Mấy suy nghĩ nhân nửa thế kỷ thông cáo 14-6-1965 của HĐGMVN

Kể từ ngày HĐGMVN ra Thông cáo ngày 14-6-1965 về việc tôn kính tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ đến nay đã tròn nửa thế kỷ. Bản Thông cáo là việc tiếp nối đề nghị của HĐGMVN xin áp dụng Huấn thị Plane compertum est ngày 8-12-1939 và đã được Tòa thánh chấp thuận ngày 20-10-1964. Bản Thông cáo không những chấm dứt những hệ lụy tranh cãi về Nghi lễ Trung Hoa kéo dài 294 năm kể từ năm 1645 khi Đức Innocentê X ra sắc lệnh cấm các nghi lễ cúng bái tổ tiên và Đức Khổng tử đến năm 1939 khi Huấn thị Plane compertum est được ban hành mà còn tháo gỡ rào cản cho người ngoại giáo Việt Nam đến với đạo Công Giáo và cho người Công Giáo Việt Nam khỏi xa lạ với công đồng. Nhân dịp này, chúng tôi muốn nêu mấy suy nghĩ xung quanh việc thực thi Thông cáo này.

1. Trước hết, chúng tôi nghĩ, không phải như một vài người tố cáo rằng, do thiệt hại quá lớn về sự “tử đạo” của hàng chục, hàng trăm ngàn tín hữu ở châu Á vì sự cứng nhắc và bảo thủ của Vatican mới làm cho Tòa thánh buộc phải thay đổi lập trường về vấn đề này. Chúng ta biết rằng, ngay từ khi thành lập 2 giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài ở Việt Nam năm 1659, Tòa thánh đã gửi hai Giám mục đầu tiên đến Việt Nam là Francois Paullu và Lambert de la Motte bản Monita ad Misinarios ( Nhắn nhủ các Thừa sai) mà ta quen gọi tắt là bản Monita. Bản Monita đầy tinh thần hội nhập văn hóa mà sau 300 năm Công đồng Vatican 2 mới đề cập đến. Tòa thánh dặn dò các Giám mục :

“ Chư huynh đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ nào để buộc dân chúng sửa đổi những phép xã giao, tập tục, phong hóa của họ trừ khi nó hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý. Có gì vô lý và bỉ ổi hơn mang theo cả nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu sang cho dân Á Đông chăng? Không phải mang thứ ấy cho họ mà là chân lý đức tin, một chân lý không loại trừ nghi lễ và tập tục của bất cứ dân tộc nào, cũng không phạm đến nghi lễ, tập tục ấy, miễn là chúng không xấu; ngược lại, chân lý ấy muốn cho người ta bảo tồn và duy trì chúng là đàng khác” (1).

Như vậy Tòa thánh không phải bảo thủ và áp đặt văn hóa cho các quốc gia. Nhưng tại sao tinh thần hội nhập này không được phổ biến và thực thi trên thế giới cũng như Việt Nam vào lúc bấy giờ thì đó lại là một chuỗi nguyên nhân khách quan và chủ quan cũng như tình hình thực tế.

Cũng không phải mãi sau Huấn thị Plane compertum est năm 1939, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mới hội nhập văn hóa dân tộc. Các ghi chép của giáo sĩ truyền giáo buổi đầu cho biết, ngay từ khi đạo Công Giáo có mặt ở Thăng Long- Kẻ Chợ ở thế kỷ XVII, các tín hữu đã biết dùng lá dừa thay lá ôliu trong ngày lễ Lá, biết cắm cây nêu trong ngày tết cổ truyền nhưng có đính Thánh giá bên trên, biết dùng thể thơ lục bát để diễn tả Kinh thánh và nhiều người Việt Nam đã cộng tác với các giáo sĩ để latinh hóa chữ Việt để tạo ra chữ quốc ngữ tuyệt vời vẫn dùng là chữ viết cho dân tộc đến hôm nay. Một số giáo sĩ khi đến truyền giáo ở việt Nam đã rất tôn trọng phong tục tập quán của địa phương. Linh mục Martini đã tường thuật cha Bề trên Onofre Borges đến tham dự lễ giỗ chúa Trịnh Tráng do Trịnh tạc tổ chức đêm 29-12-1657:

“ Cha Bề trên tôn trọng phong tục địa phương, giữ đúng nghi lễ Việt Nam, đi chân không, mặc áo thụng đen, đầu đội mũ lục lăng cùng màu đen như áo thụng, phục sát đất theo kiểu Việt Nam, làm chúa Trịnh rất hài lòng, liền truyền cho nổi nhạc lên, như khi chúa Trịnh vừa bái lạy xong. Mọi người đều bỡ ngỡ, cho rằng nhà vương đã ban cho cha một chức tước nào trổi vượt” (2).

Alexandre de Rhodes cũng bàn khá nhiều về nghi lễ thờ cúng tổ tiên và khẳng định:

“ Tôi đã thuật lại những nghi thức khá dài trong cuốn Histoire du royaume de Tunquin; thực ra có vài nghi thức, nếu người Kitô hữu thực hiện, thì không thể không mắc tội, còn phần nhiều đều vô tội, và chúng tôi nhận đinh rằng, người ta có thể giữ lại các nghi thức ấy mà không can hệ gì đến Đạo thánh” (3).

Ngay Đức Giám Mục Bá Đa Lộc cũng không tán thành việc cấm đoán nghi lễ tôn kính tổ tiên và bảo vệ nghi lễ ấy của người bản xứ. Đức Giám Mục viết:

“Tất cả những gì người ta nói về cách thức vái lạy người chết, sự thờ cúng ngẫu tượng (culte d’idonatrie) mà người ta gán cho sự vái lạy đó là sự lố bịch, không thể chấp nhận được với những ai từng sống ở xứ này. Các vị tông đồ và những ai từng sống ở xứ này không hề chê trách các tục lệ của các xứ họ mà họ đến giảng đạo… Xin hãy báo cho Giáo Hội rằng cho đến lúc lâm chung, Giám mục vẫn luôn giữ các ý kiến của mình về sự quỳ lạy trước linh cữu cha mẹ của người Á Đông” (4).

2. Có khá nhiều ý kiến lý giải việc cấm đạo Công Giáo của nhà Nguyễn. Một tác giả viết:

“Các vua Việt Nam cấm đạo không phải vì cuồng tín nhưng vì các ông muốn bảo tồn nền thống nhất quốc gia về tinh thần và chính trị. Việc người Công Giáo không thờ cúng tổ tiên làm thương tổn đến nền thống nhất tinh thần ấy. Các thừa sai đã khuyến khích các giáo hữu tân tòng đứng lên chống chính quyền để lập nên một chính phủ phò Công Giáo” (5).

Một tác giả khác là Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “Văn hóa tâm linh” viết:

“Giatô giáo không cho tín đồ thờ cúng tổ tiên thì thật là bất trung, bất hiếu quá đáng” (6).

Nói Công Giáo không tôn kính ông bà, tiên tổ là không chính xác. Đạo Công Giáo quy định điều 4 trong Thập điều là “hiếu thảo với cha mẹ”. Sự hiếu thảo ở đây không chỉ là lúc cha mẹ qua đời mà cả khi sống nữa. Trong lịch Phụng vụ có hẳn tháng 11 để cầu nguyện cho người quá cố và trong 3 ngày tết cũng có ngày cầu nguyện cho tổ tiên. Trong bài học đầu tiên của tân tòng, các giáo sĩ đã dạy:

“Bây giờ ta phải hay có ba Đấng bề trên, gọi là ba cha ta phải thờ. Đấng dưới là cha mẹ sinh thân xác cho ta…Vì chưng ta có cha mẹ thì mới được thân xác thịt này sinh ra mà chớ. Ta chịu ơn cha mẹ vì có chịu thai mà ta ở trong lòng 9 tháng 10 ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta đoạn, ba năm bú mớm. Có khi thì mẹ cất của miệng mình mà cho con ăn, cũng có khi mẹ ăn miếng đắng mà miếng ngon để dành cho con. Lại có khi mẹ nằm chốn ướt mà chỗ ráo để con nằm. Cha đẻ con đoạn thì lo nuôi nấng. Vì vậy có khi thì cha thức sớm chẳng ngủ mà làm nghề nọ nghề kia, chạy ngược chạy xuôi kiếm của mà nuôi con. Thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải, ví bằng con cái chẳng thảo kính , chẳng khứng vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng” (7).

Người Công Giáo vẫn hiếu thảo với ông bà cha mẹ nhưng cách thể hiện nhất là sau khi cha mẹ qua đời có khác với tín ngưỡng truyền thống và các tôn giáo khác nhưng đây không phải là lý do cơ bản dẫn đến chính sách cấm đạo như nhiều người nói. Chính khi xuất hiện một tôn giáo khác với tôn giáo mà vua chúa đang theo mới là lý do quyết định dẫn đến xung đột. Giáo sư Triết học người Chi Lê S.V Rojo khi nghiên cứu các tôn giáo ở phương Đông đã rất có lý khi kết luận:

“Bởi vì ở đây vẫn luôn ngự trị đạo của vua phải là đạo của cả nước (cuius regio, eius religio). Chuẩn ở đây là tôn giáo của thần dân phải là tôn giáo của quân vương. Phát thệ một đức tin tôn giáo nào đó thay vì một đức tin tôn giáo khác sẽ kéo theo một nội hàm chính trị tức thời” (8).

3. Khi hội nhập với văn hóa dân tộc Việt, đạo Công Giáo đã biến đổi từ một tôn giáo xa lạ trở thành một tôn giáo gần gũi với cộng đồng. Từ Phụng vụ đến nghi lễ, lối sống đạo của người Công Giáo, từ văn học nghệ thuật, báo chí Công Giáo đến tập tục ở những làng đạo đều có thể thấy bóng dáng văn hóa Việt nhưng cũng mang những nét rất riêng của Công Giáo.

Về kiến trúc: Những ngôi nhà thờ đá Phát Diệm, nhà thờ gỗ Kon Tum thậm chí những nhà thờ mới xây dựng gần đây như nhà thờ Cửa Nam (Lạng Sơn) hay nhà thờ Cam Ly ( Đà Lạt), nhà thờ Pleichuet (Gia Lai) … thấy thấp thoáng đâu đó mái đình, chùa quen thuộc, rồi những nét kiến trúc của đồng bào các dân tộc thiểu số với nhiều bản sắc văn hóa. Về âm nhạc, khi nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời thánh 7-1945 với tuyên ngôn “Về nội dung, phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, về nghệ thuật lấy dân ca cổ truyền làm cấu trúc âm thanh” thì thánh nhạc Việt Nam không chỉ có các bản tiếng Việt và nhiều bản cũng rất đặc sắc có thể sánh với thế giới như bản Đêm đông của Hải Linh hay Kinh hòa bình của Kim Long. Bây giờ trong thánh nhạc có thể thấy đủ làn điệu dân ca từ quan họ Bắc Ninh, hát then xứ Lạng, hò Huế, dân ca Nam Bộ và cả những giai điệu Jarai bốc lửa vùng Tây Nguyên nữa. Về hội họa qua đạo Công Giáo, người dân Việt được biết nhiều tác phẩm hội họa lừng danh trên thế giới như Bữa tiệc ly của L. de Vinci, Đức Mẹ đồng trinh của Rafael, bây giờ họ cũng bắt gặp những hình ảnh người Việt qua tranh tượng đạo từ bức sơn dầu Đức Mẹ Việt Nam của Nam Phong đến bức sơn mài Giáng sinh của Nguyễn Gia Trí, từ pho tượng Đức Mẹ La Vang của Văn Nhân đến các bức tranh sơn dầu của Lê Văn Đệ, Nguyễn Thị Tâm…Nhìn bức tranh Madalena dưới chân Thập giá, người xem nhận ra ngay nữ thánh là phụ nữ Việt với mái tóc dài đổ trên bờ vai và đôi mắt mở to, phó thác dưới chân Thập giá. Còn nhìn ảnh Đức Mẹ Việt Nam dù không xem bản đồ Việt Nam dưới chân Đức Mẹ vẫn nhận ra hình ảnh bà mẹ Việt Nam với trang phục quý phái đang ru con ngủ trên vai. Bao bà mẹ vẫn ru con thao thức hàng đêm như thế.

Bây giờ quan sát một cuộc rước lễ của Công Giáo cũng không khác hội làng bao nhiêu. Cũng hội trống, hội trắc, cũng đoàn hội, các ông cũng áo the khăn xếp, các bà áo dài, nón lá hay ô dù, rồi kiệu đầu rồng, rồi lọng hình phượng… Cũng có chú hề nhảy múa với chiếc trống cái. Có khác là thêm hội kèn đồng mà thôi.

Người Công Giáo cố gắng Việt hóa đạo từ rất sớm. Bắt đầu từ những danh từ nước ngoài như Vincente gọi là Vinh Sơn, Benedicto gọi là Biển Đức. Nhiều giáo sĩ nước ngoài cũng “nhập gia tùy tục” đặt tên theo người Việt như Alexandre de Rhodes đặt là Đắc Lộ, Pigneau de Behaine đặt là Bá Đa Lộc và cả danh từ Deus gọi là Chúa Dêu hay Chúa Trời…

Chỉ nói riêng về văn học nghệ thuật, đạo Công Giáo cũng thành công trong việc không chỉ tạo ra đề tài phong phú cho văn nghệ sĩ nước ta cả Công Giáo và ngoài Công Giáo. Có tác giả đã thành danh không chỉ đề tài mà cả nghệ thuật nữa. Thơ Hàn Mặc Tử (1912-1940) là ví dụ. Nhà phê bình Hoài Thanh và Hoài Chân đã không tiéc lời ca ngợi:

“Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ như một du khách bỡ ngỡ không thể quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng…Thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy đã chứng minh rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ”(9).

Những áng văn chương bất hủ như “Kinh cầu Đức Bà” (Kinh cầu chữ), những vãn Dâng hoa, vãn Hang đá, hàng triệu chữ Nôm của Maijorica, những ghi chép của Philipphê Bỉnh, rồi sau này những Sấm truyền ca, Tạo đoan kinh, Lập quốc kinh của linh mục Lữ Y Đoan (1613-1678), rồi Hiếu tự ca của linh mục Trần Lục…

Người Công Giáo cũng tạo riêng cho mình một kho tàng tục ngữ ca dao. Bất cứ vùng miền nào cũng có những đúc kết như vậy. Về kinh nghiệm thời tiết có câu:

- Lễ Ba Vua, chết cua, chết cá (6-1)

- Lễ Nến, Tết đến sau lưng.

Về kinh nghiệm sản xuất có câu:

- Lễ Rosa thì tra hạt bí (7-10)

- Lễ các Thánh thì đánh bí ra (1-11)

- Lễ các Thánh gánh mạ đi gieo

- Lễ Sinh Nhật giật mạ đi cấy (25-12)

Mỗi địa phương lại có những tổng kết riêng như vùng Bùi Chu có câu: “Cha Phú Nhai, khoai chợ Chùa”. Khoai chợ Chùa (Nam Trực, Nam Định) có tiếng là ngon và nhiều. Còn đất Phú Nhai thì có hơn 100 linh mục và 5 Giám mục quê ở đây. Tại Phát Diệm có câu: “Kinh cụ Thể, lễ cụ Sâm, mâm cụ Sáu, cháu cụ Thịnh” để nói về cụ Thể khảo kinh hôn phối rất chặt, lễ của cụ Sâm thì dài và buồn ngủ, mâm đồng của cha Trần Lục rất to, còn cháu chắt của cụ Thịnh thì rất đông. Hà Nội cũng có câu: “quan làng Vụ, cụ làng Báng” để nói đất phát quan là Vụ Bản, còn nơi có nhiều người đi tu thành linh mục là xứ Kẻ Báng…

4. Sau nửa thế kỷ thực hiện Thông báo ngày 14-6-1965 của Hội đồng GMVN, Giáo Hội Công Giáo đã thu được rất nhiều thành tựu đã từng bước xây dựng được Giáo Hội Công Giáo Việt Nam chứ không phải Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam nhưng cũng đặt ra nhiều thách đố mà cần có sự chung tay của các nhà lịch sử, văn hóa, thần học, giáo lý, xã hội học…để giải quyết.

Trong xu thế hội nhập văn hóa, chúng ta đã Việt hóa đạo Công Giáo để vừa gần gũi, vừa đề cao người Việt nhưng nó sẽ đặt ra vậy lịch sử như thế nào? Chẳng hạn cứ mô tả Giáng sinh với Thánh Giuse là bác nông dân với bộ quần áo nâu, Đức Maria là phụ nữ Việt Nam với áo dài, khăn mỏ quạ bên cạnh đó là mấy con trâu, bò bên khóm tre xanh thì sau này trẻ em Việt Nam sẽ đặt ra câu hỏi: Vậy Đức Giêsu sinh ra ở đâu? Việt Nam hay Belem? Về âm nhạc cũng thế. Có những làn điệu dân ca gắn với một sinh hoạt cộng đồng như quan họ là hát giao duyên nam nữ, bây giờ đặt lời Kinh thánh vào liệu có phù hợp và hát gì vẫn thấy bóng liền anh liền chị hiện ra.

Về trang phục của Chúa hay Đức Mẹ cũng vậy. Chúa Giêsu vốn rất hiền lành và khiêm nhường. Chúng ta cũng nói về Đức Mẹ như thế. Nhưng nhiều tranh, tượng ở Việt Nam hiện nay mặc trang phục cho Chúa như ông Vua, Đức Mẹ như Hoàng hậu với các quần áo, mũ miện quý phái, vàng bạc đầy người. Liệu làm như thế là tôn vinh hay làm xa cách với giáo dân. Một số nhà nghiên cứu khi đi cũng chúng tôi đến thăm La Vang và Trà Kiệu, họ nói Đức Mẹ Trà Kiệu gần dân hơn, khiêm tốn hơn. Dĩ nhiên, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa thì bao gấm vóc, vàng bạc cũng chẳng tương xứng nhưng để Mẹ gần hơn, Chúa gần hơn với người nghèo khổ thì có cần phải như thế không?

Trong tương quan với các tôn giáo, trước đây chi có vài tôn giáo nên ứng xử cũng đơn giản hơn. Đạo Công Giáo trước đây cũng tạo ra lối sống đẹp “Sống đạo theo cung cách Việt Nam”. Tại các vùng xen kẽ giáo và lương trước đây được gọi là “làng xôi đỗ”. Một sản phẩm rất Việt, một ẩm thực ngon vì vừa có vị thơm của nếp, vừa có vị bùi của đỗ. Hai thực phẩm hòa quyện tạo ra sự quyến rũ, hấp dẫn. Không có tranh chấp, xung đột tôn giáo. Bây giờ, không chỉ có 2 tôn giáo là Công Giáo và Phật giáo mà nhiều tôn giáo khác cùng sinh hoạt trong cộng đồng thì xôi đỗ ấy phải có nhiều hương vị nữa thơm ngon, bổ dưỡng nữa. Từ chỗ coi các tôn giáo khác là đạo dối, là gian tà đến chỗ coi các tôn giáo là bạn là bước tiến rất dài nhưng mới chỉ dừng ở mức thăm hỏi nhau ngày lễ, tết hay để giáo dân cũng chung xây nhà thờ, đình chùa cũng là chưa phát huy được năng lực các tôn giáo trong việc cùng nhau giải quyết các vấn đề của xã hội. Mà làm được như vậy phải có các Hiệp hội các tôn giáo có chương trình hợp tác cao hơn, rộng hơn.

Khi kính nhớ các anh hùng liệt sĩ, có nhiều nảy sinh. Có những vị anh hùng liệt sĩ không ai nghi vấn như Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi. Có những vị bị lịch sử tranh cãi là có công hay có tội hoặc có công bên “thắng cuộc” thì có tội bên “thua cuộc”. Bên Công Giáo rất hiếm tổ chức lễ cầu nguyện cho các liệt sĩ vì e ngại đụng đến chính trị. Nếu có được mời thì thụ động tham dự, còn ít khi chủ động? Bên đạo vẫn dạy: cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết. Vậy chúng ta có cầu nguyện cho họ như những kẻ đã qua đời được không?

Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng đức tin. Mọi sự hội nhập cũng phải trên nền tảng đó. Tuy nhiên, tôi vẫn ưa câu nói của Đức Phanxicô: “Tôi thích một Giáo Hội bầm tím và dơ dáy vì ở với người ngoài đường phố hơn là một Giáo Hội khỏe mạnh bị giam cầm vì chỉ bám lấy sự an toàn của riêng mình”.

Hà Nội, ngày 5-9-2014

Chú thích:

1-Dt “Sống đạo theo cung cách Việt Nam”, Kỷ yếu Tọa đàm Khoa học ở Huế năm 2004, Nxb Tôn giáo, 2004, tr.164

2-Marini: Histoire nouvelle et curieuse des royaumes de Tuquin et Lao, Paris 1666, p.324

3-A.de Rhodes: sđ d, Paris 1653, p.76-77

4- Phạm Huy Thông: Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công Giáo và văn hóa Việt Nam, Nxb Tôn giáo 2012, tr.141-142

5- Le Thanh Khoi: Le Vietnam, Histoire et Civilisation, Paris 1955, p.340

6- Sđ d, Nxb Hà Nội 1966, tr.275

7- A. de Rhodes: Phép giảng tám ngày, Đại kết ấn hành 1993, tr.17,18,19.

8- Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Về Tôn giáo, tập 1, Nxb KHXH 1994, tr.223

9- Hoài Thanh- Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học 1988, tr.206