nhau đòi lại đất của chung.
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi hứa hẹn!
Đồng bào ơi! Tiếng kêu gào đã được Thế giới lắng nghe.
2-Các nạn nhân của Chế độ Vô Thần
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Nhi bị xử án,
Tội đọc kinh, gây rối trật tự công!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Dung bị tố khổ,
Mở kẽm gai là phá hoại tài sản!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Việt mang bản án,
Mở tường rào tội phá hoại của công!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Hợi bị xử phạt,
Phá rối trật tự, cải tạo không tù!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy ông Năng, ông Kiện bị tuyên án,
Huỷ hoại tài sản, cải tạo không giam.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy anh Hùng, anh Hải bị phạt,
Cùng một tội những can phạm kể trên.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy quan tòa bừng bừng vung búa đập,
Đọc kinh là phá trật tự, trị an!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy quan tòa điên tiết kêu bản án,
Tù treo! Cho ai dám đòi đất lại!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy nạn nhân ra tòa không sợ hãi,
Quần áo bảnh bang, e gì lẽ phải.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy những người dân lương thiện, hiền hòa,
Đứng đầy đường, mặc công an đe dọa.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy quá hiên ngang người có đạo,
Không án nào khuất phục được dân gian.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy dân lành hô to lời phản đối,
Cha tôi, anh em, chồng tôi vô tội.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy dân trong, ngoài, đồng một ca khúc,
Tự do, nhân quyền, dân chủ, Việt Nam.
3-Vinh danh các người con của Chúa
Vinh danh bà Hợi, bà Dung, bà Việt, bà Nhi,
Vinh danh ông Kiện, ông Năng, anh Hùng, anh Hải.
Đã oai hùng xưng tụng Đức Tin,
Đã bền gan đấu tranh đòi đất,
Đã bất chấp roi đòn, hạ nhục,
Đã coi thường tù ngục, án treo,
Đồng đứng lên một lời nguyện ước,
Đòi cho được đất Tổ, Ông, Cha.
Vinh danh, vinh danh, các bà mẹ,
Vinh danh cha, anh, em, chú, bác,
Lịch sử vàng chói lọi đã đề tên,
Thành tích ấy muôn đời in dấu tích,
Thành quả này vang khắp chốn, nơi nơi,
Cả Thế giới đang hướng về các bạn.
NHỮNG NGƯỜI MANG DÒNG MÁU ANH HÙNG BẤT KHUẤT
1-Tiếng chuông Thái Hà
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi kinh hoảng!
Đồng bào ơi! Đất Nhà Chung Cộng nó chiếm mất rồi!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi phẫn nộ!
Đồng bào ơi! Đức tin đang nguy khốn bởi Cộng nô!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi giục giã!
Đồng bào ơi! Lũ côn đồ giả dạng phá Thánh gia!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi ô nhục!
Đồng bào ơi! Công an nào phục vụ lũ du côn!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi lệ ướt!
Đồng bào ơi! Những roi đòn đẫm nước mắt quê tôi!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi thất vọng!
Đồng bào ơi! Kinh Hòa Bình tại sao lại phạm pháp!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi chán nản!
Đồng bào ơi! Nạn nhân oan, đòi lại đất, ra tòa!
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi uy dũng!
Đồng bào ơi! Hãy cùng nhau đòi lại đất của chung.
Hôm qua tôi nghe, nghe chuông Thái Hà đổ từng hồi, từng hồi hứa hẹn!
Đồng bào ơi! Tiếng kêu gào đã được Thế giới lắng nghe.
2-Các nạn nhân của Chế độ Vô Thần
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Nhi bị xử án,
Tội đọc kinh, gây rối trật tự công!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Dung bị tố khổ,
Mở kẽm gai là phá hoại tài sản!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Việt mang bản án,
Mở tường rào tội phá hoại của công!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy bà Hợi bị xử phạt,
Phá rối trật tự, cải tạo không tù!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy ông Năng, ông Kiện bị tuyên án,
Huỷ hoại tài sản, cải tạo không giam.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy anh Hùng, anh Hải bị phạt,
Cùng một tội những can phạm kể trên.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy quan tòa bừng bừng vung búa đập,
Đọc kinh là phá trật tự, trị an!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy quan tòa điên tiết kêu bản án,
Tù treo! Cho ai dám đòi đất lại!
Hôm nay tôi đã thấy, thấy nạn nhân ra tòa không sợ hãi,
Quần áo bảnh bang, e gì lẽ phải.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy những người dân lương thiện, hiền hòa,
Đứng đầy đường, mặc công an đe dọa.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy quá hiên ngang người có đạo,
Không án nào khuất phục được dân gian.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy dân lành hô to lời phản đối,
Cha tôi, anh em, chồng tôi vô tội.
Hôm nay tôi đã thấy, thấy dân trong, ngoài, đồng một ca khúc,
Tự do, nhân quyền, dân chủ, Việt Nam.
3-Vinh danh các người con của Chúa
Vinh danh bà Hợi, bà Dung, bà Việt, bà Nhi,
Vinh danh ông Kiện, ông Năng, anh Hùng, anh Hải.
Đã oai hùng xưng tụng Đức Tin,
Đã bền gan đấu tranh đòi đất,
Đã bất chấp roi đòn, hạ nhục,
Đã coi thường tù ngục, án treo,
Đồng đứng lên một lời nguyện ước,
Đòi cho được đất Tổ, Ông, Cha.
Vinh danh, vinh danh, các bà mẹ,
Vinh danh cha, anh, em, chú, bác,
Lịch sử vàng chói lọi đã đề tên,
Thành tích ấy muôn đời in dấu tích,
Thành quả này vang khắp chốn, nơi nơi,
Cả Thế giới đang hướng về các bạn.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Một góp ý về cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay
Lm Nguyễn Hữu Thy
11:31 13/12/2008
Một góp ý về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện tại:
Lòng ham hố tiền bạc là nguyên nhân sự khủng hoảng, chứ không phải tiền bạc
Cơn khủng hoảng hiện tại của hệ thống tài chính thế giới đang là một thách đố hết sức nguy hiểm không những đối với sự thịnh vượng của nhiều nước trên thế giới, mà còn đối với sự sống còn và nền hòa bình chung của cả nhân loại. Tuy nhiên, cơn khủng hoảng đó cũng có thể là một vận may cho thế giới để phát huy một trật tự kinh tế mới được dựa trên những tư duy nền tảng của nền kinh tế thị trường mang tính cách xã hội chân chính và của những học thuyết về xã hội của Giáo Hội Công Giáo.
Thật vậy, tất cả mọi cơn khủng khoảng không nhất thiết là những con đường một chiều nghiệt ngã đưa đẩy vào chỗ suy thoái và diệt vong, nhưng còn chứa đựng những vận may mới. Tất cả đều tuỳ thuộc vào cách giải quyết của con người, nhất là những ai có trách nhiệm trực tiếp trong vất đề, như các chính phủ, các nhà chính trị, các chủ ngân hàng, các người nắm giữ thị trường tài chính, các thương gia và doanh nghiệp, v.v… Người ta cần phải lợi dụng những cơn khủng hoảng như những thách đố để vượt lên trên những tương quan đã gây ra những cơn khủng hoảng đó. Lý thuyết gia về văn hóa và triết gia về sử học người Anh Arnold joseph Toynbee (1852-1975) đã nhìn thấy trong sự thách đố của con người qua các cơn khủng hoảng sâu xa và trong sự thắng vượt có tính cách sáng tạo một nguyên nhân quyết định về sự phát triển văn hóa: Nếu con người biết nắm bắt lấy sự thách đố và tìm ra được câu trả lời cần thiết cho vấn đề, bấy giờ những thách đố qua các cơn khủng hoảng sẽ trở thành những động lực quyết định thúc đẩy sự tiếp tục phát triển nền văn hóa con người.
Điều đó cũng hoàn toàn có thể áp dụng vào những cơn khủng hoảng tài chính như cơn khủng hoảng hiện nay mà cả thế giới đang phải đối mặt. Nhìn lui về quá khứ, những cơn khủng hoảng kinh tế trước đây vào thế kỷ XIX và thế kỷ XX cũng đã là những động cơ cho việc làm khởi phát sự kiện toàn các phương tiện về sự bình quân thuế khóa và sự ổn định hệ thống tài chính thế giới. Thật vậy, do cơn khủng hoảng kinh tế vào các năm 20 và 30 trong thế kỷ trước đã làm nảy sinh Thỏa ước Bretton Woods (1944) tại Tiểu bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Chính ở đây các đại biểu của các nước tham dự đã quyết định hai sự kiện quan trọng liên quan đến nền kinh tế thế giới, đó là thiết lập Quỹ tiền tệ thế giới IMF (International Monetery Fund) và Ngân hàng thế giới WB (the World Bank) để giữ thăng bằng cán cân chính trị tài chính trên thế giới và hỗ trợ các quốc gia đang trên đường phát triển.
Tuy nhiên, công việc cải tiến như thế phát xuất từ các khủng hoảng từ trước tới nay đã chưa thành công được trong việc hoàn toàn loại bỏ được những nguyên nhân của sự khủng hoảng sẽ xảy ra trong tương lai. Theo quan điểm của một số các nhà chuyên môn về chủ thuyết tư bản thì chương trình đó sẽ không bao giờ thành công được. Vì thế, tiến sĩ Wolfgang Treeck, giám đốc viện khoa học Max-Planck-Institut ở Köln chuyên ngành nghiên cứu về xã hội đã viết: Điều bí ẩn to lớn của chủ thuyết tư bản không phải là «tại sao lại có những khủng hoảng xảy ra, nhưng là làm thế nào lại xuất hiện điều mà xem ra có vẻ như là sự ổn định». Một điều mà người ta có thể khẳng định được một cách chắc chắn là chủ thuyết tư bản sẽ không thể mang lại một trật tự xã hội ổn định được, trừ khi «yếu tính của chủ thuyết tư bản không ngừng biến thể và được cải thiện». Chủ thuyết tư bản không phải là trật tự, nhưng là «một sự vô trật tự được cơ chế hóa; không phải là sự ổn định mong chờ, nhưng là trong tình trạng biến động liên tục.»
1) Thiết lập quyền tối thượng của chính trị
Sự xác định đầy tính cách cảnh tỉnh như trên đã cho thấy rằng sự khủng hoảng tài chính hiện ở hầu hết các nước trên thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng như thế nào và hậu quả do sự khủng hoảng gây ra to lớn ra sao. Vì thế, phạm vi vấn đề còn bao quát và rộng lớn rất nhiều, chứ không chỉ là việc tìm cách cứu vãn các Nhà ngân hàng và định chế tiền tệ. Vấn đề trọng yếu ở đây là sự sống còn của con người. Do đó, Streeck cũng nhìn thấy rằng không có giải pháp nào khác ngoài sự nổ lực hiện tại của các quốc gia đang lo tìm cách không để cho hệ thống tài chính thế giới bị sụp đổ hoàn toàn. «Trong trường hợp quá khẩn cấp, nền chính trị dân chủ không có sự lựa chọn nào khác hơn là sự xóa nợ cho từng lớp thượng lưu điều khiển các thị trường tài chính.»
Qua đó một câu hỏi được coi như là trọng tâm của sự thách đố hiện tại được đặt ra là: «Phải chăng tình trạng có thể cứ tiếp tục do giai cấp thượng lưu của các thị trường tài chính nắm giữ?» Hay: Các thị trường tài chính tùy thuộc một sự «dân chủ hóa» mạnh mẽ hơn nữa theo nghĩa là phải rõ ràng minh bạch, phải được kiểm soát và phải có tường trình hẳn hoi? Mức độ rộng lớn của sự khủng hoảng cho thấy rằng biện pháp như thế là rất cần thiết. Đối với những người từng quan sát công việc doanh thương của từng lớp thượng lưu của thị trường tài chính với nhãn quan dân chủ, thì vấn đề thật không thể chấp nhận được, khi hằng ngày số «tư bản» ảo hoàn toàn được tự do lưu hành trên khắp thế giới bằng những con đường điện tử, chứ không hề bị kiểm soát, trong các giao dịch thuộc lãnh vực tài chính, kể cả ngân sách của tất cả quốc gia Tây phương.
Theo giáo sư kinh tế học Joseph A. Schumpeter, thì nếu chính trị không muốn đầu hàng trước «khả năng sáng tạo mang tính cách phá hoại» của chủ nghĩa tư bản, thì câu trả lời của chính trị phải hết sức bao quát rộng rãi, chứ không chỉ là sự cố gắng ngăn chặn không cho xảy ra sự sụp đổ mang tính cách toàn cầu. Đó chính là điểm quyết định. Chính trị cần phải ý thức rằng mình luôn bị đặt trước thách đố là không dây mình vào khuynh hướng phá hoại và tính tham lam của chủ thuyết tư bản, hay ít ra là biết làm chủ được những khuynh hướng đó của tư bản.
Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là phải tìm cách loại trừ chủ nghĩa tư bản và các thị trường tài chính bằng mọi giá, nhưng vấn để được đặt ra ở đây là sự tổ chức chủ thuyết tư bản và các thị trường tài chính một cách hợp lý trong phương diện chính trị. Nói cách khác, vấn đề ở đây là cần phải thiết lập lại quyền tối thượng của chính trị cả trên những sự kiện của thị trường tài chính. Chính trị phải chủ tâm và đủ điều kiện để đặt ra cho sự kiện thị trường những điều kiện nằm trong khuôn khổ sự đồng thuận hợp lý. Để được như vậy, điều kiện tất yếu là phải có một nhà nước mạnh, nghĩa là một nhà nước không bất lực hay bị lép vế trước các sức mạnh thị trường.
Đó chính là những tư tưởng nền tảng của kinh tế thị trường mang tính cách xã hội, mà vào các năm 30 và 40 của thế kỷ vừa qua đã được các nhà kinh tế học - như Franz Böhm, Walter Euken, Friedrich A. von Hayek, Alfred Müller-Armack, Wilhelm Röpke và Alexander Rüstow - đã triển khai trên phương diện lý thuyết và sau năm 1949 thì được Ludwig Erhard, nhà tài chính lỗi lạc người Đức, đưa ra áp dụng trong chương trình chính trị cụ thể về tài chính của chính phủ Liên Bang Đức sau thế giới chiến II và đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đến nỗi đã đưa một nước Đức từng bị chiến tranh tàn phá bình địa trở thành một cường quốc kinh tế hùng mạnh trên thế giới.
Điều đó muốn nói rằng vấn đề được đề cập đến trong chính trọng tâm của khái niệm này là duy trì hiệu quả tích cực của sự lưu hành tư bản tự do và nền kinh tế thị trường tự do. Tuy nhiên những hậu quả tiêu cực to lớn của nó, tức «khả năng sáng tạo mang tính cách phá hoại» của nó - như giáo sư Schumpeter đã nói - cũng như khuynh hướng nội tại của nó luôn làm nảy sinh mỗi ngày một rộng lớn sự bất quân bình về xã hội và kinh tế giữa con người với con người. Walter Euken đã có lần phát biểu về khuynh hướng đó như sau: «Tinh thần của sự tự do đã giúp tạo nên công trình kỹ nghệ hóa và chính kỹ nghệ hóa đã trở thành một đe dọa nặng nề cho sự tự do». Sự đe dọa sự tự do này của sức mạnh thị trường tự do vô kiểm soát chỉ nhà nước mới có thể dập tắt không cho xảy ra. Những người cha tinh thần của ý tưởng nền tảng về một «chủ thuyết tư bản dung hòa mang tính cáh xã hội» và về một nền kinh tế thị trường đã nhất trí với nhau là không thể có được một nền kinh tế thị trường bền vững lâu dài, nếu không có một nhà nước và nhất là một nhà nước mạnh mẽ và đầy đủ uy thế để bảo đảm trật tự. Walter Euken nhận định: «Trong khi con người chỉ có thể sống trong các trật tự», thì con người với tư cách là những chủ thể của nền kinh tế lại ồ ạt có khuynh hướng muốn «phá bỏ những trật tự đang điều hành tốt». Bởi vậy, dù chính nhà nước không trực tiếp làm kinh tế, nhà nước cũng có trách nhiệm phải bảo đảm hoàn toàn sự an ninh cho người dân của mình khi làm kinh tế. Tư tưởng về sự trật tự, sự trật tự do nhà nước thiết lập và bảo đảm, mang một ý nghĩa quan trọng cơ bản trong tư duy của những vị cha đẻ của nền kinh tế thị trường mang tính cách xã hội, nến nỗi người ta đã gọi trật tự đó là «Ordo-Liberale» (Trật tự tự do). Nhà kinh tế học Alfred Müller-Armack đã có lần diễn tả tư tưởng chủ chốt «ordo-liberale» như sau: «Yếu tố quyết định đối với việc bảo tồn nền văn hóa kinh tế của chúng ta, tuỳ thuộc ở chỗ là liệu có thành công hay không trong việc duy trì được hình thức kinh tế thị trường với khả năng điều hành cao, cũng như đồng thời gán ghép nó vào trong một trật tự chung đã được thiết đặt.»
Những tư tưởng trên được rút tỉa từ việc phân tích các nguyên nhân sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới và của nền tài chính thế giới vào các năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Trên phạm vi lý thuyết, những tư tưởng đó cũng là một ví dụ tiêu biểu cho một câu trả lời khả dĩ cho thách đố trước mắt. Tuy nhiên, việc đưa «câu giải đáp» đó áp dụng vào trong thương mại chính trị thực hành là một điều mà CHLB Đức, một quốc gia non trẻ mới được thành lập sau trận thế giới chiến II, vô cùng biết ơn đối với «phép lạ kinh tế» của họ cũng như đối với sự tương đối ổn định trong lãnh vực chính trị, xã hội và kinh tế của họ. Lịch sử thành công của nền kinh tế thị trường xã hội tại Đức đã đặt ra câu hỏi là: Người ta có nên «xuất cảng» nền kinh tế kiểu mẫu này sang các nước, hầu cho các dân tộc khác cũng có thể học hỏi hay không? Câu hỏi này hiện cũng đang được đặt ra với đầy đủ tính chất thời sự của nó.
Những biện pháp khẩn cấp thuộc nhà nước đã được đặt ra cho đến bây giờ, có lẽ có thể gọi được là do các đại diện của chủ nghĩa trật tự tự do. Về sự ngăn chận mang tính cách nhà nước trước sự sụp đổ toàn diện của các nhà ngân hàng, nhà kinh tế học Walter Euken viết: «Các nhà đại ngân hàng thì quá to lớn, đến nỗi nhà nước – như kinh nghiệm ở nước Đức vào năm 1931 cho thấy – không có thể cho phép họ được tham dự vào các cuộc cạnh tranh». Đàng khác, sự can thiệp của nhà nước vào trong sân chơi tự do của những sức mạnh thị trường cũng không được phép đi quá xa, đến nỗi chính nhà nước cũng trở thành «một cầu thủ trên sân chơi» kinh tế. Chính Ludwig Erhard, bộ trưởng kinh tế CHLB Đức vào thập niện 60 của thế kỷ trước cũng đã nhận định: «Hoàn toàn tương tự như trong một trận bóng đá, người trọng tài không được phép cùng chơi; cũng vậy, nhà nước không được phép cùng chơi» trên sân chơi kinh tế, bởi vì vai trò của nhà nước là trọng tài, chứ không phải là cầu thủ. Nếu các nhà nước tự định hướng theo những tư tưởng trật tự tự do trong khi làm chủ được các cơn khủng hoảng, thì bấy giờ có nghĩa là: Các nhà nước cần phải can thiệp một cách cụ thể vào trong cuộc chơi tự do của các sức mạnh thị trường. Dĩ nhiên sự can thiệp của nhà nước phải nằm trong khuôn khổ của qui ước và trật tự đã được đồng thuận trước, hầu không làm cho các sức mạnh thị trường tê liệt trường kỳ, nhưng là giúp cho các sức mạnh thị trường giữ đúng «luật chơi» và qua đó mang lại phúc lợi chung cho mọi người dân.
2) Trên sân chơi kinh tế nhà nước là trọng tài chứ không phải là cầu thủ
Theo Ludwig Erhard, chính nhà nước không được phép trở thành «cầu thủ» lâu dài được, nhưng nhà nước luôn phải nắm giữ vai trò «trọng tài». Hay nói một cách khác, trong sự khủng hoảng tài chính hiện nay, người ta cũng không được phép loại bỏ nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tài chính để thay thế vào đó bằng một «nền kinh tế bao cấp», một «nền kinh tế kế hoạch» độc đoán, tức một nền kinh tế hoàn toàn do nhà nước chỉ huy, như trong các nước cộng sản trước đây, vì các hậu quả tai hại của một nền kinh tế như thế đã được chứng minh rõ ràng tại các nước thuộc Liên Sô cũ, tại các nước Đông Âu, cũng như tại các quốc gia theo chế độ cộng sản khác Đó là tình trạng lạc hậu, chậm tiến, tụt hậu, nghèo đói và ngu dốt, v.v… chẳng những trong lãnh vực kinh tế mà trong cả lãnh vực văn hóa và xã hội nữa.
Thật vậy, kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh cho thấy rằng một khi các sức mạnh thị trường tự do bị cấm cản hay bị giới hạn một cách bất hợp lý trong diễn tiến sự phát triển của chúng, thì tất nhiên khó lòng tránh khỏi những hậu quả xấu. Nhà nước không nên hoang tưởng là tự cho mình có thể thay thế các sức mạnh thị trường tự do, nếu không muốn bị rơi vào cái vòng luẩn quẩn tiêu cực không lối thoát. Trái lại, nhà nước cần tự giới hạn và tự tập trung lại trong vấn đề ngăn chặn không cho xảy ra sự kiện khả năng sáng tạo của các sức mạnh thị trường trở thành khả năng sáng tạo mang tính cách phá hoại (Schumpeter).
Chắc chắn sẽ là một vận may cho cộng đồng kinh tế thế giới, nếu như cộng đồng đó ngay bây giờ, trong khi trật tự mới của hệ thống tài chính và kinh tế thế giới đáo hạn, biết quay trở lại với những tư tưởng nền tảng của trật tự tự do chủ nghĩa. Diễn tiến này hoàn toàn phù hợp với các học thuyết về xã hội của Giáo Hội Công Giáo. Đây là những học thuyết đúng đắn và quan trọng, được phát huy vào cuối thế kỷ XIX và được khởi đầu bằng Thông điệp «Rerum Novum» (Tân Sự) vào năm 1891 của ĐGH Lê-ô XIII. Thật ra, từ khởi đầu, các học thuyết về xã hội của Giáo Hội Công Giáo nhằm phê bình khuynh hướng mang tính chất tiêu cực trong chủ thuyết tư bản, nhưng dĩ nhiên các học thuyết về xã hội của Giáo Hội không bao giờ nhằm chỉ trích bao quát chủ thuyết tư bản, bởi vì Giáo Hội không có thể và cũng không muốn chối bỏ khả năng sản xuất của chủ thuyết tư bản. Tuy nhiên, ngay từ đầu Giáo Hội luôn chối bỏ quyền lực thái quá của tư bản đến chỗ thống trị thế giới như trường hợp hiện tại. Sự quân bằng giữa hai yếu tố cơ bản của nền kinh tế là tư bản và lao động, tức vốn đầu tư và việc làm, đã trở nên tư tưởng nòng cốt của học thuyết Công Giáo về xã hội, vốn tiếp tục phát huy trong phần kết của Thông điệp «Rerum Novarum». Bức Thông điệp viết: «Không có lao động, thì khó lòng kiếm ra được nhiều tư bản; không có tư bản, thì không thể có nhiều lao động được». Đó là một vấn đề tất nhiên: Nếu không làm việc thì đương nhiên không thể thu hoạch được nhiều tư bản và ngược lại, không có vốn đầu tư thì sẽ không thể tạo ra được nhiều công ăn việc làm. Đặc biệt nhất là bản Thông điệp lên tiếng kết án mạnh mẽ việc bóc lột sức lao động của người công nhân, như ép buộc họ với đồng lương chết đói với luận cứ là số tiền lương như thế là thành quả của sự thương lượng và thỏa thuận tự do giữa chủ nhân và người công nhân đang cần có công ăn việc làm. Quyền sở hữu phải có trách nhiệm đối với xã hội. Vì trách nhiệm đối với phúc lợi chung, nhà nước có bổn phận phải loại bỏ tính cách bất công đó trong thị trường lao động: «Sự hỗ trợ mà người ta đang chờ đợi nơi các nhà lãnh đạo nhà nước, trước hết hệ ở sự đồng thuận tổng quát giữa cơ quan lập hiến và bộ máy hành chánh, hầu cho qua đó hạnh phúc của cộng đồng cũng như của các cá nhân được triển nở tốt đẹp.»
Đúng bốn mươi năm sau đó, trong Thông điệp thứ hai về xã hội «Quadragesimo Anno» vào năm 1931, - hầu như cùng đồng thời với sự phát triển những tư tưởng nền tảng của Trật tự tự do chủ nghĩa trong «Freiburger Schule» - ĐGH Piô XI đã công khai khước từ ý tưởng phóng khoáng cũ về thị trường tự do và về sự «canh chừng của nhà nước»: Quả thật «Là cả một sự sai lầm cơ bản của một khoa học kinh tế mang tính cách cá nhân hóa, mà từ đó làm nảy sinh những sự sai lầm chi tiết khác: Đó là qua sự bỏ quên hay qua sự vô tri về bản chất nền kinh tế mang tính cách xã hội cũng như luân lý đạo đức nên cho rằng đối với nền kinh tế thì chính quyền không có thể làm được gì hơn là hoàn toàn để cho nó được tự do tự quyết định lấy; Trong sự cạnh tranh tự do trong nền kinh tế thị trường chứa đựng trong mình nguyên tắc chuẩn mực của nó, và qua nguyên tắc đó nền kinh tế tự điều chỉnh chính mình càng trở nên hoàn hảo thêm, hơn là sự can thiệp tuỳ tiện của bất cứ quyền lực nào, dĩ nhiên sự cạnh tranh tự do phải nằm trong khuôn khổ hợp lý do pháp định. Nhưng sự tự do cạnh tranh - mặc dù được phép trong những giới hạn nhất định và mang lại sự lợi ích chắc chắn - không thể là nguyên tắc chuẩn mực toàn diện cho tổng thể nền kinh tế được. Kinh nghiệm đã xác định điều đó một cách hết sức minh nhiên, sau khi những lý thuyết thuộc chủ nghĩa cá nhân tai hại được đem áp dụng trong thực hành.»
Trong hiến chế «Gaudium et Spes» (Nỗi vui mừng và niềm hy vọng) vào năm 1965, Công Đồng Vatican II đã nhắc nhủ các tín hữu cũng như tất cả những người thiện tâm trên khắp thế giới về bổn phận của họ trong xã hội, cũng như bổn phận phải tôn trọng phẩm giá con người: «Ngay trong đời sống kinh tế xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội cũng phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là tâm điểm và là mục đích của tất cả đời sống kinh tế xã hội. (…)
Tuy nhiên, không thiếu những lý do gây nên lo ngại. Nhiều người. nhất là trong những miền có nền kinh tế tiến bộ, như bị đời sống kinh tế chi phối hoàn toàn, đến nỗi trong các quốc gia theo kinh tế tập sản cũng như trong các quốc gia khác, hầu như cả đời sống cá nhân cũng như xã hội của họ đều bị thấm nhiễm một thứ chủ nghĩa duy kinh tế. Trong thời đại mà sự phát triển đời sống kinh tế nếu được điều khiển và phối hiệp một cách hợp lý và nhân đạo, có thể giảm thiểu những chênh lệch trong xã hội, thì nhiều khi lại làm cho những chênh lệch ấy trở nên trầm trọng hơn, hoặc ở một vài nơi còn trở thành sự thoái hóa địa vị xã hội của những người yếu thế và miệt thị những kẻ nghèo túng. Ngay trong những vùng kém mở mang, giữa lúc đại đa số vẫn còn thiếu những nhu cầu thiết yếu, thì một thiểu số lại sống dư dật, phung phí. Xa hoa và cùng cực kế cận nhau. Trong khi một thiểu số được quyền định đoạt rất lớn, thì đại đa số lại hầu như không thể hành động theo sáng kiến riêng và không được thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình, nhiều khi còn phải chịu đựng trong những hoàn cảnh sinh sống và làm việc bất xứng với phẩm giá con người» (số 63).
Bởi vậy Công đồng kêu gọi: «Con người cần phải kiểm soát lại sự phát triển kinh tế; không được khoán trắng nó cho sự định đoạt của một thiểu số người hoặc tập thể nắm trong tay quyền lực kinh tế quá lớn, hoặc của một đoàn thể chính trị hay một số quốc gia giàu mạnh. Ngược lại, trong những dịch vụ quốc tế, mọi quốc gia đều phải tích cực dự phần vào việc phát triển kinh tế, và càng có nhiều người thuộc mọi cấp bậc tham gia càng hay. Cũng vậy, phải phối hợp và điều hòa một cách thích đáng và hợp lý những sáng kiến của cá nhân và của các đoàn thể tự do với nổ lực của chính quyền… Do đó, phải tố giác những sai lầm của các học thuyết đang nhân danh một thứ tự do ngụy tạo để ngăn cản những cải tổ cần thiết; cũng phải tố giác những học thuyết đòi hy sinh quyền lợi cá nhân và đoàn thể cho tổ chức sản xuất tập thể.» (số 65).
Trong Thông điệp về xã hội «Populorum Progressio» (Sự phát triển các dân tộc) vào năm 1967, ĐGH Phaolô VI đã tố giác là có «những quan niệm đã thâm nhập vào trong xã hội nhân loại, theo đó thì lợi ích được coi như bộ máy đích thực của sự phát triển kinh tế, sự cạnh tranh được coi như cách suy luận tối cao của nền kinh tế và quyền tư hữu trên các phương tiện sản xuất là một quyền lợi tuyệt đối, không chút bị giới hạn, không có bất cứ trách nhiệm tương xứng nào đối với xã hội.» Và Đức Phaolô VI viết tiếp: «Chủ nghĩa tư bản tự do trơ trẽn đó đã dẫn tới một thứ độc tài mà Đức Piô XI đã có lý khi ghi nhận như là nguyên nhân của chủ nghĩa quốc tế tư bản tài chính hay của chủ nghĩa đế quốc của tư bản tài chính quốc tế. Người ta có thể đã không lên án gắt gao đủ sự lạm dụng đó.» Nhưng sự lên án gắt gao này của Đức Phaolô VI tuyệt đối không muốn nói rằng Đức Thánh Cha kết án toàn bộ cái mà người ta gọi là duy kỹ nghệ chủ nghĩa và hệ thống tư bản. Sau khi Đức Phaolô VI đã nhắc lại rằng «Kinh tế có mục đích là phụng sự con người», thì Ngài đã viết tiếp: «Nhưng nếu thật sự là còn nhiều sự tồi bại, bất công và những hiện tượng anh em tranh giành chém giết lẫn nhau - mà các hậu quả của chúng mãi đến hôm nay vẫn còn tồn tại – xuất phát từ một cách thức nhất định của cái mà người ta gọi là ‘chủ nghĩa tư bản’, thì rất có thể người ta sẽ gán ghép cách bất công sự tồn bại đó cho sự kỹ nghệ hóa.»
Tiếp đến, trong phần đầu của Thông điệp «Centisimus annus» (Bách Niên) vào năm 1991, Đức Gioan Phaolô II đã nhìn lại một trăm năm sự phát triển của học thuyết về xã hội của Giáo Hội từ năm 1891; còn trong phần hai của bức Thông điệp thì kể từ thời gian năm 1989, tức vào thời kỳ sụp đổ của chế độ cộng sản ở Liên Sô cũ và ở Đông Âu. Tuy nhiên, trong bức Thông điệp người ta không hề tìm gặp được bất cứ dấu vết nào của thái độ đắc thắng về cuộc chiến thắng của sự tự do trên bạo quyền và nền kinh tế thị trường trên nền kinh tế kế hoạch. Trái lại, Đức Gioan Phaolô II cảnh báo trước những thái độ đắc thắng như thế và phê bình gắt gao chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên ĐTC không hề chỉ trích chủ nghĩa tư bản trên nguyên tắc.
3) Đức Gioan Phaolô II phê bình chủ nghĩa tư bản thái quá
Sự phân tích Mác-xít về những nguyên nhân sự tha hóa đã cho thấy quan điểm duy vật một chiều của họ là không chính xác. Nhưng kinh nghiệm lịch sử của Tây phương cũng cho thấy rằng: «Mặc dù sự phân tích và lý lẽ Mác-xít về sự tha hóa là sai lạc, nhưng sự tha hóa kèm theo sư mất mát ý nghĩa chân chính của của cuộc sống cũng là một dữ kiện thực tiễn trong xã hội các nước Tây phương.» Sự tha hóa xảy ra trước hết qua sự tiêu thụ, «nếu con người bị lôi kéo vào trong một mạng lưới của những sự thỏa mãn sai lạc và chỉ hời hợt trên mặt, thay vì được giúp đỡ có được kinh nghiệm chân chính và cụ thể về nhân vị của mình.»
Tình trạng bóc lột dưới những hình thức mà Karl Marx đã phân tích và trình bày, thì trong xã hội Tây phương đã được loại bỏ từ lâu. «Tuy nhiên, sự tha hóa dưới nhiều hình thức bóc lột khác nhau vẫn chưa được loại bỏ, nếu con người vẫn còn lợi dụng nhau như những dụng cụ sản xuất và chỉ khéo léo tìm cách làm thỏa mãn những nhu cầu đặc biệt và thứ yếu, còn trước những nhu cầu chính yếu và thực sự lại giả câm giả điếc, tức những nhu cầu cần phải điều chỉnh cả cách thế và hình thức làm thỏa mãn những nhu cầu khác.»
Ở đây, một cau hỏi được đặt ra là liệu người ta có thể nói rằng «phải chăng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, thì chủ nghĩa tư bản là hệ thống xã hội đắc thắng?» và Đức Giáo Hoàng đã trả lời một cách dè dặt tối đa: Nếu một hệ thống kinh tế được hiểu dưới danh xưng «chủ nghĩa tư bản», mà trong đó «vai trò tích cực cơ bản của xí nghiệp, của thị trường, của quyền tư hữu và của những trách nhiệm phát sinh từ đó đối với các phương tiện sản xuất, của tính cách sáng tạo tự do của con người trong phạm vi kinh tế được công nhận, thì bấy giờ câu trả lời chắc chắn sẽ là tích cực.» Nhưng nếu một hệ thống kinh tế được hiểu dưới danh xưng «chủ nghĩa tư bản», trong đó «sự tự do kinh tế không được gắn liền với một trật tự pháp luật chắc chắn, là trật tự vốn giúp cho sự tự do kinh tế hoàn toàn phụng sự cho quyền tự do trọn vẹn của con người cũng như coi sự tự do kinh tế đó như một chiều kích đặc biệt của quyề tự do ấy với tâm điểm của nó thuộc lãnh vực đạo đức và tín ngưỡng, thì bấy câu trả lời sẽ nhất định là tiêu cực.»
Ngay từ đầu, học thuyết Công Giáo về xã hội luôn trình bày quan điểm cho rằng nguyên nhân của tất cả mọi tình trạng bất công và phiền toái trong xã hội không chỉ nằm trong các cơ cấu, nhưng còn ẩn núp trong tâm tư ý nghĩ của con người. Vì thế, bên cạnh sự cần thiết phải có những cải tổ thuộc lãnh vực cơ cấu hình thức bên ngoài, học thuyết Công Giáo về xã hội còn đòi hỏi nhất thiết phải có một sự cải tổ chính tâm tư ý nghĩ hay não trạng con người nữa. Trong Thông điệp đầu tay của Ngài «Redemptor Hominis» (Đấng Cứu Thế) vào năm 1979, Đức Gioan Phaolô II viết: Người ta sẽ «đạt được sự tiến bộ trên con đường khó khăn của việc hết sức cần thiết là làm thay đổi các cơ cấu của đời sống kinh tế, nếu một sự hoán cải thực sự của não trạng, của ý chí và của trái tim con người được thực hiện.»
Vậy, đối với sự khủng hoảng tài chính hiện tại, những luận cứ nói trên muốn khẳng định rằng không phải chủ nghĩa tư bản xét như là một hệ thống kinh tế là vấn đề nghiệm trọng, nhưng chính não trạng duy tư bản, một não trạng thiếu ý thức trách nhiệm luân lý và đạo dức trong xã hội, mới là nguyên nhân của mọi vấn đề nan giải hiện nay. Vì thế, trong giờ phút hiện tại, không phải việc phê bình một hệ thống kinh tế là giới luật, nhưng là việc phê bình chính não trạng con người. Vâng, không phải «tư bản» hay tiền bạc là thủ phạm của mọi bất hạnh trong cuộc sống con nguời và xã hội, nhưng là lòng tham lam tiền bạc của con người vậy.
Lòng ham hố tiền bạc là nguyên nhân sự khủng hoảng, chứ không phải tiền bạc
Cơn khủng hoảng hiện tại của hệ thống tài chính thế giới đang là một thách đố hết sức nguy hiểm không những đối với sự thịnh vượng của nhiều nước trên thế giới, mà còn đối với sự sống còn và nền hòa bình chung của cả nhân loại. Tuy nhiên, cơn khủng hoảng đó cũng có thể là một vận may cho thế giới để phát huy một trật tự kinh tế mới được dựa trên những tư duy nền tảng của nền kinh tế thị trường mang tính cách xã hội chân chính và của những học thuyết về xã hội của Giáo Hội Công Giáo.
Thật vậy, tất cả mọi cơn khủng khoảng không nhất thiết là những con đường một chiều nghiệt ngã đưa đẩy vào chỗ suy thoái và diệt vong, nhưng còn chứa đựng những vận may mới. Tất cả đều tuỳ thuộc vào cách giải quyết của con người, nhất là những ai có trách nhiệm trực tiếp trong vất đề, như các chính phủ, các nhà chính trị, các chủ ngân hàng, các người nắm giữ thị trường tài chính, các thương gia và doanh nghiệp, v.v… Người ta cần phải lợi dụng những cơn khủng hoảng như những thách đố để vượt lên trên những tương quan đã gây ra những cơn khủng hoảng đó. Lý thuyết gia về văn hóa và triết gia về sử học người Anh Arnold joseph Toynbee (1852-1975) đã nhìn thấy trong sự thách đố của con người qua các cơn khủng hoảng sâu xa và trong sự thắng vượt có tính cách sáng tạo một nguyên nhân quyết định về sự phát triển văn hóa: Nếu con người biết nắm bắt lấy sự thách đố và tìm ra được câu trả lời cần thiết cho vấn đề, bấy giờ những thách đố qua các cơn khủng hoảng sẽ trở thành những động lực quyết định thúc đẩy sự tiếp tục phát triển nền văn hóa con người.
Điều đó cũng hoàn toàn có thể áp dụng vào những cơn khủng hoảng tài chính như cơn khủng hoảng hiện nay mà cả thế giới đang phải đối mặt. Nhìn lui về quá khứ, những cơn khủng hoảng kinh tế trước đây vào thế kỷ XIX và thế kỷ XX cũng đã là những động cơ cho việc làm khởi phát sự kiện toàn các phương tiện về sự bình quân thuế khóa và sự ổn định hệ thống tài chính thế giới. Thật vậy, do cơn khủng hoảng kinh tế vào các năm 20 và 30 trong thế kỷ trước đã làm nảy sinh Thỏa ước Bretton Woods (1944) tại Tiểu bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Chính ở đây các đại biểu của các nước tham dự đã quyết định hai sự kiện quan trọng liên quan đến nền kinh tế thế giới, đó là thiết lập Quỹ tiền tệ thế giới IMF (International Monetery Fund) và Ngân hàng thế giới WB (the World Bank) để giữ thăng bằng cán cân chính trị tài chính trên thế giới và hỗ trợ các quốc gia đang trên đường phát triển.
Tuy nhiên, công việc cải tiến như thế phát xuất từ các khủng hoảng từ trước tới nay đã chưa thành công được trong việc hoàn toàn loại bỏ được những nguyên nhân của sự khủng hoảng sẽ xảy ra trong tương lai. Theo quan điểm của một số các nhà chuyên môn về chủ thuyết tư bản thì chương trình đó sẽ không bao giờ thành công được. Vì thế, tiến sĩ Wolfgang Treeck, giám đốc viện khoa học Max-Planck-Institut ở Köln chuyên ngành nghiên cứu về xã hội đã viết: Điều bí ẩn to lớn của chủ thuyết tư bản không phải là «tại sao lại có những khủng hoảng xảy ra, nhưng là làm thế nào lại xuất hiện điều mà xem ra có vẻ như là sự ổn định». Một điều mà người ta có thể khẳng định được một cách chắc chắn là chủ thuyết tư bản sẽ không thể mang lại một trật tự xã hội ổn định được, trừ khi «yếu tính của chủ thuyết tư bản không ngừng biến thể và được cải thiện». Chủ thuyết tư bản không phải là trật tự, nhưng là «một sự vô trật tự được cơ chế hóa; không phải là sự ổn định mong chờ, nhưng là trong tình trạng biến động liên tục.»
1) Thiết lập quyền tối thượng của chính trị
Sự xác định đầy tính cách cảnh tỉnh như trên đã cho thấy rằng sự khủng hoảng tài chính hiện ở hầu hết các nước trên thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng như thế nào và hậu quả do sự khủng hoảng gây ra to lớn ra sao. Vì thế, phạm vi vấn đề còn bao quát và rộng lớn rất nhiều, chứ không chỉ là việc tìm cách cứu vãn các Nhà ngân hàng và định chế tiền tệ. Vấn đề trọng yếu ở đây là sự sống còn của con người. Do đó, Streeck cũng nhìn thấy rằng không có giải pháp nào khác ngoài sự nổ lực hiện tại của các quốc gia đang lo tìm cách không để cho hệ thống tài chính thế giới bị sụp đổ hoàn toàn. «Trong trường hợp quá khẩn cấp, nền chính trị dân chủ không có sự lựa chọn nào khác hơn là sự xóa nợ cho từng lớp thượng lưu điều khiển các thị trường tài chính.»
Qua đó một câu hỏi được coi như là trọng tâm của sự thách đố hiện tại được đặt ra là: «Phải chăng tình trạng có thể cứ tiếp tục do giai cấp thượng lưu của các thị trường tài chính nắm giữ?» Hay: Các thị trường tài chính tùy thuộc một sự «dân chủ hóa» mạnh mẽ hơn nữa theo nghĩa là phải rõ ràng minh bạch, phải được kiểm soát và phải có tường trình hẳn hoi? Mức độ rộng lớn của sự khủng hoảng cho thấy rằng biện pháp như thế là rất cần thiết. Đối với những người từng quan sát công việc doanh thương của từng lớp thượng lưu của thị trường tài chính với nhãn quan dân chủ, thì vấn đề thật không thể chấp nhận được, khi hằng ngày số «tư bản» ảo hoàn toàn được tự do lưu hành trên khắp thế giới bằng những con đường điện tử, chứ không hề bị kiểm soát, trong các giao dịch thuộc lãnh vực tài chính, kể cả ngân sách của tất cả quốc gia Tây phương.
Theo giáo sư kinh tế học Joseph A. Schumpeter, thì nếu chính trị không muốn đầu hàng trước «khả năng sáng tạo mang tính cách phá hoại» của chủ nghĩa tư bản, thì câu trả lời của chính trị phải hết sức bao quát rộng rãi, chứ không chỉ là sự cố gắng ngăn chặn không cho xảy ra sự sụp đổ mang tính cách toàn cầu. Đó chính là điểm quyết định. Chính trị cần phải ý thức rằng mình luôn bị đặt trước thách đố là không dây mình vào khuynh hướng phá hoại và tính tham lam của chủ thuyết tư bản, hay ít ra là biết làm chủ được những khuynh hướng đó của tư bản.
Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là phải tìm cách loại trừ chủ nghĩa tư bản và các thị trường tài chính bằng mọi giá, nhưng vấn để được đặt ra ở đây là sự tổ chức chủ thuyết tư bản và các thị trường tài chính một cách hợp lý trong phương diện chính trị. Nói cách khác, vấn đề ở đây là cần phải thiết lập lại quyền tối thượng của chính trị cả trên những sự kiện của thị trường tài chính. Chính trị phải chủ tâm và đủ điều kiện để đặt ra cho sự kiện thị trường những điều kiện nằm trong khuôn khổ sự đồng thuận hợp lý. Để được như vậy, điều kiện tất yếu là phải có một nhà nước mạnh, nghĩa là một nhà nước không bất lực hay bị lép vế trước các sức mạnh thị trường.
Đó chính là những tư tưởng nền tảng của kinh tế thị trường mang tính cách xã hội, mà vào các năm 30 và 40 của thế kỷ vừa qua đã được các nhà kinh tế học - như Franz Böhm, Walter Euken, Friedrich A. von Hayek, Alfred Müller-Armack, Wilhelm Röpke và Alexander Rüstow - đã triển khai trên phương diện lý thuyết và sau năm 1949 thì được Ludwig Erhard, nhà tài chính lỗi lạc người Đức, đưa ra áp dụng trong chương trình chính trị cụ thể về tài chính của chính phủ Liên Bang Đức sau thế giới chiến II và đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đến nỗi đã đưa một nước Đức từng bị chiến tranh tàn phá bình địa trở thành một cường quốc kinh tế hùng mạnh trên thế giới.
Điều đó muốn nói rằng vấn đề được đề cập đến trong chính trọng tâm của khái niệm này là duy trì hiệu quả tích cực của sự lưu hành tư bản tự do và nền kinh tế thị trường tự do. Tuy nhiên những hậu quả tiêu cực to lớn của nó, tức «khả năng sáng tạo mang tính cách phá hoại» của nó - như giáo sư Schumpeter đã nói - cũng như khuynh hướng nội tại của nó luôn làm nảy sinh mỗi ngày một rộng lớn sự bất quân bình về xã hội và kinh tế giữa con người với con người. Walter Euken đã có lần phát biểu về khuynh hướng đó như sau: «Tinh thần của sự tự do đã giúp tạo nên công trình kỹ nghệ hóa và chính kỹ nghệ hóa đã trở thành một đe dọa nặng nề cho sự tự do». Sự đe dọa sự tự do này của sức mạnh thị trường tự do vô kiểm soát chỉ nhà nước mới có thể dập tắt không cho xảy ra. Những người cha tinh thần của ý tưởng nền tảng về một «chủ thuyết tư bản dung hòa mang tính cáh xã hội» và về một nền kinh tế thị trường đã nhất trí với nhau là không thể có được một nền kinh tế thị trường bền vững lâu dài, nếu không có một nhà nước và nhất là một nhà nước mạnh mẽ và đầy đủ uy thế để bảo đảm trật tự. Walter Euken nhận định: «Trong khi con người chỉ có thể sống trong các trật tự», thì con người với tư cách là những chủ thể của nền kinh tế lại ồ ạt có khuynh hướng muốn «phá bỏ những trật tự đang điều hành tốt». Bởi vậy, dù chính nhà nước không trực tiếp làm kinh tế, nhà nước cũng có trách nhiệm phải bảo đảm hoàn toàn sự an ninh cho người dân của mình khi làm kinh tế. Tư tưởng về sự trật tự, sự trật tự do nhà nước thiết lập và bảo đảm, mang một ý nghĩa quan trọng cơ bản trong tư duy của những vị cha đẻ của nền kinh tế thị trường mang tính cách xã hội, nến nỗi người ta đã gọi trật tự đó là «Ordo-Liberale» (Trật tự tự do). Nhà kinh tế học Alfred Müller-Armack đã có lần diễn tả tư tưởng chủ chốt «ordo-liberale» như sau: «Yếu tố quyết định đối với việc bảo tồn nền văn hóa kinh tế của chúng ta, tuỳ thuộc ở chỗ là liệu có thành công hay không trong việc duy trì được hình thức kinh tế thị trường với khả năng điều hành cao, cũng như đồng thời gán ghép nó vào trong một trật tự chung đã được thiết đặt.»
Những tư tưởng trên được rút tỉa từ việc phân tích các nguyên nhân sự khủng hoảng của nền kinh tế thế giới và của nền tài chính thế giới vào các năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Trên phạm vi lý thuyết, những tư tưởng đó cũng là một ví dụ tiêu biểu cho một câu trả lời khả dĩ cho thách đố trước mắt. Tuy nhiên, việc đưa «câu giải đáp» đó áp dụng vào trong thương mại chính trị thực hành là một điều mà CHLB Đức, một quốc gia non trẻ mới được thành lập sau trận thế giới chiến II, vô cùng biết ơn đối với «phép lạ kinh tế» của họ cũng như đối với sự tương đối ổn định trong lãnh vực chính trị, xã hội và kinh tế của họ. Lịch sử thành công của nền kinh tế thị trường xã hội tại Đức đã đặt ra câu hỏi là: Người ta có nên «xuất cảng» nền kinh tế kiểu mẫu này sang các nước, hầu cho các dân tộc khác cũng có thể học hỏi hay không? Câu hỏi này hiện cũng đang được đặt ra với đầy đủ tính chất thời sự của nó.
Những biện pháp khẩn cấp thuộc nhà nước đã được đặt ra cho đến bây giờ, có lẽ có thể gọi được là do các đại diện của chủ nghĩa trật tự tự do. Về sự ngăn chận mang tính cách nhà nước trước sự sụp đổ toàn diện của các nhà ngân hàng, nhà kinh tế học Walter Euken viết: «Các nhà đại ngân hàng thì quá to lớn, đến nỗi nhà nước – như kinh nghiệm ở nước Đức vào năm 1931 cho thấy – không có thể cho phép họ được tham dự vào các cuộc cạnh tranh». Đàng khác, sự can thiệp của nhà nước vào trong sân chơi tự do của những sức mạnh thị trường cũng không được phép đi quá xa, đến nỗi chính nhà nước cũng trở thành «một cầu thủ trên sân chơi» kinh tế. Chính Ludwig Erhard, bộ trưởng kinh tế CHLB Đức vào thập niện 60 của thế kỷ trước cũng đã nhận định: «Hoàn toàn tương tự như trong một trận bóng đá, người trọng tài không được phép cùng chơi; cũng vậy, nhà nước không được phép cùng chơi» trên sân chơi kinh tế, bởi vì vai trò của nhà nước là trọng tài, chứ không phải là cầu thủ. Nếu các nhà nước tự định hướng theo những tư tưởng trật tự tự do trong khi làm chủ được các cơn khủng hoảng, thì bấy giờ có nghĩa là: Các nhà nước cần phải can thiệp một cách cụ thể vào trong cuộc chơi tự do của các sức mạnh thị trường. Dĩ nhiên sự can thiệp của nhà nước phải nằm trong khuôn khổ của qui ước và trật tự đã được đồng thuận trước, hầu không làm cho các sức mạnh thị trường tê liệt trường kỳ, nhưng là giúp cho các sức mạnh thị trường giữ đúng «luật chơi» và qua đó mang lại phúc lợi chung cho mọi người dân.
2) Trên sân chơi kinh tế nhà nước là trọng tài chứ không phải là cầu thủ
Theo Ludwig Erhard, chính nhà nước không được phép trở thành «cầu thủ» lâu dài được, nhưng nhà nước luôn phải nắm giữ vai trò «trọng tài». Hay nói một cách khác, trong sự khủng hoảng tài chính hiện nay, người ta cũng không được phép loại bỏ nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tài chính để thay thế vào đó bằng một «nền kinh tế bao cấp», một «nền kinh tế kế hoạch» độc đoán, tức một nền kinh tế hoàn toàn do nhà nước chỉ huy, như trong các nước cộng sản trước đây, vì các hậu quả tai hại của một nền kinh tế như thế đã được chứng minh rõ ràng tại các nước thuộc Liên Sô cũ, tại các nước Đông Âu, cũng như tại các quốc gia theo chế độ cộng sản khác Đó là tình trạng lạc hậu, chậm tiến, tụt hậu, nghèo đói và ngu dốt, v.v… chẳng những trong lãnh vực kinh tế mà trong cả lãnh vực văn hóa và xã hội nữa.
Thật vậy, kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh cho thấy rằng một khi các sức mạnh thị trường tự do bị cấm cản hay bị giới hạn một cách bất hợp lý trong diễn tiến sự phát triển của chúng, thì tất nhiên khó lòng tránh khỏi những hậu quả xấu. Nhà nước không nên hoang tưởng là tự cho mình có thể thay thế các sức mạnh thị trường tự do, nếu không muốn bị rơi vào cái vòng luẩn quẩn tiêu cực không lối thoát. Trái lại, nhà nước cần tự giới hạn và tự tập trung lại trong vấn đề ngăn chặn không cho xảy ra sự kiện khả năng sáng tạo của các sức mạnh thị trường trở thành khả năng sáng tạo mang tính cách phá hoại (Schumpeter).
Chắc chắn sẽ là một vận may cho cộng đồng kinh tế thế giới, nếu như cộng đồng đó ngay bây giờ, trong khi trật tự mới của hệ thống tài chính và kinh tế thế giới đáo hạn, biết quay trở lại với những tư tưởng nền tảng của trật tự tự do chủ nghĩa. Diễn tiến này hoàn toàn phù hợp với các học thuyết về xã hội của Giáo Hội Công Giáo. Đây là những học thuyết đúng đắn và quan trọng, được phát huy vào cuối thế kỷ XIX và được khởi đầu bằng Thông điệp «Rerum Novum» (Tân Sự) vào năm 1891 của ĐGH Lê-ô XIII. Thật ra, từ khởi đầu, các học thuyết về xã hội của Giáo Hội Công Giáo nhằm phê bình khuynh hướng mang tính chất tiêu cực trong chủ thuyết tư bản, nhưng dĩ nhiên các học thuyết về xã hội của Giáo Hội không bao giờ nhằm chỉ trích bao quát chủ thuyết tư bản, bởi vì Giáo Hội không có thể và cũng không muốn chối bỏ khả năng sản xuất của chủ thuyết tư bản. Tuy nhiên, ngay từ đầu Giáo Hội luôn chối bỏ quyền lực thái quá của tư bản đến chỗ thống trị thế giới như trường hợp hiện tại. Sự quân bằng giữa hai yếu tố cơ bản của nền kinh tế là tư bản và lao động, tức vốn đầu tư và việc làm, đã trở nên tư tưởng nòng cốt của học thuyết Công Giáo về xã hội, vốn tiếp tục phát huy trong phần kết của Thông điệp «Rerum Novarum». Bức Thông điệp viết: «Không có lao động, thì khó lòng kiếm ra được nhiều tư bản; không có tư bản, thì không thể có nhiều lao động được». Đó là một vấn đề tất nhiên: Nếu không làm việc thì đương nhiên không thể thu hoạch được nhiều tư bản và ngược lại, không có vốn đầu tư thì sẽ không thể tạo ra được nhiều công ăn việc làm. Đặc biệt nhất là bản Thông điệp lên tiếng kết án mạnh mẽ việc bóc lột sức lao động của người công nhân, như ép buộc họ với đồng lương chết đói với luận cứ là số tiền lương như thế là thành quả của sự thương lượng và thỏa thuận tự do giữa chủ nhân và người công nhân đang cần có công ăn việc làm. Quyền sở hữu phải có trách nhiệm đối với xã hội. Vì trách nhiệm đối với phúc lợi chung, nhà nước có bổn phận phải loại bỏ tính cách bất công đó trong thị trường lao động: «Sự hỗ trợ mà người ta đang chờ đợi nơi các nhà lãnh đạo nhà nước, trước hết hệ ở sự đồng thuận tổng quát giữa cơ quan lập hiến và bộ máy hành chánh, hầu cho qua đó hạnh phúc của cộng đồng cũng như của các cá nhân được triển nở tốt đẹp.»
Đúng bốn mươi năm sau đó, trong Thông điệp thứ hai về xã hội «Quadragesimo Anno» vào năm 1931, - hầu như cùng đồng thời với sự phát triển những tư tưởng nền tảng của Trật tự tự do chủ nghĩa trong «Freiburger Schule» - ĐGH Piô XI đã công khai khước từ ý tưởng phóng khoáng cũ về thị trường tự do và về sự «canh chừng của nhà nước»: Quả thật «Là cả một sự sai lầm cơ bản của một khoa học kinh tế mang tính cách cá nhân hóa, mà từ đó làm nảy sinh những sự sai lầm chi tiết khác: Đó là qua sự bỏ quên hay qua sự vô tri về bản chất nền kinh tế mang tính cách xã hội cũng như luân lý đạo đức nên cho rằng đối với nền kinh tế thì chính quyền không có thể làm được gì hơn là hoàn toàn để cho nó được tự do tự quyết định lấy; Trong sự cạnh tranh tự do trong nền kinh tế thị trường chứa đựng trong mình nguyên tắc chuẩn mực của nó, và qua nguyên tắc đó nền kinh tế tự điều chỉnh chính mình càng trở nên hoàn hảo thêm, hơn là sự can thiệp tuỳ tiện của bất cứ quyền lực nào, dĩ nhiên sự cạnh tranh tự do phải nằm trong khuôn khổ hợp lý do pháp định. Nhưng sự tự do cạnh tranh - mặc dù được phép trong những giới hạn nhất định và mang lại sự lợi ích chắc chắn - không thể là nguyên tắc chuẩn mực toàn diện cho tổng thể nền kinh tế được. Kinh nghiệm đã xác định điều đó một cách hết sức minh nhiên, sau khi những lý thuyết thuộc chủ nghĩa cá nhân tai hại được đem áp dụng trong thực hành.»
Trong hiến chế «Gaudium et Spes» (Nỗi vui mừng và niềm hy vọng) vào năm 1965, Công Đồng Vatican II đã nhắc nhủ các tín hữu cũng như tất cả những người thiện tâm trên khắp thế giới về bổn phận của họ trong xã hội, cũng như bổn phận phải tôn trọng phẩm giá con người: «Ngay trong đời sống kinh tế xã hội, phẩm giá cũng như ơn gọi toàn diện của con người và lợi ích của toàn thể xã hội cũng phải được tôn trọng và thăng tiến. Vì con người là tâm điểm và là mục đích của tất cả đời sống kinh tế xã hội. (…)
Tuy nhiên, không thiếu những lý do gây nên lo ngại. Nhiều người. nhất là trong những miền có nền kinh tế tiến bộ, như bị đời sống kinh tế chi phối hoàn toàn, đến nỗi trong các quốc gia theo kinh tế tập sản cũng như trong các quốc gia khác, hầu như cả đời sống cá nhân cũng như xã hội của họ đều bị thấm nhiễm một thứ chủ nghĩa duy kinh tế. Trong thời đại mà sự phát triển đời sống kinh tế nếu được điều khiển và phối hiệp một cách hợp lý và nhân đạo, có thể giảm thiểu những chênh lệch trong xã hội, thì nhiều khi lại làm cho những chênh lệch ấy trở nên trầm trọng hơn, hoặc ở một vài nơi còn trở thành sự thoái hóa địa vị xã hội của những người yếu thế và miệt thị những kẻ nghèo túng. Ngay trong những vùng kém mở mang, giữa lúc đại đa số vẫn còn thiếu những nhu cầu thiết yếu, thì một thiểu số lại sống dư dật, phung phí. Xa hoa và cùng cực kế cận nhau. Trong khi một thiểu số được quyền định đoạt rất lớn, thì đại đa số lại hầu như không thể hành động theo sáng kiến riêng và không được thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình, nhiều khi còn phải chịu đựng trong những hoàn cảnh sinh sống và làm việc bất xứng với phẩm giá con người» (số 63).
Bởi vậy Công đồng kêu gọi: «Con người cần phải kiểm soát lại sự phát triển kinh tế; không được khoán trắng nó cho sự định đoạt của một thiểu số người hoặc tập thể nắm trong tay quyền lực kinh tế quá lớn, hoặc của một đoàn thể chính trị hay một số quốc gia giàu mạnh. Ngược lại, trong những dịch vụ quốc tế, mọi quốc gia đều phải tích cực dự phần vào việc phát triển kinh tế, và càng có nhiều người thuộc mọi cấp bậc tham gia càng hay. Cũng vậy, phải phối hợp và điều hòa một cách thích đáng và hợp lý những sáng kiến của cá nhân và của các đoàn thể tự do với nổ lực của chính quyền… Do đó, phải tố giác những sai lầm của các học thuyết đang nhân danh một thứ tự do ngụy tạo để ngăn cản những cải tổ cần thiết; cũng phải tố giác những học thuyết đòi hy sinh quyền lợi cá nhân và đoàn thể cho tổ chức sản xuất tập thể.» (số 65).
Trong Thông điệp về xã hội «Populorum Progressio» (Sự phát triển các dân tộc) vào năm 1967, ĐGH Phaolô VI đã tố giác là có «những quan niệm đã thâm nhập vào trong xã hội nhân loại, theo đó thì lợi ích được coi như bộ máy đích thực của sự phát triển kinh tế, sự cạnh tranh được coi như cách suy luận tối cao của nền kinh tế và quyền tư hữu trên các phương tiện sản xuất là một quyền lợi tuyệt đối, không chút bị giới hạn, không có bất cứ trách nhiệm tương xứng nào đối với xã hội.» Và Đức Phaolô VI viết tiếp: «Chủ nghĩa tư bản tự do trơ trẽn đó đã dẫn tới một thứ độc tài mà Đức Piô XI đã có lý khi ghi nhận như là nguyên nhân của chủ nghĩa quốc tế tư bản tài chính hay của chủ nghĩa đế quốc của tư bản tài chính quốc tế. Người ta có thể đã không lên án gắt gao đủ sự lạm dụng đó.» Nhưng sự lên án gắt gao này của Đức Phaolô VI tuyệt đối không muốn nói rằng Đức Thánh Cha kết án toàn bộ cái mà người ta gọi là duy kỹ nghệ chủ nghĩa và hệ thống tư bản. Sau khi Đức Phaolô VI đã nhắc lại rằng «Kinh tế có mục đích là phụng sự con người», thì Ngài đã viết tiếp: «Nhưng nếu thật sự là còn nhiều sự tồi bại, bất công và những hiện tượng anh em tranh giành chém giết lẫn nhau - mà các hậu quả của chúng mãi đến hôm nay vẫn còn tồn tại – xuất phát từ một cách thức nhất định của cái mà người ta gọi là ‘chủ nghĩa tư bản’, thì rất có thể người ta sẽ gán ghép cách bất công sự tồn bại đó cho sự kỹ nghệ hóa.»
Tiếp đến, trong phần đầu của Thông điệp «Centisimus annus» (Bách Niên) vào năm 1991, Đức Gioan Phaolô II đã nhìn lại một trăm năm sự phát triển của học thuyết về xã hội của Giáo Hội từ năm 1891; còn trong phần hai của bức Thông điệp thì kể từ thời gian năm 1989, tức vào thời kỳ sụp đổ của chế độ cộng sản ở Liên Sô cũ và ở Đông Âu. Tuy nhiên, trong bức Thông điệp người ta không hề tìm gặp được bất cứ dấu vết nào của thái độ đắc thắng về cuộc chiến thắng của sự tự do trên bạo quyền và nền kinh tế thị trường trên nền kinh tế kế hoạch. Trái lại, Đức Gioan Phaolô II cảnh báo trước những thái độ đắc thắng như thế và phê bình gắt gao chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên ĐTC không hề chỉ trích chủ nghĩa tư bản trên nguyên tắc.
3) Đức Gioan Phaolô II phê bình chủ nghĩa tư bản thái quá
Sự phân tích Mác-xít về những nguyên nhân sự tha hóa đã cho thấy quan điểm duy vật một chiều của họ là không chính xác. Nhưng kinh nghiệm lịch sử của Tây phương cũng cho thấy rằng: «Mặc dù sự phân tích và lý lẽ Mác-xít về sự tha hóa là sai lạc, nhưng sự tha hóa kèm theo sư mất mát ý nghĩa chân chính của của cuộc sống cũng là một dữ kiện thực tiễn trong xã hội các nước Tây phương.» Sự tha hóa xảy ra trước hết qua sự tiêu thụ, «nếu con người bị lôi kéo vào trong một mạng lưới của những sự thỏa mãn sai lạc và chỉ hời hợt trên mặt, thay vì được giúp đỡ có được kinh nghiệm chân chính và cụ thể về nhân vị của mình.»
Tình trạng bóc lột dưới những hình thức mà Karl Marx đã phân tích và trình bày, thì trong xã hội Tây phương đã được loại bỏ từ lâu. «Tuy nhiên, sự tha hóa dưới nhiều hình thức bóc lột khác nhau vẫn chưa được loại bỏ, nếu con người vẫn còn lợi dụng nhau như những dụng cụ sản xuất và chỉ khéo léo tìm cách làm thỏa mãn những nhu cầu đặc biệt và thứ yếu, còn trước những nhu cầu chính yếu và thực sự lại giả câm giả điếc, tức những nhu cầu cần phải điều chỉnh cả cách thế và hình thức làm thỏa mãn những nhu cầu khác.»
Ở đây, một cau hỏi được đặt ra là liệu người ta có thể nói rằng «phải chăng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, thì chủ nghĩa tư bản là hệ thống xã hội đắc thắng?» và Đức Giáo Hoàng đã trả lời một cách dè dặt tối đa: Nếu một hệ thống kinh tế được hiểu dưới danh xưng «chủ nghĩa tư bản», mà trong đó «vai trò tích cực cơ bản của xí nghiệp, của thị trường, của quyền tư hữu và của những trách nhiệm phát sinh từ đó đối với các phương tiện sản xuất, của tính cách sáng tạo tự do của con người trong phạm vi kinh tế được công nhận, thì bấy giờ câu trả lời chắc chắn sẽ là tích cực.» Nhưng nếu một hệ thống kinh tế được hiểu dưới danh xưng «chủ nghĩa tư bản», trong đó «sự tự do kinh tế không được gắn liền với một trật tự pháp luật chắc chắn, là trật tự vốn giúp cho sự tự do kinh tế hoàn toàn phụng sự cho quyền tự do trọn vẹn của con người cũng như coi sự tự do kinh tế đó như một chiều kích đặc biệt của quyề tự do ấy với tâm điểm của nó thuộc lãnh vực đạo đức và tín ngưỡng, thì bấy câu trả lời sẽ nhất định là tiêu cực.»
Ngay từ đầu, học thuyết Công Giáo về xã hội luôn trình bày quan điểm cho rằng nguyên nhân của tất cả mọi tình trạng bất công và phiền toái trong xã hội không chỉ nằm trong các cơ cấu, nhưng còn ẩn núp trong tâm tư ý nghĩ của con người. Vì thế, bên cạnh sự cần thiết phải có những cải tổ thuộc lãnh vực cơ cấu hình thức bên ngoài, học thuyết Công Giáo về xã hội còn đòi hỏi nhất thiết phải có một sự cải tổ chính tâm tư ý nghĩ hay não trạng con người nữa. Trong Thông điệp đầu tay của Ngài «Redemptor Hominis» (Đấng Cứu Thế) vào năm 1979, Đức Gioan Phaolô II viết: Người ta sẽ «đạt được sự tiến bộ trên con đường khó khăn của việc hết sức cần thiết là làm thay đổi các cơ cấu của đời sống kinh tế, nếu một sự hoán cải thực sự của não trạng, của ý chí và của trái tim con người được thực hiện.»
Vậy, đối với sự khủng hoảng tài chính hiện tại, những luận cứ nói trên muốn khẳng định rằng không phải chủ nghĩa tư bản xét như là một hệ thống kinh tế là vấn đề nghiệm trọng, nhưng chính não trạng duy tư bản, một não trạng thiếu ý thức trách nhiệm luân lý và đạo dức trong xã hội, mới là nguyên nhân của mọi vấn đề nan giải hiện nay. Vì thế, trong giờ phút hiện tại, không phải việc phê bình một hệ thống kinh tế là giới luật, nhưng là việc phê bình chính não trạng con người. Vâng, không phải «tư bản» hay tiền bạc là thủ phạm của mọi bất hạnh trong cuộc sống con nguời và xã hội, nhưng là lòng tham lam tiền bạc của con người vậy.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Chốn Ngàn Thu
Lê Trị
06:08 13/12/2008
CHỐN NGÀN THU
Ảnh của Lê Trị
Thu nào cũng là Thu:Thu vàng cũng là Thu
Thu héo cũng làThu
Thu tàn cũng là Thu
Hết đời mình cũng là Thu: Ngàn Thu !!!
(Lê Trị)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền




