“Hãy để cô ấy yên!”.
“Bất kể trạng thái tâm thần bạn làm sao, hãy luôn cho phép linh hồn quỳ gối! Bởi lẽ, thờ phượng và yêu mến luôn cần cho sự thánh thiện và hạnh phúc của bạn!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
Maria trong Tin Mừng hôm nay là kiểu mẫu của một người luôn ‘cho phép linh hồn quỳ gối!’. Cô cho thấy Chúa Giêsu đáng giá hơn bình dầu trị giá 300 ngày công. Và còn hơn thế! Ngài đáng để mỗi người đánh đổi mọi sự, ngay cả phẩm giá. Bởi lẽ, Ngài là nguồn thánh đức, sự sống và niềm vui; Đấng cần cho sự thánh thiện và hạnh phúc của bạn!
Vậy mà Giêsu đó đã để Maria, một phụ nữ, quỳ gối ‘tỏ tình’ giữa phòng tiệc - thậm chí - để cô ấy lấy một cân dầu thơm hảo hạng đổ lên chân mình và lau nó bằng tóc. Với những gì kín đáo và quý báu nhất của một phụ nữ, cô ‘tỏ tình’ với người cô yêu. Điều lý thú là, Giuđa bất bình; nhưng lý thú hơn, Chúa Giêsu trách Giuđa và nói, “Hãy để cô ấy yên!”.
Với Chúa Giêsu, đây là một hành động yêu thương, cao quý và khiêm nhường! Dầu này rất đắt. Đúng! Nhưng nếu ai khác nói điều này, người ấy có vẻ tự tôn; đàng này, chính Chúa Giêsu; với Ngài, hoàn toàn vô vị lợi! Vậy, hành vi này nói lên điều gì? Nó nói lên cái nhu cầu thiết thực nhất mà Maria cần, cũng là điều bạn và tôi đang rất cần! Như Maria, chúng ta cần tôn thờ Ngài, tôn vinh Ngài, để Ngài trở nên trung tâm đời mình. Không phải vì Ngài cần điều đó, nhưng bởi ‘chính chúng ta’ cần tôn kính Ngài ‘theo cách đó!’. Tôn kính, yêu mến Chúa Giêsu là điều bạn và tôi cần cho sự thánh thiện và hạnh phúc! Ngài biết điều này; vì vậy, Ngài thầm khen, tán thành, nếu không nói là ‘tôn vinh’ Maria. Và tất nhiên, Ngài không ngần ngại bênh vực, “Hãy để cô ấy yên!”.
Kể lại câu chuyện này, Gioan mời chúng ta làm như Maria, sẵn sàng “đổ” hết cho Chúa Giêsu! Không gì là quá đắt đối với Ngài. Không gì đáng giá hơn việc thờ phượng! Thờ phượng và yêu mến sẽ biến bạn thành con người mà bạn phải trở thành, để tôn vinh Thiên Chúa và yêu mến Ngài “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”. Thật ý nghĩa với xác tín của Thánh Vịnh đáp ca, “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi!”. Ngài là Ánh Sáng ban ánh sáng; Sự Sống ban nguồn sống, cũng là “Đấng sáng tạo và căng vòm trời; Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất” - bài đọc một.
Anh Chị em,
“Hãy để cô ấy yên!”. Chúa Giêsu chấp nhận sự “quỳ gối” bên ngoài lẫn bên trong trái tim của Maria; vì lẽ, đang khi các môn đệ dường như không mảy may thấu cảm, không một lời ủi an, không một chút băn khoăn trong những ngày cuối đời của Thầy, thì Maria lại thực hiện một hành vi yêu thương sâu sắc nhất. Bằng chứng là Ngài đã đi xa hơn và bóc trần sự thật về mình, “Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy!”. Trong những ngày hôm nay, Giáo Hội mời chúng ta học nơi Maria, luôn ‘cho phép linh hồn quỳ gối’, yêu mến Đấng Cứu Độ. Ngài đáng cho chúng ta “đập vỡ” không chỉ bình dầu, hy sinh mái tóc nhưng cả con người hồn xác trí tri, “đập vỡ” ý định tăm tối, vạy vò, tội lỗi… để chỉ yêu mến và phụng thờ duy một mình Ngài.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, những ngày Tuần Thánh còn lại, dạy con biết quỳ gối nhiều hơn. Cho con hiểu được ‘con đầy tội, Chúa đầy tình!’”, Amen.
(Tgp. Huế)
Sáng Chúa Nhật 13 tháng Tư Lễ Lá, khởi sự Tuần Thánh, là tuần lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Công Giáo đã được cử hành tại quảng trường Thánh Phêrô. Ngày Chúa Nhật Lễ Lá này cũng là ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 40 được cử hành ở cấp giáo phận.
Trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu, theo ước lượng sơ khởi lên đến 70.000 người, gấp đôi năm 2022 khi mới thoát khỏi đại dịch coronavirus, cuộc rước lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem đã diễn ra trọng thể, và được tiếp nối bằng thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Các cành lá dừa các bạn trẻ cầm trong cuộc rước lá do các Cộng đoàn Con đường Tân dự tòng trao tặng; còn các cây và cành ô liu trang trí bàn thờ và Quảng trường thánh Phêrô do miền Puglie nam Italia tặng. Sau cùng 2 ngàn cành lá dừa màu vàng được kết bện rất nghệ thuật, do các chính quyền ở thành phố San Remo và Bordighera và một số tổ chức khác ở miền Liguria trao tặng theo một truyền thống có từ thế kỷ 16. Các cành lá này được đoàn đồng tế, kinh sĩ đoàn Đền thờ Thánh Phêrô và đoàn giúp lễ và một số người khác cầm trong tay.
Đức Hồng Y Leonardo Sandri đã cử hành thánh lễ thay cho Đức Thánh Cha vì ngài vẫn chưa hồi phục hoàn toàn.
Đồng tế với Đức Hồng Y Leonardo Sandri và tham dự cuộc rước lá có 30 Hồng Y và 50 Giám Mục. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa thánh, còn có ca đoàn và ban nhạc của giáo phận Roma và ca đoàn Mẹ Giáo Hội.
Dưới đây là toàn văn bài giảng được Đức Thánh Cha chuẩn bị, và đã được Đức Hồng Y Leonardo Sandri đọc thay cho ngài.
Hôm nay, chúng ta cũng bước theo Chúa Giêsu, trước tiên là trong một cuộc rước lá và sau đó là trên con đường đau khổ và buồn phiền, khi chúng ta bước vào Tuần Thánh chuẩn bị tưởng niệm cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Chúa.
Khi chúng ta nhìn vào khuôn mặt của những người lính và những giọt nước mắt của những người phụ nữ trong đám đông, sự chú ý của chúng ta hướng đến một người vô danh mà tên của người này đột nhiên xuất hiện trong Phúc âm: đó là Ông Simon xứ Kirênê. Ông là người bị những người lính bắt giữ, sau đó “đặt thập giá lên người ông và bắt ông vác theo sau Chúa Giêsu” (Lc 23:26). Vào lúc đó, ông đang từ ngoài đồng trở về. Ông tình cờ đi ngang qua khi ông bất ngờ thấy mình bị cuốn vào một vở kịch đã áp đảo ông, khi một khúc gỗ nặng được đặt trên vai ông.
Khi chúng ta đi trên con đường đến đồi Canvê, hãy cùng nhau suy ngẫm một chút về hành động của Simon, cố gắng nhìn vào trái tim ông và bước theo bước chân ông bên cạnh Chúa Giêsu.
Trước hết, hành động của Simon là mâu thuẫn. Một mặt, ông bị ép phải vác thập giá. Ông không giúp Chúa Giêsu vì tin tưởng, mà vì bị ép buộc. Mặt khác, sau đó ông trở nên đích thân tham gia vào cuộc khổ nạn của Chúa. Thập giá của Chúa Giêsu trở thành thập giá của Simon. Ông không phải là Simon, được gọi là Phêrô, người đã hứa sẽ theo Thầy mọi lúc. Simon đó đã biến mất vào đêm Chúa bị phản bội, ngay cả sau khi ông đã thốt lên: “Lạy Chúa, dầu có vào tù hay chết với Chúa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22:33). Người hiện đang theo Chúa Giêsu không phải là môn đệ đó, mà là người đàn ông xứ Kirênê này. Tuy nhiên, Chúa đã dạy rõ ràng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9:23). Simon người Galilê nói nhưng không hành động. Simon người Kirênê hành động nhưng không nói. Giữa ông và Chúa Giêsu, không có cuộc đối thoại; không một lời nào được nói ra. Giữa ông và Chúa Giêsu, chỉ có gỗ thập giá.
Nếu chúng ta muốn biết liệu Simon thành Kirênê có giúp đỡ hay ghét Chúa Giêsu, người mà giờ đây ông phải chia sẻ đau khổ, liệu ông có “vác” thập giá của Chúa hay chỉ đơn giản là kề vai đưa nó về phía trước, chúng ta phải nhìn vào trái tim của ông. Trong khi trái tim của Chúa luôn rộng mở, bị đâm thủng bởi nỗi đau cho thấy lòng thương xót của Người, thì trái tim con người vẫn khép kín. Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra trong trái tim của Simon. Chúng ta hãy tưởng tượng mình ở vị trí của ông: chúng ta sẽ cảm thấy tức giận hay thương hại, trắc ẩn hay khó chịu? Khi chúng ta nghĩ đến những gì Simon đã làm cho Chúa Giêsu, chúng ta cũng nên nghĩ về những gì Chúa Giêsu đã làm cho Simon — những gì Người đã làm cho tôi, cho bạn, cho mỗi người chúng ta: Người đã cứu chuộc thế giới. Thập giá bằng gỗ mà Simon thành Kirênê đã vác là thập giá của Chúa Kitô, là Đấng đã mang lấy tội lỗi của toàn thể nhân loại. Người đã mang lấy chúng vì tình yêu thương chúng ta, trong sự vâng phục Chúa Cha (x. Lc 22:42); Người đã chịu đau khổ với chúng ta và vì chúng ta. Theo cách bất ngờ và đáng kinh ngạc này, Simon thành Kirênê trở thành một phần của lịch sử cứu độ, trong đó không ai là người xa lạ, không ai là ngoại kiều.
Chúng ta hãy bước theo dấu chân của Simon, vì ông dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu đến để gặp gỡ mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Khi chúng ta thấy đám đông lớn những người đàn ông và phụ nữ mà lòng hận thù và bạo lực thúc đẩy phải bước đi trên con đường đến đồi Canvê, chúng ta hãy nhớ rằng Thiên Chúa đã biến con đường này thành nơi cứu chuộc, vì chính Người đã bước đi trên con đường đó, hiến mạng sống mình vì chúng ta. Có bao nhiêu Simon thành Kirênê trong thời đại của chúng ta, đang mang thập giá của Chúa Kitô trên vai! Chúng ta có thể nhận ra họ không? Chúng ta có thể nhìn thấy Chúa trên khuôn mặt của họ, bị hủy hoại bởi gánh nặng của chiến tranh và sự thiếu thốn không? Đối mặt với sự bất công khủng khiếp của cái ác, chúng ta không bao giờ mang thập giá của Chúa Kitô một cách vô ích; ngược lại, đó là cách hữu hình nhất để chúng ta chia sẻ tình yêu cứu chuộc của Người.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trở thành lòng thương xót bất cứ khi nào chúng ta đưa tay ra với những người cảm thấy họ không thể tiếp tục, khi chúng ta nâng đỡ những người đã ngã xuống, khi chúng ta ôm lấy những người nản lòng.
Anh chị em thân mến, để trải nghiệm phép lạ lớn lao của lòng thương xót này, chúng ta hãy quyết định cách thức chúng ta phải mang thập giá của chính mình trong Tuần Thánh này: nếu không phải trên vai, thì trong trái tim chúng ta. Và không chỉ thập giá của chúng ta, mà còn là thập giá của những người đau khổ xung quanh chúng ta; thậm chí có thể là thập giá của một người vô danh nào đó mà tình cờ — nhưng có thực sự là tình cờ không? — đã đặt trên con đường của chúng ta. Chúng ta hãy chuẩn bị cho mầu nhiệm vượt qua của Chúa bằng cách là mỗi người chúng ta trở thành một Simon thành Kirênê đối với nhau.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
“Chúc mừng Chúa Nhật Lễ Lá và Tuần Thánh bắt đầu!” Đức Thánh Cha nói một cách khó khăn giữa tiếng reo hò của đám đông lớn tụ tập tại quảng trường và tràn ra dọc theo Via della Conciliazione.
Không thể tham dự Thánh lễ Chúa Nhật Lễ Lá, Vị Giáo Hoàng 88 tuổi, vẫn đang trong quá trình hồi phục sau một đợt viêm phổi kép nghiêm trọng khiến ngài phải nằm bệnh viện 39 ngày, đã đến bằng xe lăn vào cuối buổi lễ ngoài trời, mỉm cười và không cần ống thông mũi khi ngài đi ngang qua các giáo sĩ, nam nữ tu sĩ và giáo dân đứng gần bàn thờ.
Đức Hồng Y Leonardo Sandri, phó niên trưởng Hồng Y đoàn, đã chủ trì Thánh lễ với tư cách là đại diện của Đức Giáo Hoàng và đọc bài giảng được viết sẵn của Đức Thánh Cha cho đám đông vẫy cành lá và cành ô liu dưới bầu trời u ám.
Trong bài giảng đã chuẩn bị sẵn, Đức Giáo Hoàng đã khuyên nhủ các Kitô hữu “trải nghiệm phép lạ vĩ đại của lòng thương xót” bằng cách đồng hành cùng Chúa Giêsu trong cuộc hành trình đến thập giá.
“Chúng ta hãy quyết định cách chúng ta phải mang thập giá của mình trong Tuần Thánh này: nếu không phải trên vai, thì trong trái tim chúng ta,” Đức Giáo Hoàng chia sẻ. “Và không chỉ thập giá của chúng ta, mà còn là thập giá của những người đau khổ xung quanh chúng ta.”
Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô tập trung vào Simon thành Kirênê, người mà trong Phúc âm thánh Luca, “bất ngờ thấy mình bị cuốn vào một vở kịch” liên quan đến cuộc thương khó của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng nhận xét: “Khi chúng ta tiến về đồi Canvê, chúng ta hãy dành một chút thời gian để suy ngẫm về hành động của Simon, cố gắng nhìn vào trái tim ông và bước theo bước chân ông bên cạnh Chúa Giêsu”.
Mặc dù người đàn ông thành Kirênê không vác thập giá của Chúa Giêsu và không theo Người vì “niềm tin” mà là vì “sự ép buộc”, Đức Thánh Cha đã khen ngợi ông vì đã có mặt để giúp đỡ Chúa Giêsu đang đau khổ và, theo một “cách bất ngờ và đáng kinh ngạc”, ông trở thành “một phần của lịch sử cứu độ”.
“Giữa ông và Chúa Giêsu, không có cuộc đối thoại; không một lời nào được nói ra. Giữa ông và Chúa Giêsu, chỉ có gỗ của thập giá,” Đức Giáo Hoàng viết.
“Khi chúng ta nghĩ về những gì Simon đã làm cho Chúa Giêsu, chúng ta cũng nên nghĩ về những gì Chúa Giêsu đã làm cho Simon — những gì Người đã làm cho tôi, cho bạn, cho mỗi người chúng ta: Người đã cứu chuộc thế giới,” ngài nói thêm.
Nhấn mạnh đến tình yêu vô hạn của Chúa Kitô, “trong sự vâng phục Chúa Cha”, đã gánh chịu tội lỗi của toàn thể nhân loại, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng các Kitô hữu tin vào một Thiên Chúa “đã chịu đau khổ với chúng ta và vì chúng ta”.
Đức Giáo Hoàng thúc giục: “Chúng ta hãy nhớ rằng Thiên Chúa đã biến con đường này thành nơi cứu chuộc, vì chính Người đã bước đi trên đó và hiến mạng sống mình vì chúng ta”.
Trong bài huấn đức trong buổi đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Lá được Vatican công bố, Đức Thánh Cha đã yêu cầu các Kitô hữu tiếp tục cầu nguyện cho những người đang phải chịu đau khổ trên thế giới vì chiến tranh, nghèo đói và thiên tai.
Trong một diễn biến đau lòng hơn 30 người đã thiệt mạng và ít nhất 80 người khác bị thương trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga vào thành phố Sumy của Ukraine vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá. Đó là một trong một trong những cuộc tấn công chết chóc nhất vào Ukraine trong năm nay.
Quân Nga đã bắn hai hỏa tiễn đạn đạo vào trung tâm thành phố vào sáng Chúa Nhật khi mọi người tụ tập để cử hành Lễ Lá. Ít nhất 32 người đã thiệt mạng trong cuộc không kích, trong đó có hai trẻ em.
“Ngày 15 tháng 4 sẽ đánh dấu kỷ niệm hai năm đáng buồn kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột ở Sudan, trong đó hàng ngàn người đã thiệt mạng và hàng triệu gia đình buộc phải rời bỏ nhà cửa của họ,” Đức Thánh Cha nói trong thông điệp của mình.
“Nỗi đau khổ của trẻ em, phụ nữ và những người dễ bị tổn thương đang kêu thấu trời và cầu xin chúng ta hành động,” ngài nói thêm.
Hôm thứ sáu, lực lượng bán quân sự Sudan đã giết toàn bộ chín nhân viên của phòng khám y tế cuối cùng trong một trại tị nạn ở phía tây Darfur, Sudan, theo một báo cáo trên tờ New York Times, trích dẫn các nhóm cứu trợ và Liên Hiệp Quốc. Tổng cộng, ít nhất 100 người đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công vào trại tị nạn, nơi có nửa triệu người phải di dời do cuộc nội chiến của đất nước, báo cáo cho biết.
Nhắc đến các cuộc nội chiến đang diễn ra ảnh hưởng đến người dân ở Phi Châu, Trung Đông, Âu Châu và Á Châu, Đức Giáo Hoàng kêu gọi mọi người cầu nguyện cho hòa bình ở Congo, Nam Sudan, Li Băng, Palestine, Israel và Miến Điện.
Đức Thánh Cha cũng kêu gọi mọi người tưởng nhớ đến các nạn nhân và gia đình của thảm họa Santo Domingo, Cộng hòa Dominica, khiến hơn 200 người thiệt mạng sau khi mái một hộp đêm sụp đổ vào ngày 8 tháng 4.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Xin Đức Maria, Mẹ Sầu Bi, ban ơn này cho chúng ta và giúp chúng ta sống Tuần Thánh này với đức tin”.
Source:Catholic News Agency

Elise Ann Allen, của Crux, ngày 13 tháng 4 năm 2025, tường trình rằng: Khi Giáo Hội Công Giáo bắt đầu giai đoạn trang trọng nhất trong năm, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã xuất hiện bất ngờ một lần nữa tại Quảng trường Thánh Phêrô vào cuối Thánh lễ Chúa Nhật Lễ Lá, chúc các tín hữu một khởi đầu Tuần Thánh đầy phước lành.
“Anh chị em hãy có một Chúa Nhật Lễ Lá tốt lành, hãy có một Tuần Thánh tốt lành!” Đức Giáo Hoàng nói với các tín hữu vào Chúa Nhật, giọng nói vẫn khàn khàn nhưng đã cải thiện đáng kể sau khi được y tá riêng của ngài, Massimiliano Strappetti, đẩy vào trước bàn thờ chính tại Quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Phanxicô không sử dụng oxy vào Chúa Nhật, như ngài đã làm trong những lần nhìn thấy khác trong suốt tuần. Ngài chỉ sử dụng khi cần thiết, chủ yếu là vào ban đêm và hiện có thể đi lại trong những khoảng thời gian "kéo dài" mà không cần oxy vào ban ngày.
Trong ba tuần qua, kể từ khi xuất viện từ Bệnh viện Gemelli của Rome vào ngày 23 tháng 3, Đức Phanxicô đã trải qua vật lý trị liệu hô hấp, vận động và ngôn ngữ trong quá trình hồi phục sau một đợt nhiễm trùng đường hô hấp phức tạp và viêm phổi kép.
Sự xuất hiện của ngài vào Chúa Nhật này, ngày 13 tháng 4, để chính thức bắt đầu Tuần Thánh đánh dấu lần thứ năm chỉ trong bảy ngày qua, ngài xuất hiện mà không báo trước cả bên trong và bên ngoài các bức tường của Vatican, làm dấy lên nghi ngờ về việc ngài tuân thủ chặt chẽ như thế nào đối với thời gian nghỉ ngơi hai tháng theo yêu cầu của bác sĩ.
Thánh lễ Chúa Nhật được cử hành bởi Đức Hồng Y người Argentina Leonardo Sandri, phó niên trưởng của Hồng Y đoàn và là tổng trưởng danh dự của Bộ các Giáo hội Đông phương.
Trong bài giảng do Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết và được ĐHY Sandri đọc to trong Thánh lễ Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng tập trung vào hành động, trái tim và bước chân của Simon thành Cyrene, người đã giúp Chúa Giêsu vác thập giá.
“Giữa ông và Chúa Giêsu, không có cuộc đối thoại nào; không một lời nào được nói ra. Giữa ông và Chúa Giêsu, chỉ có gỗ của cây thập giá”, Đức Giáo Hoàng nói, lưu ý rằng Simon sau khi được lính canh yêu cầu giúp đỡ thì giờ đây đã “bị cuốn vào một vở kịch” không phải của riêng ông.
Để biết Simon có thực sự “vác” thập giá cùng Chúa Giêsu hay chỉ giúp Người vác nó, cần phải nhìn vào trái tim của ông, Đức Giáo Hoàng nói.
“Chúng ta không biết điều gì đã diễn ra trong trái tim của Simon. Hãy tưởng tượng mình ở vị trí của ông: chúng ta sẽ cảm thấy tức giận hay thương hại, thương cảm hay khó chịu? Khi chúng ta nghĩ về những gì Simon đã làm cho Chúa Giêsu, chúng ta cũng nên nghĩ về những gì Chúa Giêsu đã làm cho Simon – những gì Người đã làm cho tôi, cho bạn, cho mỗi người chúng ta: Người đã cứu chuộc thế giới”, Đức Giáo Hoàng nói.
Simon đã tham gia vào con đường đau khổ và tình yêu “bất ngờ và đáng kinh ngạc” mà Chúa Giêsu đã đi, ngài nói, và nói rằng những bước chân của Simon trên hành trình đó là một minh họa rằng “Chúa Giêsu đến để gặp gỡ mọi người, trong mọi hoàn cảnh”.
“Khi chúng ta nhìn thấy đám đông lớn những người đàn ông và đàn bà mà lòng hận thù và bạo lực thúc đẩy phải bước trên con đường đến đồi Canvê, chúng ta hãy nhớ rằng Chúa đã biến con đường này thành nơi cứu chuộc, vì chính Người đã bước đi trên con đường đó, hiến mạng sống mình vì chúng ta”, ngài nói.
Đức Giáo Hoàng nói rằng thập giá không bao giờ được mang “một cách vô ích”, nhưng là một cách hữu hình để trải nghiệm tình yêu cứu chuộc của Chúa Kitô, ngài nói rằng sự đau khổ của Chúa Giêsu trở thành lòng trắc ẩn “bất cứ khi nào chúng ta đưa tay ra với những người cảm thấy họ không thể tiếp tục, khi chúng ta nâng đỡ những người đã ngã xuống, khi chúng ta ôm lấy những người nản lòng”.
Trong bài phát biểu bằng văn bản sau Thánh lễ Chúa Nhật, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cảm ơn các tín hữu vì những lời cầu nguyện liên tục của họ cho sức khỏe và sự hồi phục của ngài, ngài nói rằng vào thời điểm thể chất yếu đuối, “họ giúp tôi cảm nhận được sự gần gũi, lòng trắc ẩn và sự dịu dàng của Chúa hơn nữa”.
Ngài cũng yêu cầu các tín hữu cầu nguyện cho tất cả những người đang phải chịu đựng chiến tranh, đói nghèo hoặc thiên tai, đặc biệt là các nạn nhân của vụ sập tòa nhà ở Santo Domingo.
Ngài lưu ý rằng ngày 15 tháng 4 sẽ đánh dấu "ngày kỷ niệm buồn thứ hai" của cuộc xung đột mới ở Sudan, khiến hàng nghìn người chết và hàng triệu người phải di dời.
"Nỗi đau khổ của trẻ em, phụ nữ và những người dễ bị tổn thương kêu lên trời và cầu xin chúng ta hành động", ngài nói, và yêu cầu tất cả các bên liên quan theo đuổi đối thoại, và cộng đồng quốc tế hỗ trợ những người dân nghèo.
Ngài kết thúc bằng lời cầu nguyện cho hòa bình ở các quốc gia khác đang có chiến tranh, bao gồm Lebanon, Ukraine, Palestine, Israel, Cộng hòa Dân chủ Congo, Myanmar và Nam Sudan.

Kathleen N. Hattrup của tạp chí Aleteia, ngày 13/04/25, cho hay: Bản văn của bài suy niệm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước khi đọc Kinh Truyền tin tập trung vào "những cảm xúc mà phụng vụ kêu gọi chúng ta chiêm niệm" và đặt vào cuộc chiến.
Trong khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô xuất hiện không theo lịch trình vào Chúa Nhật Lễ Lá này, ngày 13 tháng 4, Vatican đã công bố văn bản của ngài cho bài suy niệm của ngài trong buổi đọc kinh Truyền Tin.
Đức Giáo Hoàng đã đến vào cuối Thánh lễ Chúa Nhật Lễ Lá do Đức Hồng Y Sandri cử hành và chào hỏi các tín hữu. Đáng chú ý là ngài không đeo bình oxy.

Sau đây là bản văn của sứ điệp ngắn gọn của Kinh Truyền Tin.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi sáng!
Khi chúng ta cử hành Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, chúng ta đã lắng nghe tường thuật về Cuộc Khổ Nạn của Chúa theo thánh Luca (x. Lc 22:14-23:56) trong Tin mừng. Chúng ta đã nghe Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha nhiều lần:
“Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con; nhưng xin đừng theo ý con mà theo ý Cha.” (22:42); Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm ‘ (23:34); Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha" (23:46).
Chúng ta đã thấy Người bước đi trên đường thập giá, yếu đuối và nhục nhã, với cảm xúc và trái tim của một đứa trẻ bám chặt vào cổ cha mình, yếu đuối về thể xác, nhưng mạnh mẽ trong sự phó thác tin tưởng, cho đến khi Người ngủ thiếp đi, trong cái chết, trong vòng tay của Chúa Cha.
Đây là những cảm xúc mà phụng vụ kêu gọi chúng ta chiêm niệm và biến thành của riêng mình. Tất cả chúng ta đều có những nỗi buồn, về thể xác hoặc tinh thần, và đức tin giúp chúng ta không đầu hàng trước sự tuyệt vọng, không khép mình trong cay đắng, nhưng đối diện với chúng, cảm thấy được bao bọc, giống như Chúa Giêsu, bởi vòng tay quan phòng và thương xót của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến, tôi rất cảm ơn những lời cầu nguyện của anh chị em. Vào thời điểm yếu đuối về thể xác này, những lời cầu nguyện giúp tôi cảm nhận được sự gần gũi, lòng trắc ẩn và sự dịu dàng của Chúa hơn nữa. Tôi cũng đang cầu nguyện cho anh chị em, và tôi xin anh chị em hãy cùng tôi phó thác tất cả những người đang đau khổ cho Chúa, đặc biệt là những người bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, nghèo đói hoặc thiên tai. Đặc biệt, xin Chúa đón nhận trong sự bình an của Người các nạn nhân của vụ sập tòa nhà ở Santo Domingo, và an ủi gia đình họ.
Ngày 15 tháng 4 sẽ đánh dấu kỷ niệm đáng buồn thứ hai kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột ở Sudan, trong đó hàng ngàn người đã thiệt mạng và hàng triệu gia đình buộc phải rời bỏ nhà cửa. Nỗi đau khổ của trẻ em, phụ nữ và những người dễ bị tổn thương kêu lên trời và cầu xin chúng ta hành động. Tôi xin nhắc lại lời kêu gọi của tôi tới các bên liên quan, rằng họ có thể chấm dứt bạo lực và bắt đầu con đường đối thoại, và tới cộng đồng quốc tế, để sự giúp đỡ cần thiết có thể được cung cấp cho người dân.
Và chúng ta cũng hãy nhớ đến Lebanon, nơi cuộc nội chiến bi thảm bắt đầu cách đây năm mươi năm: với sự giúp đỡ của Chúa, xin cho đất nước này được sống trong hòa bình và thịnh vượng.
Cuối cùng, xin hòa bình đến với Ukraine, Palestine, Israel, Cộng hòa Dân chủ Congo, Myanmar, Nam Sudan đã bị tử đạo. Xin Đức Maria, Mẹ Sầu Bi, ban ơn này cho chúng ta và giúp chúng ta sống Tuần Thánh này với đức tin.
Theo các quan chức Ukraine, lực lượng của Mạc Tư Khoa đã bắn hai hỏa tiễn đạn đạo vào trung tâm thành phố vào sáng Chúa Nhật khi mọi người tụ tập để cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Ít nhất 34 người đã thiệt mạng trong cuộc không kích, bao gồm hai trẻ em.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã lên án vụ tấn công trong bài đăng trên X và kêu gọi phản ứng quốc tế cứng rắn đối với Putin.
Nhà lãnh đạo Ukraine cáo buộc Nga phớt lờ đề xuất ngừng bắn của Hoa Kỳ và nói thêm rằng Mạc Tư Khoa “tin rằng họ có thể tiếp tục giết người mà không bị trừng phạt”.
Keith Kellogg, đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump về Ukraine, cho biết cuộc tấn công của Nga vào các mục tiêu dân sự “vượt qua mọi ranh giới của sự nghiêm chỉnh”.
“Là một cựu lãnh đạo quân sự, tôi hiểu việc tấn công và điều này là sai. Đó là lý do tại sao Tổng thống Trump đang nỗ lực chấm dứt cuộc chiến này”, Kellogg cho biết trong một bài đăng trên X.
Các nhà lãnh đạo Âu Châu đã vội vã bảo vệ Ukraine. Emmanuel Macron của Pháp đã nói trong một bài đăng trên X rằng “rõ ràng là chỉ có Nga mới chọn tiếp tục” cuộc chiến “chống lại mạng sống con người, luật pháp quốc tế và những lời đề nghị ngoại giao của Tổng thống Trump”.
Donald Tusk của Ba Lan cho biết: “Phiên bản ngừng bắn của Nga. Chúa Nhật Lễ Lá Đẫm Máu, Sumy Ukraine.”
Thủ tướng Anh Keir Starmer cho biết ông “kinh hoàng trước những cuộc tấn công khủng khiếp của Nga vào dân thường ở Sumy”.
“Tổng thống Zelenskiy đã thể hiện cam kết của mình đối với hòa bình. Putin hiện phải đồng ý ngừng bắn hoàn toàn và ngay lập tức mà không có điều kiện,” Starmer cho biết trong một bài đăng trên mạng xã hội.
Vụ tấn công xảy ra chỉ vài giờ sau khi Tổng thống Trump nói với các phóng viên rằng
“Đây sẽ là một cuối tuần thú vị và tôi nghĩ chúng ta sẽ có một số tin khá tốt về một số cuộc xung đột,” Tổng thống Trump nói với các phóng viên trên Không lực Một.
Ông nhấn mạnh rằng các cuộc đàm phán chấm dứt chiến tranh ở Ukraine “có thể sẽ diễn ra ổn thỏa”, nhưng nói thêm: “Có một thời điểm mà bạn chỉ có thể hoặc là chấp nhận hoặc là im lặng”. Chính quyền Hoa Kỳ đã đàm phán để chấm dứt chiến tranh của Nga ở Ukraine, nhưng các đồng minh của Kyiv đang lo ngại.
Trước đó, Tổng thống Trump đã thúc giục Putin “hành động” vì “quá nhiều người đang chết”. Đó là lời kêu gọi trong bài đăng trên mạng xã hội vào thứ Sáu, cùng ngày mà phái viên Tòa Bạch Ốc phụ trách Ukraine đã gặp gỡ các đối tác Nga tại St. Petersburg.
Source:Politico
Hiện đang giữ chức giám đốc của Hội Giáo Hoàng Truyền giáo Hoa Kỳ, Đức Ông Roger Landry đã đi khắp thế giới để mang Chúa Kitô đến những vùng đất xa xôi trên Trái Đất.
Chuyến đi mới nhất của ngài đưa ngài đến Việt Nam, nơi ngài đến thăm những người Công Giáo mắc bệnh phong. Làm chứng về những gì ngài thấy sau khi cử hành Thánh lễ trong một nhà thờ đông đúc tuyệt đẹp, Đức Ông Landry nói:
“Chúng tôi có đặc ân lớn lao khi mang Chúa Giêsu đến với những người phong cùi trong trại này, những người không thể tham dự Thánh lễ. Người phong cùi đầu tiên mà chúng tôi đến thăm, với cơn đói khủng khiếp, ngước mắt lên nhìn Chúa qua đôi mắt đẫm lệ và đón nhận Chúa trên lưỡi của mình vì anh ta không còn tay nữa. Đôi tay của anh ta đã được trao lại cho Chúa. Và anh ta đã đón nhận với đức tin lớn lao”.
Đức Ông Landry đã chia sẻ một cuộc gặp gỡ khác của ngài tại trại phong ở Kon Tum, “khi mang Mình Thánh Chúa đến cho một người phụ nữ tại nhà bà ấy”.
“Bà ấy quá phấn khích khi được đón Chúa Giêsu, bà bò dọc hành lang bằng cả bốn chân; mặc dù không còn tay, bà đã bước đến tấm thảm đã được trải sẵn để chào đón Chúa Giêsu,” Đức Ông Landry nói trong khi nước mắt trào ra.
“Và sau đó tiếp đón Người bằng tình yêu thương lớn lao.”
Vị linh mục, người thường xuyên đóng góp bài viết cho tờ Register, kết thúc bằng cách nhắc nhở tất cả chúng ta:
“Đây là đức tin Công Giáo của chúng ta. Đây là điều mà Hội Giáo Hoàng Truyền giáo Hoa Kỳ cố gắng thực hiện: đó là mang Chúa Giêsu, Ánh sáng của Thế giới, đến với mọi người bất kể họ đang đau khổ như thế nào. Bởi vì ngay cả khi chúng ta bước đi trong thung lũng tối tăm, chúng ta không sợ điều ác, vì Chúa Giêsu luôn ở cùng chúng ta.”
Trại dành cho người phong cũng được Hội bác ái St. Joseph Mission Charity của Hoa Kỳ hỗ trợ.
Một món quà quan trọng khác mà Hội Giáo Hoàng Truyền giáo Hoa Kỳ có thể trao tặng cho những người mắc căn bệnh này là giày dép. Trong một bài đăng trên mạng xã hội, Đức Ông Landry đã giải thích lý do tại sao điều này lại quan trọng như vậy, ngài viết:
“Dép là vật dụng thiết yếu để giữ cho chân họ không bị chảy máu, vì bệnh phong có thể lây truyền qua chất dịch. Mỗi đôi dép được may riêng cho từng người bệnh phong có kích thước bàn chân khác nhau.”
Nhóm cũng gặp gỡ những trẻ em không có gia đình chăm sóc. Như Đức Cha Landry giải thích:
“Chúng tôi cũng gặp những trẻ mồ côi của trại phong cùi. Các nữ tu chăm sóc những người phong cùi, trẻ mồ côi và những người thuộc các bộ tộc thường không được chấp nhận bởi nền văn hóa Việt Nam rộng lớn hơn, và đã đến thăm đền thờ Đức Mẹ nổi tiếng ở Măng Đen, với bức tượng Đức Mẹ với đôi bàn tay cụt, người mà những người phong cùi có lòng sùng kính lớn lao.”
Nhiều người bị mất chân tay hoặc bị khuyết tật cầu nguyện xin Đức Mẹ chuyển cầu dưới danh hiệu đặc biệt này.
Đức Ông Landry hiện đang đi đến Thái Lan và các nước Á Châu khác. Xin hãy cầu nguyện cho ngài và công việc quan trọng của Hội Giáo Hoàng Truyền giáo!
Đức Mẹ Măng Đen, cầu cho chúng con!
Source:National Catholic Register
Is 42:1-7
Tv 26(27):1-3, 13-14
Ga 12:1-11
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến Bêtania, đến nhà anh Ladarô, là người mà Người đã cho sống lại từ cõi chết. (Ga 12:1)
Một ngày nọ trong lớp, tôi và học sinh đang thảo luận về chương 11 của Phúc âm thánh Gioan.
Trong khi chúng tôi xem lại nhật ký Kinh Thánh của họ, hai cô gái tiết lộ rằng cả hai đều từng sở hữu cá vàng, dựa trên ngôn ngữ cơ thể uể oải của chúng, có vẻ như chúng không còn sống được bao lâu nữa. Trong cả hai trường hợp, hai con cá này bất ngờ đã “sống lại” và sống để bơi thêm nhiều ngày nữa.
Mặc dù bị chia cắt bởi không gian, thời gian và chủ sở hữu, mỗi con cá đều có cho mình một cái tên mới: Lagiarô.
Thật thích hợp khi sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu dùng bữa tối với chính người đã nếm trải cái chết và sau đó hít thở lại hương vị ngọt ngào của sự sống sau bốn ngày đen tối. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu cho thấy rằng cái chết giờ đây đã có quyền lực đối với Ngài. Bữa tối của Chúa Kitô với Lagiarô xảy ra chỉ một chương sau khi ông được Chúa Giêsu cho sống lại.
Vì Tội Tổ Tông, cái chết gọi tất cả chúng ta. Một số người đấu tranh để chấp nhận điều đó - giống như các tông đồ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Maria đã sẵn sàng. Để chuẩn bị cho cuộc thương khó của Chúa Giêsu, bà xức dầu thơm và cam tùng đắt tiền vào chân Người. Kẻ phản bội sắp xảy ra, Giuđa, phản đối lòng bác ái này một cách giả tạo, nhưng Chúa Kitô đã trừng phạt hắn. Ngài biết cái chết của mình sắp đến. Ngài đã chuẩn bị.
Mỗi khoảnh khắc chúng ta trải qua đều đưa chúng ta đến gần hơn với cái chết. Tuy nhiên, thay vì nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng, suy nghĩ đó nên mang lại cho chúng ta hy vọng. Giống như Lagiarô, tất cả chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên, chính cái chết của Chúa Kitô, mà Maria báo trước với hương thơm của hy vọng, mở ra cánh cửa để chúng ta sống lại với Người. Khi Thứ Sáu Tuần Thánh đang đến gần trong vài ngày nữa, chúng ta hãy sử dụng phần còn lại của Mùa Chay không phải để sợ cái chết, mà để đến gần hơn với Đấng đã chiến thắng nó.
Lạy Chúa, trong Tuần Thánh này, xin gia tăng đức tin của chúng con vào sự sống, sự chết và sự phục sinh của Chúa. Amen.
Hôm Chúa Nhật Lễ Lá, ngày 13 tháng 4, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phê chuẩn văn kiện này — cho đến nay chỉ được công bố bằng tiếng Ý. Văn kiện này sẽ có hiệu lực vào Chúa Nhật Phục Sinh, ngày 20 tháng 4 năm 2025.
Sắc lệnh thay thế chỉ thị Mos Iugiter năm 1991, duy trì Điều 945 của Bộ Giáo luật, khẳng định rằng các linh mục có thể nhận bổng lễ để cử hành Thánh lễ theo những ý chỉ cụ thể, đồng thời đưa ra những điều khoản quan trọng cho việc “gộp chung các ý chỉ”.
Theo các chuẩn mực đã cập nhật, các hội đồng giám mục hoặc công đồng tỉnh hiện có thể cho phép các linh mục chấp nhận nhiều bổng lễ từ nhiều người xin lễ khác nhau trong một Thánh lễ duy nhất với “ý định chung”, nhưng chỉ khi tất cả những người xin lễ đã được thông báo rõ ràng và tự do đồng ý.
Tài liệu nêu rõ: "Sự đồng ý của những người xin lễ không bao giờ có thể được giả định là đương nhiên".
“Trong trường hợp không có sự đồng ý rõ ràng, thì luôn được coi là không có sự đồng ý.”
Sắc lệnh này cũng tái khẳng định rằng việc dâng lễ không bao giờ được coi là giao dịch thương mại, lưu ý rằng những hành vi như vậy sẽ cấu thành tội mại thánh, tức là hành vi mua hoặc bán những thứ thuộc về tâm linh.
Đức Hồng Y Lazzaro You Heung-sik, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ, giải thích rằng các quy định mới được đưa ra sau khi “xem xét sâu sắc” và tham khảo ý kiến rộng rãi với các giám mục, giáo sĩ và tín hữu trên toàn thế giới.
Tài liệu này đề cập đến thách thức ngày càng gia tăng về tình trạng thiếu hụt giáo sĩ ở nhiều khu vực, gây khó khăn cho việc thực hiện tất cả các ý chỉ trong Thánh lễ được yêu cầu trong khi vẫn giữ được ý nghĩa tâm linh của chúng.
Các giám mục được hướng dẫn phải giáo dục đúng đắn cho giáo sĩ và tín hữu về các quy định này và duy trì hồ sơ chính xác về các Thánh lễ, ý định và bổng lễ. Sắc lệnh nhấn mạnh rằng các linh mục phải cử hành Thánh lễ theo ý định của tín hữu, “đặc biệt là những người nghèo nhất, ngay cả khi không nhận được bất kỳ bổng lễ nào”.
Các quy tắc này cũng cấm việc thay thế các Thánh lễ đã hứa bằng những lời nhắc nhở đơn giản trong các nghi lễ phụng vụ, xếp loại những hành vi như vậy là “bất hợp pháp nghiêm trọng”.
Một điều khoản mục vụ đáng chú ý cho phép các giám mục giáo phận chuyển hướng các ý lễ còn dư đến các giáo xứ hoặc vùng truyền giáo đang cần, thúc đẩy tình đoàn kết trong Giáo hội hoàn vũ.
Source:Catholic News Agency
Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc tế: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi, để Kỷ niệm 1,700 năm [325-2025] Công đồng Nicée

Chương một: Kinh Tin Kính cho ơn cứu rỗi: Vinh tụng ca và thần học của tín điều Nicée
7. Cử hành Công đồng Nicée nhân kỷ niệm 1,700 năm thành lập trước hết là để thán phục trước Kinh Tin Kính mà Công đồng đã để lại cho chúng ta và trước vẻ đẹp của hồng phúc được ban tặng trong Chúa Giêsu Kitô, giống như ảnh tượng bằng lời nói. Do đó, chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu về Nicée bằng cách xem xét Kinh Tin Kính này để làm nổi bật sự bao la phi thường của đức tin Ba Ngôi, của Kitô học và của cứu thế học mà nó thể hiện, cũng như những hàm ý nhân học và giáo hội học của nó, trước khi kết thúc bằng phạm vi đại kết của nó. Có thể nói, đây là một hành động của thần học Vinh tụng ca. Bài viết này không nhằm mục đích nghiên cứu sâu sắc từng chủ đề của đức tin Kitô giáo tập trung trong Kinh Tin Kính – một nhiệm vụ ít hữu ích và trong mọi trường hợp là không thể thực hiện được trong khuôn khổ của việc làm này– nhưng nhằm làm nổi bật sự phong phú của các tuyên bố và chân lý được Kinh Tin Kính Nicée đưa ra ở bình diện tín lý, đặc biệt là những tuyên bố và chân lý mang lại thách thức và hiệu quả lớn nhất cho giai đoạn lịch sử này của Giáo hội và thế giới, ngay tại thời điểm chúng ta kỷ niệm ngày thành lập Công đồng Nicée.
1. Nắm bắt được sự bao la của ba Ngôi vị thần linh cứu rỗi chúng ta: “Thiên Chúa là Tình yêu”, vô hạn
8. Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople được xây dựng xung quanh lời khẳng định về đức tin Ba Ngôi:
Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Chúng tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành... Chúng tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con: Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy... [10].
1.1 Sự vĩ đại của thiên chức làm cha của Chúa Cha, nền tảng của sự vĩ đại của Chúa Con và Chúa Thánh Thần
9. Điểm khởi đầu của đức tin Nicée là sự khẳng định về sự hiệp nhất của Thiên Chúa. Kitô giáo về cơ bản là một tôn giáo độc thần, tiếp nối sự mặc khải được ban cho Israel. Tuy nhiên, Kinh Tin Kính này không đặt ra "Thiên Chúa" thuần túy và đơn giản, và càng không phải là bản chất thần thiêng duy nhất, mà đúng hơn là Ngôi vị thần thiêng đầu tiên là Chúa Cha. Là “Đấng sáng tạo trời đất” (x. St 1:1; Nkm 9:6; Kh 10:6), Người là Cha của muôn vật[11]. Hơn nữa, Chúa Kitô mặc khải về mối quan hệ cha con nội tại chưa từng có của Thiên Chúa, nền tảng cho mối quan hệ cha con ngoại tại của Người. Nếu Chúa Kitô là Chúa Con, một cách độc nhất, điều này ngụ ý rằng có một sự sinh sản trong Thiên Chúa: Thiên Chúa Cha ban tặng tất cả những gì Người có và tất cả những gì Người là. Thiên Chúa không phải là một nguyên lý nghèo nàn và ích kỷ: Người là sine invidia [không ghen tỵ] [12]. Quyền làm cha, giống như quyền năng toàn năng của Người, chính là khả năng hiến dâng trọn vẹn bản thân mình. Sự hiến tặng của người cha này không chỉ là một khía cạnh trong số những khía cạnh khác, mà còn định nghĩa về Chúa Cha, Đấng hoàn toàn là cha[13]. Thiên Chúa luôn là Cha và không bao giờ là một Thiên Chúa “đơn độc”[14]. Mối quan hệ cha con với Thiên Chúa duy nhất này là khía cạnh đầu tiên của đức tin Kitô giáo, khơi dậy sự ngạc nhiên và sự bao la của đức tin này phải được cử hành bằng cách tái khám phá Nicée 1700 năm sau. Do đó, vấn đề ở đây là khám phá những hàm ý để hiểu được mầu nhiệm Ba Ngôi.
10. Đức tin vào Chúa Cha chứng thực sự sung mãn vô biên của Thiên Chúa. Điều đầu tiên không chỉ đơn thuần là một định nghĩa về Thiên Chúa, mà trước hết là một lời ca ngợi vốn là một phần của truyền thống Vinh tụng ca trong phụng vụ Do Thái và các phụng vụ Kitô giáo đầu tiên[15]. Thiên Chúa "toàn năng" (pantokratōr) nhắc lại nhiều cách diễn đạt khác nhau trong Cựu Ước, chẳng hạn như "Chúa Sabaoth", được nhắc đến trong Tân Ước trong bối cảnh các nghi lễ trên thiên đàng (Khải Huyền 4:8; 11:17; 15:3; 16:14; 19:6).
11. Sự mặc khải trong Chúa Kitô về thiên chức làm Cha của Thiên Chúa cũng biểu lộ sự bao la của Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nếu Thiên Chúa Cha ban tặng mọi sự, ngoại trừ quyền làm cha, điều này có nghĩa là Chúa Con và Chúa Thánh Thần hoàn toàn bình đẳng với Chúa Cha về thiên tính. Trong Kinh Tin Kính, Chúa Con là “một”, Người là “Chúa” (Kyrios, dịch chữ Tétragramme [Kết từ tứ tự YHWH] trong Bản Bẩy Mươi), “Con Thiên Chúa”, “Đấng duy nhất được sinh ra” (ho monogenēs) trong sự thân mật của Chúa Cha, “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”, “ánh sáng bởi ánh sáng”, “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, đồng bản thể (homoousios) với Chúa Cha. Ví dụ, chúng ta hãy lưu ý: trong Tin mừng thứ tư, Chúa Con nhiều lần được gọi là theos [Thiên Chúa]: Ga 1:1; 5.18; 20.28. Chúa Con được sinh ra “trước muôn đời”, điều này có nghĩa trong Kinh Tin Kính là Người đồng hằng hữu với Chúa Cha (x. Ga 1:1). Điều này nhằm vào các chủ trương của Arius theo đó "đã có một thời điểm khi [Chúa Con] không hiện hữu”, “trước khi được sinh ra, Người đã không hiện hữu” và “Người đã trở thành từ những gì không hiện hữu”[16], hoặc một lần nữa “Chúa Con đến từ hư vô”, theo “ý muốn và sự sắp đặt” của Chúa Cha”[17]. Đây là lý do tại sao Chúa Con có thể được tuyên xưng là “Đấng nhờ Người mà muôn vật được tạo thành” (x. 1 Cr 8:6; Ga 1:3). Thiên Chúa vĩ đại đến nỗi Chúa Cha có thể tạo ra một Đấng khác ngang hàng với Người về mặt thần tính. Thiên Chúa vượt quá mọi điều chúng ta có thể hình dung và tưởng tượng, bởi vì Sự hiệp nhất của Người mang tính đa nguyên thực sự mà không phá vỡ Sự hiệp nhất.
12. Chúa Cha cũng trao mọi sự cho Chúa Thánh Thần, được định nghĩa bằng những thuật ngữ cụ thể dành riêng cho thần tính: “Thánh Thần”, “Thánh” và “Chúa” (một lần nữa gợi lên Tétragramme). Cũng như Chúa Cha là Đấng sáng tạo và Chúa Con là Ngôi Lời mà qua đó Chúa Cha tạo dựng nên muôn vật, Chúa Thánh Thần được tuyên xưng là “Đấng ban sự sống”. Cũng như Chúa Con được sinh ra từ Chúa Cha, thì Chúa Thánh Thần cũng “xuất phát từ Chúa Cha”. Những tuyên bố về Chúa Thánh Thần cố ý nhắc lại điều khoản về Chúa Con.[18] Vì thế, Chúa Thánh Thần có thể và phải được tôn thờ cùng với Chúa Cha và Chúa Con – để xác nhận tính chất Vinh tụng ca của Kinh Tin Kính.
13. Điều cốt yếu là phải giữ cả thần tính của Chúa Thánh Thần là “ngôi thứ ba” trong Thiên Chúa và mối liên hệ của Người với Chúa Cha cũng như với Chúa Con. Thật vậy, ngay cả ngày nay vẫn còn khó khăn khi xem Người như một Ngôi vị thần thiêng hoàn toàn riêng biệt chứ không phải là một sức mạnh thần thiêng đơn thuần hay thậm chí là sức mạnh vũ trụ. Đôi khi chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha và Chúa Con, bỏ qua Chúa Thánh Thần, không giống như lời cầu nguyện của Giáo hội luôn hướng về Chúa Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận ra tầm quan trọng hoàn toàn hợp pháp trong Bí tích Thánh Thể, trong Đức Trinh Nữ Maria hoặc trong Giáo hội – mà không cần đo lường xem những điều sau này quý giá như thế nào chính vì chúng được Chúa Thánh Thần làm cho sống động[19]. Ngược lại, những người khác sẽ dành một vị trí trung tâm, thậm chí là độc quyền cho Chúa Thánh Thần, đến mức đẩy Chúa Cha và Chúa Con ra phía sau, điều này, một cách nghịch lý, tương đương với một hình thức giản lược về Thần khí học, vì Người là Thánh Thần của Chúa Cha và Thánh Thần của Chúa Con (Ga 4:6; Rm 8:9). Sự vĩ đại vô biên của Chúa Thánh Thần được thể hiện trong đức tin Nicée là sự bảo vệ chống lại những chủ nghĩa giản lược này.
14. Như vậy, từ nguồn mạch sung mãn của tình phụ tử Thiên Chúa, tuôn trào sự sung mãn vô biên của Thiên Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần, semper major [luôn luôn lớn lao hơn]. Bây giờ sự viên mãn của Chúa Cha ngụ ý một taxis (một trật tự) trong cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha là nguồn gốc của mọi thần tính[20]. Ngôi thứ hai thực sự là Thiên Chúa và ánh sáng, nhưng Người là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”, “ánh sáng bởi ánh sáng”. Trong khi được tuyên xưng là ngang hàng về mặt thần tính với Chúa Con và Chúa Cha, Chúa Thánh Thần được biểu lộ theo cách hoàn toàn khác biệt so với hai Đấng kia. Chúng ta vừa thấy (xem § 12 ở trên) rằng Người được trình bày với những đặc điểm thần thiêng và phải được tôn thờ cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Tuy nhiên, sự khác biệt trong cách diễn đạt là đáng chú ý: những gì được nói về Chúa Cha và Chúa Con "là một" hoặc về Chúa Con "đồng bản thể" thì không được nhắc lại khi nói về Chúa Thánh Thần. Không làm mất đi bất cứ điều gì trong thiên tính của Người, cách đề cập đến Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính nhấn mạnh đến sự khác biệt ngôi vị của Người. Vì vậy, bản chất riêng của Chúa Thánh Thần làm nổi bật tính độc nhất của mỗi ngôi vị thần linh. Theo một cách nào đó, trong Thiên Chúa, “hypostase” hay “ngôi vị” là một thuật ngữ tương tự, theo nghĩa là mỗi một trong ba “tên” thần thánh đều là một ngôi vị trọn vẹn, nhưng theo một cách độc đáo riêng. Tính độc đáo này cũng cho thấy rằng sự bình đẳng một mặt, còn sự khác biệt và trật tự mặt khác không mâu thuẫn với nhau. Đây cũng là hoa trái của tình phụ tử vô bờ bến của Chúa Cha. Tiếp nhận Công đồng Nicée có nghĩa là tiếp nhận sự phong phú của tình phụ tử thần thiêng, thiết lập sự bình đẳng nhưng cũng có sự khác biệt và tính duy nhất.
1.2 Suy gẫm về cách sử dụng biểu thức homoousios
15. Một trong những đóng góp cốt lõi của Công đồng Nicée là định nghĩa về thiên tính của Chúa Con theo nghĩa đồng bản thể: Chúa Con "đồng bản thể" (homoousios) với Chúa Cha, "được sinh ra bởi Chúa Cha", "nghĩa là, từ bản thể của Chúa Cha".[21] Việc sinh ra Chúa Con là điều gì đó khác với sự sáng tạo, bởi vì đó là sự thông truyền về một bản thể của Chúa Cha. Người Con không chỉ là Thiên Chúa trọn vẹn như Chúa Cha, mà còn có bản thể giống hệt về mặt số lượng [numérique] với bản thể của Người, vì không có sự phân chia trong một Thiên Chúa[22]. Chúng ta hãy nhắc lại: Chúa Cha ban mọi sự cho Chúa Con, theo luận lý của một cuộc sống thần linh, là tình yêu agape và luôn vượt quá những gì trí óc con người có thể hình dung.
16. Lần đầu tiên, các thuật ngữ không phải Kinh thánh được sử dụng trong một bản văn chính thức và mang tính chuẩn mực của Giáo hội – chúng ta sẽ quay lại vấn đề này trong chương thứ ba và thứ tư. Ý định của các Nghị phụ Công đồng không phải là đưa ra sự mới lạ vào đức tin tông truyền, nhưng là bảo vệ đức tin đó bằng cách giải thích sự sinh sản trong Thiên Chúa thực sự là gì. Đây là lý do tại sao trong Kinh Tin Kính 325, homoousios được giới thiệu bằng cụm từ “nghĩa là”: thuật ngữ bản thể học của Hy Lạp phục vụ cho các cách diễn đạt kinh thánh truyền thống[23]. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ thuyết Ngộ đạo và bị lên án bởi công đồng khu vực Antiochee (264-269), đã gây ra nhiều tranh cãi trong những thập niên sau Nicée. Nhưng từ những năm 360 trở đi, số lượng thành viên tăng lên cho đến khi được phê chuẩn hoàn toàn và hòa bình tại Constantinople (năm 381). Vai trò của nó trong việc giải thích và bảo vệ đức tin sau đó được công nhận, cũng như khả năng sáng tạo của lý trí, triết học và văn hóa con người trong việc chào đón Mặc khải. Như đã nói trong Kinh Thánh, điều này nhấn mạnh rằng Mặc Khải ngụ ý một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, một cuộc đối thoại được thực hiện ở cả hai phía bằng lời nói của con người, có vị trí, có giới hạn và do đó luôn phải được diễn giải. Sự sống thần thiêng không chỉ tự mặc khải như vô cùng dồi dào, mà chính hình thức Mặc khải, có khả năng diễn đạt bằng lời nói của con người, và sớm được dịch sang mọi ngôn ngữ, được tự biểu lộ ở đây semper major [luon ớn lao hơn].
17. Tuy nhiên, câu nói này không phải là câu duy nhất được dùng trong kinh Tin Kính để diễn tả thiên tính cứu rỗi của Chúa Con. Nó được chèn vào giữa một loạt các thuật ngữ có nguồn gốc từ kinh thánh và phụng vụ: “Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa[24]” và “ánh sáng bởi ánh sáng”. Không một thuật ngữ nào có thể diễn tả hết được sự sung mãn vô tận của Mặc Khải. Đức tin cần sự diễn đạt bằng các biểu thức Kinh thánh, triết học và phụng vụ, các khái niệm, hình ảnh và danh xưng thần linh (Cha, Con, Thánh Thần) để diễn đạt theo cách công bằng và trọn vẹn nhất. Các phương thức diễn đạt của các Giáo hội và cộng đồng giáo hội khác nhau có thể hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình tái khám phá này, vì một số nhấn mạnh nhiều hơn vào phương thức này hoặc phương thức kia: do đó, truyền thống phương Đông nhấn mạnh đến sự hiểu biết về Chúa Kitô là "ánh sáng bởi ánh sáng[25]". Sự đa dạng của vốn từ vựng chắc chắn góp phần làm cho đức tin được diễn đạt ở đó dễ hiểu hơn trong các nền văn hóa khác nhau và theo cách hiểu của mỗi con người.
1.3 Sự thống nhất của lịch sử cứu rỗi
18. Để hiểu đầy đủ ý nghĩa của Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople, cần phải hiểu tính thống nhất của khuôn khổ lịch sử cứu rỗi, điều này hình thành nên lời tuyên xưng đức tin. Thật vậy, việc quy công cuộc sáng tạo hay "món quà sự sống" cho ba ngôi vị nhấn mạnh đến sự thống nhất giữa trật tự sáng tạo và trật tự cứu rỗi. Sự thần linh hóa bắt đầu bằng hành động sáng tạo, lịch sử cứu rỗi bắt đầu bằng sự sáng tạo. Chống lại thuyết Marcion và các hình thức khác nhau của thuyết Ngộ đạo, phải cho rằng chính Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và cứu rỗi, và chính thực tại được sáng tạo, tốt lành vì được Thiên Chúa mong muốn, được phục hồi trong sự cứu chuộc. Vì thế, ân sủng không tạo ra sự gián đoạn nhưng mang đến sự viên mãn, vì ân sủng đã hoạt động trong công trình sáng tạo được giao phó cho nó.
19. Tương tự như vậy, nhiệm cục cứu rỗi được thực hiện trong Chúa Kitô chỉ được trình bày theo đúng ý nghĩa đích thực và trọn vẹn của nó nếu sự trung thành của nó đối với mặc khải được ban cho dân Israel được nhấn mạnh, nếu không thì đức tin được diễn tả tại Nicée sẽ mất đi tính chính đáng và tính trọn vẹn của chiều kích lịch sử của nó. Rõ ràng, chiều kích Ba Ngôi và Kitô học của đức tin Nicée không được truyền thống giáo sĩ Do Thái chấp nhận nhưng theo quan điểm Kitô giáo, nó được hiểu theo cách thiết yếu là một sự mới lạ nhưng được khắc ghi trong tính liên tục với sự mặc khải được giao phó cho dân Chúa chọn. Học thuyết về Chúa Ba Ngôi chắc chắn không có mục đích là tương đối hóa, nhưng là đào sâu đức tin vào Thiên Chúa duy nhất của Israel[26]. Chúng tôi đã chỉ ra rằng những ám chỉ về "một" Thiên Chúa và "Đấng sáng tạo trời đất" gợi lại Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa mặc khải mình là Đấng sáng tạo vì tình yêu, bước vào các mối quan hệ vì tình yêu và kêu gọi được yêu lại. Thiên Chúa gọi Abraham là “bạn” của Người, “người Người yêu” (Is 41:8; 2 Sb 20:7; Gc 2:23), và Người nói chuyện với Moses “mặt đối mặt, như người này nói chuyện với người kia” (Xh 33:11). Tương tự như vậy, sự lựa chọn homoousios được thực hiện chính là để bảo vệ bản chất độc thần của đức tin Kitô giáo: trong Chúa, không có thực tại nào khác ngoài thực tại thần thiêng. Chúa Con và Chúa Thánh Thần không ai khác chính là Thiên Chúa chứ không phải là đấng trung gian giữa Thiên Chúa và thế gian hay chỉ là những tạo vật. Hơn nữa, sự mặc khải được ban cho dân Israel chứng minh rằng Chúa là Đấng Duy Nhất cam kết, tận hiến và giao tiếp với lịch sử loài người. Kitô giáo hiểu rằng Nhập thể là sự viên mãn chưa từng có của cách thực hiện (nhiệm cục) của Thiên Chúa Israel, Đấng ngự xuống và ngự giữa dân Người, được thực hiện trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa với một nhân loại duy nhất, Chúa Giêsu[27].
20. Hơn nữa, sự phát triển của đức tin Ba Ngôi được diễn đạt tại Nicée không phải là không có bối cảnh Do Thái. Kinh Tin Kính được cấu trúc bằng cách lặp lại ba lần: “Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha… và một Chúa Giêsu Kitô… và một Chúa Thánh Thần.” Thật vậy, đức tin Ba Ngôi mới ra đời của những thế kỷ đầu tiên phát triển sự hiệp nhất của các danh thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, từ đức tin độc thần của Israel được diễn tả vào đầu Sh’ma Israel, “Chúa, Thiên Chúa chúng ta là một” (Đnl 6:4), bằng cách lặp lại lời cầu nguyện trung tâm này của Do Thái giáo, mở rộng thuộc tính về sự hiệp nhất-duy nhất của Thiên Chúa duy nhất cho Chúa Con: “Tôi tin kính một Thiên Chúa... và một Chúa...”. Điều này đã đúng trong các phác thảo về cách diễn đạt đức tin Ba Ngôi cụ thể trong Tân Ước: “Đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, từ Người mà mọi vật được tạo thành, và chúng ta hiện hữu nhờ Người; và một Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà muôn vật hiện hữu, và chúng ta hiện hữu nhờ Người” (1 Cô-rinh-tô 8:6, chúng tôi nhấn mạnh). Những ngôi vị này, “hai ngôi” [binitaire], cùng tồn tại với các công thức “ba ngôi” [trinitaire]: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí,... Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4:4-6 chúng tôi nhấn mạnh; cũng xem 1 Cr 12:4-6). Rõ ràng, nội dung sẽ nhanh chóng phát triển theo các quan niệm không thể được chấp nhận bởi giáo sĩ Do Thái, nhưng chính từ những viên đá chờ đợi này và từ bên trong các cấu trúc phụng vụ Do Thái mà đức tin Kitô giáo phát triển. Hơn nữa, cần phải nhấn mạnh đến sự phong phú đa diện của thuyết độc thần của Israel được tiết lộ qua Kinh thánh Do Thái và các tác phẩm của thời kỳ Đền thờ thứ hai [28]. Có ý tưởng về sự giàu có vô cùng nơi Thiên Chúa mà không mâu thuẫn với tính duy nhất và sự thống nhất của Người. Điều này được chứng minh trong sự đa dạng của các hình tượng của Thiên Chúa, như chiều kích "hai ngôi", theo một nghĩa nào đó, mà một số chuyên gia nhận thấy trong tính hai mặt giữa "Đấng Lão thành" và người "giống như con người" (Đn 7,9-14) [29]. Sự giàu có này vẫn được biểu lộ trong các hình tượng khác nhau của Thiên Chúa trong hành động của Người trong thế giới: Thiên thần của Chúa, Ngôi lời (dābār), Thánh thần (rûaḥ) và Khôn ngoan (ḥākmâ)[30]. Một số nhà chú giải đương thời cũng cho rằng có một giai đoạn nhị nguyên đầu tiên trong lời tuyên xưng đức tin của Kitô giáo, giai đoạn này tự nhiên ghi lại lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Chúa Giêsu thành Nadarét là Kyrios được tôn vinh sau khi chết, với một cấp bậc thần linh thực sự, trong sự liên tục của thuyết độc thần được thể hiện trong Kinh thánh[31]. Vì vậy, mặc dù không nhất thiết phải phóng chiếu đức tin Ba Ngôi ngược lại Cựu Ước, nhưng vẫn có thể nhận thấy giữa Cựu Ước và Tân Ước một quá trình phát triển, mặc dù không theo tuyến tính, một hình thức tập hợp những thực tại khác nhau này thành hai hình tượng: Chúa Con-Ngôi Lời và Chúa Thánh Thần. Khi tiến đến việc người ta coi lời khẳng định về hai ngôi vị thần linh khác như sự liên hợp bên ngoài với một Thiên Chúa duy nhất, người ta đã bỏ qua việc thừa nhận ý tưởng của Kitô giáo về khả năng sinh sản nội tại của Chúa Cha trong bản thể duy nhất và không thể phân chia của ba ngôi vị đồng vĩnh hằng.
2. Nắm bắt sự bao la của Chúa Kitô Cứu Thế và hành động cứu rỗi của Người
21. Trọng tâm của điều thứ hai trong Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople là lời tuyên xưng về sự nhập thể và hành động cứu chuộc của Chúa Con. Sau khi tuyên xưng thiên tính của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta cũng tuyên xưng rằng:
[Chúng tôi tin vào một Chúa Giêsu Kitô]. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng
2.1 Nhìn thấy Chúa Kitô trong tất cả sự vĩ đại của Người
22. Công đồng Nicée cho phép chúng ta “nhìn thấy Chúa Kitô trong tất cả sự vĩ đại của Người[33]”. Hai chiều kích khiến Người trở thành trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người được đánh dấu bằng việc đề cập đến hai tác nhân của sự nhập thể: "Người nhập thể bởi Chúa Thánh Thần và Đức Trinh Nữ Maria." Người là Thiên Chúa trọn vẹn, là Đấng đến từ Đức Trinh Nữ bởi quyền năng của Thánh Thần Thiên Chúa; Người là người trọn vẹn, được sinh ra từ người phụ nữ. Người là homoousios đối với Chúa Cha nhưng cũng đối với chúng ta, theo tuyên bố kép sau này của Chalcédoine [34] – biết rằng thuật ngữ homoousios không thể có một đơn nghĩa khi nói đến mối liên hệ giữa Chúa Con nhập thể với Chúa Cha hoặc với các hữu thể nhân bản. Ngôi Lời đã trở nên xác phàm chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng duy nhất và không thể thay đổi, đảm nhận một nhân tính độc nhất và hữu hạn. Chính vì Chúa Giêsu đích thân đồng nhất (về mặt ngôi vị) với Chúa Con vĩnh cửu nên Người có thể, bằng cách chịu cái chết của con người theo cách bi thảm, duy trì mối quan hệ sống động với Chúa Cha và biến sự xa cách Thiên Chúa, tội lỗi và sự chết (x. Rm 6:23), thành sự tiếp cận với Thiên Chúa (x. 1 Cr 15:54-56; Ga 14:6b). Chính bởi vì Chúa Giêsu là một con người thật – “giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi” (Hr 4:15) – nên Người có thể gánh lấy tội lỗi của chúng ta và chết. Sự đồng bản thể kép này có nghĩa là chỉ có Chúa Kitô mới có thể cứu rỗi. Chỉ có Người mới có thể mang lại sự cứu rỗi. Chỉ có Người mới là sự hiệp thông của con người với Chúa Cha[35]. Chỉ một mình Người là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại trong mọi thời đại. Không có con người nào có thể đứng trước hay đứng sau Người. Sự hiệp thông hoàn hảo chưa từng có giữa Thiên Chúa và con người đã được hiện thực hóa nơi Chúa Kitô, vượt xa mọi hình thức hiện thực mà con người có thể tưởng tượng được.
23. Chúng ta sẽ không che giấu những khó khăn hiện tại trong việc tin vào thiên tính trọn vẹn và nhân tính trọn vẹn của Chúa Kitô. Trong suốt lịch sử của Kitô giáo, và cho đến tận ngày nay, vẫn luôn có sự phản kháng thực sự đối với việc công nhận toàn bộ thiên tính của Chúa Kitô. Chúa Giêsu có thể dễ dàng được coi là một bậc thầy tâm linh khai sáng hoặc là một đấng mê-xi-a chính trị rao giảng công lý, trong khi đó, trong nhân tính của mình, Người sống mối quan hệ vĩnh cửu với Chúa Cha. Nhưng cũng có khó khăn lớn trong việc thừa nhận toàn bộ nhân tính của Chúa Kitô, Đấng có thể trải qua sự mệt mỏi (Ga 4:6), cảm giác buồn bã và bị bỏ rơi (Ga 11:35; Gethsemane) và thậm chí tức giận (Ga 2:14-17) và Đấng, một cách mầu nhiệm nhưng thực sự, đã không biết một số điều nhất định (“chỉ có Chúa Cha biết giờ nào…”, Mt 24:36). Người Con vĩnh cửu đã chọn sống trọn vẹn con người của mình nhân danh sự vô hạn của bản chất thần linh, vốn vẫn tồn tại trong sự hữu hạn của bản chất con người và thông qua bản chất đó.
24. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng ngay cả khi phần Kinh Tin Kính dành cho ngôi thứ hai được phát triển nhất thì quan điểm về Chúa Kitô trong đức tin Nicée vẫn nhất thiết là quan điểm về Chúa Ba Ngôi. Đức Kitô là Đấng semper major chính vì bất cứ nơi nào Người ở, luôn luôn có Đấng cao cả hơn Người: Chúa Cha vẫn là Chúa Cha, là “Đấng Thánh của Israel.” Chắc chắn, “ai đã thấy [Chúa Kitô] là đã thấy Chúa Cha” (Ga 14:9), nhưng, như Chúa Giêsu nói, “Chúa Cha lớn hơn [Người]” (Ga 14:28). Bản thân Arius đã thấy rõ điều này khi ông trích dẫn Tin mừng: “Chỉ có một Đấng tốt lành” (Mt 19:17)[36]. Hơn nữa, không thể hiểu được Chúa Kitô nếu không có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: trước khi được thụ thai là Thiên Chúa-Con Người và là Chú Rể, Người được trình bày trong Tân Ước như Con của Chúa Cha và được xức dầu bởi Chúa Thánh Thần. Tương tự như vậy, Người không cứu rỗi con người nếu không có Chúa Cha là nguồn gốc và cùng đích của mọi sự – vì điều sau chính là sự kết hợp con thảo với Chúa Cha. Người không cứu rỗi con người nếu không có Chúa Thánh Thần, Đấng khiến chúng ta kêu lên “Abba, Cha ơi” (Rm 8:15) và hành động nội tâm của Người cho phép con người được biến đổi và tích cực bước vào chuyển động dẫn con người đến với Chúa Cha.
2.2 Sự bao la của hành động cứu rỗi: tính nhất quán lịch sử của nó
25. Sự vĩ đại của Đấng Cứu Thế cũng được bày tỏ trong sự viên mãn vô cùng của nhiệm cục cứu rỗi. Công đồng Nicée trình bày tính hiện thực của công trình cứu chuộc. Trong Chúa Kitô, Thiên Chúa cứu rỗi chúng ta bằng cách bước vào lịch sử. Người không sai một thiên thần hay một anh hùng loài người, nhưng đích thân Người đi vào lịch sử loài người, được sinh ra bởi một người phụ nữ, Đức Maria, trong dân Do Thái (“sinh ra bởi một người phụ nữ, sinh ra dưới luật pháp”, Gl 4:4), và chết trong một giai đoạn lịch sử chính xác, “dưới thời quan Phongxiô Philatô” (x. 1 Tm 6:13; xem thêm Công vụ 3:13)[37]. Nếu chính Thiên Chúa đã bước vào lịch sử, thì nhiệm cục cứu rỗi chính là nơi Người mặc khải: trong lịch sử, Chúa Kitô đích thực mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, và ban cho chúng ta sự tiếp cận trọn vẹn với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, vì Thiên Chúa bước vào lịch sử, nên đó không chỉ là một giáo lý cần đưa vào thực hành, như trong thuyết Marcion hay thuyết Ngộ đạo "nhân danh dối trá", mà là một hành động hiệu quả của Thiên Chúa. Nhiệm cục sẽ là nơi diễn ra công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa. Chúng ta tuyên xưng rằng một biến cố lịch sử đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình của toàn thể nhân loại. Chúng ta tuyên xưng rằng Chân lý siêu việt đã khắc ghi vào lịch sử và hoạt động trong lịch sử. Đây là lý do tại sao sứ điệp của Chúa Giêsu không thể tách rời khỏi con người của Người: Người là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6) đối với tất cả mọi người chứ không phải là một thầy dạy sự khôn ngoan.
26. Mặc dù nhấn mạnh vào lịch sử, Kinh Tin Kính không đề cập rõ ràng hoặc gợi lên nhiều về nội dung của Cựu Ước, cũng như không đặc biệt nhắc đến sự lựa chọn và lịch sử của Israel. Rõ ràng, Kinh Tin Kính không có ý định mang tính bao hàm đầy đủ. Tuy nhiên, điều đáng nhấn mạnh là sự im lặng này không hề có nghĩa là sự vô hiệu của việc tuyển chọn dân của giao ước cũ [38]. Những gì Kinh thánh Do Thái mặc khải không chỉ là sự chuẩn bị mà còn là lịch sử cứu rỗi, lịch sử này sẽ tiếp tục và được hoàn thành trong Chúa Kitô: "Giáo hội Chúa Kitô nhìn nhận rằng khởi đầu (initia) của đức tin và sự tuyển chọn của mình đã được tìm thấy, theo mầu nhiệm cứu rỗi thần thiêng, trong các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ"[39]. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là “Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Y-sa-ác và Gia-cóp,” Người là “Thiên Chúa của Israel.” Hơn nữa, Kinh Tin Kính nhấn mạnh một cách kín đáo tính liên tục giữa dân Do Thái và dân của giao ước mới bằng cách đề cập đến "trinh nữ Maria", đặt Đấng Mê-xi-a vào trong khuôn khổ của một gia đình Do Thái và gia phả Do Thái, và cũng nhắc lại bản văn Cựu Ước (Is 7:14 Bản Bẩy Mươi). Điều này thu hẹp khoảng cách giữa những lời hứa trong Cựu Ước và Tân Ước, cũng như cách diễn đạt "Người đã sống lại vào ngày thứ ba theo lời Kinh Thánh" trong phần còn lại của điều khoản, trong đó "Kinh Thánh" có nghĩa là Cựu Ước (x. 1 Cô-rinh-tô 15:4). Tính liên tục giữa Cựu Ước và Tân Ước lại được tìm thấy khi điều khoản về Chúa Thánh Thần nêu rằng Người "đã phán qua các tiên tri", có lẽ đại diện cho một lưu ý chống lại phe Marcion.[40] Trong mọi trường hợp, để hiểu đầy đủ, Kinh Tin Kính này sinh ra từ phụng vụ sẽ có ý nghĩa trọn vẹn khi được công bố trong phụng vụ và được diễn đạt bằng cách đọc toàn bộ Kinh thánh, Cựu Ước và Tân Ước. Điều này đặt đức tin Kitô giáo vào khuôn khổ của nhiệm cục cứu rỗi vốn bao gồm cả dân tộc được chọn và lịch sử của họ về mặt bản chất và cấu trúc.
2.3 Sự cao cả của hành động cứu rỗi: Mầu nhiệm Vượt Qua
27. Chủ nghĩa hiện thực và chiều kích Ba Ngôi của ơn cứu rỗi trong Chúa Kitô đạt đến đỉnh cao trong Mầu nhiệm Vượt qua. Chúa Con, ánh sáng của Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, đã nhập thể, chịu đau khổ, chịu chết, xuống âm phủ và sống lại. Đây lại là một diễn biến chưa từng có. Khó khăn của Arius không chỉ liên quan đến sự hiệp nhất của Thiên Chúa, không tương thích với sự sinh ra Chúa Con, mà còn liên quan đến sự hiểu biết về thiên tính của Người, không tương thích với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Nhưng chính trong Chúa Kitô và chỉ trong Chúa Kitô, chúng ta mới hiểu được những gì Thiên Chúa có thể làm nơi chính Người, vượt xa mọi giới hạn hiểu biết trước đây của chúng ta. Đó là việc nghiêm túc đón nhận tiếng kêu của Chúa Giêsu như tiếng kêu của Con Thiên Chúa, được diễn tả bằng mồ hôi máu và nỗi sợ hãi: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này lìa khỏi Con!” (Mt 26,39b). Bản thân chữ homoousios giúp chúng ta nhận ra sự kenosis [tự hủy] chưa từng nghe thấy của Nhập thể: chỉ có sự khẳng định của Chúa Con là “đồng bản thể” với Chúa Cha mới cho phép chúng ta nhận ra tính triệt để và chiều sâu của điều mà chính Người Con này đã chấp thuận khi đảm nhận thân phận con người. Theo một nghĩa nào đó, người ta có thể nói rằng Chúa Con, semper major, thực sự trở nên nhỏ bé, và rằng Thiên Chúa Tối Cao đã xuống tận cùng trong Chúa Giêsu Kitô (x. Pl 2:5-11). Bây giờ, ngay cả khi chỉ có Chúa Kitô được sinh ra, chịu đau khổ và chết, chúng ta mới có thể nói rằng “unus de Trinitate passus est [một trong Ba Ngôi đã chịu thống khổ][41]”. Toàn thể Ba Ngôi đều tham gia, mỗi ngôi vị theo một cách riêng, vào cuộc khổ nạn cứu rỗi của Chúa Kitô. Vì vậy, Cuộc Khổ Nạn cho chúng ta thấy ý nghĩa thực sự thần thiêng của “quyền năng vô biên”. Quyền năng vô biên của Thiên Chúa Ba Ngôi đồng nhất với sự tự hiến và tình yêu. Do đó, Đấng Cứu Chuộc bị đóng đinh không phải là sự che giấu, mà là sự mặc khải về quyền năng vô biên của Chúa Cha.
28. Sự trọn vẹn của hành động cứu chuộc của Chúa Kitô chỉ được biểu lộ trọn vẹn qua sự phục sinh của Người, sự hoàn thành của ơn cứu rỗi, trong đó mọi khía cạnh của công trình sáng tạo mới đều được xác nhận. Sự phục sinh chứng tỏ thiên tính trọn vẹn của Chúa Kitô, Đấng duy nhất có khả năng vượt qua và chiến thắng cái chết, nhưng cũng chứng tỏ nhân tính của Người, vì chính nhân tính đó, về mặt số lượng giống hệt với nhân tính của Người khi Người còn sống trên trần thế, đã được biến đổi và tôn vinh. Đây không phải là một biểu tượng hay ẩn dụ: Chúa Kitô phục sinh trong nhân tính và trong thân xác của Người. Sự phục sinh vượt qua lịch sử nhưng xảy ra ở trung tâm lịch sử loài người và của con người này là Chúa Giêsu. Hơn nữa, nó mang tính Ba Ngôi sâu sắc: Chúa Cha là nguồn mạch, Chúa Thánh Thần là hơi thở ban sự sống và Chúa Kitô vinh quang sống – luôn luôn trong nhân tính của Người – trong vinh quang thần linh và trong sự hiệp thông bất biến với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy lưu ý rằng chính sự phục sinh của Chúa Kitô, “là trưởng tử từ cõi chết sống lại” (Cl 1:18; x. Rm 8:29), đã mặc khải sự sinh ra đời đời của Chúa Con, “là trưởng tử của mọi loài thụ tạo” (Cl 1:15). Vì vậy, tình phụ tử thần thiêng không phải là sự phát triển chủ yếu của các mô hình con người, ngay cả khi chúng được diễn đạt bằng những từ ngữ mang dấu ấn văn hóa của con người, nhưng chúng là những thực tại sui generis [biệt loại] của sự sống thần thiêng.
29. Kinh Tin Kính nhấn mạnh rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô sẽ tiếp tục cho đến tận thế, khi Chúa Kitô “sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết; và vương quốc của Người sẽ vô tận”. Với sự phục sinh, chiến thắng chắc chắn sẽ đạt được, nhưng chiến thắng đó phải được hiện thực hóa trọn vẹn trong Ngày Quang Lâm. Niềm hy vọng của Kitô giáo là trọn vẹn: nó không chỉ dựa trên tính một lần [ephapax] của Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, hay trên hồng phúc ân sủng hiện tại, mà còn dựa trên sự sắp đếncủa việc Chúa Kitô và Vương quốc của Người sẽ trở lại trong vinh quang. Hãy lưu ý: khía cạnh này của đức tin Nicée được hiểu rõ hơn và có sức mạnh lớn hơn nếu nó cũng được đọc trong bối cảnh trong đó Giáo hội sẵn sàng lắng nghe Cựu Ước và đức tin của người Do Thái ngày nay. Sự trông đợi thực sự Đấng Mê-xi-a của dân Israel làm nổi bật sự trọn vẹn của những lời hứa có tính mê-xi-a về hòa bình trên khắp trái đất và công lý cho tất cả mọi người, trong một thế giới hoàn toàn đổi mới (Is 2:4; 61:1-2; Mk 4:1-3), nơi các Kitô hữu đang chờ đợi Ngày Quang Lâm. Điều này có thể và phải đánh thức niềm hy vọng của Kitô giáo về sự trở lại của Đấng Phục sinh, vì chỉ khi đó công trình cứu chuộc của Người mới có thể hiển thị một cách đầy đủ[42].
3. Nắm bắt được sự bao la của ơn cứu rỗi được ban cho con người và sự bao la của ơn gọi nhân bản của chúng ta
30. Việc cử hành Công đồng Nicée không chỉ là việc thán phục trước sự viên mãn vô biên của Thiên Chúa và của Chúa Kitô Cứu Thế, mà còn là sự vĩ đại vô biên của ơn phúc được ban cho con người và ơn gọi nhân bản được mặc khải trong đó. Sự mầu nhiệm của Thiên Chúa trong sự bao la của nó chính là sự mặc khải chân lý về con người, con người cũng semper major. Mục đích ở đây là phát triển những hệ luận cứu thế học và nhân học của những khẳng định về Chúa Ba Ngôi và Chúa Kitô trong Kinh Tin Kính Nicée, nhưng cũng lưu ý đến lời dạy ở cuối điều khoản thứ ba về Chúa Thánh Thần, trình bày đức tin vào Giáo hội và vào sự cứu rỗi:
[Chúng tôi tin] tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền. Chúng tôi tuyên xưng có một Phép Rửa để tha tội. Chúng tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen
3.1 Sự vĩ đại của ơn cứu rỗi: Bước vào sự sống của Thiên Chúa
31. Vì Chúa Kitô cứu chúng ta, đức tin Nicée tuyên xưng “sự tha thứ tội lỗi” và “sự sống lại của người chết”. Kinh Tin Kính đề cập đến tội lỗi vì chúng ta cần biết mình được giải thoát khỏi điều ác nào. Tội lỗi, theo nghĩa thần học chặt chẽ, không chỉ là thói hư tật xấu hay lỗi lầm xúc phạm đến ý định của Đấng Tạo Dựng nơi tạo vật (x. Rm 2:14-15), mà còn là sự rạn nứt cố ý với Thiên Chúa trong mối quan hệ đối thần với Người. Theo nghĩa đầy đủ này, tội nhân nhận thức được tội lỗi của mình dưới ánh sáng tình yêu thương xót của Thiên Chúa: tội lỗi phải được “phát hiện” bởi chính công trình của ân sủng để có thể hoán cải tâm hồn[43]. Vì vậy, việc mặc khải tội lỗi là bước đầu tiên của sự cứu chuộc và phải được xưng thú như vậy.
32. Với lời tuyên bố quá mức [exorbitant] về sự phục sinh của người chết, đức tin Nicée tuyên xưng rằng ơn cứu rỗi là trọn vẹn và đầy đủ. Con người được giải thoát khỏi mọi điều ác, kể cả “kẻ thù cuối cùng” phải bị Chúa Kitô tiêu diệt để mọi sự có thể quy phục Thiên Chúa (x. 1 Cr 15:25-26). Đức tin vào sự phục sinh không chỉ bao hàm sự sống còn của linh hồn mà còn là chiến thắng trước cái chết [44]. Hơn nữa, con người không chỉ được cứu rỗi theo linh hồn mà còn trong chính thể xác mình. Không có gì cấu thành nên bản sắc và nhân tính của con người nằm ngoài sự sáng tạo mới mà Chúa Kitô đề xuất. Cuối cùng, ơn phúc này sẽ được sở hữu mãi mãi, vì nó mở ra trong “cuộc sống của thế giới mai sau”, eschăton [cánh chung] được thực hiện trọn vẹn. Từ lễ Phục sinh, không tội lỗi nào có sức mạnh tách tội nhân khỏi Thiên Chúa – ít nhất là nếu họ nắm lấy bàn tay của Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh, Đấng đã vươn tới vực thẳm để hiến mình cho con chiên lạc: “Cho dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay quyền lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, quyền năng trên trời hay dưới đất, hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào khác, sẽ không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa tỏ hiện nơi Chúa Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).
33. Vì Chúa Kitô như Thiên Chúa thật cứu chúng ta, nên sự phục sinh có nghĩa là chúng ta bước vào sự sống thần linh, vừa là sự nhân bản hóa vừa là sự thần thánh hóa, như lời bình luận của Chúa Giêsu về Thánh vịnh 81:6 trong Gioan 10:14 làm chứng: "Các ngươi đều là các bậc thần thánh."[45] Và vì Người cứu chúng ta trong tư cách Chúa Con, được sinh ra bởi Chúa Cha, nên sự thần thánh hóa này là sự làm con nuôi và trở nên giống Chúa Kitô; đó là việc bước vào tình yêu của Chúa Cha qua Chúa Thánh Thần. Chúng ta được yêu thương và tái sinh bởi cùng một tình yêu mà Chúa Cha đã yêu thương và sinh ra Chúa Con từ đời đời. Đây là hệ luận cứu rỗi của thiên chức làm cha của Thiên Chúa được tuyên xưng bởi Công đồng Nicée. Cuối cùng, vì Chúa Kitô, như Chúa Con, cứu chúng ta, với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nên mối quan hệ con cái này thực sự là sự đắm mình vào mối quan hệ Ba Ngôi. Đây là lý do tại sao Kinh Tin Kính ra đời từ lời tuyên xưng đức tin về phép rửa tội Ba Ngôi và tại sao phép rửa tội được thực hiện “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Sự bao la của ơn phúc được mặc khải như thế được hiện thực hóa trong mầu nhiệm Thăng Thiên của Chúa Kitô: “Người lên trời”, biểu lộ rằng chính Chúa Kitô là “thiên đàng của chúng ta”[46]. Người Con cao cả sẽ gửi ơn phúc Thiên Chúa đã hứa, là Thánh Thần của Lễ Ngũ Tuần. Không quan điểm hạn hẹp nào về sự cứu rỗi thực sự là của Kitô giáo nữa.
3.2 Sự bao la của ơn gọi con người hướng tới Tình yêu Thiên Chúa
34. Tất cả những điều trên chắc chắn sẽ có hậu quả đối với quan điểm của Kitô giáo về con người. Điều này cũng được mặc khải trong sự vĩ đại vô biên của ơn gọi của họ, như homo semper major (con người luôn lớn lao hơn). Kinh Tin Kính Nicée không chứa một điều khoản nhân học theo nghĩa chặt chẽ, nhưng con người, trong ơn gọi trở thành con cái thần thiêng trong Chúa Giêsu, có thể được mô tả như là đối tượng của đức tin. Theo Kinh Thánh, danh tính thực sự của họ được mặc khải qua mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm cứu rỗi như một mầu nhiệm theo nghĩa chặt chẽ, tương tự như mầu nhiệm Thiên Chúa và Chúa Kitô, mặc dù những mầu nhiệm này vượt trội hơn họ một cách không thể so sánh được.
35. Mầu nhiệm lớn lao này trước hết liên quan đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Chúa Kitô. Mặc khải về tư cách làm cha của Thiên Chúa cũng chính là sự mặc khải về mầu nhiệm tư cách làm cha không hơn không kém: "Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, từ Người mà mọi tư cách làm cha trên trời dưới đất được nêu danh" (Ep 3:14). Việc mặc khải, đặc biệt trong sách Gioan, về Người Con Một, là sự biểu lộ của tình phụ tử theo đúng nghĩa, bắt nguồn về phương diện hữu thể học từ Lần Sinh Đầu tiên và là một phần của chính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Dưới hình thức đảo ngược mối quan hệ hiểu biết, chính tư cách làm cha và làm con Ba Ngôi soi sáng và thanh lọc tư cách làm cha, làm mẹ, làm con và làm anh em của hữu thể nhân bản, vốn nằm trong bối cảnh văn hóa và bị đánh dấu bởi tội lỗi. Trước hết, tình phụ tử thần thiêng cho thấy tư cách con cái là đặc tính sâu xa nhất của hữu thể nhân bản: con người là ơn phúc mà Thiên Chúa Cha ban cho chính họ và con người được kêu gọi đón nhận chính họ từ Thiên Chúa và trong Người, đón nhận những người khác và thế giới tạo vật bao quanh họ để ngày càng trở nên chính họ hơn. Vì lý do này, căn tính và ơn gọi của họ được mặc khải một cách đặc biệt trong Chúa Kitô, Người Con nhập thể, “con người hoàn hảo”, Đấng “trong chính sự mặc khải về mầu nhiệm Chúa Cha và tình yêu của Người, đã tỏ lộ trọn vẹn con người cho chính họ và khám phá cho họ sự cao cả của ơn gọi của họ”[47]. Mặt khác, con người cũng được kêu gọi tham gia vào mầu nhiệm làm cha, bằng cách trở thành cha, mẹ về mặt xác thịt và tinh thần. Giống tình phụ tử thần thiêng, tình phụ tử và tình mẫu tử nhân bản hàm ý sự trao tặng bản thân, sự bình đẳng hoàn toàn giữa cha mẹ và con cái, giữa người cho và người nhận, nhưng cũng có sự khác biệt và sự sắp xếp (taxis) giữa họ. Cuối cùng, không có ngành nhân chủng học Kitô giáo thực sự nào mà không liên quan đến thần khí học. Chỉ có Chúa Thánh Thần “ban sự sống” mới có thể nhân bản hóa con người một cách trọn vẹn, làm cho con người trở thành con trai và con gái, cha và mẹ. Tương tự như vậy, chúng ta chắc chắn có thể nói về một hình thức đồng nhiệm xuy (co-spiration) của Chúa Thánh Thần, hay ơn linh hứng chung[48], bởi vì những hành động và lời nói hiệu quả nhất của chúng ta là như vậy trong mức độ hợp tác mà chúng mang lại cho Chúa Thánh Thần, Đấng thông qua chúng an ủi, nâng đỡ và hướng dẫn. Vì vậy, sự thật và ý nghĩa của tư cách làm cha, làm con và khả năng sinh sản của con người phải được mặc khải, vì chúng không chỉ là thực tại tự nhiên hay văn hóa mà còn là sự tham gia vào cách thức hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng không thể được hiểu sâu sắc nếu không có Mặc khải và tương tự như vậy, không thể được thực hiện nếu không có ân sủng. Đây là một tin tốt lành nữa chúng ta có thể khám phá lại ngày hôm nay từ Nicée.
36. Theo một nghĩa nào đó, chính homoousios có thể có ý nghĩa nhân học. Một con người đã ban phép tiếp cận với Thiên Chúa. Tất nhiên, Chúa Kitô nói theo cách độc đáo và đúng đắn: "Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha" (Ga 14:9), vì mầu nhiệm hiệp nhất ngôi vị. Tuy nhiên, sự kết hợp độc đáo này trong Người phù hợp với mầu nhiệm con người “được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa” (St 1:27). Theo nghĩa này, và quả thực như thế, mỗi con người phản ảnh Thiên Chúa, làm cho mọi người biết đến và giúp mọi người tiếp cận với Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã diễn tả nghịch lý này bằng cách nhấn mạnh một mặt rằng "để biết con người, con người đích thực, con người toàn diện, người ta phải biết Thiên Chúa", nhưng mặt khác cũng nhấn mạnh rằng "để biết Thiên Chúa, người ta phải biết con người[49]. "Những lời này phải được hiểu theo nghĩa mạnh: không chỉ mỗi con người cho chúng ta hình ảnh của Thiên Chúa, mà không thể biết Thiên Chúa nếu không đi qua con người. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy ở trên (§ 22), Giáo hội sẽ sử dụng thuật ngữ homoousios để diễn tả tính đồng nhất về bản chất của Chúa Kitô như con người đích thực, "sinh ra từ một người phụ nữ" (Gl 4:4), Đức Trinh Nữ Maria, với tất cả mọi người[50]. Hai mặt của “đồng bản thể” kép này của Chúa Con nhập thể củng cố lẫn nhau để xây dựng tình huynh đệ của toàn thể nhân loại một cách sâu sắc và hữu hiệu. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta là anh chị em của Chúa Kitô theo sự thống nhất của cùng một bản chất con người: “Vì thế, Người phải trở nên giống anh em mình trong mọi sự” (Hr 2:17; x. 2:11-12). Chính mối dây liên kết trong nhân tính này cho phép Chúa Kitô, đồng bản thể với Chúa Cha, đưa chúng ta vào trong tình Con của Người với Chúa Cha, và làm cho chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, thành anh chị em của Người và do đó, trở thành anh chị em của nhau theo một ý nghĩa mới, triệt để và không thể phá hủy.
37. Mầu nhiệm của con người trong phẩm giá vĩ đại của họ cũng được làm sáng tỏ bởi chiều kích cánh chung của Kinh Tin Kính Nicée. Niềm tin vào "sự phục sinh của kẻ chết", còn được gọi là "sự phục sinh của xác thịt[51]", khẳng định vẻ đẹp của thân xác và vẻ đẹp của những gì được trải nghiệm trên thế giới thông qua thân xác, bất chấp sự mong manh và hạn chế của con người. Nó khẳng định giá trị của thân thể bản vị cụ thể này sẽ được phục sinh, biến đổi, nhưng vẫn giữ nguyên về mặt số lượng[52]. Do đó, nó đưa ra một yêu cầu về mặt đạo đức: nếu những hành động yêu thương đích thực được thực hiện trong và bởi cơ thể trong cuộc sống này theo một cách nào đó là những bước đầu tiên của cuộc sống phục sinh, thì sự tôn trọng đối với cơ thể bao hàm việc sống ngay thẳng và trong sạch với mọi thứ chạm vào nó. Chúng ta hãy lưu ý rằng các học thuyết về Chúa Kitô không thừa nhận nhân tính trọn vẹn của Chúa Kitô có nguy cơ dẫn đến quan niệm về sự cứu rỗi như một sự thoát ly khỏi thân xác và thế gian, thay vì là sự nhân bản hóa trọn vẹn con người. Thế mà, sự neo giữ này vào thế giới và thân thể, được tạo ra tốt đẹp và hoàn thành bởi sự sáng tạo mới, là một trong những dấu ấn của Kitô giáo. Ở đây chúng ta tìm thấy mối liên hệ sâu sắc giữa sáng tạo và cứu rỗi: mọi đặc điểm nhân bản nơi Chúa Giêsu, được nhận từ Đức Maria, mẹ Người, đều là tin mừng và mời gọi mọi hữu thể nhân bản xem xét điều gì làm cho nhân tính cụ thể của họ trở thành tin mừng.
38. Hơn nữa, niềm hy vọng về sự phục sinh, cũng như niềm hy vọng về "cuộc sống vĩnh cửu của thế giới mai sau", chứng thực giá trị to lớn của mỗi cá nhân, không được kêu gọi để biến mất vào hư vô hay vào mọi thứ, nhưng là vào mối quan hệ vĩnh cửu với Thiên Chúa, Đấng đã chọn mỗi người trước khi tạo dựng thế giới (x. Ê-phê-sô 1:4). Việc tuyển chọn Abraham, Isaac và Jacob cùng giao ước không thể hủy bỏ với dân Israel đã cho thấy giao ước mà Thiên Chúa muốn thiết lập với mọi quốc gia và mọi con người trong lòng trung thành không thể phá vỡ. Tương tự như vậy, sự nhập thể của Chúa Con vĩnh cửu trong một con người đơn nhất xác nhận, thiết lập và hoàn thành phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, là anh chị em của Chúa Giêsu Kitô.
39. Thế giới ngày nay của chúng ta có nhu cầu to lớn là tái khám phá những khía cạnh của mầu nhiệm con người, những khía cạnh trình bày con người trong sự vĩ đại của họ, mà không bỏ qua sự khốn khổ của con người: "Con người vượt trội hơn con người vô cùng", Blaise Pascal đã nói[53]. Niềm tin Kitô giáo này thách thức mọi hình thức giản lược về mặt nhân học. Niềm tin vào quyền làm cha, làm mẹ và nguồn cảm hứng phong phú ("thần khí") của con người đặt nền tảng và hướng dẫn mọi quan niệm đích thực về quyền tự chủ, tự do và sự sáng tạo của con người. Những điều này bắt nguồn từ Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà đối với các Ngài, toàn năng, khôn ngoan và tình yêu đều chỉ là một trong việc tự hiến chính mình. Ngược lại, việc mất niềm tin vào sự phục sinh và cuộc sống vĩnh hằng sẽ trở thành sự từ chối trao vị trí đích thực cho thân xác và giá trị thánh thiêng của mỗi cá nhân trong sự độc đáo và siêu việt của họ. Thế mà, Đấng Tạo Dựng đã mặc khải cho chúng ta các ý định của Người: “Chúa dựng nên con người kém các thần một chút, đội cho họ vinh quang và danh dự” (Tv 8:6).
3.3 Vẻ đẹp của ơn phúc Giáo hội và phép rửa tội
40. Các sợi chỉ khác nhau đã được dệt cho đến nay được gắn kết với nhau trong những lời khẳng định về giáo hội học và bí tích của Kinh Tin Kính. Đức tin Nicée cũng có nghĩa là tin vào Giáo hội "duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền" và vào phép rửa tội "để được tha tội". Giáo hội và phép rửa tội cũng được cử hành như những ơn phúc semper majora. Bởi vì chúng xác nhận và biểu lộ sự viên mãn vô cùng của tất cả những gì được nêu trong phần còn lại của Kinh Tin Kính, chúng là đối tượng nghịch lý của đức tin: vấn đề là nhận ra trong chúng nhiều hơn những gì được nhìn thấy. Giáo hội là mộtvượt lên trên những chia rẽ hữu hình, thánh thiện vượt lên trên tội lỗi của các thành viên và những sai lầm do các cấu trúc định chế của Giáo hội gây ra, Công Giáo và tông truyền vượt lên trên bản sắc hoặc sự thu mình về văn hóa và sự hỗn loạn về giáo lý và đạo đức liên tục làm Giáo hội chao đảo. Theo nghĩa này, vấn đề ở đây là phải tránh cả "chủ nghĩa nhất tính [monophysisme]" về giáo hội học lẫn "chủ nghĩa Arius": chủ nghĩa trước đánh giá thấp, thậm chí che giấu chiều kích nhân bản của Giáo hội, trong khi chủ nghĩa sau bỏ qua chiều kích thiêng liêng của Giáo hội để ủng hộ một tầm nhìn thuần túy về mặt xã hội học và chức năng. Tương tự như vậy, trong đức tin, phép rửa tội được hiểu là nguồn sống mới và sự thanh tẩy khỏi tội lỗi vượt ra ngoài những gì có thể nhìn thấy trong cuộc sống không hoàn hảo và đôi khi xa cách Thiên Chúa của chính những người đã chịu phép rửa tội. Nó mở ra và nâng cao phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người bằng cách làm cho họ nên giống Chúa Kitô, tư tế, tiên tri và vua.
41. “Tin” vào Giáo hội và “tuyên xưng” một phép rửa tội duy nhất là nhận được một ơn phúc đức tin cho phép chúng ta nhận ra sự hiện diện tích cực và thánh hóa của Chúa Thánh Thần ngay tại trung tâm chiều kích con người và mỏng manh của họ. Chúa Thánh Thần làm cho Giáo hội trở nên duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền, đồng thời ban hiệu lực cho phép rửa tội. “Tin” vào Giáo hội và phép rửa tội cũng là nhận thức trong đó và qua đó hành động cứu rỗi của Chúa Kitô. Như Chúa Kitô là bí tích cơ bản của Thiên Chúa, là sự hiện diện thực sự và tích cực của Người trong biểu tượng thực sự của nhân tính Người thế nào, thì Giáo hội cũng là "bí tích cứu rỗi phổ quát như vậy"[54]. Cuối cùng, “tin” vào Giáo hội và phép rửa tội là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi ở đó. Giáo hội là semper major, vì Giáo hội tìm thấy nguồn gốc và nền tảng của mình nơi Thiên Chúa Ba Ngôi và trong Giáo hội có Chúa Cha, Chúa Con nhập thể và Chúa Thánh Thần. Trong đó đức tin Nicée được công bố và cử hành – thông qua phép rửa tội và các bí tích khác: “Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con với Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội thánh thiện[55]”.
42. Ở ngã ba đường giữa cứu thế học và nhân học, việc tin vào Giáo hội và tuyên xưng một phép rửa tội duy nhất xác nhận và mở ra sự bao la của ơn cứu rỗi và mầu nhiệm của con người. Sự cứu rỗi không chỉ là một diễn trình cá nhân, mà là một diễn trình cộng đồng và siêu nhiên, nhận được thông qua sự hợp tác của những người khác là người lân cận của chúng ta, và tạo ra hoa trái thiêng liêng cho những người khác cũng là những người lân cận của chúng ta[56]. Điều này làm sáng tỏ bản chất của con người không phải là một đơn tử biệt lập mà là một thực thể xã hội, được lồng vào vào một gia đình, một quốc gia, một cộng đồng đức tin và vào toàn thể nhân loại[57]. Do đó, đức tin vào Giáo hội và phép rửa tội hàm ý rằng ơn cứu chuộc được ghi khắc trong những hành động và cấu trúc hữu hình, gắn liền với chiều kích thân xác của cá nhân và thân thể xã hội, diễn ra trong lịch sử. Đây là nơi Chúa Thánh Thần ban sự sống và truyền cảm hứng, hoạt động trong giới hạn của họ và vượt ra ngoài để tiếp cận mọi con người. Về cơ bản, bằng cách làm chứng cho sự kết hợp giữa cá nhân và toàn thể, giữa tính xác thịt và sự ghi khắc trong lịch sử, Giáo hội là một phần trong công trình của Chúa Kitô, Đấng “biểu lộ trọn vẹn con người với chính họ”[58]. Theo một cách đặc biệt, như một "bí tích hiệp nhất[59]", Giáo hội được tuyên xưng bởi đức tin Nicée là dấu chỉ và công cụ của sự hiệp nhất của tất cả các khía cạnh này của con người và của toàn thể nhân loại: tầm nhìn Kitô giáo về con người phá vỡ sự hẹp hòi của mọi chủ nghĩa giản lược vốn từ chối cộng đồng vì lợi ích của cá nhân, hoặc cá nhân vì lợi ích của tập thể, và không hướng tới sự hiệp nhất.
4. Cùng nhau cử hành sự bao la của ơn cứu rỗi: tầm quan trọng đại kết của đức tin Nicée và hy vọng về một ngày chung để cử hành lễ Phục sinh
43. Đức tin Nicée, với vẻ đẹp và sự vĩ đại của nó, là đức tin chung của mọi Ki-tô hữu. Mọi người đều thống nhất trong việc tuyên xưng Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople, mặc dù không phải tất cả đều trao cho Công đồng này và các quyết định của nó một địa vị giống hệt nhau. Do đó, năm 2025 là cơ hội vô giá để nhấn mạnh rằng những điểm chung của chúng ta mạnh mẽ hơn nhiều, về mặt số lượng và chất lượng, so với những điểm chia rẽ chúng ta: chúng ta cùng nhau tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, vào Chúa Kitô, là con người thật và là Thiên Chúa thật, vào sự cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô, theo Kinh thánh đọc trong Giáo Hội và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng tôi cùng nhau tin vào Giáo hội, phép rửa tội, sự sống lại của người chết và cuộc sống vĩnh hằng. Công đồng Nicée được các Giáo hội Đông phương đặc biệt tôn kính, không chỉ là một công đồng trong số những công đồng khác hoặc là công đồng đầu tiên trong một loạt công đồng, mà là Công đồng tiêu biểu nhất, công bố lời tuyên xưng đức tin của "318 Giáo phụ Chính thống giáo".
44. Vì vậy, năm 2025 là cơ hội để tất cả mọi Kitô hữu cùng nhau cử hành đức tin này và Công đồng đã giúp cho đức tin này có thể được phát biểu. Chủ nghĩa đại kết thần học đúng đắn khi tập trung sự chú ý và nỗ lực vào những nút thắt chưa được giải quyết trong những khác biệt của chúng ta, nhưng chắc chắn cũng hiệu quả không kém, nếu không muốn nói là hiệu quả hơn, khi cùng nhau cử hành, hướng tới việc tái lập sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả các Kitô hữu, để thế giới có thể tin. Chúng ta đã nhấn mạnh cách mà sự nhấn mạnh của các truyền thống Kitô giáo khác nhau cho phép chúng ta làm nổi bật sự phong phú của bản văn Kinh Tin Kính (xem § 17 ở trên). Việc cử hành chung Công đồng Nicée có thể là một hành trình đại kết giúp làm giàu lẫn nhau, qua đó mang lại sự hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm, sự hiệp thông lớn hơn giữa các truyền thống giáo hội và sự gắn bó chặt chẽ hơn với lời tuyên xưng chung về đức tin Kitô giáo.
45. Một trong những đích nhắm của Nicée là thiết lập một ngày chung cho lễ Phục sinh để thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội trên toàn Oikoumenē. Thật không may là cho đến ngày nay vẫn chưa có ngày chung nào được nhất trí. Sự khác biệt về quan điểm giữa các Ki-tô hữu về ngày lễ quan trọng nhất trong lịch của họ gây ra tổn hại về mục vụ trong cộng đồng, thậm chí chia rẽ gia đình, và gây ra tai tiếng cho những người không phải là Ki-tô hữu, do đó ảnh hưởng đến chứng tá Tin mừng. Đây là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomêô và các nhà lãnh đạo Giáo hội khác đã nhiều lần kêu gọi thiết lập một ngày chung để cử hành lễ Phục sinh. Nay, vào năm 2025, lễ Phục sinh Đông Phương và Tây Phương trùng vào một ngày. Đây há không phải là cơ hội quan phòng để tiếp tục cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, "lễ của các lễ" (Kinh Sáng Byzantine của Lễ Phục Sinh), trong sự hiệp thông của tất cả các cộng đồng Kitô giáo hay sao? Có một số đề xuất khá thực tiễn về một ngày không chia tách. Về vấn đề này, Giáo Hội Công Giáo vẫn cởi mở đối thoại và tìm kiếm giải pháp đại kết. Ngay trong phần phụ lục của Hiến chế Sacrosanctum Concilium, Công đồng Vatican II đã không phản đối việc đưa ra một lịch mới và nhấn mạnh rằng điều này phải được thực hiện "với sự đồng ý của những người mà đối với họ vấn đề này quan trọng, đặc biệt là những anh em đã tách khỏi sự hiệp thông với Tòa thánh[60]." Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng mà thế giới phương Đông dành cho các yếu tố được thiết lập trong thời hậu Nicée để xác định ngày lễ Phục sinh: Lễ Phục sinh phải được cử hành "vào Chúa Nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn tiếp theo hoặc trùng với ngày xuân phân[61]". Chúa Nhật gợi lên sự phục sinh của Chúa Kitô vào ngày đầu tiên của tuần, trong khi trăng tròn sau xuân phân gợi nhớ đến nguồn gốc Do Thái của lễ hội, ngày 14 tháng Nissan, nhưng cũng gợi nhớ đến chiều kích vũ trụ của sự phục sinh, vì xuân phân gợi lên khoảnh khắc khi độ dài của ngày vượt quá đêm và khi thiên nhiên trở lại với cuộc sống sau mùa đông.
46. Chúng ta cần lưu ý rằng trong khuôn khổ Công đồng Nicée, Giáo hội đã quyết định tách mình ra khỏi ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Lập luận cho rằng Công đồng muốn tách mình khỏi Do Thái giáo đã được đưa ra, dựa trên các lá thư của Hoàng đế Constantin như được Eusèbe báo cáo, trong đó nêu rõ những lý do chống Do Thái để chọn ngày lễ Phục sinh không liên quan đến ngày 14 tháng Nissan[62]. Tuy nhiên, cần phải phân biệt động cơ được cho là của Hoàng đế với động cơ của các Nghị phụ Công đồng. Dù sao, không có điều nào trong các điều luật của Công đồng thể hiện sự bác bỏ cách làm việc của người Do Thái. Đối với Giáo hội, tầm quan trọng của sự thống nhất trong lịch và việc lựa chọn Chúa Nhật để bày tỏ đức tin vào sự phục sinh không thể bị bỏ qua. Hôm nay, khi Giáo hội kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Nicée, đây một lần nữa là những đích nhắm của việc suy gẫm về ngày lễ Phục sinh. Ngoài vấn đề về lịch, chúng ta nên luôn nhấn mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa Lễ Phục Sinh và Lễ Pesaḥ trong thần học, trong các bài giảng lễ cũng như trong giáo lý, để đạt được sự hiểu biết rộng hơn và sâu hơn về ý nghĩa của Lễ Phục Sinh.
47. Trong lễ vọng Phục sinh và trong mọi nghi thức rửa tội, Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople được công bố dưới hình thức trang trọng nhất, đó là đối đáp. Lời tuyên xưng đức tin này, là nền tảng của đời sống Kitô hữu cá nhân và đời sống của Giáo hội, sẽ tìm thấy tất cả sức mạnh của nó nếu nó bắt nguồn từ sự mặc khải được ban cho “các anh cả” và “các cha của chúng ta trong đức tin[63]” và được sống trong sự hiệp thông hữu hình của tất cả các môn đệ của Chúa Kitô.
Kỳ tới: Chương Hai
Báo cáo của Pháp tiết lộ con số cao nhất từng được ghi nhận kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu cách đây hơn hai mươi năm. Đáng chú ý hơn nữa là sự thay đổi về mặt nhân khẩu học — những người trẻ tuổi hiện chiếm phần lớn nhất trong số những người cải đạo.
“Thách thức lớn mà chúng ta đang đối mặt hiện nay là đào tạo môn đệ”, Đức Tổng Giám Mục Olivier de Germany của Lyon đã viết trong bài đánh giá về những phát hiện của mình.
“Chúng ta không chỉ nên tưởng tượng ra một số thủ tục sau khi rửa tội, mà toàn thể cộng đồng giáo xứ của chúng ta phải nhận thức được sứ mệnh chung của mình.”
Nhóm tuổi 18-25, bao gồm sinh viên và chuyên gia trẻ, hiện chiếm 42% số dự tòng trưởng thành, vượt qua nhóm nhân khẩu học 26-40 vốn thống trị thống kê cải đạo trong lịch sử. Sự thức tỉnh tâm linh do giới trẻ thúc đẩy này đại diện cho sự thay đổi đáng kể trong bối cảnh truyền giáo của Giáo hội.
Ngoài ra, lễ rửa tội ở tuổi vị thành niên đã tăng vọt, với hơn 7.400 thanh thiếu niên từ 11 đến 17 tuổi chuẩn bị nhận bí tích. Các giáo phận trên khắp nước Pháp báo cáo số lượng dự tòng vị thành niên tăng 33% so với năm ngoái.
Hội đồng Giám mục Pháp cố tình kết nối dữ liệu năm nay với Năm Thánh dành cho Giới trẻ tại Rôma, mô tả sự kiện này là “nơi gặp gỡ của những người dự tòng trẻ tuổi từ khắp nơi trên thế giới”.
Xu hướng này phản ánh những diễn biến tương tự được thấy ở những nơi khác tại Âu Châu. National Catholic Register gần đây đã báo cáo về số lượng người tham dự chưa từng có tại các Thánh lễ Thứ Tư Lễ Tro trên khắp nước Pháp trong năm nay, với các nhà thờ chứng kiến cảnh giáo dân chật kín chỗ và dòng người trẻ đổ về.
“Chúng tôi đã phá vỡ kỷ lục về số người tham dự”, Cha Benoist de Sinety, linh mục chánh xứ của Nhà thờ St. Eubert ở Lille, nói với tờ báo Công Giáo hàng tuần Famille Chrétienne. “Gần một ngàn tín hữu đã tụ họp tại Nhà thờ Saint-Maurice vào buổi tối — nhiều người trong số họ là những người trẻ tuổi lần đầu tiên tham dự”.
Một cuộc điều tra sẽ được CNA công bố vào thứ Hai tuần tới, ngày 14 tháng 4, khám phá xu hướng tương tự ở Vương quốc Anh.
Sự hồi sinh của Âu Châu diễn ra khi những số liệu mới cho thấy sự suy giảm trong 20 năm về bản sắc Kitô giáo dường như đang "ổn định" tại Hoa Kỳ.
Dữ liệu của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy 62% người lớn ở Hoa Kỳ tự nhận mình là người theo Kitô giáo, một con số vẫn "tương đối ổn định" kể từ năm 2019.
Phụ nữ vẫn đông hơn nam giới trong số những người dự tòng, chiếm 63% số người tìm kiếm phép rửa tội. Cuộc khảo sát cũng ghi nhận xu hướng đô thị ngày càng tăng, đảo ngược sự gia tăng của hai năm trước về số người cải đạo ở nông thôn.
Đặc biệt đáng chú ý là quỹ đạo mười năm: Pháp đã chứng kiến số người lớn được rửa tội tăng gấp đôi kể từ năm 2015, khi chỉ có 3.900 người lớn được làm phép bí tích, so với 10.391 người của năm nay - tăng 160% trong thập niên này.
Báo cáo toàn diện này cũng xem xét bối cảnh tôn giáo của những người dự tòng, lưu ý rằng trong khi hầu hết đến từ các gia đình theo Kitô giáo, thì ngày càng có nhiều người tuyên bố rằng họ không có truyền thống tôn giáo hoặc đến từ những gia đình không theo Kitô giáo.
Một nghiên cứu năm 2021 cho thấy khoảng 17% dự tòng người lớn ở Pháp đã từng có những trải nghiệm tâm linh ngoài Kitô giáo, bao gồm Phật giáo, thuyết bí truyền hoặc thuyết vật linh.
“Chúng ta đừng vội nghĩ rằng tất cả những điều này đã xảy ra mà không có chúng ta,” Đức Tổng Giám Mục de Germay kết luận trong bài suy niệm của mình. “Những lá thư từ các dự tòng cho thấy rõ sự đa dạng về những cách mà Chúa đã đi qua.”
Source:Catholic News Agency
Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Ngài vừa có bài viết nhan đề “The 7 Last Words of Christ and the Nicene Creed: ‘Father, Forgive Them, for They Know Not What They Do’”, nghĩa là “7 Lời Cuối Cùng của Chúa Kitô và Kinh Tin Kính Nicê: 'Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm' đăng trên tờ National Catholic Register ngày 13 tháng Tư, 2025.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Lúc đó là buổi trưa nhưng bóng tối bao trùm khắp miền Giêrusalem, vì Con Người đã bị treo trên Thập giá (Mc 15:33).
Ở những nơi khác, như thường lệ, mặt trời chắc chắn đã chiếu sáng vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên ấy. Khi đó, cũng như bây giờ, ngày này không có vẻ gì khác biệt so với những ngày khác. Khi đó, cũng như bây giờ, mọi người vẫn tiếp tục công việc của mình, vì một ngày lễ đã đến gần, và những công việc chuẩn bị cuối cùng phải được thực hiện. Nhưng Phúc âm cho chúng ta biết rằng mặt trời không chiếu sáng ở Giêrusalem từ trưa cho đến ba giờ chiều vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên. Nhiều người khi đó, cũng như bây giờ, không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng Chúa, Đấng đặt mặt trời và các vì sao vào đúng vị trí của chúng, biết chuyện gì đang xảy ra. Và thế là bóng tối bao trùm khắp vùng đất.
Lúc đó là giữa trưa và Con Người đã bị giương cao. Trong những giờ phút này, không chỉ Chúa Giêsu bị treo trên Thập giá, mà toàn bộ lịch sử cũng bị treo trên bản lề của nó. Thập giá trên đồi Canvê đứng ở điểm trung tâm của lịch sử. Toàn thể thế giới quay xung quanh Thập giá. Và từ Thập giá này, Thượng tế của Giao ước Mới và Vĩnh cửu — được nâng lên bục giảng đau đớn nhất từng được xây dựng — đã lên tiếng xin tha cho họ, vì “họ không biết việc họ làm.”
Bạn phải đến gần để nghe những lời này, vì khi một người bị đóng đinh đang cố gắng nói, phổi của người ấy bị đè bẹp dưới áp lực của chính trọng lượng của mình, ngay cả cơ thể người ấy cũng hét lên với anh ta trong đau đớn. Cơ thể hét lên, giọng nói thì im lặng. Chúng ta lắng nghe những lời đó, bảy lần Chúa Giêsu nói từ Thập giá.
Khi chúng ta lắng nghe Chúa Giêsu nói từ Thập giá, chúng ta đặt trước lòng mình Kinh Tin Kính Nicê vì năm nay, 2025, đánh dấu kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicê năm 325, công đồng chung đầu tiên trong số các công đồng chung lớn của Giáo hội. Kinh Tin Kính Nicê lấy tên từ công đồng đầu tiên năm 325. Chúng ta cùng nhau tuyên xưng trong Thánh lễ Chúa Nhật. Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta không tuyên xưng Kinh Tin Kính Nicê. Chúng ta lắng nghe Bảy Lời Cuối Cùng.
Lời đầu tiên từ Thập giá là “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”
Lời đầu tiên từ Thập giá được nói với Chúa Cha. Chúa Con nói với Chúa Cha và tương tự như vậy, Kinh Tin Kính Nicê bắt đầu bằng lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Cha. Những lời đầu tiên của Kinh Tin Kính là, “Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình.”
Chúng ta gọi đó là Creed hay Kinh Tin Kính. Từ “Creed”, một từ tiếng Anh mà chúng ta dùng để chỉ một tập hợp các niềm tin, bắt nguồn từ credo, từ tiếng Latin có nghĩa là “Tôi tin”. Tín điều Nicê bắt đầu bằng Credo in unum Deum — “Tôi tin kính một Thiên Chúa”.
Kinh Tin Kính là một tuyên bố và là bản tóm lược đức tin. Đức tin là một cách để biết. Tôi biết mọi thứ bằng đức tin; đó là hoạt động của trí tuệ tôi.
Có những thứ chúng ta biết từ quan sát và đo lường trực tiếp. Chúng ta thường gọi đó là kiến thức tự nhiên hoặc khoa học. Tôi biết một điều gì đó vì tôi có thể quan sát và đo lường nó. Sau đó, tôi áp dụng logic vào những gì tôi đã quan sát và đo lường. Tôi lặp lại điều đó để có được và kiểm tra kiến thức của mình; chúng ta gọi đó là phương pháp khoa học.
Đó không phải là cách duy nhất để biết mọi thứ. Có những điều chúng ta biết bằng đức tin, và chúng ta thực sự biết chúng. Đức tin không phải là kiến thức đến từ những quan sát của tôi; nó đến từ sự tin tưởng. Tôi tin tưởng người đang nói với tôi điều gì đó, vì vậy tôi tin rằng điều đó là đúng. Đó cũng là một cách để biết. Trên thực tế, đó là cách biết phổ biến nhất. Hầu hết những gì chúng ta biết đến từ đức tin, vì chúng ta không có nguồn lực hoặc thời gian để quan sát và đo lường trực tiếp.
Tôi có thể đo khoảng cách từ nhà tôi đến nhà thờ địa phương. Tôi có thể đo khoảng cách và sau đó tôi sẽ biết khoảng cách đó. Nhưng tôi không biết bất kỳ ai đã từng làm điều đó. Chúng ta nhìn vào một bản đồ, do một số nguồn đáng tin cậy tạo ra, và sau đó chúng ta biết khoảng cách là bao nhiêu. Hoặc chúng ta sử dụng GPS của mình ngay bây giờ. Đó là một hành động của đức tin. Bản đồ có thể sai, GPS có thể được hiệu chuẩn sai. Tuy nhiên, tôi thực hiện một hành động của lòng tin. Khi tôi thực hiện chuyến đi, sau đó tôi biết bằng cách quan sát những gì tôi đã biết bằng đức tin trước tiên. Đức tin thường đến trước.
Hầu hết những gì chúng ta biết đều đến từ đức tin, vì chúng ta không có thời gian cũng như nguồn lực để quan sát và đo lường mọi thứ. Cuộc sống hàng ngày là không thể nếu không có đức tin. Tôi muốn gặp một người bạn, và người bạn đó nói rằng anh ta sẽ gặp tôi lúc 6 giờ tối Làm sao tôi biết anh ta sẽ ở đó? Tôi tin anh ta. Tôi có thể thuê ai đó để quan sát và theo dõi anh ta, nhưng tôi không làm vậy. Nếu anh ta không xuất hiện nhiều lần, thì tôi học cách không còn tin vào lời anh ta nữa và khi lòng tin bị xói mòn, kiến thức cũng bị xói mòn.
Tôi hình dung rằng mọi thứ bạn biết về ông bà cố của mình không qua quan sát hoặc xác minh, nhưng bạn đã được kể lại. Và vì ông bà và cha mẹ của bạn đáng tin cậy, bạn có niềm tin vào họ. Đó là cách duy nhất để biết về quá khứ. Đức tin là cần thiết cho cuộc sống — cuộc sống bình thường, hàng ngày. Để sống được, hàng ngày, chúng ta cần thực hiện nhiều hành động đức tin.
Điều này thậm chí còn cần thiết hơn cho sự sống vĩnh cửu, vì như chúng ta nói trong Kinh Tin Kính đó là một thế giới, nơi “trời và đất”, vượt quá những gì chúng ta có thể đo lường. Điều cốt yếu là phải biết về thế giới đó và chúng ta chỉ có thể có được kiến thức đó từ một người có thể tiết lộ nó cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta bắt đầu Kinh Tin Kính, “Tôi tin kính một Thiên Chúa.” Ngài là Đấng mặc khải đáng tin cậy.
Kinh Tin Kính khẳng định rằng Thiên Chúa này là “một Thiên Chúa duy nhất”. Sau đó, chúng ta nói ngay “Chúa Cha toàn năng”. “Thiên Chúa duy nhất” là “Cha”.
Không thể tự mình làm cha. Một người cha chỉ có thể làm cha khi liên quan đến một người con trai, một đứa con. Ngay trong những lời đầu tiên của Kinh Tin Kính, chúng ta thừa nhận rằng Thiên Chúa là một, nhưng cũng là số nhiều — chỉ một nhưng không phải là một cô độc một mình. Điều đó sẽ được giải thích trong phần còn lại của Kinh Tin Kính.
Nói “Chúa Cha toàn năng” có nghĩa là có một loại hiệp thông nào đó, một sự hiệp thông của các ngôi vị. Thiên Chúa này là một loại cộng đồng nào đó. Kinh Tin Kính Nicê là về Chúa Ba Ngôi. Ngay từ đầu, chúng ta tuyên xưng rằng Đấng mà chúng ta tin cậy, Đấng mà lòng tin cậy của chúng ta làm nảy sinh đức tin của chúng ta, là Chúa Cha — điều này đòi hỏi phải có một Chúa Con.
Sau đó, chúng ta tuyên xưng rằng Thiên Chúa này là “Đấng tạo thành trời và đất, muôn vật hữu hình và vô hình.” Có một thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy — thế giới hữu hình. Nói rộng hơn, đó là thế giới mà chúng ta có thể đo lường. Ngày nay, với các công cụ tiên tiến hơn, chúng ta không còn chỉ dựa vào đôi mắt tự nhiên của mình nữa; các công cụ có thể đo lường những thứ rất nhỏ hoặc rất xa. Thế giới hữu hình là tất cả những thứ mà chúng ta có thể quan sát và đo lường.
Cho dù các thiết bị của chúng ta có mạnh đến đâu, cho dù kính thiên văn hay kính hiển vi có mạnh đến đâu, vẫn có một số thứ không thể đo lường được. Đó là thế giới vô hình, thế giới nằm ngoài tầm quan sát và đo lường của chúng ta. Trong thời đại công nghệ của chúng ta, chúng ta rất tin tưởng vào những thứ mà chúng ta có thể đo lường và thao tác được và do đó chúng ta có xu hướng bỏ qua hoặc quên đi những thứ mà chúng ta không thể nhìn thấy.
Khoa học và công nghệ có thể trả lời rất nhiều câu hỏi, một số trong số đó rất quan trọng, nhưng cũng có những câu hỏi quan trọng khác không thể trả lời bằng phép đo. Ví dụ, cha mẹ tôi có yêu tôi không? Đó là một câu hỏi rất quan trọng và câu trả lời cho câu hỏi đó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời của một người. Nó không thể đo lường được; không có công cụ nào có thể hiệu chuẩn tình yêu. Tình yêu thuộc về thế giới vô hình.
Lời đầu tiên trên Thập giá nói về sự tha thứ tội lỗi: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ.” Sự tha thứ cũng vô hình; không có thước dây nào đo được điều đó. Bài thánh ca của Cha Frederick Faber nói rằng “lòng thương xót của Chúa rộng lớn như biển cả.” Sẽ rất khó để đo được độ rộng của đại dương, nhưng có thể làm được. Đơn giản là không thể đo được lòng thương xót.
Tội lỗi cũng vô hình; không có kính thiên văn nào có thể đo được điều đó. Chúng ta không thể đo được khoảng cách mà tội lỗi tạo ra giữa chúng ta và Chúa, nhưng nó là có thật.
Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm. Những kẻ không biết việc họ làm, những kẻ không biết tội lỗi mà họ đang phạm phải — điều đó có thể mô tả tất cả những người ở mọi thời đại và mọi nơi đang sống như thể thế giới tội lỗi và sự tha thứ không tồn tại. Họ không biết thế giới vô hình mà Thiên Chúa đã tạo nên.
Nhiều năm trước, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nói rằng “một trong những điểm yếu lớn nhất của thời đại chúng ta là mất đi cảm giác về tội lỗi”. Vì nó không thể đo lường được, nên chúng ta có thể nghĩ rằng nó không tồn tại. Nếu tội lỗi không tồn tại thì toàn bộ thế giới của sự tha thứ và cứu rỗi trở nên không cần thiết, thậm chí không thể hiểu nổi.
Nhưng nếu tội lỗi tồn tại, thì chúng ta cần sự cứu rỗi, chúng ta cần sự tha thứ. Nếu chúng ta đã quên tội lỗi, thì chúng ta có thể bi thảm hơn là quên đi lòng thương xót và sự cứu rỗi. CS Lewis là một trong nhiều bậc thầy tâm linh đã nói:
“Thành công lớn nhất của ma quỷ là thuyết phục mọi người rằng hắn không tồn tại chỉ vì họ không thể nhìn thấy hắn.”
Chúa Giêsu làm gì? Chúa Giêsu làm cho điều vô hình trở nên hữu hình. Thiên Chúa là vô hình. Con vĩnh cửu của Chúa Cha là vô hình. Chúa Giêsu, Con Nhập Thể của Chúa Cha, Con của Đức Maria, là hữu hình. Ngài làm cho thế giới vô hình của Thiên Chúa, của tinh thần, trở nên hữu hình đối với chúng ta.
Hơn tất cả các dấu chỉ và phép lạ mà Người thực hiện, Người mang đến cho chúng ta một Thiên Chúa mà chúng ta có thể nhìn thấy. Người mặc khải cho chúng ta diện mạo của Chúa Cha. Thánh Gioan nói với chúng ta trong lời mở đầu của phúc âm của mình rằng không ai từng thấy Thiên Chúa, ngoại trừ Chúa Con và những ai mà Chúa Con chọn để mặc khải Người cho (Ga 1:18).
Trên Thập giá, Chúa Giêsu làm sáng tỏ hai thực tại — tội lỗi và tình yêu — mà chúng ta không thể nhìn thấy bên trong và chính chúng, nhưng chúng ta có thể quan sát thấy tác động của chúng.
Ngài làm cho thực tại của tội lỗi trở nên hữu hình. Thánh Phaolô viết rằng Chúa Giêsu Kitô đã trở nên tội lỗi vì chúng ta ( 2 Cr 5:21). Chúng ta biết rằng tội lỗi vô hình làm suy thoái và hủy diệt, và chúng ta thấy rõ điều đó trong những gì nó đã làm với Chúa Giêsu treo trên Thập giá. Đó chính là hình ảnh của tội lỗi.
Chúng ta có thể tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại đến vào thời điểm đó? Có lẽ Ngài đã đến vào thời điểm và địa điểm mà người ta có thể bị đóng đinh. Người Rôma đã hoàn thiện hình thức hành quyết đó, được thiết kế không chỉ để mang lại cái chết mà còn để làm mất danh dự và sự hạ thấp phẩm giá; sự đóng đinh làm biến dạng chính nhân tính của người bị đóng đinh. Thực tế vô hình của tội lỗi được thể hiện rõ ràng trong Chúa Giêsu Kitô, trong Chúa Kitô bị đóng đinh.
Thực tại khác là thực tại của tình yêu, tình yêu thương xót, tình yêu hy sinh. Chúng ta không thể đo lường tình yêu, nhưng chúng ta biết điều đó. Tôi biết khi nào tôi thực sự được yêu và tôi biết khi nào tôi thực sự yêu.
Thước đo tình yêu là sự hy sinh. Làm sao tôi biết được rằng ai đó yêu tôi? Bởi vì người đó hy sinh vì tôi. Một đứa trẻ, một đứa trẻ nhỏ, nghĩ rằng cha mẹ mình tồn tại chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình. Khi lớn lên, đứa trẻ nhận ra những hy sinh mà cha mẹ dành cho mình. Nếu nó tự hỏi liệu mình có được yêu không, những hy sinh đó sẽ chứng minh rõ ràng là nó được yêu.
Sự hy sinh của Thập giá làm cho tình yêu trở nên hữu hình, làm cho sự tha thứ trở nên hữu hình, làm cho lòng thương xót trở nên hữu hình. Có lẽ có một công cụ có thể đo lường thế giới vô hình. Không phải kính hiển vi, cũng không phải kính thiên văn, cũng không phải máy đo địa chấn hay ống nghe. Thập giá là công cụ đo lường thế giới vô hình.
Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm.
Source:National Catholic Register
1. Phi công chiến đấu cơ F-16 của Ukraine tử nạn trong khi làm nhiệm vụ
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Chúa Nhật, 13 Tháng Tư, Phát ngôn nhân của lực lượng không quân Ukraine, Đại Tá Yurii Ihnat cho biết một phi công người Ukraine lái máy bay phản lực F-16 Viper đã thiệt mạng trong một nhiệm vụ chiến đấu một ngày trước đó, hôm Thứ Bẩy, 12 Tháng Tư.
Ông nói: “Tin buồn thật không may: Vào ngày 12 tháng 4 năm 2025, Pavlo Ivanov, 26 tuổi, đã tử nạn khi đang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên máy bay F-16. Chúng tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới gia đình anh ta.”
Đại Tá Ihnat nói thêm rằng một cuộc điều tra đã được tiến hành về cái chết của phi công Pavlo Ivanov, 26 tuổi, nhưng không cung cấp thêm thông tin chi tiết.
Vụ mất mát hôm thứ Bảy là vụ mất máy bay F-16 thứ hai được xác nhận, giáng một đòn mang tính biểu tượng vào lực lượng của Kyiv. Máy bay F-16 tiên tiến hơn so với máy bay thời Liên Xô mà lực lượng Ukraine đã sử dụng trong phần lớn cuộc chiến tranh Nga-Ukraine đang diễn ra bắt đầu vào tháng 2 năm 2022. Việc chuyển giao máy bay từ các đồng minh Âu Châu cũng được hy vọng sẽ thay đổi tình trạng trên chiến trường.
Đại Tá Ihnat không tiết lộ địa điểm hoặc nhiều chi tiết hơn về vụ việc bắt đầu khi thông báo về “tin buồn thật không may”.
Ông cho biết Ivanov đã thiệt mạng khi đang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên máy bay F-16 và trong lời chia buồn với gia đình và lực lượng không quân, ông cho biết Ivanov đã hy sinh trong trận chiến “bảo vệ quê hương khỏi quân xâm lược”.
Tuyên bố tiếp tục cho biết các phi công F-16 của Ukraine hầu như ngày nào cũng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu “trong điều kiện vô cùng khó khăn” để yểm trợ cho các nhóm tấn công của bộ binh Ukraine, cũng như tấn công phủ đầu các mục tiêu của đối phương.
Ông cũng cho biết các phi công đang làm việc hết khả năng của con người và kỹ thuật, mạo hiểm mạng sống của họ mỗi lần. “Tất cả các tình tiết của thảm kịch đang được một ủy ban liên ngành xác định”.
Các blogger quân sự người Nga và Ukraine tuyên bố trên Telegram rằng máy bay đã bị bắn hạ bởi một hỏa tiễn đất đối không, trong bối cảnh có nhiều đồn đoán về việc máy bay bị lực lượng Nga bắn hạ hay bị hỏa lực thân thiện từ lực lượng phòng không Ukraine bắn hạ, mặc dù cả hai lời giải thích đều chưa được xác nhận độc lập.
Đây là trường hợp tử vong thứ hai được xác nhận của một phi công F-16 người Ukraine. Vào ngày 26 tháng 8 năm 2024, Oleksii “Moonfish” Mes đã tử nạn khi anh ta được cho là đang phản ứng với một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga.
Anh đã đến thăm Hoa Kỳ vào năm 2022 để vận động hành lang cho việc gửi F-16 đến Ukraine. Vào tháng 5 năm 2023, chính quyền Tổng thống Biden đã cho phép các quốc gia khác cung cấp cho Kyiv máy bay do Hoa Kỳ sản xuất.
Riêng Nhóm lực lượng chiến lược Khortytsia của Ukraine cho biết lực lượng Nga đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công mới vào Tỉnh Kharkiv ở đông bắc Ukraine.
Tại khu vực Kupiansk, quân đội Ukraine đã ngăn chặn các nỗ lực tấn công của Nga và lực lượng Nga đã phát động các cuộc tấn công vào khu vực Lyman trên biên giới của tỉnh Luhansk và Donetsk, nhưng đã bị đẩy lùi, tờ The Kyiv Independent đưa tin hôm thứ Bảy.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cho biết trong một tuyên bố: “Chúng tôi cần báo cáo từ quân đội về tình hình chiến đấu này. Chúng tôi đang điều tra mọi tình huống”.
Tuần trước, Tướng Christopher G. Cavoli, Tổng tư lệnh quân đồng minh Âu Châu, phát biểu trước Ủy ban Quân lực Thượng viện Hoa Kỳ rằng máy bay F-16 đang thực hiện các nhiệm vụ phòng thủ và tấn công hàng ngày, cho thấy loại máy bay thế hệ thứ tư này sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với lực lượng Ukraine.
Ukraine đã nhận được một số lượng máy bay không xác định từ các nước Âu Châu, chủ yếu là Hòa Lan và Đan Mạch, và Bỉ và Na Uy hứa sẽ cung cấp thêm.
Trong các cuộc đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh, đặc phái viên Hoa Kỳ của Tổng thống Trump là Steve Witkoff đã gặp Putin tại St. Petersburg vào thứ sáu. Cùng ngày, Tòa Bạch Ốc bày tỏ sự thất vọng với Mạc Tư Khoa và Kyiv về việc không đạt được tiến triển trong các cuộc đàm phán hòa bình.
[Newsweek: Ukrainian F-16 Fighter Pilot Killed in Action]
2. Steve Witkoff đặt tay lên tim ngay trước khi gặp Putin
Đoạn video đăng tải trên mạng xã hội cho thấy Steve Witkoff, đặc phái viên của Tổng thống Trump, đặt tay lên tim ngay trước khi gặp Putin vào hôm Thứ Sáu, 11 Tháng Tư. Đó là video mà quý vị và anh chị em đang xem thấy đây.
Điện Cẩm Linh đã rất hài lòng với cử chỉ này nên đã đăng tải rộng rãi trên các mạng xã hội. Theo văn hóa Nga, đó là cử chỉ bắt buộc mà một nông nô phải làm khi gặp chủ. Cần nhớ rằng Witkoff là đặc phái viên của Hoa Kỳ, không phải là một người nô lệ; và Hoa Kỳ là một cuờng quốc, không phải là một chư hầu của Nga. Do đó, cử chỉ của Witkoff là không phù hợp.
Những chuyến đi liên tục của Witkoff tới Nga và cuộc gặp gỡ của ông với những nhân vật có liên hệ với Điện Cẩm Linh cho thấy chính quyền Tổng thống Trump sẵn sàng tham gia trực tiếp—thậm chí là không chính thức—với Mạc Tư Khoa khi cuộc chiến ở Ukraine vẫn tiếp diễn. Trong khi cả hai bên đều công khai nhấn mạnh đến hòa bình, các cuộc đàm phán hậu trường dường như lại vướng vào các mục tiêu kinh tế. Hoa Kỳ tìm kiếm lệnh ngừng bắn, trong khi Nga thúc đẩy việc dỡ bỏ lệnh trừng phạt và hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn.
Đầu năm nay, Tổng thống Trump đã tranh cãi với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy trong một cuộc họp căng thẳng tại Phòng Bầu dục, tạm thời đình chỉ viện trợ cho Kyiv.
Sự hiện diện của phái viên của Tổng thống Trump trong quỹ đạo của Putin cũng đặt ra câu hỏi về chiến lược ngoại giao của chính quyền, đặc biệt là khi điều kiện chiến trường thay đổi. Ukraine vẫn đang bị bao vây và chưa có hồi kết rõ ràng cho cuộc chiến, kết quả của các cuộc đàm phán này có thể định hình không chỉ giai đoạn tiếp theo của cuộc chiến mà còn cả tương lai của quan hệ Mỹ-Nga.
Witkoff đã gặp Putin tại Saint Petersburg vào thứ sáu để thảo luận về khả năng ngừng bắn nhằm chấm dứt chiến tranh Nga-Ukraine.
Video được Điện Cẩm Linh đăng tải, cho thấy Witkoff, ngay trước khi gặp nhà lãnh đạo Nga, chỉnh lại cà vạt rồi đặt tay phải lên tim. Cử chỉ của một nông nô dành cho chủ này đã vấp phải phản ứng dữ dội từ một số người chỉ trích chính quyền Tổng thống Trump và cả những người ủng hộ Tổng thống Trump, là những người cho rằng Witkoff không đặt “nước Mỹ lên trên hết, nhưng Putin lên hàng đầu” vì các lợi nhuận kinh tế ưu đãi Putin có thể dành cho nhà tài phiệt địa ốc này.
Hãng thông tấn nhà nước Nga Tass đưa tin rằng cuộc gặp đã được phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov thông báo trước đó và hai bên sẽ thảo luận về “việc bình thường hóa quan hệ giữa Mạc Tư Khoa và Washington và một số khía cạnh của giải pháp cho vấn đề Ukraine”.
Theo Tass, đây là cuộc gặp thứ ba giữa hai bên.
Tổng thống Trump đã thúc giục ngừng bắn trong cuộc xung đột, mặc dù hiện tại vẫn chưa rõ liệu cả hai bên đã sẵn sàng hay chưa.
Việc Ukraine có phải từ bỏ bất kỳ lãnh thổ nào cho Nga hay không vẫn là một điểm gây tranh cãi. Trong khi chính quyền đã gợi ý rằng Kyiv có thể cần phải nhượng bộ để chấm dứt chiến tranh, chính phủ Ukraine tin rằng họ không nên từ bỏ bất kỳ vùng đất nào do hậu quả của một cuộc xâm lược bất công.
[Newsweek: Steve Witkoff Puts Hand on Heart Right Before Meeting Putin]
3. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ loan báo việc bắt giữ người đàn ông đe dọa ám sát Tổng thống Trump và Musk: Những điều cần biết
Bộ Trưởng Tư Pháp Pam Bondi đã buộc tội một người đàn ông đe dọa ám sát Tổng thống Trump và tỷ phú công nghệ Elon Musk trên mạng.
Tổng thống Trump, người đã sống sót sau nhiều vụ ám sát trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024, đã nhận được nhiều lời đe dọa giết người. Những nỗ lực ám sát bất thành nhằm vào ông đã thúc đẩy việc tăng cường bảo vệ Mật vụ của ông, mà cơ quan này cho biết sau cuộc bầu cử vào tháng 11 sẽ “được duy trì trong tương lai”.
Musk cũng nhận được những lời đe dọa. CEO của Tesla, nhà lãnh đạo Bộ Hiệu quả Chính phủ và giám sát việc cắt giảm ngân sách và sa thải hàng loạt trong chính phủ liên bang, đã trở thành chủ đề của các cuộc biểu tình rộng rãi trong những tháng gần đây.
Shawn Monper, 32 tuổi, đã bị bắt giữ và bị buộc tội bốn tội danh “đe dọa tấn công và giết người” đối với Tổng thống Trump, Musk và các quan chức chính phủ khác, bao gồm cả các nhân viên của Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan, gọi tắt là ICE, Pam Bondi cho biết như trên.
Cơ quan này cho biết trong một tuyên bố rằng FBI đã nhận được cảnh báo khẩn cấp về các mối đe dọa được đăng trên YouTube bởi một người dùng tự nhận là “Mr. Satan”. Các nhà điều tra đã lần ra hoạt động trực tuyến này bắt nguồn từ nơi ở của Monper.
Theo Bộ Trưởng Tư Pháp Pam Bondi, ngay sau lễ nhậm chức của Tổng thống Trump vào ngày 20 tháng Giêng, Monper đã xin giấy phép sở hữu súng và bình luận trên tài khoản YouTube của mình rằng anh ta đã “mua một số khẩu súng và tích trữ đạn dược kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức”.
Vào ngày 17 tháng 2, cơ quan này cho biết, Monper đã viết, “Chúng tôi cần bắt đầu giết người, Trump, Elon, tất cả những nhà lãnh đạo các cơ quan do Trump bổ nhiệm, và bất kỳ ai cản đường.”
Ông nói thêm, theo Bộ Tư pháp: “Hãy nhớ rằng, chúng ta là đa số, MAGA là thiểu số của đất nước, và đến lúc phải hành động, họ sẽ bị suy yếu, nhiều người sẽ bị đè bẹp bởi những chính sách này, và họ cũng sẽ muốn trả thù. Cách mạng Mỹ 2.0.”
Vào ngày 4 tháng 3, Monper bị cáo buộc đã nói tiếp trong một buổi phát trực tiếp trên YouTube có tiêu đề “Trực tiếp: Bài phát biểu của Trump trước Quốc hội”, nói rằng anh ta “sẽ tự mình ám sát ông ấy”. Anh ta cũng bình luận, “Cuối cùng tôi cũng sẽ thực hiện một vụ xả súng hàng loạt”, Bộ Trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ cho biết.
Monper cũng bị cáo buộc đã đe dọa các nhân viên di trú, anh ta viết: “Nếu tôi nhìn thấy một nhân viên buôn bán ma túy đá có vũ trang, tôi sẽ coi đó là một tên khủng bố trong nước, một kẻ xả súng và sẽ nổ súng vào họ”.
Bộ Trưởng Tư Pháp Pam Bondi cho biết cơ quan của bà sẽ “tìm kiếm hình phạt thích đáng tối đa”.
Monper đến từ Butler, Pennsylvania, nơi Tổng thống Trump gần như bị ám sát trong một cuộc vận động tranh cử vào tháng 7.
Trong vụ việc, một tay súng đã nổ súng từ một mái nhà gần đó. Anh ta đã giết chết một người tham dự, làm bị thương nhiều người khác và suýt bắn trúng Tổng thống Trump, người đã nhanh chóng được các mật vụ đưa ra khỏi sân khấu.
Một trong những viên đạn sượt qua tai phải của Tổng thống Trump, gây chảy máu rõ rệt. Các quan chức sau đó cho biết viên đạn chỉ trượt khỏi mục tiêu chỉ vài inch.
Vào tháng 9, Tổng thống Trump đã sống sót sau một vụ ám sát khác. Một người đàn ông có vũ trang bằng súng lục đã cố gắng đột nhập vào chu vi của Câu lạc bộ Golf Quốc tế Tổng thống Trump ở Florida khi đảng Cộng hòa đang ở trong khuôn viên, khiến Mật vụ phải phản ứng nhanh chóng.
Nghi phạm đã bị chặn lại trước khi đến tòa nhà chính và bị bắt giữ mà không cần nổ súng. Sau đó, chính quyền xác nhận rằng cá nhân này đã bày tỏ ý định gây hại cho tổng thống, đánh dấu đây là một nỗ lực ám sát đáng tin cậy.
Bộ Trưởng Tư Pháp Pamela Bondi nói thêm: “Tôi muốn hoan nghênh công tác điều tra xuất sắc và dũng cảm của FBI và Sở cảnh sát Butler Township, những người may mắn đã xác định và bắt giữ cá nhân này trước khi hắn ta có thể thực hiện các mối đe dọa đối với mạng sống của Tổng thống Trump và những người Mỹ vô tội khác.
“Xin hãy yên tâm rằng bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào xảy ra các mối đe dọa ám sát hoặc bạo lực hàng loạt, Bộ Tư pháp này sẽ tìm ra, bắt giữ và truy tố nghi phạm theo mức cao nhất của luật pháp và áp dụng hình phạt thích đáng nhất.”
[Newsweek: Man Charged With Trump and Musk Assassination Threats: What to Know]
4. Kellogg cho rằng Ukraine có thể bị chia cắt như nước Đức thời hậu chiến sau thỏa thuận hòa bình
Ukraine có thể bị phân chia thành các khu vực riêng biệt như một phần của thỏa thuận hòa bình với Nga, Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump về Ukraine, Keith Kellogg, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với tờ Times vào ngày 11 tháng 4.
Kellogg đề xuất thành lập một “lực lượng trấn an” do Anh và Pháp lãnh đạo ở miền tây Ukraine và tập trung quân đội Ukraine ở phía đông sông Dnipro, nơi một khu phi quân sự cũng sẽ được thiết lập gần đường kiểm soát hiện tại. Các vùng lãnh thổ hiện đang bị tạm chiếm sẽ do lực lượng Nga kiểm soát.
Ông nói: “Bạn gần như có thể làm cho nó trông giống như những gì đã xảy ra với Berlin sau Thế chiến thứ hai, khi bạn có một khu vực do Nga kiểm soát, một khu vực do Pháp kiểm soát, một khu vực do Anh kiểm soát và một khu vực do Hoa Kỳ kiểm soát”.
Trong khi Điện Cẩm Linh nhiều lần bác bỏ ý tưởng để quân đội Âu Châu giám sát lệnh ngừng bắn ở Ukraine, Kellogg cho biết lực lượng do Anh và Pháp đứng đầu ở miền tây Ukraine “sẽ không hề khiêu khích” đối với Nga.
Kellogg cũng đề xuất thành lập một khu phi quân sự rộng 18 dặm ở miền đông Ukraine dọc theo tuyến đầu hiện tại để làm vùng đệm giữa quân đội Nga và phương Tây.
“Bạn nhìn vào bản đồ và bạn tạo ra, vì không có thuật ngữ nào hay hơn, một khu phi quân sự. Đưa cả hai bên lùi lại 15 km mỗi bên, tức là 18 dặm,” ông nói.
“Và bạn có một … khu phi quân sự mà bạn có thể giám sát, và bạn có … vùng cấm bắn. Bạn có thể giám sát điều đó khá dễ dàng.”
Kellogg thừa nhận Nga vẫn có thể không chấp nhận đề xuất này. Ông cũng cho biết ông dự kiến các điều kiện ngừng bắn sẽ bị vi phạm.
“Bây giờ, liệu có vi phạm không? Có lẽ, vì luôn luôn có. Nhưng khả năng giám sát điều đó của bạn rất dễ dàng”, ông nói.
Kellogg cho biết Hoa Kỳ sẽ không cam kết bất kỳ lực lượng bộ binh nào cho lực lượng trấn an ở Ukraine. Ông cũng cảnh báo Pháp và Anh không nên trông chờ vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ cho “liên minh tự nguyện”, một liên minh của các nước Âu Châu và Khối thịnh vượng chung đã cam kết cung cấp bảo đảm an ninh cho Ukraine sau khi ngừng bắn.
“Luôn lập kế hoạch cho trường hợp xấu nhất”, ông nói và nói thêm rằng lực lượng trấn an của liên quân vẫn có thể gửi đi thông điệp hiệu quả tới Putin.
không làm rõ liệu ông có tin rằng Ukraine nên nhượng thêm lãnh thổ phía đông Dnipro cho Nga hay không.
Bình luận của Kellogg đánh dấu lần đầu tiên một quan chức cao cấp của Hoa Kỳ đề xuất Dnipro là ranh giới phân định ở Ukraine sau chiến tranh. Đề xuất này được đưa ra cùng ngày Đặc phái viên của Tổng thống Trump tại Trung Đông, Steve Witkoff, đã gặp Putin tại St. Petersburg để thảo luận về giải pháp hòa bình trong tương lai ở Ukraine.
Theo hai quan chức Hoa Kỳ giấu tên và năm nguồn tin giấu tên khác đã trao đổi với Reuters trong một bài báo được công bố ngày 11 tháng 4, Witkoff và Kellogg được cho là đang bất đồng quan điểm trong đường lối một thỏa thuận hòa bình ở Ukraine.
Witkoff được cho là đã nói với Tổng thống Trump rằng việc trao cho Nga “quyền sở hữu” bốn vùng bị tạm chiếm của Ukraine sẽ là cách nhanh nhất để đạt được lệnh ngừng bắn, trong khi Kellogg lập luận rằng Ukraine sẽ không bao giờ đồng ý đơn phương nhượng toàn bộ quyền sở hữu các vùng lãnh thổ này cho Mạc Tư Khoa.
Tuy nhiên, kế hoạch phân chia Ukraine của Kellogg sẽ bao gồm việc để lại các khu vực bị tạm chiếm bất hợp pháp dưới sự kiểm soát của Nga. Tổng thống Volodymyr Zelenskiy vẫn khẳng định rằng Kyiv sẽ không bao giờ công nhận các vùng lãnh thổ này là hợp pháp của Nga.
Việc so sánh với Berlin sau chiến tranh cũng có thể gây khó chịu cho Ukraine, nơi có một chính phủ dân chủ đang hoạt động, không giống như Đức Quốc xã năm 1945. Nga cũng đã sử dụng những cáo buộc sai trái về “chủ nghĩa Quốc xã” ở Ukraine để biện minh cho cuộc xâm lược toàn diện của mình.
[Kyiv Independent: Ukraine can be split like postwar Germany after peace deal, Kellogg suggests]
5. Ngũ Giác Đài sa thải chỉ huy căn cứ Greenland sau khi bà chỉ trích chuyến thăm của JD Vance
Quân đội Hoa Kỳ cảnh báo rằng những hành động “phá hoại chương trình nghị sự của Tổng thống Trump sẽ không được dung thứ”.
Quân đội Hoa Kỳ hôm thứ Năm tuyên bố đã cách chức Đại tá Susannah Meyers, chỉ huy căn cứ Pituffik ở Greenland, với tuyên bố sẽ không dung thứ cho bất kỳ hành động phản đối nào chống lại chương trình nghị sự của Tổng thống Trump.
Theo tổ chức tin tức độc lập Military.com, Meyers đã gửi email cho nhân viên căn cứ vào ngày 31 tháng 3 để tách mình khỏi chuyến thăm của Phó Tổng thống Hoa Kỳ JD Vance ba ngày trước đó.
Trong thông điệp của mình, Meyers cho biết bà đã dành cả tuần để suy ngẫm về việc những phát biểu của Vance có thể ảnh hưởng đến những người đồn trú tại căn cứ này như thế nào, trong bối cảnh Tòa Bạch Ốc đang gây áp lực nhằm giành lại hòn đảo Bắc Cực rộng lớn này từ Đan Mạch.
Meyers viết trong email rằng: “Tôi không cho rằng mình hiểu được chính trị hiện tại, nhưng điều tôi biết là những lo ngại của chính quyền Hoa Kỳ được Phó Tổng thống Vance thảo luận vào thứ Sáu không phản ánh vấn đề của Căn cứ Không gian Pituffik”.
“Tôi cam kết rằng, chừng nào tôi còn may mắn được lãnh đạo căn cứ này, tất cả lá cờ của chúng ta sẽ tung bay một cách đầy tự hào - cùng nhau”, thông điệp nói thêm.
Vào cuối ngày thứ năm tại Hoa Kỳ, phát ngôn nhân chính của Ngũ Giác Đài Sean Parnell thông báo rằng Meyers đã bị cách chức, giải thích rằng “những hành động làm suy yếu chuỗi chỉ huy hoặc lật đổ chương trình nghị sự của Tổng thống Trump sẽ không được dung thứ”.
Parnell không nêu rõ lý do sa thải trong tuyên bố của mình, nhưng có kèm theo liên kết đến bài viết trên Military.com.
Vance đã đến căn cứ quân sự Pituffik cùng với một phái đoàn Hoa Kỳ vào ngày 28 tháng 3, trong bối cảnh Tổng thống Trump liên tục đe dọa sẽ chiếm Greenland, một vùng lãnh thổ tự trị của Đan Mạch giàu khoáng sản quan trọng và nằm ở vị trí chiến lược quan trọng tại Bắc Cực.
Trong chuyến thăm, Vance chỉ trích cách Đan Mạch quản lý Greenland, cho rằng lãnh thổ này sẽ an toàn hơn dưới sự bảo vệ của Hoa Kỳ do nhận thấy mối đe dọa từ Trung Quốc và Nga. Ông lập luận rằng Đan Mạch đã đầu tư không đủ vào an ninh và cơ sở hạ tầng của Greenland, và ủng hộ việc Hoa Kỳ kiểm soát lãnh thổ này.
Sau chuyến thăm, Ngoại trưởng Đan Mạch Lars Løkke Rasmussen cho biết: “Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe những lời chỉ trích, nhưng thành thật mà nói, chúng tôi không đánh giá cao giọng điệu mà họ đang đưa ra”.
Thủ tướng mới của Greenland, Jens-Frederik Nielsen, cũng tuyên bố Greenland không phải để bán và gọi những lời đề nghị hung hăng của Tổng thống Trump là “mối đe dọa đối với nền độc lập chính trị của chúng tôi”.
[Politico: Actions to “subvert President Trump’s agenda will not be tolerated,” U.S. military warns.]
6. Tập Cận Bình muốn liên minh Liên Hiệp Âu Châu-Trung Quốc chống lại cuộc tấn công thương mại của Tổng thống Trump
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề xuất Liên Hiệp Âu Châu và Bắc Kinh hợp tác để chống lại Ông Donald Trump khi tổng thống Hoa Kỳ tiến hành cuộc chiến thương mại toàn cầu.
“Trung Quốc và Liên Hiệp Âu Châu phải hoàn thành trách nhiệm quốc tế của mình, cùng nhau bảo vệ xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và môi trường thương mại quốc tế công bằng, đồng thời cùng nhau phản đối các hành vi đơn phương và đe dọa”, Tập Cận Bình phát biểu trong cuộc gặp với Thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sánchez tại thủ đô Trung Quốc.
Washington và Bắc Kinh đã tham gia vào một cuộc chiến thuế quan trả đũa ngày càng leo thang, khi Trung Quốc vào sáng thứ Sáu đã tăng thuế đối với hàng nhập khẩu của Mỹ lên 125 phần trăm, để đáp trả mức thuế ngày càng tăng của Hoa Kỳ.
Trong khi Tổng thống Trump đã tạm dừng chế độ thuế quan nghiêm ngặt nhất của mình đối với các quốc gia khác trên thế giới ― bao gồm cả Liên Hiệp Âu Châu ― Trung Quốc đang tìm kiếm các đối tác để giúp nước này chống lại áp lực thương mại to lớn đến từ Tòa Bạch Ốc.
Sánchez đồng tình với lời kêu gọi của Tập Cận Bình về mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa Liên Hiệp Âu Châu và siêu cường Á Châu vào thời điểm thế giới đang phải đối mặt với “những thách thức phi thường”.
Sánchez cho biết, ám chỉ đến cuộc chiến thương mại toàn cầu của Tổng thống Trump: “Bối cảnh toàn cầu phức tạp khiến chúng ta cần phải đặt cược vào nhiều cuộc đối thoại, hợp tác hơn và tăng cường quan hệ với các quốc gia và khối khu vực khác”.
“Trung Quốc là đối tác cơ bản của chúng tôi khi phải đối mặt với những thách thức lớn nhất của thế giới”, ông nói thêm. “Biến đổi khí hậu, phát triển toàn cầu, cuộc chiến chống bất bình đẳng... Tất cả đều là những vấn đề chính đối với chúng tôi”.
Chuyến hành hương tới Bắc Kinh của thủ tướng Tây Ban Nha đã gây phẫn nộ ở Washington, khi Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Scott Bessent tuần này đã so sánh những nỗ lực của Madrid nhằm xây dựng mối quan hệ thương mại chặt chẽ hơn với Trung Quốc với việc “tự cắt cổ mình”.
Sánchez nhấn mạnh rằng “chính sách đối ngoại của Tây Ban Nha không chống lại bất kỳ ai”, đồng thời nói thêm rằng đất nước của ông quyết tâm đóng vai trò “tích cực” trong việc thúc đẩy quan hệ xuyên Đại Tây Dương “cùng có lợi”. Nhưng dễ dàng nhận thấy việc ông liên tục ủng hộ “chơi đẹp trong thương mại quốc tế” là lời chỉ trích các biện pháp trừng phạt thương mại gần đây của Tổng thống Trump.
Thế tiến thoái lưỡng nan của Liên Hiệp Âu Châu
Chuyến đi của Sánchez làm nổi bật sự chia rẽ trong Liên Hiệp Âu Châu về cách phản ứng với chế độ thuế quan mạnh tay của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.
Một số nhà lãnh đạo của khối này ủng hộ việc rời xa Hoa Kỳ và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với các đối tác toàn cầu khác, nhưng những người khác lại cho rằng khối này sẽ tốt hơn nếu gắn bó chặt chẽ với Washington.
Thủ tướng Ý Giorgia Meloni, người nhấn mạnh rằng Âu Châu phải duy trì “đường lối thực tế, mang tính xây dựng và cởi mở” với Tòa Bạch Ốc, dự kiến sẽ tới Phòng Bầu dục vào tuần tới để chứng minh giá trị của mình với tư cách là “người thì thầm với Tổng thống Trump”.
Thủ tướng Tây Ban Nha cho biết ông đã trao đổi với Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen và Ủy viên Thương mại Liên Hiệp Âu Châu Maroš Šefčovič trước chuyến thăm. Vào thứ sáu, tờ South China Morning Post có trụ sở tại Hương Cảng đưa tin các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu đang có kế hoạch gặp Tập Cận Bình tại Trung Quốc vào tháng 7.
Hội nghị thượng đỉnh cuối cùng thuộc loại này được tổ chức tại Bắc Kinh vào năm 2023 và theo nghi thức thông thường, phiên họp tiếp theo sẽ diễn ra tại Brussels. Việc Liên Hiệp Âu Châu sẵn sàng để Trung Quốc một lần nữa làm chủ nhà cho thấy các nhà lãnh đạo Âu Châu rất muốn làm hài lòng Tập Cận Bình và sử dụng hội nghị thượng đỉnh — trùng với kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ Liên Hiệp Âu Châu-Trung Quốc — để xây dựng mối quan hệ chặt chẽ hơn với siêu cường Á Châu này.
Tại Bắc Kinh, Tập Cận Bình ủng hộ mối quan hệ chặt chẽ với Tây Ban Nha, mà ông cho biết là ngày càng quan trọng “khi tình hình quốc tế trở nên hỗn loạn và bất ổn hơn”. Theo Sánchez, hai nhà lãnh đạo đã nói nhiều về hợp tác toàn cầu và quyết tâm của Liên Hiệp Âu Châu trong việc bảo đảm “hòa bình công bằng” ở Ukraine.
Bắc Kinh là điểm dừng chân cuối cùng trong chuyến công du Á Châu, nơi Sánchez cũng gặp Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính. Chuyến đi nhằm mục đích bảo đảm các thỏa thuận nông nghiệp với Hà Nội và chốt các hợp đồng béo bở liên quan đến xuất khẩu thịt lợn và anh đào sang Trung Quốc.
[Politico: Xi wants EU-China tag team to resist Trump’s trade onslaught]
7. Tổng thống Zelenskiy cho biết “vài trăm” công dân Trung Quốc đang chiến đấu cho Nga
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết vào ngày 11 tháng 4 rằng có ít nhất “vài trăm” công dân Trung Quốc đang chiến đấu bên phía Nga trong cuộc chiến chống lại Ukraine.
Số lượng công dân Trung Quốc được cho là tham gia lực lượng Nga đã tăng lên kể từ tuyên bố trước đó của Tổng thống Zelenskiy. Vào ngày 9 tháng 4, ông cho biết có 155 công dân Trung Quốc đang chiến đấu cho Mạc Tư Khoa trên lãnh thổ Ukraine. Con số này tăng lên 163 một ngày sau đó và bây giờ lên đến hàng trăm người sau các cuộc điều tra của tình báo Ukraine.
Đầu tuần này, Kyiv đã bắt giữ hai công dân Trung Quốc đang chiến đấu cho Nga ở Tỉnh Donetsk.
“Cho đến nay, có thông tin cho thấy ít nhất hàng trăm công dân Trung Quốc đang chiến đấu như một phần của lực lượng xâm lược của Nga. Điều này có nghĩa là Nga rõ ràng đang cố gắng kéo dài cuộc chiến ngay cả bằng cách sử dụng sinh mạng của người Trung Quốc”, Tổng thống Zelenskiy nói, phát biểu trước các đối tác phương Tây tại hội nghị thượng đỉnh theo định dạng Ramstein ở Brussels.
“Putin không hài lòng với những người lính từ Bắc Hàn. Bây giờ ông ấy đang cố gắng bù đắp sự thiếu hụt của mình bằng cách kéo thêm một quốc gia nữa — Trung Quốc,” tổng thống nói thêm.
[Kyiv Independent: “Several hundred” Chinese nationals fighting for Russia, Zelensky says]
8. Ukraine sẵn sàng mua thêm hệ thống phòng không, Tổng thống Zelenskiy nói
Trong diễn từ gởi quốc dân đồng bào tối Thứ Sáu, 11 Tháng Tư, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cho biết Kyiv đã chuẩn bị mua thêm các hệ thống phòng không để bảo vệ tốt hơn các thành phố của Ukraine khỏi các cuộc tấn công của Nga.
Tổng thống Zelenskiy cho biết nhu cầu về nhiều hệ thống phòng không hơn là trọng tâm trong bài phát biểu của ông trước những người tham gia hội nghị thượng đỉnh theo định dạng Ramstein được tổ chức vào đầu ngày tại Brussels, đồng thời gọi đó là “ưu tiên hàng đầu”.
Tổng thống đã tham gia hội nghị thượng đỉnh trực tuyến, tham gia cuộc họp từ Kryvyi Rih - quê hương của Tổng thống Zelenskiy và là địa điểm xảy ra cuộc tấn công hỏa tiễn chết người của Nga vào tuần trước khiến 20 người thiệt mạng, trong đó có chín trẻ em.
“Điều quan trọng nhất đối với chúng tôi là phòng không, các hệ thống phòng không bổ sung, hỏa tiễn dành cho họ,” Tổng thống Zelenskiy phát biểu trong khi trú ẩn dưới lòng đất tại một trường học địa phương, nơi ba nạn nhân theo học.
“Để bảo vệ mạng sống của người dân, để bảo vệ các thành phố của chúng ta. Chúng tôi rất trông cậy vào quyết định của các đối tác – chúng tôi cần các hệ thống, chúng tồn tại trên thế giới, và chúng tôi cần một quyết định chính trị để phòng không hoạt động, hoạt động ở đây... và nhiều thành phố và cộng đồng khác của chúng tôi.”
Tổng thống Zelenskiy cũng cho biết ông đã thảo luận vấn đề này với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.
“Ukraine không chỉ yêu cầu – chúng tôi sẵn sàng mua thêm các hệ thống phù hợp”, ông nói.
Ngay sau vụ tấn công bằng hỏa tiễn vào Kryvyi Rih ngày 8 tháng 4, Tổng thống Zelenskiy đã thúc giục Hoa Kỳ cung cấp thêm hệ thống phòng không Patriot cho Ukraine. Các hệ thống Patriot tiên tiến của Hoa Kỳ đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bầu trời của Ukraine. Chúng có khả năng bắn hạ ngay cả những hỏa tiễn đạn đạo tiên tiến nhất, chẳng hạn như Kinzhal.
Trong cuộc gọi ngày 19 tháng 3 với Tổng thống Zelenskiy, Tổng thống Trump đã đồng ý hỗ trợ Ukraine tìm thêm các hệ thống Patriot có sẵn ở Âu Châu.
Trong khi Kyiv và Mạc Tư Khoa đồng ý ngừng bắn một phần do Hoa Kỳ làm trung gian vào ngày 11 tháng 3, các cuộc tấn công của Nga vào các thành phố của Ukraine vẫn không giảm trong tháng tiếp theo. Nga đã phóng 70 hỏa tiễn, 2.200 máy bay điều khiển từ xa loại Shahed và 6.000 quả bom dẫn đường trên không trong 30 ngày qua, Ngoại trưởng Andrii Sybiha cho biết vào ngày 11 tháng 4.
Ukraine đã đồng ý chấp nhận lệnh ngừng bắn hoàn toàn đối với mọi hành động thù địch ngay khi Nga tuân thủ các điều khoản tương tự. Nga vẫn tiếp tục từ chối.
[Kyiv Independent: Ukraine ready to buy more air defense systems, Zelensky says]
9. Truyền thông Nga xác định 51 công dân Trung Quốc đã gia nhập quân đội Nga kể từ tháng 6 năm 2023
Ít nhất 51 công dân Trung Quốc đã ghi danh nghĩa vụ quân sự theo hợp đồng với quân đội Nga thông qua một trung tâm tuyển dụng tại Mạc Tư Khoa từ tháng 6 năm 2023 đến tháng 5 năm 2024, kênh điều tra của Nga Important Stories đưa tin vào ngày 11 tháng 4.
Những tiết lộ này được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU thông báo bắt giữ hai chiến binh Trung Quốc gần các thị trấn Tarasivka và Bilohorivka của Ukraine.
Một tài liệu tình báo của Ukraine mà tờ Kyiv Independent có được ước tính rằng hiện có ít nhất 163 công dân Trung Quốc đang phục vụ trong Quân đội Nga.
Cuộc điều tra của Important Stories, dựa trên dữ liệu bị rò rỉ từ các dịch vụ tuyển dụng và tài liệu của công an biên giới Nga, phát hiện ra rằng nhiều công dân Trung Quốc đã bay đến Mạc Tư Khoa chỉ vài ngày trước khi trình diện tại điểm tuyển chọn.
Có ít nhất bảy người đến cùng ngày, trong khi bốn người trở về Trung Quốc ngay sau chuyến thăm.
Công dân Trung Quốc đến gần như hàng tháng để tham gia lực lượng này, với số lượng cao nhất — tám cá nhân — được ghi nhận vào tháng 7 năm 2023. Cơ quan truyền thông này phát hiện ra rằng 31 công dân Trung Quốc đã ghi danh vào năm 2023 và 20 công dân khác trong năm tháng đầu năm 2024.
Người trẻ nhất được tuyển dụng là 20 tuổi, trong khi người lớn tuổi nhất là 51 tuổi. Một số người đi theo cặp, chẳng hạn như Vương Minh Lượng (Mingliang Wang), 38 tuổi và Đạo Thành Lý (Daocheng Li), 43 tuổi, họ đã hạ cánh cùng nhau tại Mạc Tư Khoa và đến thăm trung tâm tuyển dụng hai ngày sau đó.
Một số tân binh đã trở về nhà, trong khi những người khác được cho là bị thương trong chiến đấu. Kyiv tin rằng số lượng công dân Trung Quốc chiến đấu cho Nga cao hơn đáng kể.
Một trong những tù nhân mới bị Ukraine bắt giữ gần đây được cho là đã trả 300.000 rúp (khoảng 3.500 đô la) cho một người trung gian người Trung Quốc để được giúp đỡ nhập ngũ vào quân đội Nga, đổi lại anh ta sẽ được hứa cấp quốc tịch Nga.
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết vào ngày 9 tháng 4 rằng những trường hợp này chỉ ra nỗ lực “có hệ thống” của Mạc Tư Khoa nhằm tuyển dụng công dân Trung Quốc.
Bắc Kinh phủ nhận mọi sự liên quan trực tiếp đến cuộc chiến và cho biết họ đã kêu gọi người dân tránh xa các cuộc xung đột vũ trang.
Trung Quốc, quốc gia tự nhận là bên trung lập trong cuộc chiến, đã trở thành nhà cung cấp hàng đầu cho Nga các phụ tùng sử dụng kép thiết yếu cho sản xuất vũ khí và là đối tác kinh tế quan trọng.
Nga đã chiêu mộ các chiến binh nước ngoài từ nhiều quốc gia, bao gồm Ấn Độ, Nepal và Syria, để chiến đấu trong quân đội chống lại Ukraine. Mạc Tư Khoa cũng đã sử dụng khoảng 12.000 quân đội Bắc Hàn do Bình Nhưỡng điều động để chống lại cuộc xâm lược của Ukraine tại Kursk.
[Kyiv Independent: Media identifies 51 Chinese citizens who have joined Russian army since June 2023]
10. Tổng thống Trump thúc giục Nga ‘hành động’ để chấm dứt chiến tranh với Ukraine
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã viết trên nền tảng Truth Social vào ngày 11 tháng 4 rằng Nga “phải hành động” để chấm dứt chiến tranh với Ukraine.
“Nga phải hành động. Quá nhiều người đang chết, hàng ngàn người mỗi tuần, trong một cuộc chiến khủng khiếp và vô nghĩa — một cuộc chiến không bao giờ nên xảy ra, và sẽ không xảy ra, nếu tôi là tổng thống,” Tổng thống Trump nói.
Bất chấp những lời đe dọa liên tục, chính quyền Tổng thống Trump vẫn chưa áp đặt bất kỳ lệnh trừng phạt lớn nào đối với Nga. Đồng thời, Tòa Bạch Ốc trước đó đã tạm dừng mọi hỗ trợ quân sự và tình báo cho Ukraine vào tháng 3, gây áp lực buộc Kyiv phải đồng ý với một thỏa thuận về tài nguyên khoáng sản.
Bài đăng của Tổng thống Trump diễn ra trước cuộc gặp giữa đặc phái viên của ông là Steve Witkoff và Putin tại St. Petersburg để thảo luận về con đường tiềm năng hướng tới một giải pháp cho vấn đề Ukraine.
Tuyên bố này cũng được đưa ra một tháng sau khi Ukraine đồng ý với đề xuất của Hoa Kỳ về lệnh ngừng bắn toàn diện trong 30 ngày trong các cuộc đàm phán tại Jeddah vào ngày 11 tháng 3, với điều kiện Nga tuân thủ các điều kiện. Mạc Tư Khoa đã từ chối thỏa thuận trừ khi nó bao gồm các điều kiện làm suy yếu khả năng phòng thủ của Ukraine, cụ thể là ngừng hoàn toàn viện trợ quân sự nước ngoài.
[Kyiv Independent: Trump urges Russia 'to get moving' to end war against Ukraine]
1. Nga có thể xâm lược Âu Châu vào năm 2029 – và Putin đang tập trung 3 TRIỆU quân, vị tướng hàng đầu của Đức cảnh báo
Putin sẽ xây dựng được đội quân hùng mạnh với 3 triệu quân vào năm tới, và nhiều người lo ngại ông sẽ sử dụng lực lượng này để xâm lược nhiều quốc gia hơn nữa.
Tổng thanh tra quân lực Đức, Tướng Carsten Breuer nói với Welt rằng các quốc gia nên được trang bị vũ khí và sẵn sàng trước khi thập niên này kết thúc để đề phòng các hành động xâm lược tiếp theo của Nga. Ông cảnh báo rằng Nga sẽ “có khả năng tiến hành một cuộc tấn công quy ước trên quy mô lớn, thậm chí là vào lãnh thổ NATO, vào năm 2029”.
Breuer nói thêm rằng Putin muốn “làm suy yếu và phá hủy NATO như một liên minh và làm mất uy tín của xã hội phương Tây”. Ông nhấn mạnh rằng “mục tiêu Âu Châu của Nga là năm 2029” và nhấn mạnh: “Chúng ta phải sẵn sàng vào thời điểm đó”.
Tuần trước, Đức đã công bố đợt điều động quân thường trực đầu tiên kể từ Thế chiến thứ hai gồm 5.000 binh sĩ tới Lithuania.
Putin đang thúc đẩy một chiến dịch tuyển quân lớn để thay thế quân đội đang tử trận hàng loạt và để phát triển quân đội. Chỉ tuần trước, ông đã ra lệnh gọi nhập ngũ 160.000 thanh niên từ 18 đến 30 tuổi - đây là đợt gọi nhập ngũ lớn nhất kể từ năm 2011. Nhiều người coi sự mở rộng này là động thái chuẩn bị cho một tham vọng lớn hơn của Putin - và Breuer mô tả đây là “mối đe dọa rõ ràng”.
Quân đội Nga dự kiến sẽ tăng gấp đôi quy mô so với thời điểm bắt đầu cuộc xâm lược - nghĩa là sẽ có gần 3 triệu quân. Breuer lưu ý rằng con số này lớn hơn nhiều so với mức cần thiết để duy trì cuộc chiến ở Ukraine. Và Nga không chỉ đang xây dựng nhân sự.
Breuer cho biết: “Chúng tôi thấy rằng có khoảng 1.500 xe tăng chiến đấu được sản xuất mới mỗi năm hoặc được đưa ra khỏi kho và tân trang lại. “Và các nhà kho của Nga đang được chất đầy đạn dược.”
Người ta lo ngại rằng một chiến dịch xâm lược mới của Nga có thể châm ngòi cho Thế chiến thứ ba. Aleksey Zhuravlyov, người bạn thân thiết của Putin, kêu gọi đất nước mình đừng ngại chiến đấu với Âu Châu.
Âu Châu hiện đang có những bước chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh lớn hơn.
Trên khắp lục địa, các chính phủ đang chi nhiều hơn cho quốc phòng và lập kế hoạch cho chế độ nghĩa vụ quân sự. Có những lời kêu gọi Anh tham gia cùng các nước khác trong việc khởi động chương trình nghĩa vụ quân sự.
Một số quốc gia thậm chí còn ban hành hướng dẫn sinh tồn để giúp công dân của mình vượt qua chiến tranh. Pháp là quốc gia mới nhất công bố động thái này.
Cuốn sách nhỏ 20 trang này sẽ đưa ra lời khuyên cho người dân Pháp về cách bảo vệ nền cộng hòa trước cuộc xâm lược bằng cách ghi danh vào các đơn vị dự bị hoặc nỗ lực phòng thủ địa phương.
Ngoài ra, sách còn có những mẹo về cách tạo bộ dụng cụ sinh tồn với những vật dụng thiết yếu bao gồm sáu lít nước, thực phẩm đóng hộp, pin và các vật dụng y tế cơ bản.
Có những lo ngại đặc biệt về sự an toàn của các quốc gia vùng Baltic - Croatia, Lithuania và Latvia - được coi là mục tiêu tiếp theo có khả năng xảy ra nhất của Putin. Ba quốc gia đang xây dựng một tuyến phòng thủ chung trên biên giới với Nga với khoảng sáu trăm hầm trú ẩn kiên cố.
Ngoài ra còn có hào xe tăng, rừng, răng rồng, nhím và hệ thống hỏa tiễn.
Ba Lan và các nước Baltic cũng đã rút khỏi hiệp ước quốc tế cấm sử dụng mìn sát thương khi họ chuẩn bị ngăn chặn quân đội Nga đang tiến quân.
[The Sun: Russia could invade Europe by 2029 – and Putin is massing 3 MILLION soldiers, warns top German general]
2. Xe tải tấn công 70 năm tuổi của Nga đã bị xóa sổ ở miền Đông Ukraine
Vài tuần sau khi lần đầu tiên xuất hiện với số lượng lớn dọc theo tiền tuyến ở Ukraine, xe tải GAZ-69 của Nga – là hiện vật bảo tàng từ những năm 1950 - đã tham gia vào cuộc tấn công trực tiếp đầu tiên nhắm vào các vị trí của Ukraine.
“Chúng ta chỉ còn cách cuộc tấn công GAZ-69 một inch nữa thôi,” nhà phân tích tình báo nguồn mở Moklasen dự đoán vào ngày 1 tháng 4, sử dụng tiếng lóng để chỉ “cuộc tấn công”. Moklasen đã đúng.
Cuộc tấn công vào hôm Thứ Bẩy, 12 Tháng Tư, bên ngoài Bilohorivka, tại ngã ba của Luhansk và Donetsk ở miền đông Ukraine, đã kết thúc trong thảm họa đối với hàng loạt những chiếc xe GAZ-69 nặng 3.500 pound, bốn bánh, được đưa ra khỏi dây chuyền lắp ráp tại nhà máy Molotov ở Mạc Tư Khoa vào khoảng thời gian từ năm 1952 đến năm 1972.
Những chiếc xe tải này hoàn toàn không được bọc thép ngoại trừ lớp lồng chống máy bay điều khiển từ xa mà một số quân nhân Nga hàn một cách dã chiến vào khung xe.
Những chiếc GAZ-69 đã bị các máy bay điều khiển từ xa góc nhìn thứ nhất của nhóm máy bay điều khiển từ xa Abwehr Gruppe của Ukraine, một phần của Lữ đoàn Dù Cơ động số 81, tấn công. Các xe dân sự còn lại trong đoàn xe cỡ trung đội—có khả năng bao gồm cả những chiếc GAZ-69 khác—cũng bị tấn công.
Abwehr Gruppe đưa tin “Không ai đến, không ai tới” được các vị trí của quân đội Ukraine.
Các nhóm tấn công được bảo vệ tốt nhất của Nga phải vật lộn để vượt qua tiền tuyến rải đầy mìn, pháo binh, máy bay điều khiển từ xa đang tuần tra trên bầu trời trong cuộc chiến tranh kéo dài 38 tháng của Nga với Ukraine. Các nhóm tấn công được bảo vệ yếu ớt trên xe tải dân dụng, xe địa hình và xe máy có xu hướng gánh chịu các thảm họa tệ hơn.
Nhưng ngày càng nhiều trung đoàn Nga sử dụng xe dân sự vì số lượng xe chiến đấu chuyên dụng của Nga bị phá hủy đã vượt quá 20.000 chiếc và các nhà máy đang phải vật lộn để chế tạo xe mới đủ nhanh.
Và điều đó giúp giải thích tại sao lực lượng Nga đông đảo hơn ở miền Đông Ukraine, có thể lên tới hơn nửa triệu người, lại đang phải vật lộn để giành chiến thắng.
“Mặc dù nắm giữ lợi thế ở phần lớn tiền tuyến, chiến dịch mùa đông của Nga chỉ mang lại kết quả hạn chế - cho thấy tình hình của Ukraine không đến nỗi tồi tệ”.
Điều đó không có nghĩa là các nhóm tấn công được trang bị tốt hơn—hoặc may mắn hơn—của Nga sẽ không tiến một đoạn ngắn ở đây hay ở đó. Thật vậy, các trung đoàn Nga đã giành được một số vùng đất ở phía nam Bilohorivka trong những ngày gần đây, theo Trung tâm Chiến lược Quốc phòng Ukraine.
[Newsweek: Russia’s 70-Year-Old Assault Trucks Got Wiped Out In Eastern Ukraine]
3. Nga khởi động kế hoạch mở rộng hải quân trị giá 100 tỷ đô la
Theo nhà độc tài Vladimir Putin, Nga có kế hoạch hiện đại hóa Hải quân bằng hàng tỷ đô la tiền bổ sung sau khi đã đạt được những bước tiến đáng kể trong sứ mệnh này trong năm năm qua.
Đoạn phim được chia sẻ trên kênh Telegram chính thức của Điện Cẩm Linh vào hôm Chúa Nhật, 13 Tháng Tư, cho thấy trong cuộc họp tại St Petersburg, Putin tuyên bố rằng Nga sẽ phân bổ 8,4 ngàn tỷ rúp (khoảng 100 tỷ đô la) cho sự phát triển của Hải quân trong 10 năm tới.
Hải quân Nga đã phải chịu tổn thất đáng kể trong cuộc xung đột kéo dài ba năm ở Ukraine, với việc Kyiv tuyên bố đã phá hủy hoặc vô hiệu hóa khoảng một phần ba Hạm đội Hắc Hải của Nga cho đến giữa năm 2024. Tuy nhiên, Nga đã nỗ lực xây dựng lại và tái vũ trang cho hải quân trong những tháng gần đây. Những phát biểu gần đây của Putin cho thấy lực lượng hạt nhân sẽ là trọng tâm quan trọng trong giai đoạn phát triển tiếp theo của mình.
Trong cuộc họp tại St. Petersburg, Putin cũng xác nhận rằng Nga đã đóng 49 tàu hải quân trong năm năm qua, hãng thông tấn nhà nước TASS đưa tin. Điều này bao gồm việc đưa vào hoạt động bốn tàu ngầm hỏa tiễn hạt nhân chiến lược Dự án Borei-A và bốn tàu ngầm hạt nhân đa năng Dự án Yasen-M.
Nhà lãnh đạo Nga lấy tàu ngầm hạt nhân Perm được trang bị hỏa tiễn hành trình siêu thanh Tsirkon đã được hạ thủy vào cuối tháng 3 tại Vùng Murmansk làm ví dụ về lực lượng đang mở rộng nhanh chóng của nước này.
Ông nói thêm rằng lực lượng hạt nhân chiến lược của hải quân Nga đã được hiện đại hóa toàn diện và việc phát triển hải quân sẽ tập trung vào tất cả các thành phần của lực lượng này, bao gồm cả tàu chiến và máy bay.
Putin, theo trích dẫn của hãng thông tấn nhà nước TASS, cho biết “Tôi muốn lưu ý rằng trong thập niên tới, 8 ngàn tỷ 400 tỷ rúp đã được phân bổ cho việc đóng tàu và tàu mới của Hải quân Nga. Những khoản tiền này phải được tính đến khi định hình chương trình vũ khí nhà nước.”
Nhà độc tài Nga nói thêm: “Trong những năm gần đây, chúng tôi đã điều động chương trình hiện đại hóa Hải quân quy mô lớn. Từ Kaliningrad đến Vladivostok, các nhà máy đóng tàu của Nga đang tham gia vào việc sản xuất hàng loạt cả tàu nổi và tàu ngầm hỏa tiễn mới, bao gồm các tàu Dự án Borei-A và Dự án Yasen-M hiện đại. Các khoản tiền đáng kể đã được phân bổ cho việc này.”
Dựa trên các báo cáo và bản ghi âm cuộc họp được truyền thông nhà nước và các kênh truyền thông xã hội chia sẻ, Putin không cung cấp thông tin cụ thể về cách phân bổ tiền hoặc dự án nào sẽ được ưu tiên.
Trong khi đó, Đặc phái viên Hoa Kỳ tại Trung Đông Steve Witkoff đã đến Nga vào thứ sáu để gặp Putin. Điện Cẩm Linh đã hào hứng đăng đăng tải trên mạng xã hội một đoạn video cho thấy Steve Witkoff, đặc phái viên của Tổng thống Trump, đặt tay lên tim ngay trước khi gặp Putin vào hôm Thứ Sáu, 11 Tháng Tư.
Điện Cẩm Linh đã rất hài lòng với cử chỉ này nên đã đăng tải rộng rãi trên các mạng xã hội. Theo văn hóa Nga, đó là cử chỉ bắt buộc mà một nông nô phải làm khi gặp chủ. Cần nhớ rằng Witkoff là đặc phái viên của Hoa Kỳ, không phải là một người nô lệ; và Hoa Kỳ là một cuờng quốc, không phải là một chư hầu của Nga. Do đó, nhiều người Mỹ cho rằng cử chỉ của Witkoff là không phù hợp.
[Newsweek: Russia To Launch Massive $100 Billion Naval Expansion]
4. Lời đề nghị của Steve Witkoff với Putin gây ra phản ứng dữ dội: quá ‘Ác độc’
Một kế hoạch do đặc phái viên Hoa Kỳ Steve Witkoff đưa ra nhằm chấm dứt cuộc chiến do Putin phát động đã bật đèn xanh cho Mạc Tư Khoa xâm lược nhiều vùng đất ở Ukraine, một tổ chức bác ái nói với Newsweek.
Yuriy Boyechko, Tổng giám đốc điều hành của Hope for Ukraine, tổ chức cung cấp viện trợ cho quốc gia bị chiến tranh tàn phá này, nói với Newsweek rằng “hoàn toàn không thể chấp nhận được khi đặc phái viên hàng đầu của Hoa Kỳ chấp nhận những yêu cầu độc ác như vậy từ Nga”.
Đề xuất này sẽ trao cho Mạc Tư Khoa quyền sở hữu bốn khu vực phía đông Ukraine mà nước này tuyên bố đã sáp nhập nhưng chưa kiểm soát hoàn toàn.
Vào tháng 9 năm 2022, Putin cho biết Nga đã sáp nhập các vùng Zaporizhzhia, Kherson, Donetsk và Luhansk của Ukraine, những nơi mà nước này vẫn chưa kiểm soát hoàn toàn.
Witkoff đã bị chỉ trích vào tháng trước sau khi nói với đài truyền hình Tucker Carlson rằng các cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức ở những khu vực đó cho thấy người dân ở đó muốn trở thành một phần của Nga. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ từ lâu đã bác bỏ các cuộc bỏ phiếu là “trưng cầu dân ý giả mạo và sáp nhập”.
Một báo cáo cho biết Witkoff sẵn sàng cho phép Nga giữ lại các khu vực này nếu điều đó đồng nghĩa với việc thực hiện lời cam kết chấm dứt chiến tranh nhanh chóng của Tổng thống Trump đã làm dấy lên lo ngại rằng Hoa Kỳ sẽ vận động hành lang hay thậm chí cưỡng ép Ukraine chấp nhận các yêu cầu của Điện Cẩm Linh trong các cuộc đàm phán hòa bình đang diễn ra.
Hôm thứ sáu, phái viên Hoa Kỳ đã gặp Putin tại St. Petersburg để thảo luận về cuộc chiến ở Ukraine. Đầu tháng này, Witkoff đã chuyển đề xuất này tới Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump sau cuộc gặp với phái viên Nga Kirill Dmitriev tại Washington, Reuters đưa tin.
Witkoff lập luận rằng cách nhanh nhất để đạt được lệnh ngừng bắn là trao quyền sở hữu bốn vùng của Ukraine mà nước này tuyên bố đã sáp nhập cho Mạc Tư Khoa.
Boyechko cho biết: “Steve Witkoff về cơ bản đang nói với hơn 800.000 thường dân sống tại thành phố Zaporizhzhia, thành phố Kherson và các khu vực xung quanh do Ukraine kiểm soát rằng hãy tự bỏ chạy và buộc chính phủ Ukraine bật đèn xanh cho Nga xâm lược các thành phố và làng mạc của Ukraine này”.
Dẫn lời các quan chức Hoa Kỳ và những người hiểu rõ tình hình, Reuters đưa tin Keith Kellogg, phái viên của Tổng thống Trump về Ukraine, đã phản đối kế hoạch này vì Kyiv sẽ không bao giờ đồng ý đơn phương nhượng lại quyền sở hữu các vùng lãnh thổ, và Tổng thống Trump không thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ.
Olena Halushka, người đồng sáng lập Trung tâm Chiến thắng Quốc tế của Ukraine, đã viết trên X, rằng đề xuất này sẽ là “phần thưởng cho kẻ xâm lược vì một cuộc chiến tranh phi pháp”.
Động thái này sẽ “trao cho Putin mọi thứ hắn ta muốn, về cơ bản là trao cho hắn ta những vùng lãnh thổ của Ukraine mà hắn ta không kiểm soát”.
Witkoff đã nêu ý tưởng trao bốn vùng của Ukraine cho Nga trong cuộc phỏng vấn với Carlson vào ngày 21 tháng 3, khiến các quan chức an ninh quốc gia Hoa Kỳ sửng sốt.
[Newsweek: Steve Witkoff's Putin Offer Sparks Sharp Backlash: 'Evil']
5. Đặc phái viên của Tổng thống Trump đề xuất NATO cử ‘Lực lượng trấn an’ trên khắp Ukraine
Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết quân đội NATO từ Âu Châu có thể giúp duy trì hòa bình ở Ukraine sau lệnh ngừng bắn.
Hôm Thứ Bẩy, 12 Tháng Tư, Trung tướng đã nghỉ hưu Keith Kellogg đã đăng trên X, rằng một “lực lượng trấn an” sau lệnh ngừng bắn có thể hỗ trợ chủ quyền của Ukraine, với quân đội đồng minh - không phải từ Hoa Kỳ - sẽ tiếp quản “các khu vực chịu trách nhiệm” trong nước.
Hôm Thứ Sáu, 11 Tháng Tư, một phái viên khác của Tổng thống Trump, Steve Witkoff, đã gặp Putin tại St. Petersburg để thảo luận về việc chấm dứt chiến sự. Cùng ngày, Tòa Bạch Ốc bày tỏ sự thất vọng với Mạc Tư Khoa và Kyiv về việc thiếu tiến triển trong các cuộc đàm phán hòa bình.
Theo Reuters, đường lối của Kellogg trái ngược với Witkoff, người trước đó đã nói với Tổng thống Trump rằng việc trao quyền sở hữu bốn vùng bị tạm chiếm của Ukraine cho Nga sẽ là cách nhanh nhất để đạt được lệnh ngừng bắn. Kellogg cho biết Kyiv sẽ không bao giờ đồng ý với điều này.
Đề xuất của trung tướng đã nghỉ hưu, được nêu trong tờ báo Anh The Times, là đề xuất đầu tiên của một quan chức cao cấp Hoa Kỳ sử dụng sông Dnipro làm ranh giới phân định ở Ukraine sau chiến tranh, mặc dù Kellogg không ủng hộ việc nhượng lại cho Mạc Tư Khoa bất kỳ vùng lãnh thổ nào ở phía đông con sông.
Kellogg làm rõ những bình luận mà ông đã đưa ra với tờ The Times. Tờ báo đưa tin rằng Kellogg đã đề xuất một lực lượng do Pháp và Anh chỉ huy để giám sát phía tây sông Dnipro, nơi chia đôi Ukraine từ bắc xuống nam.
Kellogg phát biểu rằng ông không đề xuất phân chia Ukraine giống như nước Đức sau Thế chiến thứ II.
Trong một báo cáo được công bố trước đó vào thứ sáu, tờ The Times đã trích dẫn lời ông so sánh đề xuất này với những gì đã xảy ra ở Berlin sau Thế chiến II, nơi các khu vực do Nga, Pháp, Mỹ và Anh thiết lập.
Kellogg cho biết ông ủng hộ “lực lượng trấn an sau lệnh ngừng bắn để bảo vệ chủ quyền của Ukraine” và không đề xuất bất kỳ sự phân chia nào đối với Ukraine.
Theo tờ The Times, Kellogg cũng đề xuất một khu phi quân sự rộng 18 dặm ở miền đông Ukraine dọc theo tiền tuyến, với đồ họa cho thấy lực lượng Ukraine sẽ kiểm soát phần lớn phía đông của đất nước và lực lượng Nga sẽ kiểm soát lãnh thổ mà họ đã xâm lược được.
Một điểm gây tranh cãi đối với Kyiv là đề xuất của Kellogg ngụ ý rằng Nga thực tế kiểm soát vùng đất mà lực lượng của họ xâm lược. Khi nói chuyện với The Times, Kellogg thừa nhận rằng Putin có thể không chấp nhận đề xuất về các vùng kiểm soát và có thể sẽ có vi phạm lệnh ngừng bắn.
Điện Cẩm Linh phản đối việc quân đội Âu Châu giám sát lệnh ngừng bắn, nhưng theo tờ The Times, Kellogg cho biết lực lượng do Anh và Pháp chỉ huy ở miền tây Ukraine sẽ “hoàn toàn không gây khiêu khích” đối với Nga vì lực lượng này sẽ ở phía tây con sông, vốn là một trở ngại.
Sau cuộc tranh cãi tại Tòa Bạch Ốc giữa Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy vào tháng 2, Kellogg nói với tờ báo rằng mối quan hệ giữa Washington và Kyiv đã “trở lại đúng hướng” và đã có tiến triển về thỏa thuận khoáng sản với Ukraine mà Washington muốn sử dụng để trả tiền cho sự hỗ trợ của mình.
Thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt cho biết trong một cuộc họp báo: “Tổng thống Trump muốn thấy cuộc chiến này kết thúc. Ông ấy muốn chiến tranh kết thúc, và chúng tôi tin rằng chúng tôi có đòn bẩy trong việc đàm phán một thỏa thuận.”
Leavitt cho biết hôm thứ sáu rằng Tổng thống Trump “liên tục thất vọng” với cả hai bên khi các cuộc đàm phán hòa bình kéo dài nhưng tin rằng Washington có đòn bẩy trong việc đàm phán một thỏa thuận.
Cùng ngày, Tổng thống Trump cho biết Nga phải “hành động” để chấm dứt chiến tranh, và ông tiếp tục thúc đẩy lệnh ngừng bắn, mà theo Axios đưa tin có thể bao gồm việc áp đặt thêm lệnh trừng phạt đối với Mạc Tư Khoa nếu không đạt được thỏa thuận vào cuối tháng 4.
[Newsweek: Trump Envoy Proposes NATO 'Resiliency Force' Across Ukraine]
6. Đừng đến, ở đây chẳng có gì tốt đẹp cả’ — Binh lính Trung Quốc cảnh báo không nên nghe theo tuyên truyền của Nga để chiến đấu ở Ukraine
Quân đội Ukraine gần đây đã bắt giữ hai binh sĩ Trung Quốc chiến đấu cho Nga. Sau đó, Kyiv đã công bố dữ liệu về tổng cộng 163 công dân Trung Quốc được tình báo Ukraine xác định là chiến đấu cho Mạc Tư Khoa.
“Chúng tôi đang thu thập thông tin, chúng tôi tin rằng vẫn còn nhiều thông tin khác nữa”, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết như trên hôm Thứ Sáu, 11 Tháng Tư.
Tổng thống cũng cáo buộc chính quyền Trung Quốc hỗ trợ hoặc ít nhất là không cản trở việc tuyển dụng công dân nước này để chiến đấu chống lại Ukraine.
“Bắc Kinh biết về điều này. Người Nga phát tán video quảng cáo về tuyển dụng thông qua các mạng xã hội Trung Quốc,” Tổng thống Zelenskiy nói.
Nga đã tuyển dụng các chiến binh quốc tế kể từ khi bắt đầu chiến tranh, cũng như Ukraine. Nhưng sự phổ biến của lính đánh thuê Trung Quốc chiến đấu cho Nga đã gợi ra sự so sánh với lính Bắc Hàn, những người đã đến hàng loạt để hỗ trợ Nga giành lại Kursk, với sự chấp thuận của Bình Nhưỡng.
Theo các tài liệu mà tờ Kyiv Independent đã xem xét, những chiến binh Trung Quốc đầu tiên được tình báo Ukraine xác định đã đến Nga vào mùa hè năm 2023.
Một bài đăng trên Đấu Âm hay Douyin, là phiên bản TikTok địa phương của Trung Quốc, có từ tháng 7 năm 2022, cho thấy một tân binh được tường trình đang háo hức chuẩn bị được đón từ phi trường Bắc Kinh vào ngày 1 tháng 9 năm đó. “Mức lương hàng ngày của bạn sẽ là 30.000 rúp Nga. Chào mừng đến với Nga!”, “tân binh” mới tuyên bố, trích dẫn một con số cao ngất ngưởng là 350 đô la một ngày.
Các video trong năm nay cho thấy quảng cáo mời những người đàn ông Trung Quốc đến chiến đấu cho Nga. Các video khác cho thấy những người tuyển dụng Trung Quốc được cho là khuyến khích mọi người tham gia Quân đội Nga để đổi lấy mức lương cao.
Một trong những video như vậy hứa hẹn 2,3 triệu rúp, hay 27.000 đô la, tiền thưởng khi ghi danh và 5,2 triệu rúp, hay 62.000 đô la, mỗi năm cho những người sẵn sàng chiến đấu.
Các video khác tuyên truyền trên mạng xã hội cho những người Trung Quốc có tiềm năng trở thành con mồi là bản dịch đơn giản của quảng cáo tiếng Nga, với những khẩu hiệu như: “Bạn là một người đàn ông. Hãy là một người đàn ông.”
Câu chuyện của những người lính Trung Quốc đã đến những nơi tồi tệ nhất trên tuyến phòng thủ của Nga lại đưa ra một thông điệp hoàn toàn khác.
“Đừng đến. Không có gì tốt đẹp ở đây để đến cả”, Triệu Nhiêu của Trùng Khánh nói, theo phương tiện truyền thông địa phương. Đến tháng 12, Triệu Nhiêu đã trở thành người lính Trung Quốc đầu tiên tử nạn, được cho là đã bị một máy bay điều khiển từ xa của Ukraine tấn công.
Trong một bộ phim tài liệu phát hành vào tháng 3, một lính tấn công Trung Quốc được xác định là “Macron” đã chia sẻ kinh nghiệm của mình với nhà báo Chai Jing.
“Tôi nhận ra rằng một ngày nào đó tôi có thể chết ở đây, vì vậy tôi quyết định chia sẻ một số trải nghiệm thực tế”, Macron nói, xác định vị trí của mình là gần Bakhmut. “Vì người Trung Quốc đã không tham gia chiến tranh trong một thời gian dài, nên tôi muốn cho mọi người thấy những gì một người lính thường xuyên, đặc biệt là một người lính nước ngoài, thực sự trải qua trong chiến tranh”.
Trong số những bất bình có nạn phân biệt chủng tộc lan tràn trong các sư đoàn Nga đối với tân binh không phải da trắng.
Macron cho biết: “Đã có sự phân biệt chủng tộc nghiêm trọng kể từ trại huấn luyện, phân biệt đối xử với người da đen, người Ả Rập và người Trung Quốc”.
Sự phân biệt chủng tộc đó được phản ánh trong lời kể của nhiều binh lính Trung Quốc bị lừa đi vào những phần nguy hiểm nhất của tuyến đường. Cùng với nhiều lính đánh thuê nước ngoài khác, những người lính Trung Quốc chiến đấu cho Nga đã thấy mình ở đầu các nhóm tấn công cực kỳ nguy hiểm.
“Nga không muốn gửi quân đội Slavơ thường trực của mình ra tiền tuyến nên họ chi tiền để tuyển lính đánh thuê cho các cuộc tấn công ở tiền tuyến, nơi mà cơ hội sống sót là cực kỳ thấp.”
Các blogger quân sự Nga đã quảng bá nỗ lực của một người, biệt danh “Lý,” để học tiếng Nga vào đầu năm 2024, ngay sau khi anh ta gia nhập lữ đoàn quốc tế — Pyatnashka. Pyatnashka sẽ là một trong những đơn vị đầu tiên được cử đi chống lại cuộc xâm lược của Ukraine ở Kursk.
Nhiều tân binh Trung Quốc khác đã thấy mình trong các đơn vị “Storm-Z”. Nhóm lính đánh thuê Wagner do nhà nước tài trợ ban đầu đã tuyển dụng những đơn vị này từ các nhà tù Nga, sử dụng chúng để duy trì một số tỷ lệ thương vong cao nhất trong cuộc chiến trong khi giảm thiểu sự phản đối chính trị từ công chúng Nga.
Các báo cáo từ tháng 8 cho thấy hai tân binh người Trung Quốc tham gia đơn vị Storm-Z đã tử nạn trong nhiệm vụ đầu tiên của họ.
Những báo cáo đó đưa ra số tiền mà Nga nợ gia đình những người lính Trung Quốc tử trận là 400.000 nhân dân tệ, hay chỉ hơn 50.000 đô la. Tuy nhiên, những khoản thanh toán đó thường xuyên bị chậm trễ.
Hơn nữa, quân đội Nga dường như đã từ chối thả nhiều binh lính Trung Quốc sau khi hợp đồng đã ký kết kết thúc.
“Chúng tôi sẽ chấm dứt hợp đồng của anh chỉ sau khi giành chiến thắng trong cuộc chiến”, một chiến binh Trung Quốc đã trích dẫn lời chỉ huy của mình từ chối cho anh xuất ngũ khi nói chuyện với blogger Lei's Real World vào tháng 7.
“Hai người của ta đào ngũ. Bọn Nga đang nỗ lực hết sức để bắt bọn họ. Nếu bị bắt, bọn họ chắc chắn sẽ không sống được. Cho nên ta chỉ có thể chúc hai anh chàng đào ngũ kia may mắn.”
[Kyiv Independent: 'Don't come, there's nothing good here' — Chinese soldiers warn against following Russian propaganda to fight in Ukraine]
7. Reuters: Các sĩ quan quân đội Trung Quốc đã có mặt sau phòng tuyến của Nga với sự chấp thuận của Bắc Kinh
Theo hai quan chức Hoa Kỳ nắm rõ các báo cáo tình báo và một cựu quan chức tình báo phương Tây, Reuters đưa tin vào ngày 11 tháng 4, hơn 100 công dân Trung Quốc chiến đấu cùng lực lượng Nga ở Ukraine đang hoạt động như lính đánh thuê và dường như không có mối quan hệ trực tiếp nào với Bắc Kinh.
Các quan chức Hoa Kỳ, phát biểu ẩn danh, mô tả các chiến binh này được huấn luyện kém và có ít tác động trên chiến trường. Họ không tin rằng chính phủ Trung Quốc đã chính thức điều động họ.
Tuy nhiên, cựu quan chức tình báo này nói với Reuters rằng các sĩ quan quân đội Trung Quốc đã có mặt sau phòng tuyến của Nga với sự chấp thuận của Bắc Kinh để quan sát và rút ra bài học chiến thuật từ cuộc chiến.
Vào ngày 11 tháng 4, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết ít nhất “vài trăm” công dân Trung Quốc đang chiến đấu cho phe Nga ở Ukraine. Hai chiến binh Trung Quốc đã bị lực lượng Ukraine bắt giữ tại Donetsk.
Theo các nguồn tin quân sự Ukraine được tờ Pravda của Ukraine trích dẫn, một người lính bị bắt đã trả 300.000 rúp (khoảng 3.500 đô la) cho một người trung gian ở Trung Quốc để đổi lấy lời hứa cấp quốc tịch Nga.
Bắc Kinh phủ nhận sự liên quan trực tiếp đến cuộc chiến và cho biết họ đã kêu gọi người dân tránh xa các cuộc xung đột vũ trang.
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố trung lập, nhưng nước này vẫn là nhà cung cấp hàng đầu của Nga về các thành phần sử dụng kép quan trọng cho sản xuất vũ khí và là đồng minh kinh tế chủ chốt. Nga cũng đã tuyển dụng các chiến binh nước ngoài từ các quốc gia bao gồm Ấn Độ, Nepal và Syria. Ngoài ra, khoảng 12.000 quân Bắc Hàn được cho là đã được Bình Nhưỡng điều động để hỗ trợ Nga bảo vệ lãnh thổ của mình tại Kursk.
[Kyiv Independent: Reuters: Chinese military officers have been present behind Russian lines with Beijing’s approval]
8. 4 người bị thương trong vụ tấn công bằng bom lượn của Nga ở Kupiansk
Lực lượng Nga đã tấn công một ngôi nhà riêng ở Kupiansk, tỉnh Kharkiv, bằng một quả bom lượn vào ngày 12 tháng 4, làm bốn thường dân bị thương và có khả năng khiến nhiều người khác bị kẹt dưới đống đổ nát.
Thống đốc tỉnh Kharkiv Oleh Syniehubov báo cáo rằng vụ tấn công xảy ra vào khoảng 6:20 chiều giờ địa phương trong lúc thành phố đang bị pháo kích dữ dội.
Theo tuyên bố của Thống đốc Syniehubov, những người dân thường bị thương bao gồm một phụ nữ 25 tuổi, một người đàn ông 26 tuổi và hai phụ nữ 52 và 73 tuổi.
Các báo cáo sơ bộ cho biết có ít nhất ba người nữa có thể vẫn còn mắc kẹt dưới đống đổ nát.
Tỉnh Kharkiv ở đông bắc Ukraine thường xuyên là mục tiêu của các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn, máy bay điều khiển từ xa và bom lượn của Nga.
Kupiansk chỉ cách tiền tuyến hiện tại 2 km, hay 1,5 dặm. Được chia cắt bởi Sông Oskil, Kupiansk nằm ở ngã ba quan trọng giữa Tỉnh Luhansk bị Nga tạm chiếm và Tỉnh Kharkiv liền kề.
[Kyiv Independent: 4 people injured in Russian glide bomb attack on Kupiansk]
9. ‘Putin là kẻ xấu xa hoàn toàn’ - cố vấn tinh thần của Tổng thống Trump nói về cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine
Khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tạm dừng viện trợ quân sự cho Ukraine vào tháng trước, người được mô tả là “cố vấn tinh thần” của ông, Mục sư Mark Burns, đã ủng hộ quyết định này.
Tuần này, mục sư Burns lại đang thúc giục Tổng thống Trump gửi thêm xe tăng, chiến binh và phòng không cho Kyiv.
“Tôi hiện tin rằng việc ủng hộ Ukraine là đặt nước Mỹ lên hàng đầu”, ông nói với tờ Kyiv Independent trong một cuộc phỏng vấn được công bố hôm Thứ Sáu, 11 Tháng Tư.
Sự thay đổi lập trường mạnh mẽ của Burns diễn ra sau chuyến đi tới Ukraine, nơi ông chứng kiến tận mắt những hành động tàn bạo do Nga gây ra, đến thăm địa điểm xảy ra vụ tấn công bằng hỏa tiễn ở Kryvyi Rih khiến 20 người thiệt mạng, trong đó có chín trẻ em.
Tờ Kyiv Independent đã trao đổi với mục sư Burns để tìm hiểu thêm về chuyến thăm của ông và lý do tại sao hiện nay ông lại kêu gọi mọi người “bỏ chính trị ra ngoài cửa sổ” và ủng hộ Ukraine.
Tờ Kyiv Independent: Ông có thể mô tả điều gì khiến ông thay đổi lập trường về Ukraine không?
Mục sư Mark Burns: Rõ ràng là việc có mặt tại Ukraine đã thay đổi quan điểm của tôi đáng kể. Tôi được ghi nhận là một trong những người phản đối mạnh mẽ việc ủng hộ Ukraine.
Nhưng phải đến khi tôi ở Kyiv, ở Bucha, chứng kiến những hành động tàn bạo đã diễn ra, những sinh mạng vô tội bị giết hại, hành quyết, và biết rằng gần 700 tổ chức tôn giáo đã bị người Nga cố tình nhắm tới, và 20.000 trẻ em đã bị bắt cóc và trục xuất về Nga, chưa kể 1,3 triệu trẻ em mất tích.
Khi chứng kiến tại chỗ và nghe về những hành động tàn bạo này… Nó đã thay đổi quan điểm của tôi đáng kể. Bây giờ tôi tin rằng ủng hộ Ukraine là vì nước Mỹ trước tiên.
Tôi vẫn là người ủng hộ trung thành cho người mà tôi tin là vị tổng thống vĩ đại nhất trong cuộc đời tôi — Tổng thống Trump.
Và vì vậy, sự ủng hộ của tôi dành cho Ukraine không phải là một nhát dao vào ông ấy, mà là lời kêu gọi tới mọi đảng viên Cộng hòa, mọi đảng viên bảo thủ, mọi người dân Mỹ và những người trên khắp thế giới, những người giống như tôi, đã bị tẩy não bởi phương tiện truyền thông đưa tin giả về Ukraine.
Ví dụ, tin tức giả mạo cho rằng Ukraine ghét các nhà thờ, Ukraine ghét các công việc mục vụ, rằng họ cố tình phá hủy các chương trình mục vụ.
Vâng, đó là một lời nói dối trắng trợn, bởi vì tôi đã từng ở giữa một số nhà lãnh đạo tinh thần vĩ đại nhất của Ukraine từ nhiều giáo phái, tổ chức tôn giáo khác nhau, trong một căn phòng ở Kyiv, và tất cả họ đều có cùng một điểm chung — họ có quyền thực hành đức tin của mình ở Ukraine.
Khi tôi ở đó, và bạn đang nói chuyện với những người này, và một khi bạn chứng kiến những hành động tàn bạo do người Nga gây ra, thì chính trị không còn quan trọng nữa.
Chỉ vài ngày trước, chín trẻ em đã thiệt mạng, thêm nhiều sinh mạng vô tội nữa bị cướp đi dưới tay người Nga.
Trái tim tôi như một người của Chúa bắt đầu tuôn trào, và tôi đã lặp lại thông điệp đó kể từ đó, rằng tôi đã sai. Và sức mạnh của thập tự giá dạy tôi thừa nhận khi bạn sai, có một trái tim khiêm nhường, và nói rằng 'Tôi đã sai.'
Không ai trả tiền để tôi đến Ukraine. Tôi tự trả tiền vé để đến Ukraine. Không ai đưa tôi đến đó với hy vọng rằng tôi sẽ truyền đạt thông điệp của họ.
“Nga sợ Tổng thống Trump, và họ nên như vậy, vì tôi biết ông ấy rất sâu sắc, rất cá nhân, và ông ấy là người có niềm tin thực sự.”
Đây chỉ đơn giản là con người đang bị hủy diệt dưới bàn tay của người Nga, và đó là lý do tại sao trái tim tôi giờ đây trở thành người ủng hộ trung thành cho việc hỗ trợ Ukraine.
Tôi hiện đang lặp lại thông điệp này ở cấp chính quyền cao nhất tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới — rằng chúng ta cần ủng hộ Ukraine. Nga là kẻ xâm lược.
Và tôi rất tự hào khi Tổng thống Trump đã nói rõ rằng ông ấy đang tức giận.
Đó là những từ mà ông ấy đã sử dụng. Bực tức với Vladimir Putin. Ông ấy tức giận với Vladimir Putin, và rằng ông ấy cần phải đến bàn đàm phán ngay lập tức, nếu không ông ấy sẽ áp dụng thuế quan thứ cấp đối với dầu của Nga, và truy đuổi các quốc gia đang ủng hộ hoặc mua dầu của Nga.
Và điều đó cho thấy tổng thống quyết tâm chấm dứt cuộc chiến này như thế nào.
Nếu Nga không đến bàn đàm phán hòa bình thì Tổng thống Trump không phải là người mà bạn có thể đùa giỡn.
Nga sợ Tổng thống Trump, và họ nên như vậy, vì tôi biết ông ấy rất sâu sắc, rất cá nhân, và ông ấy là người có niềm tin thực sự.
Tờ Kyiv Independent: Mục sư đã ở Kryvyi Rih, nơi xảy ra vụ tấn công bằng hỏa tiễn tuần trước, khiến 20 người thiệt mạng, trong đó có chín trẻ em. Vụ tấn công đó xảy ra sau khi Tổng thống Trump bắt đầu các cuộc đàm phán và đàm phán hòa bình. Ông có nghĩ rằng Tổng thống Trump đã làm đủ nếu Nga vẫn thực hiện các cuộc tấn công như vậy không?
Mục sư Mark Burns: Tôi nghĩ rằng Vladimir Putin đã đến giới hạn. Tôi nghĩ rằng ông ta đã thử thách sự kiên nhẫn của Tổng thống Trump, và ông ta đã đến giới hạn.
Tôi sẽ để các cuộc đàm phán cho những người chuyên nghiệp, những người được Tổng thống Trump bổ nhiệm.
Tờ Kyiv Independent: Cuối cùng, tất cả các hành động bạo lực chống lại dân thường, nhà thờ và mọi thứ khác ở Ukraine trong hơn ba năm qua đều do một người đàn ông ra lệnh, Vladimir Putin. Mục sư mô tả một người có khả năng làm điều đó như thế nào?
Mục sư Mark Burns: Ác độc, ác độc thực sự.
Là cựu thành viên của Lực lượng Vệ binh Quốc gia Nam Carolina của Hoa Kỳ và từng là lính bộ binh được huấn luyện, tôi hiểu việc tấn công các vị trí chiến lược quân sự có tiền đồn quân sự.
Nhưng tấn công dân thường, người già, phụ nữ, trẻ em, bệnh viện, trường học, điều này không phải là lợi ích của quân đội. Đó chỉ là điều xấu xa thuần túy. Và đó là những gì Vladimir Putin đã làm.
Và đó chính là điều hắn ta vẫn đang tiếp tục làm.
Ukraine là một quốc gia có chủ quyền, và họ đã bị tấn công một cách tàn nhẫn và không ngừng nghỉ bởi một kẻ xâm lược mang tên Nga, do một người đàn ông, nhà độc tài Vladimir Putin đứng đầu.
Điều đó là xấu xa. Và nó không bao giờ được phép xảy ra.
Tờ Kyiv Independent: Trước đó, ông cũng đã nói về chiến dịch của Nga chống lại các tổ chức và nhóm tôn giáo ở Ukraine, bao gồm cả những người theo đạo Tin lành. Tuy nhiên, vẫn có những người ở Hoa Kỳ tự nhận là người theo đạo Tin lành, nhưng họ lại ủng hộ Putin. Ông giải thích điều đó như thế nào?
Mục sư Mark Burns: Tôi đã đăng trên mạng xã hội vào giữa đêm tại một khách sạn ở Kyiv. Tôi đang nằm trên giường và Chúa Thánh Linh bắt đầu tải xuống cho tôi những điều cần nói trong các bài đăng của tôi.
Có một đoạn video do một trong những nhân viên của tôi đăng tải, trong đó có cảnh kỷ niệm ba năm Ngày Giải phóng ở Bucha.
Và một người ủng hộ rất mạnh mẽ của Tổng thống Trump đã đưa ra bình luận này. Và họ nói, 'Thật đáng buồn, Mục sư, khi điều này xảy ra ở Ukraine. Nhưng không còn tiền cho Ukraine nữa. Tôi xin lỗi. Không còn tiền cho Ukraine nữa.'
Và tôi đã trả lời người đó rằng 'bạn sẽ không nói như vậy nếu bạn ở đây trên thực tế'.
Khi bạn đến Ukraine, chứng kiến cảnh tàn phá, chứng kiến những giọt nước mắt và chứng kiến những người lính trên chiến trường, họ không muốn tiền từ nước Mỹ - họ muốn đạn dược.
Họ cần những công cụ để bảo vệ quê hương của mình. Họ đã bị tạm chiếm.
Không khác gì người Anh xâm lược nước Mỹ và đảng Bảo thủ và những người trung thành — những công dân đó cầm vũ khí, họ không phải là những người lính được huấn luyện. Họ chỉ là những người nông dân và thợ rèn bình thường, và họ cầm vũ khí để bảo vệ lãnh thổ của mình.
Đó chính xác là những gì Ukraine đang làm.
Khi bạn nhìn thấy điều này, bạn có thể nghe thấy niềm đam mê trong trái tim tôi. Điều này có thể giết chết tôi về mặt chính trị, nhưng tôi không quan tâm. Tôi không quan tâm. Vấn đề không phải là điều gì phổ biến, mà là điều gì đúng đắn.
Tôi có thể nói với bạn rằng tinh thần của Ukraine không hề bị phá vỡ. Nó vẫn còn rất sống động và rất sẵn sàng bảo vệ quê hương của mình. Nhưng quan trọng hơn cả đạn dược, họ muốn hòa bình.
Đó là lý do tại sao tôi dành thời gian để nói chuyện với bất kỳ ai và tất cả mọi người muốn nói chuyện với tôi để thông điệp mà Chúa đã chỉ cho tôi về Ukraine đã lay động trái tim tôi, để tôi có thể lay động trái tim của người khác và rằng thế giới sẽ ủng hộ Ukraine, giống như cách thế giới đã ủng hộ Nam Phi vào thời Nelson Mandela.
Nước mắt tôi rơi cho những người đã mất, đang chết và vẫn đang bị giết. Và hãy tin tôi khi tôi nói với bạn rằng giọng nói của tôi đang hét lên từ đỉnh núi đến bất kỳ ai muốn lắng nghe.
Chúng ta cần chấm dứt cuộc xung đột này ở Ukraine ngay lập tức.
[Kyiv Independent: 'Putin is pure evil' — Trump's spiritual advisor on Russia's war against Ukraine]
1. 'Không có bàn tay, nhưng đức tin rất lớn': Giám đốc Hội Giáo Hoàng Truyền giáo Hoa Kỳ nhỏ lệ khi đến với những người phong cùi ở Việt Nam
Hiện đang giữ chức giám đốc của Hội Giáo Hoàng Truyền giáo Hoa Kỳ, Đức Ông Roger Landry đã đi khắp thế giới để mang Chúa Kitô đến những vùng đất xa xôi trên Trái Đất.
Chuyến đi mới nhất của ngài đưa ngài đến Việt Nam, nơi ngài đến thăm những người Công Giáo mắc bệnh phong. Làm chứng về những gì ngài thấy sau khi cử hành Thánh lễ trong một nhà thờ đông đúc tuyệt đẹp, Đức Ông Landry nói:
“Chúng tôi có đặc ân lớn lao khi mang Chúa Giêsu đến với những người phong cùi trong trại này, những người không thể tham dự Thánh lễ. Người phong cùi đầu tiên mà chúng tôi đến thăm, với cơn đói khủng khiếp, ngước mắt lên nhìn Chúa qua đôi mắt đẫm lệ và đón nhận Chúa trên lưỡi của mình vì anh ta không còn tay nữa. Đôi tay của anh ta đã được trao lại cho Chúa. Và anh ta đã đón nhận với đức tin lớn lao”.
Đức Ông Landry đã chia sẻ một cuộc gặp gỡ khác của ngài tại trại phong ở Kon Tum, “khi mang Mình Thánh Chúa đến cho một người phụ nữ tại nhà bà ấy”.
“Bà ấy quá phấn khích khi được đón Chúa Giêsu, bà bò dọc hành lang bằng cả bốn chân; mặc dù không còn tay, bà đã bước đến tấm thảm đã được trải sẵn để chào đón Chúa Giêsu,” Đức Ông Landry nói trong khi nước mắt trào ra.
“Và sau đó tiếp đón Người bằng tình yêu thương lớn lao.”
Vị linh mục, người thường xuyên đóng góp bài viết cho tờ Register, kết thúc bằng cách nhắc nhở tất cả chúng ta:
“Đây là đức tin Công Giáo của chúng ta. Đây là điều mà Hội Giáo Hoàng Truyền giáo Hoa Kỳ cố gắng thực hiện: đó là mang Chúa Giêsu, Ánh sáng của Thế giới, đến với mọi người bất kể họ đang đau khổ như thế nào. Bởi vì ngay cả khi chúng ta bước đi trong thung lũng tối tăm, chúng ta không sợ điều ác, vì Chúa Giêsu luôn ở cùng chúng ta.”
Trại dành cho người phong cũng được Hội bác ái St. Joseph Mission Charity của Hoa Kỳ hỗ trợ.
Một món quà quan trọng khác mà Hội Giáo Hoàng Truyền giáo Hoa Kỳ có thể trao tặng cho những người mắc căn bệnh này là giày dép. Trong một bài đăng trên mạng xã hội, Đức Ông Landry đã giải thích lý do tại sao điều này lại quan trọng như vậy, ngài viết:
“Dép là vật dụng thiết yếu để giữ cho chân họ không bị chảy máu, vì bệnh phong có thể lây truyền qua chất dịch. Mỗi đôi dép được may riêng cho từng người bệnh phong có kích thước bàn chân khác nhau.”
Nhóm cũng gặp gỡ những trẻ em không có gia đình chăm sóc. Như Đức Cha Landry giải thích:
“Chúng tôi cũng gặp những trẻ mồ côi của trại phong cùi. Các nữ tu chăm sóc những người phong cùi, trẻ mồ côi và những người thuộc các bộ tộc thường không được chấp nhận bởi nền văn hóa Việt Nam rộng lớn hơn, và đã đến thăm đền thờ Đức Mẹ nổi tiếng ở Măng Đen, với bức tượng Đức Mẹ với đôi bàn tay cụt, người mà những người phong cùi có lòng sùng kính lớn lao.”
Nhiều người bị mất chân tay hoặc bị khuyết tật cầu nguyện xin Đức Mẹ chuyển cầu dưới danh hiệu đặc biệt này.
Đức Ông Landry hiện đang đi đến Thái Lan và các nước Á Châu khác. Xin hãy cầu nguyện cho ngài và công việc quan trọng của Hội Giáo Hoàng Truyền giáo!
Đức Mẹ Măng Đen, cầu cho chúng con!
Source:National Catholic Register
2. 40 Bài Tĩnh Tâm Mùa Chay - Thứ Hai Tuần Thánh Ngày 14-04
Is 42:1-7
Tv 26(27):1-3, 13-14
Ga 12:1-11
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến Bêtania, đến nhà anh Ladarô, là người mà Người đã cho sống lại từ cõi chết. (Ga 12:1)
Một ngày nọ trong lớp, tôi và học sinh đang thảo luận về chương 11 của Phúc âm thánh Gioan.
Trong khi chúng tôi xem lại nhật ký Kinh Thánh của họ, hai cô gái tiết lộ rằng cả hai đều từng sở hữu cá vàng, dựa trên ngôn ngữ cơ thể uể oải của chúng, có vẻ như chúng không còn sống được bao lâu nữa. Trong cả hai trường hợp, hai con cá này bất ngờ đã “sống lại” và sống để bơi thêm nhiều ngày nữa.
Mặc dù bị chia cắt bởi không gian, thời gian và chủ sở hữu, mỗi con cá đều có cho mình một cái tên mới: Lagiarô.
Thật thích hợp khi sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu dùng bữa tối với chính người đã nếm trải cái chết và sau đó hít thở lại hương vị ngọt ngào của sự sống sau bốn ngày đen tối. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu cho thấy rằng cái chết giờ đây đã có quyền lực đối với Ngài. Bữa tối của Chúa Kitô với Lagiarô xảy ra chỉ một chương sau khi ông được Chúa Giêsu cho sống lại.
Vì Tội Tổ Tông, cái chết gọi tất cả chúng ta. Một số người đấu tranh để chấp nhận điều đó - giống như các tông đồ của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, Maria đã sẵn sàng. Để chuẩn bị cho cuộc thương khó của Chúa Giêsu, bà xức dầu thơm và cam tùng đắt tiền vào chân Người. Kẻ phản bội sắp xảy ra, Giuđa, phản đối lòng bác ái này một cách giả tạo, nhưng Chúa Kitô đã trừng phạt hắn. Ngài biết cái chết của mình sắp đến. Ngài đã chuẩn bị.
Mỗi khoảnh khắc chúng ta trải qua đều đưa chúng ta đến gần hơn với cái chết. Tuy nhiên, thay vì nhấn chìm chúng ta trong tuyệt vọng, suy nghĩ đó nên mang lại cho chúng ta hy vọng. Giống như Lagiarô, tất cả chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên, chính cái chết của Chúa Kitô, mà Maria báo trước với hương thơm của hy vọng, mở ra cánh cửa để chúng ta sống lại với Người. Khi Thứ Sáu Tuần Thánh đang đến gần trong vài ngày nữa, chúng ta hãy sử dụng phần còn lại của Mùa Chay không phải để sợ cái chết, mà để đến gần hơn với Đấng đã chiến thắng nó.
Lạy Chúa, trong Tuần Thánh này, xin gia tăng đức tin của chúng con vào sự sống, sự chết và sự phục sinh của Chúa. Amen.
3. Phải chăng tính đồng nghị chống lại thể thức cai quản thông qua các Giám Mục?
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Synodality Against Episcopacy?”, nghĩa là “Phải chăng tính đồng nghị chống lại thể thức cai quản thông qua các Giám Mục?”, trong đó ông phàn nàn rằng một số giáo lý quan trọng của Giáo hội đã bị đặt vấn đề, thậm chí bị phản bác bởi nhiều khía cạnh khác nhau của dự án đồng nghị.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.
Sau khi xác định tính bất khả ngộ của giáo huấn do các Đức Giáo Hoàng đưa ra về đức tin và luân lý, trong những giới hạn nghiêm ngặt, Công đồng Vatican I dự định giải quyết một vấn đề song song liên quan đến thẩm quyền của các giám mục trong Giáo hội. Nhưng Chiến tranh Pháp-Phổ đã làm gián đoạn Công đồng Vatican I vào năm 1870; công đồng không bao giờ được triệu tập lại, và Công đồng Vatican II được giao nhiệm vụ hoàn thiện bức tranh về việc ai thực thi thẩm quyền và thực thi như thế nào trong Giáo hội.
Công đồng Vatican II đã làm điều này trong hai văn kiện: Hiến chế tín lý về Giáo hội và Sắc lệnh về Chức vụ mục vụ của các Giám mục trong Giáo hội. Các văn bản này dạy rằng các giám mục của Giáo hội là những người thừa kế các tông đồ được Chúa Kitô bổ nhiệm; rằng các giám mục tạo thành một “cộng đoàn” kế nhiệm “cộng đoàn” các tông đồ trong Tông đồ Công vụ 15; và rằng “cộng đoàn” này, với và dưới sự lãnh đạo của giám mục Rôma, có “quyền lực tối cao và toàn diện đối với Giáo hội hoàn vũ”.
Có một sự mất cân bằng trong mối quan hệ giữa Đức Giáo Hoàng và các giám mục đã len lỏi vào thần học và thực hành Công Giáo kể từ Công đồng Vatican I. Công đồng Vatican II đã sửa chữa sự mất cân bằng ấy bằng cách dạy rằng các giám mục là những đại diện thực sự của Chúa Kitô tại các Giáo Hội địa phương của các ngài, chứ không chỉ là những người quản lý chi nhánh của Tập Đoàn Giáo Hội Công Giáo, thực hiện các chỉ thị từ Ban Giám Đốc tại Rôma. Và đúng là phải như thế, vì việc tấn phong giám mục trao cho một giám mục ba sứ vụ là giáo huấn, thánh hóa và cai quản. Việc thực hiện đúng thẩm quyền cai quản của vị giám mục phụ thuộc vào sự hiệp thông của giám mục địa phương với giám mục Rôma. Bản thân thẩm quyền là một thực tại bí tích được trao ban thông qua việc tiếp nhận các Chức thánh ở cấp độ cao nhất.
Những giáo lý quan trọng này hiện đang bị đặt vấn đề, thậm chí bị phản bác bởi nhiều khía cạnh khác nhau của dự án đồng nghị tuy vẫn còn mơ hồ nhưng lại khá đa dạng.
Vào ngày 15 tháng 9 năm 1965, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã thành lập một Thượng hội đồng giám mục, thỉnh thoảng họp để hỗ trợ Đức Giáo Hoàng trong việc cai quản Giáo hội hoàn vũ. Cơ quan mới này là một Thượng hội đồng giám mục; đó không phải là một quốc hội mà trong đó các trạng thái sống khác nhau trong Giáo hội (giáo sĩ, tu sĩ tận hiến, giáo dân) có vai trò tương đương. Do đó, Thượng hội đồng của Đức Giáo Hoàng Phaolô là một biểu hiện của giáo huấn của Công đồng Vatican II về chức giám mục như một “cộng đoàn” cai quản Giáo hội trong sự hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng.
Điều đó đã thay đổi đáng kể vào tháng 10 năm 2023 và tháng 10 năm 2024, khi “Thượng Hội đồng Giám mục” được gọi là “Thượng Hội đồng”: đó là một cơ quan bao gồm các giám mục, tu sĩ tận hiến, linh mục và giáo dân, tất cả đều có tiếng nói và quyền biểu quyết. Thành viên của cơ quan sáng tạo này được xây dựng một cách có chủ đích để đưa đủ số lượng tiếng nói có quan điểm “đúng đắn” vào Hội trường Thượng Hội đồng, và hoạt động của nó được kiểm soát cẩn thận (một số người sẽ nói là bị thao túng) thông qua quá trình được gọi là “Các cuộc hội thoại trong Thánh Linh”.
Bây giờ, Đức Hồng Y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng hội đồng, đã thông báo cho các giám mục thế giới rằng một tiến trình công đồng mới kéo dài ba năm, đạt đến đỉnh cao là một “đại hội giáo hội” năm 2028, sẽ đánh giá việc thực hiện Thượng hội đồng 2023 và Thượng hội đồng 2024. Trong “đại hội giáo hội” này—một thuật ngữ chưa từng có trong truyền thống Công Giáo—các giám mục sẽ chỉ là một thành phần, và để chuẩn bị cho đại hội, các giám mục sẽ “đồng hành” với giáo dân của mình, nghĩa là, không phải dẫn dắt họ. Do đó, giáo huấn của Công đồng Vatican II về thẩm quyền của các giám mục với tư cách là cơ quan quản trị của Giáo hội, với và dưới quyền của Đức Giáo Hoàng, tiếp tục bị suy yếu nghiêm trọng.
Sau đó là tông hiến Praedicate Evangelium năm 2022, tái cấu trúc Giáo triều Rôma. Theo văn bản đó, nền tảng của thẩm quyền cai quản trong các bộ phận của giáo triều (các bộ) là sự bổ nhiệm của Đức Giáo Hoàng vào một chức vụ, chấm hết, chứ không phải thẩm quyền cai quản được trao ban một cách bí tích bởi các Chức Thánh. Khi các Hồng Y của Giáo hội họp vào tháng 8 năm 2022 để thảo luận về các cấu trúc giáo triều mới, Đức Hồng Y George Pell đã hỏi Đức Hồng Y Gianfranco Ghirlanda, Dòng Tên, một người có ảnh hưởng lớn đến Praedicate Evangelium, “Phải chăng điều này có nghĩa là một nữ tu hoặc một giáo dân có thể là Tổng trưởng Bộ Giám mục?” Đức Hồng Y Ghirlanda vui vẻ trả lời, “Ồ, điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.” Đức Hồng Y Pell đã đáp lại một cách chính xác, “Thưa Đức Hồng Y câu hỏi không phải là liệu điều đó có xảy ra hay không; câu hỏi là liệu điều đó có thể xảy ra hay không.”
Trong cuộc trao đổi đó, Đức Hồng Y Pell là tiếng nói đích thực của Công đồng Vatican II. Đức Hồng Y Ghirlanda, về phần mình, là tiếng nói của chế độ chuyên quyền Giáo Hoàng tuyệt đối, một sự bóp méo đặc trưng của giáo hội học trong một số tư tưởng Công Giáo giữa Công đồng Vatican I và Công đồng Vatican II. Công đồng Vatican II đã kiên quyết bác bỏ chế độ Sa hoàng Công Giáo, tạo ra sự điều chỉnh trong sự tự hiểu của Giáo hội mà cả Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị và Đức Bênêđíctô XVI đều coi là một trong những thành tựu vĩ đại của Công đồng.
Đã có nhiều sự trớ trêu trong ngọn lửa Giáo Hội trong mười hai năm qua. Sự hồi sinh của chế độ chuyên quyền Giáo Hoàng trong số những người Công Giáo cấp tiến, và đi kèm với điều đó là sự hạ thấp các giám mục, chắc chắn là một trong những điều nổi bật nhất—và đáng lo ngại nhất.
Source:First Things
4. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II giải thích về Tam Nhật Thánh
Trong buổi triều yết chung vào ngày thứ tư 16.04.2003, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng đã giải thích ý nghĩa của Tam Nhật Thánh.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy
1. Tam Nhật Thánh, là đỉnh cao của cả năm Phụng Vụ, bắt đầu với Thánh Lễ Tiệc Ly. Trong những ngày này, Giáo Hội thu mình trong yên lặng, để cầu nguyện và suy niệm về cuộc vượt qua, sự chết và sự phục sinh của Chúa.
Trong khi tham dự vào các nghi thức của ngày Thứ Năm Tuần Thánh, Thứ Sáu Tuần Thánh và Lễ Vọng Phục Sinh, chúng ta lần ngược lại những giờ cuối cùng trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, giây phút cuối đã rọi sáng ánh quang phục sinh.
Trong ca vịnh vừa được công bố, chúng ta nghe rằng Đức Kitô “đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Philip 2:8-9). Những lời này tóm tắt kế hoạch diệu kỳ của Thiên Chúa, là kế hoạch mà chúng ta sẽ ôn lại trong những ngày sắp tới, là mầu nhiệm ban tặng ý nghĩa và sự viên mãn cho lịch sử loài người.
2. Trong khi Thánh Lễ Làm Phép Dầu, thường được cử hành vào sáng thứ Năm Tuần Thánh, làm rõ nét cách riêng thừa tác vụ linh mục, những nghi thức trong Thánh Lễ Tiệc Ly là một lời mời gọi khẩn thiết hãy suy niệm về Bí Tích Thánh Thể, là trung tâm điểm của đức tin và đời sống Kitô Giáo. Chính để nhấn mạnh tầm quan trọng của bí tích này, tôi đã viết tông thư “Ecclesia de Eucharistia” (Hội Thánh Từ Thánh Thể) mà tôi sẽ vui mừng ký công bố trong Thánh Lễ Tiệc Ly. Với bản văn này, tôi muốn trao tặng mỗi người tín hữu một suy niệm tổng thể về hy tế thánh thể, là bí tích bao trùm sự thánh thiện thiêng liêng của Giáo Hội.
Trong nhà Tiệc Ly, cùng với bí tích Thánh Thể, Chúa thiết lập chức linh mục, để hy lễ của Ngài sẽ diễn ra qua các thế kỷ: “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22:19). Sau đó, Ngài trối lại cho chúng ta điều răn mới hãy yêu thương nhau như anh em. Qua việc rửa chân, Ngài dạy cho các môn đệ rằng tình yêu cần được chuyển dịch thành việc phục vụ trong khiêm nhường và xả kỷ với người quanh ta.
3. Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày của thống hối và chay tịnh, chúng ta sẽ nhớ lại cuộc vượt qua và cái chết của Chúa Giêsu, chìm đắm trong việc suy tôn thánh giá. “Ecce lignum Crucis, in quo salus mundi pependit -- đây là gỗ Thánh Giá, nơi ơn cứu độ trào ra cho thế giới”. Trên đỉnh đồi Calvê, Con Thiên Chúa gánh lấy gánh nặng tội lỗi của chúng ta, tự hiến dâng lên Chúa Cha như của lễ đền tội. Từ thánh giá, nguồn mạch ơn cứu độ chúng ta tuôn chảy nguồn sống mới cho con cái Thiên Chúa.
Thảm kịch ngày Thứ Sáu được tiếp theo bằng sự im lặng của ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, một ngày đánh dấu bởi chờ đợi và hy vọng. Với Đức Maria, cộng đoàn Kitô hữu canh thức trong cầu nguyện bên cạnh mộ thánh, chờ đợi sự viên mãn của biến cố vinh quang Phục Sinh.
Trong đêm Vọng Phục Sinh, mọi vật được canh tân trong Đức Kitô trỗi dậy. Từ khắp cùng bờ cõi trái đất tiếng ca “Vinh Danh” và “Alleluia” sẽ vang thấu trời cao, trong khi ánh sáng sẽ xuyên thủng bóng đêm. Vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, chúng ta sẽ tung hô Đấng Trỗi Dậy, nhận lãnh từ Ngài lời chào bình an.
4. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy chuẩn bị chính mình để cử hành cách xứng đáng những ngày thánh này, và hãy suy niệm về kỳ công thực hiện bởi Thiên Chúa trong sự nhục nhã và trong vinh quang của Đức Kitô (x Philip 2:6-11).
Nhắc nhớ mầu nhiệm trung tâm của đức tin này cũng bao gồm dấn thân thể hiện mầu nhiệm ấy trong thực tế cụ thể của cuộc sống. Nghĩa là nhận ra rằng cuộc vượt qua của Đức Kitô tiếp tục trong những biến cố đầy bi kịch mà, chẳng may, cũng trong chính lúc này đây đang gây tổn thương cho nhiều người nam nữ trên mọi miền của thế giới.
Tuy thế, mầu nhiệm thánh giá và Phục Sinh bảo đảm với chúng ta rằng hận thù, bạo lực, đổ máu, chết chóc không có tiếng nói cuối cùng trong tương quan nhân loại. Chiến thắng cuối cùng là ở nơi Đức Kitô và chúng ta phải khởi động mới lại từ nơi Ngài, nếu chúng ta muốn xây đắp một tương lai hòa bình thực sự, công lý và tình liên đới cho mọi người.
Xin Đức Mẹ, Đấng thông phần gần gũi trong nhiệm cục cứu độ, đồng hành với chúng ta trong hành trình vượt qua và thánh giá đến ngôi mộ trống, để gặp gỡ với Con Chí Thánh Phục Sinh của Mẹ. Chúng ta hãy tiến bước vào không khí thiêng liêng của Tam Nhật Thánh và để chúng ta được dẫn dắt bởi Mẹ.
Với tình cảm này, tôi bày tỏ những lời cầu chúc chân thành cho mọi người một Mùa Phục Sinh hòa bình và thánh thiện.
5. Nhà lãnh đạo Công Giáo Ukraine liên kết cuộc chiến của quốc gia với tương lai của nền dân chủ trên toàn thế giới
Hôm Thứ Ba, 08 Tháng Tư, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã gặp Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Canada tại Ukraine, Bà Natalka Cmoc, tại Tòa Giám Mục của ngài ở Kyiv. Trong cuộc gặp, họ đã thảo luận về những thách thức cấp bách mà người dân Ukraine và Canada phải đối mặt trong bối cảnh chiến tranh và những thay đổi toàn cầu, cũng như sự phát triển của quan hệ đối tác nhà nước-dân sự và các vấn đề khác mà cả hai bên cùng quan tâm.
Đức Tổng Giám Mục Trưởng đã chia sẻ với Đại sứ những ấn tượng của ngài về chuyến công du mục vụ gần đây đến Canada với các giám mục của Thượng hội đồng thường trực Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương. Chuyến thăm trùng với thời kỳ biến động toàn cầu—kỷ niệm ba năm ngày Nga xâm lược toàn diện Ukraine, những bước đi đầu tiên trong chính sách đối ngoại của tân Tổng thống Hoa Kỳ và sự khởi đầu của chiến dịch bầu cử của Canada.
Trong thời gian ở Canada, Đức Tổng Giám Mục Trưởng đã gặp gỡ các thành viên của chính phủ Canada, bao gồm Chủ tịch Quốc hội, cũng như các cộng đồng người Ukraine ở Toronto, Ottawa và Winnipeg. Một sự kiện đáng chú ý là cuộc biểu tình ủng hộ Ukraine ở Toronto, nơi các giám mục Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã phát biểu trước xã hội đa dạng của Canada.
Nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương nhấn mạnh rằng Ukraine là tâm điểm của sự thay đổi toàn cầu:
“Trong khi xu hướng toàn cầu đang chuyển sang một hướng khác, người Ukraine đang đi ngược lại xu hướng hiện tại, nói rằng: 'Không với chủ nghĩa thực dân! Không với chủ nghĩa toàn trị!' Và bất chấp mọi thứ, họ vẫn tiếp tục đấu tranh. Điều đó đã xảy ra vào năm 1991, 2014 và 2022. Ngày nay, nhiều quốc gia hy vọng Ukraine sẽ duy trì được cuộc đấu tranh này—chỉ khi đó nền dân chủ mới có thể chiến thắng. Đó là lý do tại sao Canada hy vọng mạnh mẽ rằng Ukraine sẽ tồn tại—và cùng với nó, nền dân chủ ở Canada.”
Đại sứ đã hỏi Đức Tổng Giám Mục Trưởng nghĩ gì về thái độ của Canada đối với cuộc đấu tranh của Ukraine chống lại sự xâm lược của Nga, như các giám mục Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương đã quan sát. Đức Tổng Giám Mục Trưởng nhấn mạnh sự ủng hộ nhất quán của Canada, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền của người tị nạn Ukraine: “Tại cuộc họp của chúng tôi ở Ottawa, Chủ tịch Quốc hội đã bảo đảm với chúng tôi: Canada đã và sẽ luôn sát cánh cùng Ukraine. Và người Ukraine ở Canada sẽ không bị đối xử tệ bạc. Đó là một dấu hiệu mạnh mẽ về sự ủng hộ dành cho người dân của chúng tôi”.
Sự chú ý đặc biệt được dành cho việc phát triển quan hệ đối tác nhà nước-dân sự ở Ukraine—đặc biệt là sự hợp tác giữa các thể chế nhà nước và xã hội dân sự, trong đó Giáo hội và các tổ chức tôn giáo khác là những bộ phận chủ chốt.
Đức Tổng Giám Mục Trưởng khẳng định rằng Giáo hội không chỉ ủng hộ mà còn khởi xướng sự hợp tác như vậy. Ngài lưu ý đến công việc gần đây do Hội đồng các Giáo hội và Tổ chức Tôn giáo toàn Ukraine hoàn thành về dự thảo luật liên quan đến quan hệ đối tác giữa nhà thờ và nhà nước, cùng với các sáng kiến khác trong lĩnh vực này.
Cả hai bên đều đồng ý rằng việc thúc đẩy hợp tác nhà nước-dân sự là rất quan trọng để củng cố xã hội dân chủ của Ukraine.