Hội nhập văn hoá : Nền văn hoá toàn diện và liên đới
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Kể từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965) cho đến nay, từ “văn hoá” được nhắc đến nhiều lần trong các văn kiện chính thức và quan trọng của Giáo Hội Công Giáo[1] vì văn hoá bao gồm hầu như mọi sinh hoạt thường ngày của con người. Vì thế chúng ta cần tìm hiểu xem văn hoá là gì, Giáo hội muốn chúng ta xây dựng loại văn hoá nào và xây dựng nó bằng cách nào?
1. Văn hoá là gì?
Từ văn hoá có nhiều nghĩa. Theo nghĩa chữ, văn là vẻ đẹp do mầu sắc tạo ra, là hình thức đẹp trong nghi lễ, nghệ thuật, ngôn ngữ, trong cách cai trị, cư xử…; hoá có nghĩa là dạy dỗ, làm cho hình thành. Trong Từ điển Tiếng Việt, ta thấy có 5 ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa rộng nhất: “Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. Ví dụ: kho tàng văn hoá dân tộc[2].
Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 53, đã xác định văn hoá gắn kết chặt chẽ với bản tính con người: “Một đặc điểm của con người là bản ngã nhân vị chỉ có thể đạt tới nhân tính đích thực và trọn vẹn nhờ văn hoá, nghĩa là nhờ việc trau giồi những phẩm chất thiện hảo và giá trị tự nhiên. Vì thế, cuộc sống con người bao giờ cũng gắn kết chặt chẽ với thiên nhiên và văn hoá”.
Công đồng cũng mở rộng nội dung của văn hoá: “Theo nghĩa tổng quát, từ "văn hoá" chỉ tất cả những gì con người có thể sử dụng để trau giồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; để tìm cách chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động; để làm cho đời sống xã hội, cả trong đời sống gia đình cũng như nơi cộng đồng chính trị, trở thành nhân bản hơn, nhờ vào sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau cùng, để diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của con người trải qua các thời đại, để giúp cho nhiều người, thậm chí cho toàn thể nhân loại, tiến bộ hơn”.
Trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á công bố năm 1999, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gián tiếp nhắc đến các yếu tố cơ bản về văn hoá để chúng ta nhận thức được nội dung lớn lao của văn hoá. Ngài xác nhận: "Châu Á có nhiều nền văn hoá", được hiểu như là những hệ thống giá trị.
Ngài nhắc nhở: “Văn hoá là kết quả xuất phát từ cuộc sống và sinh hoạt của một tập thể nhân loại, thì đối lại những con người thuộc tập thể này lại được khuôn đúc trong một phạm vi rộng bởi chính nền văn hoá mà họ đang sinh sống. Nếu con người và xã hội thay đổi, văn hoá cũng sẽ thay đổi theo. Ngược lại, nếu văn hoá đổi thay thì con người và xã hội cũng được văn hoá ấy biến đổi theo"[3].
2. Giáo Hội đang muốn xây dựng nền văn hoá nào?
Trong lịch sử nhân loại, người ta đã biết đến nhiều nền văn hoá khác nhau như văn hoá bái vật hoặc bái thần, văn hoá duy vật hoặc duy tâm, văn hoá sự sống hoặc sự chết, văn hoá hữu thần hay vô thần, văn hoá duy thực hoặc duy nghiệm, văn hoá xã hội chủ nghĩa hoặc cá nhân chủ nghĩa….
2.1. Văn hoá nhân bản
Giáo Hội Công Giáo cổ vũ nền văn hoá nhân bản. Đây là một hệ thống giá trị bao gồm các suy tư và hành động, lấy con người làm gốc, làm nền tảng, thay vì lấy vật chất hay thần linh. Hệ thống suy tư giúp ta có những nhận thức đúng đắn về chính mình, về con người, về vạn vật cũng như về Thiên Chúa. Hệ thống hành động bao gồm những hành vi và kỹ năng sống để ta thể hiện tốt đẹp và hiệu quả những nhận thức trên.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội Công Giáo đã bắt đầu xây dựng một nền nhân bản dựa vào Chúa Kitô để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và mời gọi mọi người cùng tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại [4].
Giáo Hội Công Giáo đã xác định rằng con người là con đường của Giáo Hội [5] và cũng là con đường của Thiên Chúa, vì “Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người” trở thành Đức Giêsu Kitô (x. Ga 1,14). Người sống với con người để làm cho tất cả những giá trị của con người thành cao cả vô biên vì “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ nơi Đức Giêsu Kitô” [6] .
2.2. Mục đích của nền nhân bản mới
Nền nhân bản này nhằm mục tiêu là đổi mới và xây dựng mỗi tín hữu thành hiện thân sống động của Đức Giêsu Kitô. Người là con người mới, con người hoàn hảo, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15), là Adam mới (x. Rm 5,14) vì nhờ Người mà “bản tính nhân loại của chúng ta đã được nâng lên một phẩm giá siêu việt qua mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Người” [7].
Người tín hữu nhờ kết hợp với Đức Kitô sẽ nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23), để trở thành con người mới có khả năng chu toàn luật yêu thương mới (x. Mt 22,40; Ga 15,12; Rm 8,1-11), xây dựng được nền văn minh tình yêu [8] cho cộng đồng nhân loại vì Đức Giêsu Kitô là nguyên mẫu và là nền tảng của nhân loại mới này [9] .
Lúc đó loài người chúng ta vượt qua bí ẩn của đau khổ và sự chết để sống trọn vẹn trong niềm vui, bình an và tình yêu của Thiên Chúa [10].
2.3. Con người toàn diện bao gồm các lĩnh vực nào?
Nền văn hoá nhân bản toàn diện bao gồm mọi lĩnh vực của con người như thể chất và tinh thần, nội tâm và ngoại giới, tự nhiên và siêu nhiên, cá nhân và tập thể. Công đồng Vaticanô II đã lưu ý đến những lĩnh vực này trong các văn kiện, nhất là trong Hiến chế Gaudium et Spes. Công đồng lưu tâm đến thân phận con người trong thế giới ngày nay, đến phẩm giá cao cả, đến cộng đồng nhân loại và sinh hoạt của con người trong thế giới và vũ trụ. Công đồng cũng lưu ý đến một số vấn đề khẩn thiết như hôn nhân và gia đình, giáo dục và văn hoá, kinh tế và chính trị, chiến tranh và hoà bình, đối thoại liên tôn và các phương tiện truyền thông xã hội.
Bốn mươi năm sau Công đồng, Giáo Hội Công Giáo tổng hợp những vấn đề của con người trong cuốn Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, công bố năm 2004, thành những chủ đề có tính tổng quát và đưa ra những nguyên tắc hướng dẫn rõ ràng, mạch lạc hơn. Mười hai chương trong cuốn Tóm Lược trình bày giáo huấn của Giáo Hội về con người trong những lĩnh vực và những quan hệ chính yếu để hình thành một nền văn hoá nhân bản đúng đắn và toàn diện. Nền văn hoá này còn được xác nhận qua cuốn Docat, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi tặng các bạn trẻ thế giới năm 2016. Ta có thể tóm tắt mấy lĩnh vực chính sau đây:
2.1. Thể chất và tinh thần
Con người được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất với tinh thần và thể xác[11]. Hai yếu tố thể xác và tinh thần đều do Thiên Chúa dựng nên, chứ không phải bắt nguồn từ hai phía đối nghịch nhau (Thuyết Nhị Nguyên). “Tinh thần lành mạnh trong một thể xác tráng kiện” [12]. Thông qua thân xác mình, con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế giới vật chất [13] . Mỗi ngày, qua đồ ăn, thức uống, khí trời, con người hoà hợp với vạn vật và thống nhất chúng nơi mình. Nhờ tinh thần, con người có thể đi vào vạn vật để khám phá ra chúng và thấy mình vượt lên trên thế giới vật chất bên ngoài với phẩm giá độc đáo và lương tâm ngay chính.
2.2. Nội tâm và ngoại giới
Con người khám phá ra mình hiện hữu như một cái “tôi” độc lập, có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự quyết về mình [14].
Khoa Tâm lý học cũng khám phá ra cấu trúc phức tạp của tinh thần con người với những tầng lớp như ý thức, tiềm thức, vô thức tác động lên nhau và ảnh hưởng lẫn nhau cũng như những khả năng lạ lùng của con người với trí nhớ, trí hiểu, trí tưởng tượng, ý chí, tình cảm, khả năng hoạt động… khiến cho mỗi con người trở thành độc đáo với sứ mạng đặc biệt của riêng mình.
Con người khám phá ra mình đang hiện hữu cùng với muôn loài, muôn vật trong vũ trụ để liên kết và hiệp thông với nhau, chứ không thể sống cô độc và đóng kín với vạn vật, với con người và với cả nguồn hiện hữu là Thiên Chúa. Càng mở ta với ngoại giới bằng nội tâm sâu xa, còn người càng hoàn thiện chính mình.
2.3. Tự nhiên và siêu nhiên
Ngoài những gì tồn tại trong thế giới vật chất, hoặc do con người làm ra, có thể cân đo đong đếm hay xác định được trong không gian và thời gian, con người còn cảm nghiệm được nhiều điều thuộc về lĩnh vực siêu nhiên. Lĩnh vực siêu nhiên này mời gọi con người khám phá để phát huy những khả năng vô tận của con người vượt lên trên nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện nay. Con người có thể mở lòng mình để đón nhận những ân phúc như những quà tặng của Thiên Chúa và trao đổi những giá trị tinh thần cho người khác như tình yêu, lòng nhân ái, lời cầu nguyện…
Khi nhận ra mình có tự do như quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người và muôn loài có tinh thần để yêu Ngài, vì Ngài là tình yêu (1Ga 4,8.16), thì con người cũng có thể khước từ tình yêu Thiên Chúa [15]. Và con người đã làm thế trong đời sống của mình. Con người cắt đứt với nguồn chân thiện mỹ là Thiên Chúa nên con người đã cảm nghiệm những nổi loạn của thân xác, làm nô lệ cho những xu hướng xấu xa của tinh thần dẫn con người đến tội lỗi[16] (1Cr 6,13-20; Rm 7,24). Vì thế, con người cần luyện tập những đức tính và loại bỏ những tật xấu ra khỏi cuộc sống của mình.
2.4. Cá nhân và tập thể
Nhờ tinh thần, con người có thể gặp gỡ được những con người khác để xây dựng thành những cộng đồng yêu thương. Cộng đồng đầu tiên và cơ bản là gia đình với định chế hôn nhân, với nhiệm vụ nuôi nấng và giáo dục con cái. Cộng đồng rộng lớn hơn là xã hội, tập thể để xây dựng nên nền văn hoá dân tộc với những mối liên hệ với ông bà tổ tiên. Cộng đồng rộng lớn nhất là cộng đồng quốc tế với muôn dân tộc trong gia đình nhân loại mà mỗi người đều có nghĩa vụ phải tham gia và bảo vệ hoà bình.
Hơn nữa, con người có thể mở ra với siêu việt để gặp gỡ được tinh thần tuyệt đối là Thiên Chúa ngay trong cõi thâm sâu của lòng mình và gặp gỡ những thụ tạo khác để xây dựng và phát triển một cộng đồng yêu thương [17].
2.4. Con người liên đới có các mối tương quan nào?
Con người toàn diện có 4 mối quan hệ căn bản với 4 tinh thần phải tập luyện để thể hiện tốt đẹp các tương quan ấy:
Trong tương quan với Thiên Chúa, con người giữ tinh thần thảo hiếu, vì Ngài là nguồn của mọi hiện hữu, của chân thiện mỹ, của sự sống vĩnh hằng và hạnh phúc vô biên.
Phân tích con người mình, mỗi người chỉ thấy được những gì thuộc về vật chất, những nguyên tử, phân tử Carbon, Hydro, Oxy, Nitơ… thế mà ta đang sống, đang yêu, đang suy nghĩ. Vậy sự sống, tình yêu, sự khôn ngoan và các giá trị tinh thần phải bắt nguồn từ một ai đó vượt ra ngoài vật chất, không gian và thời gian cố định. Nhờ tinh thần mở ra cho siêu việt mà ta khám phá ra Đấng Siêu việt là Thiên Chúa, nguồn gốc của muôn sự muôn loài [18] .
Đào tạo lương tâm ngay chính: con người khám phá tận đáy lòng mình lương tâm như một lề luật phải theo, như một tiếng nói của Thiên Chúa kêu gọi con người phải yêu mến và làm điều thiện cũng như phải tránh những điều ác[19]. Tuân theo lề luật ấy là tuân theo các giá trị đạo đức. Các giá trị này bắt nguồn từ luật tự nhiên được ghi khắc trong lương tâm con người, nhờ đó phẩm giá con người được nâng cao và xã hội được ổn định [20].
Từ cội nguồn Thiên Chúa, con người sẽ giữ tinh thần thảo hiếu này đối với cha mẹ, thầy dạy, ông bà, tổ tiên, dân tộc, là những người thay mặt Chúa chuyển thông sự sống, sự thật, tình yêu và ân phúc cho ta.
Trong mối tương quan này, người tín hữu được đào tạo để hiểu biết về tinh thần ái quốc và nền văn hoá dân tộc, biết bảo vệ tổ quốc và biết đưa Tin Mừng hội nhập vào nền văn hoá dân tộc.
Trong tương quan với mọi người sống trên trái đất và cả trong vũ trụ, con người giữ tinh thần huynh đệ, đối xử với nhau như anh em trong cùng một đại gia đình, không kỳ thị vì bất cứ khác biệt nào.
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Ngài sáng tạo con người có nam, có nữ (x. St 1,27). Sự liên kết giữa hai người nam nữ tạo nên một cộng đồng đầu tiên giữa người với người. Từ bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có tính xã hội và nếu không liên lạc với những người khác, con người không thể phát triển và hoàn thiện chính mình.
Trong vũ trụ bao la vẫn có thể có những “người khác” để ta tìm hiểu, gặp gỡ và cùng nhau xây dựng một nền “hoà bình giữa các vì sao”. Thiên hà của chúng ta với hơn 400 triệu ngôi sao và có khoảng 8000 hành tinh có điều kiện giống như trái đất, nghĩa là có thể có người. Thiên hà Andromede cách tthiên hà chúng ta 3,5 triệu năm ánh sáng cũng có khoảng vài trăm triệu ngôi sao như thế. Cả vũ trụ có khoảng 100 ngàn thiên hà đã được kính thiên văn Hubble của Mỹ chụp được và vẫn còn những thiên hà mới xuất hiện. Trong giải thiên hà của ta, theo ước tính của các nhà khoa học, có thể có hàng trăm ngàn hành tinh có điều kiện phát triển sự sống và có khoảng gần 100 nền văn minh bằng hoặc hơn trái đất [21].
Con người thể hiện tinh thần huynh đệ này bằng cách tránh những hành vi tiêu cực như dối trá, tham lam, bất công, dâm đãng, xúc phạm đến thân xác hay danh dự người khác theo tinh thần của Mười Điều Răn và bằng cách thể hiện những hành vi tích cực qua đời sống bác ái, tôn trọng, hợp tác, tin tưởng, khoan dung, khiêm tốn, công bình, quảng đại, trung thực, trong sạch, hoà bình, dám hy sinh vì đại nghĩa theo tinh thần Tám Mối Phúc của Đức Giêsu Kitô. Đó là những giá trị sống cần thiết cho mỗi người chúng ta.
Trong tương quan với vạn vật, con người giữ tinh thần huynh trưởng vì Thiên Chúa Tạo Hoá đã giao phó vạn vật trên trái đất cho con người để thay Ngài quản trị muôn loài (x. St 1,26-28; Kn 2,23) và loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo (x. Mc 16,15).
Tinh thần này được thể hiện qua việc:
- Chuyên cần học hỏi, nghiên cứu vạn vật qua các khoa học kỹ thuật, sẵn sàng chia sẽ kiến thức cho mọi người.
- Siêng năng lao động cũng như biết nghỉ ngơi.
- Làm ra các của cải và biết chia sẻ những nguồn lực cho người yếu kém.
- Bảo vệ môi trường sống cho sạch, xanh, đẹp, an lành.
Trong tương quan với chính mình, con người giữ tinh thần tự chủ:
Tinh thần này nhắc nhở mọi người cố gắng làm chủ bản thân, tình cảm, thời giờ, tài năng, ân huệ và cả những tham vọng, dục vọng để trở thành một con người tự do thật sự trước mọi ràng buộc của cuộc sống. Khả năng tự chủ này được đào luyện mỗi ngày qua một số kỹ năng sống sau đây:
- Làm chủ ân phúc Chúa ban qua đời sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ, các thần thánh bằng cầu nguyện, phụng tự và các bí tích. Tất cả là hồng ân để luôn sống trong tâm tình tạ ơn và không bỏ phí bất kỳ một ơn nào.
- Làm chủ cá tính với những đặc tính như cảm tính, hoạt tính, sơ tính hay thứ tính, những nhu cầu, xu hướng, năng khiếu để hiểu rõ con người mình có khả năng, ưu điểm, khuyết điểm nào.
- Làm chủ các tài năng tinh thần như trí hiểu, trí nhớ, trí tưởng tượng, ý chí qua việc tích cực học hành, nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đào tạo năng khiếu chuyên môn để trở thành những người có khả năng sống tự lập, làm sáng danh Chúa và mang lại hạnh phúc cho con người [22]
- Làm chủ sức khoẻ, các bản năng và tình cảm bằng đời sống điều độ trong việc ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, vui chơi với những giờ thể dục, thể thao để luyện một ý chí vững vàng trong một thân thể khoẻ mạnh. Tập luyện để sống quảng đại, vui tươi, khiêm tốn, dũng cảm, biết tha thứ, biết nhường nhịn vì Thiên Chúa hiểu rõ lòng con người và sẽ bù đắp cho con người hơn cả điều lòng họ ước mong.
- Làm chủ thời giờ: thời giờ là hồng ân và cũng là vốn liếng Chúa trao ban nên ta quý trọng từng giây phút sống trên đời. Một nụ cười, một lời cám ơn, xin lỗi, một cử chỉ đẹp chỉ tốn một vài giây sống, nhưng sẽ làm cho đời mình và đời người hạnh phúc. Vì thế mỗi giây phút ta đều có thể sống đẹp, sống bác ái, sống hào hùng. Mỗi giây phút đều có giá trị vĩnh hằng vì Ngôi Lời làm người đã biến đổi tất cả những giá trị con người thành cao cả, vô biên [23].
- Làm chủ các phương tiện vật chất như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, quần áo, đồ dùng để bảo đảm cho mình những điều kiện cần thiết cho đời sống tự lập[24] .Tuy nhiên, của cải không phải chỉ làm lợi cho người sở hữu mà còn phải làm lợi cho người khác vì Thiên Chúa ban trái đất chung cho mọi người[25]. Đó là mục tiêu phổ quát của các phương tiện vật chất và nhờ đó tạo ra một thế giới công bằng và liên đới [26] . Người sở hữu vật chất còn được mời gọi để sống tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu Kitô vì Người giàu có vô song nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó để chúng ta trở thành giàu có như Người (x. 2Cr 8,9).
3. Giáo Hội xây dựng nền văn hoá này bằng cách nào?
Phương cách quan trọng được Giáo Hội cổ vũ là hội nhập văn hoá (HNVH)[27].
Hội nhập là hoà mình vào trong một cộng đồng lớn. Ví dụ: Việt Nam hội nhập vào khối ASEAN. HNVH là hoà mình vào trong nền văn hoá hay đúng hơn là chấp nhận một hệ thống giá trị mới.
Chủ thể hội nhập ở đây được xác định là một cá nhân hay một tập thể (cộng đồng Giáo Hội) tiếp nhận một phần hay toàn bộ hệ thống giá trị đã có sẵn của một dân tộc nào đó. Ví dụ các thừa sai nước ngoài đến giảng đạo đã học tiếng Việt, ăn mặc như người Việt, trình bày giáo lý theo cách hiểu của người Việt. Như thế là họ đã hội nhập vào nền văn hoá Việt Nam.
Chủ thể hội nhập trước hết hiểu là Giáo Hội. "Nhờ HNVH, về phần mình, Giáo Hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn giúp người ta hiểu bản chất của mình, đồng thời Giáo Hội cũng trở thành một dụng cụ đắc lực hơn để thi hành sứ mạng (x. Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 52). Sự liên kết với các nền văn hoá luôn luôn là một phần trong cuộc hành trình của Giáo Hội qua lịch sử" [28].
Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô giáo hội nhập vào các nền văn hoá của châu Á[29]. "Thánh Thần đã cho chúng ta hiểu biết chân lý toàn diện, thì cũng có thể giúp chúng ta đối thoại với các giá trị văn hoá và tôn giáo của các dân tộc được kết quả"[30] .
Ngoài tác nhân chính là Chúa Thánh Thần, chủ thể hội nhập chính là Giáo Hội được hiểu như là cộng đồng Kitô hữu. Những con người này, có một nền văn hoá riêng, nghĩa là có cả một hệ thống giá trị vật chất cũng như tinh thần được sáng tạo và tích luỹ qua dòng lịch sử. Bây giờ Giáo Hội gặp gỡ và đối thoại với một nền văn hoá nào đó, "trong quá trình gặp gỡ các nền văn hoá khác nhau của thế giới, Giáo Hội chẳng những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình, cũng như đổi mới các nền văn hoá ấy từ bên trong, mà còn thu dụng nhiều yếu tố tích cực có sẵn từ các nền văn hoá khác nhau ấy"[31].
Hơn nữa, việc HNVH bao gồm nhiều giá trị trên các lĩnh vực khác nhau, nên chủ thể hội nhập có thể trao đổi, gặp gỡ và đón nhận các giá trị trên nhiều bình diện khác nhau. Vì thế, ĐTC nói đến việc đưa Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, hay đưa những giá trị về đức tin, thần học, phụng vụ, linh đạo, huấn giáo của Kitô giáo hội nhập vào một nền văn hoá nhất định [32].
Kết luận
Nhìn vào cộng đồng xã hội Việt Nam, người Công Giáo chúng ta không thể không ưu tư vì số người biết Đức Giêsu hãy còn quá ít sau hàng trăm năm loan báo Tin Mừng cũng như tình trạng suy thoái về văn hoá và đạo đức của dân tộc. Chúng ta chỉ có thể cải thiện tình trạng này bằng cách xây dựng nền văn hoá toàn diện và liên đới với những cố gắng hội nhập văn hoá của mọi thành phần dân Chúa.
Câu hỏi gợi ý
1. Giáo Hội muốn xây dựng nền văn hoá với những đặc điểm nào nào?
2. Việc hội nhập văn hoá được diễn tả qua những mối tương quan nào?
[1] Xem Mục lục phân tích chủ đề, mục từ Văn hoá, cúa sách Công đồng Chung Vaticanô II, năm 2012, tr 1025; sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, năm 2010, tr 1063; sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, tr 686-689; sách Docat, năm 2017, tr 112,242,76,155,243,45,102,277-278.
[2] X. Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr 1409
[3] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[4] X. CĐ. Vat.II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 10
[5] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, xuất bản năm 2007, số 62
[6] Sách Công đồng Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012, số 22
[7] X. Sách Công đồng Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012, số 22
[8] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 575-580
[9] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 431
[10] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 583
[11] X. HTXHCG, số 127; CĐ. Vat.II HCMV Gaudium et Spes, số 14
[12] Câu cách ngôn của người Rôma: Mens sana in corpore sano.
[13] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 128
[14] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 131
[15] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 131 số 128; CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 14)
[16] CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 13
[17] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 128,129,130
[18] X. CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 12; Sách Tóm lược HTXHCG, số 130
[19] X. CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 16
[20] X. CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 20
[21] X. Báo Tuổi Trẻ, ngày 9/3/2009
[22] X. CĐ. Vat.II, Gaudium et Spes, số 15
[23] X. CĐ. Vat.II, Gaudium et Spes, số 22
[24] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 176
[25] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 177
[26] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 174
[27] X. Như được nói đến trong Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 13; Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 20; Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, số 52. Trong tông huấn Giáo hội tại Châu Á, ĐTC Gioan Phaolô II nhắc đi nhắc lại từ này nhiều lần, đặc biệt ở số 21 (4 lần) và 22 (10 lần).
[28] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[29] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[30] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[31] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[32] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 22
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Kể từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965) cho đến nay, từ “văn hoá” được nhắc đến nhiều lần trong các văn kiện chính thức và quan trọng của Giáo Hội Công Giáo[1] vì văn hoá bao gồm hầu như mọi sinh hoạt thường ngày của con người. Vì thế chúng ta cần tìm hiểu xem văn hoá là gì, Giáo hội muốn chúng ta xây dựng loại văn hoá nào và xây dựng nó bằng cách nào?
1. Văn hoá là gì?
Từ văn hoá có nhiều nghĩa. Theo nghĩa chữ, văn là vẻ đẹp do mầu sắc tạo ra, là hình thức đẹp trong nghi lễ, nghệ thuật, ngôn ngữ, trong cách cai trị, cư xử…; hoá có nghĩa là dạy dỗ, làm cho hình thành. Trong Từ điển Tiếng Việt, ta thấy có 5 ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa rộng nhất: “Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. Ví dụ: kho tàng văn hoá dân tộc[2].
Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 53, đã xác định văn hoá gắn kết chặt chẽ với bản tính con người: “Một đặc điểm của con người là bản ngã nhân vị chỉ có thể đạt tới nhân tính đích thực và trọn vẹn nhờ văn hoá, nghĩa là nhờ việc trau giồi những phẩm chất thiện hảo và giá trị tự nhiên. Vì thế, cuộc sống con người bao giờ cũng gắn kết chặt chẽ với thiên nhiên và văn hoá”.
Công đồng cũng mở rộng nội dung của văn hoá: “Theo nghĩa tổng quát, từ "văn hoá" chỉ tất cả những gì con người có thể sử dụng để trau giồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; để tìm cách chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động; để làm cho đời sống xã hội, cả trong đời sống gia đình cũng như nơi cộng đồng chính trị, trở thành nhân bản hơn, nhờ vào sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau cùng, để diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của con người trải qua các thời đại, để giúp cho nhiều người, thậm chí cho toàn thể nhân loại, tiến bộ hơn”.
Trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á công bố năm 1999, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gián tiếp nhắc đến các yếu tố cơ bản về văn hoá để chúng ta nhận thức được nội dung lớn lao của văn hoá. Ngài xác nhận: "Châu Á có nhiều nền văn hoá", được hiểu như là những hệ thống giá trị.
Ngài nhắc nhở: “Văn hoá là kết quả xuất phát từ cuộc sống và sinh hoạt của một tập thể nhân loại, thì đối lại những con người thuộc tập thể này lại được khuôn đúc trong một phạm vi rộng bởi chính nền văn hoá mà họ đang sinh sống. Nếu con người và xã hội thay đổi, văn hoá cũng sẽ thay đổi theo. Ngược lại, nếu văn hoá đổi thay thì con người và xã hội cũng được văn hoá ấy biến đổi theo"[3].
2. Giáo Hội đang muốn xây dựng nền văn hoá nào?
Trong lịch sử nhân loại, người ta đã biết đến nhiều nền văn hoá khác nhau như văn hoá bái vật hoặc bái thần, văn hoá duy vật hoặc duy tâm, văn hoá sự sống hoặc sự chết, văn hoá hữu thần hay vô thần, văn hoá duy thực hoặc duy nghiệm, văn hoá xã hội chủ nghĩa hoặc cá nhân chủ nghĩa….
2.1. Văn hoá nhân bản
Giáo Hội Công Giáo cổ vũ nền văn hoá nhân bản. Đây là một hệ thống giá trị bao gồm các suy tư và hành động, lấy con người làm gốc, làm nền tảng, thay vì lấy vật chất hay thần linh. Hệ thống suy tư giúp ta có những nhận thức đúng đắn về chính mình, về con người, về vạn vật cũng như về Thiên Chúa. Hệ thống hành động bao gồm những hành vi và kỹ năng sống để ta thể hiện tốt đẹp và hiệu quả những nhận thức trên.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội Công Giáo đã bắt đầu xây dựng một nền nhân bản dựa vào Chúa Kitô để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và mời gọi mọi người cùng tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại [4].
Giáo Hội Công Giáo đã xác định rằng con người là con đường của Giáo Hội [5] và cũng là con đường của Thiên Chúa, vì “Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người” trở thành Đức Giêsu Kitô (x. Ga 1,14). Người sống với con người để làm cho tất cả những giá trị của con người thành cao cả vô biên vì “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ nơi Đức Giêsu Kitô” [6] .
2.2. Mục đích của nền nhân bản mới
Nền nhân bản này nhằm mục tiêu là đổi mới và xây dựng mỗi tín hữu thành hiện thân sống động của Đức Giêsu Kitô. Người là con người mới, con người hoàn hảo, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15), là Adam mới (x. Rm 5,14) vì nhờ Người mà “bản tính nhân loại của chúng ta đã được nâng lên một phẩm giá siêu việt qua mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Người” [7].
Người tín hữu nhờ kết hợp với Đức Kitô sẽ nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23), để trở thành con người mới có khả năng chu toàn luật yêu thương mới (x. Mt 22,40; Ga 15,12; Rm 8,1-11), xây dựng được nền văn minh tình yêu [8] cho cộng đồng nhân loại vì Đức Giêsu Kitô là nguyên mẫu và là nền tảng của nhân loại mới này [9] .
Lúc đó loài người chúng ta vượt qua bí ẩn của đau khổ và sự chết để sống trọn vẹn trong niềm vui, bình an và tình yêu của Thiên Chúa [10].
2.3. Con người toàn diện bao gồm các lĩnh vực nào?
Nền văn hoá nhân bản toàn diện bao gồm mọi lĩnh vực của con người như thể chất và tinh thần, nội tâm và ngoại giới, tự nhiên và siêu nhiên, cá nhân và tập thể. Công đồng Vaticanô II đã lưu ý đến những lĩnh vực này trong các văn kiện, nhất là trong Hiến chế Gaudium et Spes. Công đồng lưu tâm đến thân phận con người trong thế giới ngày nay, đến phẩm giá cao cả, đến cộng đồng nhân loại và sinh hoạt của con người trong thế giới và vũ trụ. Công đồng cũng lưu ý đến một số vấn đề khẩn thiết như hôn nhân và gia đình, giáo dục và văn hoá, kinh tế và chính trị, chiến tranh và hoà bình, đối thoại liên tôn và các phương tiện truyền thông xã hội.
Bốn mươi năm sau Công đồng, Giáo Hội Công Giáo tổng hợp những vấn đề của con người trong cuốn Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, công bố năm 2004, thành những chủ đề có tính tổng quát và đưa ra những nguyên tắc hướng dẫn rõ ràng, mạch lạc hơn. Mười hai chương trong cuốn Tóm Lược trình bày giáo huấn của Giáo Hội về con người trong những lĩnh vực và những quan hệ chính yếu để hình thành một nền văn hoá nhân bản đúng đắn và toàn diện. Nền văn hoá này còn được xác nhận qua cuốn Docat, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi tặng các bạn trẻ thế giới năm 2016. Ta có thể tóm tắt mấy lĩnh vực chính sau đây:
2.1. Thể chất và tinh thần
Con người được Thiên Chúa tạo dựng thành một thể thống nhất với tinh thần và thể xác[11]. Hai yếu tố thể xác và tinh thần đều do Thiên Chúa dựng nên, chứ không phải bắt nguồn từ hai phía đối nghịch nhau (Thuyết Nhị Nguyên). “Tinh thần lành mạnh trong một thể xác tráng kiện” [12]. Thông qua thân xác mình, con người thống nhất nơi mình các yếu tố của thế giới vật chất [13] . Mỗi ngày, qua đồ ăn, thức uống, khí trời, con người hoà hợp với vạn vật và thống nhất chúng nơi mình. Nhờ tinh thần, con người có thể đi vào vạn vật để khám phá ra chúng và thấy mình vượt lên trên thế giới vật chất bên ngoài với phẩm giá độc đáo và lương tâm ngay chính.
2.2. Nội tâm và ngoại giới
Con người khám phá ra mình hiện hữu như một cái “tôi” độc lập, có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự quyết về mình [14].
Khoa Tâm lý học cũng khám phá ra cấu trúc phức tạp của tinh thần con người với những tầng lớp như ý thức, tiềm thức, vô thức tác động lên nhau và ảnh hưởng lẫn nhau cũng như những khả năng lạ lùng của con người với trí nhớ, trí hiểu, trí tưởng tượng, ý chí, tình cảm, khả năng hoạt động… khiến cho mỗi con người trở thành độc đáo với sứ mạng đặc biệt của riêng mình.
Con người khám phá ra mình đang hiện hữu cùng với muôn loài, muôn vật trong vũ trụ để liên kết và hiệp thông với nhau, chứ không thể sống cô độc và đóng kín với vạn vật, với con người và với cả nguồn hiện hữu là Thiên Chúa. Càng mở ta với ngoại giới bằng nội tâm sâu xa, còn người càng hoàn thiện chính mình.
2.3. Tự nhiên và siêu nhiên
Ngoài những gì tồn tại trong thế giới vật chất, hoặc do con người làm ra, có thể cân đo đong đếm hay xác định được trong không gian và thời gian, con người còn cảm nghiệm được nhiều điều thuộc về lĩnh vực siêu nhiên. Lĩnh vực siêu nhiên này mời gọi con người khám phá để phát huy những khả năng vô tận của con người vượt lên trên nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện nay. Con người có thể mở lòng mình để đón nhận những ân phúc như những quà tặng của Thiên Chúa và trao đổi những giá trị tinh thần cho người khác như tình yêu, lòng nhân ái, lời cầu nguyện…
Khi nhận ra mình có tự do như quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người và muôn loài có tinh thần để yêu Ngài, vì Ngài là tình yêu (1Ga 4,8.16), thì con người cũng có thể khước từ tình yêu Thiên Chúa [15]. Và con người đã làm thế trong đời sống của mình. Con người cắt đứt với nguồn chân thiện mỹ là Thiên Chúa nên con người đã cảm nghiệm những nổi loạn của thân xác, làm nô lệ cho những xu hướng xấu xa của tinh thần dẫn con người đến tội lỗi[16] (1Cr 6,13-20; Rm 7,24). Vì thế, con người cần luyện tập những đức tính và loại bỏ những tật xấu ra khỏi cuộc sống của mình.
2.4. Cá nhân và tập thể
Nhờ tinh thần, con người có thể gặp gỡ được những con người khác để xây dựng thành những cộng đồng yêu thương. Cộng đồng đầu tiên và cơ bản là gia đình với định chế hôn nhân, với nhiệm vụ nuôi nấng và giáo dục con cái. Cộng đồng rộng lớn hơn là xã hội, tập thể để xây dựng nên nền văn hoá dân tộc với những mối liên hệ với ông bà tổ tiên. Cộng đồng rộng lớn nhất là cộng đồng quốc tế với muôn dân tộc trong gia đình nhân loại mà mỗi người đều có nghĩa vụ phải tham gia và bảo vệ hoà bình.
Hơn nữa, con người có thể mở ra với siêu việt để gặp gỡ được tinh thần tuyệt đối là Thiên Chúa ngay trong cõi thâm sâu của lòng mình và gặp gỡ những thụ tạo khác để xây dựng và phát triển một cộng đồng yêu thương [17].
2.4. Con người liên đới có các mối tương quan nào?
Con người toàn diện có 4 mối quan hệ căn bản với 4 tinh thần phải tập luyện để thể hiện tốt đẹp các tương quan ấy:
Trong tương quan với Thiên Chúa, con người giữ tinh thần thảo hiếu, vì Ngài là nguồn của mọi hiện hữu, của chân thiện mỹ, của sự sống vĩnh hằng và hạnh phúc vô biên.
Phân tích con người mình, mỗi người chỉ thấy được những gì thuộc về vật chất, những nguyên tử, phân tử Carbon, Hydro, Oxy, Nitơ… thế mà ta đang sống, đang yêu, đang suy nghĩ. Vậy sự sống, tình yêu, sự khôn ngoan và các giá trị tinh thần phải bắt nguồn từ một ai đó vượt ra ngoài vật chất, không gian và thời gian cố định. Nhờ tinh thần mở ra cho siêu việt mà ta khám phá ra Đấng Siêu việt là Thiên Chúa, nguồn gốc của muôn sự muôn loài [18] .
Đào tạo lương tâm ngay chính: con người khám phá tận đáy lòng mình lương tâm như một lề luật phải theo, như một tiếng nói của Thiên Chúa kêu gọi con người phải yêu mến và làm điều thiện cũng như phải tránh những điều ác[19]. Tuân theo lề luật ấy là tuân theo các giá trị đạo đức. Các giá trị này bắt nguồn từ luật tự nhiên được ghi khắc trong lương tâm con người, nhờ đó phẩm giá con người được nâng cao và xã hội được ổn định [20].
Từ cội nguồn Thiên Chúa, con người sẽ giữ tinh thần thảo hiếu này đối với cha mẹ, thầy dạy, ông bà, tổ tiên, dân tộc, là những người thay mặt Chúa chuyển thông sự sống, sự thật, tình yêu và ân phúc cho ta.
Trong mối tương quan này, người tín hữu được đào tạo để hiểu biết về tinh thần ái quốc và nền văn hoá dân tộc, biết bảo vệ tổ quốc và biết đưa Tin Mừng hội nhập vào nền văn hoá dân tộc.
Trong tương quan với mọi người sống trên trái đất và cả trong vũ trụ, con người giữ tinh thần huynh đệ, đối xử với nhau như anh em trong cùng một đại gia đình, không kỳ thị vì bất cứ khác biệt nào.
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Ngài sáng tạo con người có nam, có nữ (x. St 1,27). Sự liên kết giữa hai người nam nữ tạo nên một cộng đồng đầu tiên giữa người với người. Từ bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có tính xã hội và nếu không liên lạc với những người khác, con người không thể phát triển và hoàn thiện chính mình.
Trong vũ trụ bao la vẫn có thể có những “người khác” để ta tìm hiểu, gặp gỡ và cùng nhau xây dựng một nền “hoà bình giữa các vì sao”. Thiên hà của chúng ta với hơn 400 triệu ngôi sao và có khoảng 8000 hành tinh có điều kiện giống như trái đất, nghĩa là có thể có người. Thiên hà Andromede cách tthiên hà chúng ta 3,5 triệu năm ánh sáng cũng có khoảng vài trăm triệu ngôi sao như thế. Cả vũ trụ có khoảng 100 ngàn thiên hà đã được kính thiên văn Hubble của Mỹ chụp được và vẫn còn những thiên hà mới xuất hiện. Trong giải thiên hà của ta, theo ước tính của các nhà khoa học, có thể có hàng trăm ngàn hành tinh có điều kiện phát triển sự sống và có khoảng gần 100 nền văn minh bằng hoặc hơn trái đất [21].
Con người thể hiện tinh thần huynh đệ này bằng cách tránh những hành vi tiêu cực như dối trá, tham lam, bất công, dâm đãng, xúc phạm đến thân xác hay danh dự người khác theo tinh thần của Mười Điều Răn và bằng cách thể hiện những hành vi tích cực qua đời sống bác ái, tôn trọng, hợp tác, tin tưởng, khoan dung, khiêm tốn, công bình, quảng đại, trung thực, trong sạch, hoà bình, dám hy sinh vì đại nghĩa theo tinh thần Tám Mối Phúc của Đức Giêsu Kitô. Đó là những giá trị sống cần thiết cho mỗi người chúng ta.
Trong tương quan với vạn vật, con người giữ tinh thần huynh trưởng vì Thiên Chúa Tạo Hoá đã giao phó vạn vật trên trái đất cho con người để thay Ngài quản trị muôn loài (x. St 1,26-28; Kn 2,23) và loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo (x. Mc 16,15).
Tinh thần này được thể hiện qua việc:
- Chuyên cần học hỏi, nghiên cứu vạn vật qua các khoa học kỹ thuật, sẵn sàng chia sẽ kiến thức cho mọi người.
- Siêng năng lao động cũng như biết nghỉ ngơi.
- Làm ra các của cải và biết chia sẻ những nguồn lực cho người yếu kém.
- Bảo vệ môi trường sống cho sạch, xanh, đẹp, an lành.
Trong tương quan với chính mình, con người giữ tinh thần tự chủ:
Tinh thần này nhắc nhở mọi người cố gắng làm chủ bản thân, tình cảm, thời giờ, tài năng, ân huệ và cả những tham vọng, dục vọng để trở thành một con người tự do thật sự trước mọi ràng buộc của cuộc sống. Khả năng tự chủ này được đào luyện mỗi ngày qua một số kỹ năng sống sau đây:
- Làm chủ ân phúc Chúa ban qua đời sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ, các thần thánh bằng cầu nguyện, phụng tự và các bí tích. Tất cả là hồng ân để luôn sống trong tâm tình tạ ơn và không bỏ phí bất kỳ một ơn nào.
- Làm chủ cá tính với những đặc tính như cảm tính, hoạt tính, sơ tính hay thứ tính, những nhu cầu, xu hướng, năng khiếu để hiểu rõ con người mình có khả năng, ưu điểm, khuyết điểm nào.
- Làm chủ các tài năng tinh thần như trí hiểu, trí nhớ, trí tưởng tượng, ý chí qua việc tích cực học hành, nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đào tạo năng khiếu chuyên môn để trở thành những người có khả năng sống tự lập, làm sáng danh Chúa và mang lại hạnh phúc cho con người [22]
- Làm chủ sức khoẻ, các bản năng và tình cảm bằng đời sống điều độ trong việc ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, vui chơi với những giờ thể dục, thể thao để luyện một ý chí vững vàng trong một thân thể khoẻ mạnh. Tập luyện để sống quảng đại, vui tươi, khiêm tốn, dũng cảm, biết tha thứ, biết nhường nhịn vì Thiên Chúa hiểu rõ lòng con người và sẽ bù đắp cho con người hơn cả điều lòng họ ước mong.
- Làm chủ thời giờ: thời giờ là hồng ân và cũng là vốn liếng Chúa trao ban nên ta quý trọng từng giây phút sống trên đời. Một nụ cười, một lời cám ơn, xin lỗi, một cử chỉ đẹp chỉ tốn một vài giây sống, nhưng sẽ làm cho đời mình và đời người hạnh phúc. Vì thế mỗi giây phút ta đều có thể sống đẹp, sống bác ái, sống hào hùng. Mỗi giây phút đều có giá trị vĩnh hằng vì Ngôi Lời làm người đã biến đổi tất cả những giá trị con người thành cao cả, vô biên [23].
- Làm chủ các phương tiện vật chất như tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, quần áo, đồ dùng để bảo đảm cho mình những điều kiện cần thiết cho đời sống tự lập[24] .Tuy nhiên, của cải không phải chỉ làm lợi cho người sở hữu mà còn phải làm lợi cho người khác vì Thiên Chúa ban trái đất chung cho mọi người[25]. Đó là mục tiêu phổ quát của các phương tiện vật chất và nhờ đó tạo ra một thế giới công bằng và liên đới [26] . Người sở hữu vật chất còn được mời gọi để sống tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu Kitô vì Người giàu có vô song nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó để chúng ta trở thành giàu có như Người (x. 2Cr 8,9).
3. Giáo Hội xây dựng nền văn hoá này bằng cách nào?
Phương cách quan trọng được Giáo Hội cổ vũ là hội nhập văn hoá (HNVH)[27].
Hội nhập là hoà mình vào trong một cộng đồng lớn. Ví dụ: Việt Nam hội nhập vào khối ASEAN. HNVH là hoà mình vào trong nền văn hoá hay đúng hơn là chấp nhận một hệ thống giá trị mới.
Chủ thể hội nhập ở đây được xác định là một cá nhân hay một tập thể (cộng đồng Giáo Hội) tiếp nhận một phần hay toàn bộ hệ thống giá trị đã có sẵn của một dân tộc nào đó. Ví dụ các thừa sai nước ngoài đến giảng đạo đã học tiếng Việt, ăn mặc như người Việt, trình bày giáo lý theo cách hiểu của người Việt. Như thế là họ đã hội nhập vào nền văn hoá Việt Nam.
Chủ thể hội nhập trước hết hiểu là Giáo Hội. "Nhờ HNVH, về phần mình, Giáo Hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn giúp người ta hiểu bản chất của mình, đồng thời Giáo Hội cũng trở thành một dụng cụ đắc lực hơn để thi hành sứ mạng (x. Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 52). Sự liên kết với các nền văn hoá luôn luôn là một phần trong cuộc hành trình của Giáo Hội qua lịch sử" [28].
Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô giáo hội nhập vào các nền văn hoá của châu Á[29]. "Thánh Thần đã cho chúng ta hiểu biết chân lý toàn diện, thì cũng có thể giúp chúng ta đối thoại với các giá trị văn hoá và tôn giáo của các dân tộc được kết quả"[30] .
Ngoài tác nhân chính là Chúa Thánh Thần, chủ thể hội nhập chính là Giáo Hội được hiểu như là cộng đồng Kitô hữu. Những con người này, có một nền văn hoá riêng, nghĩa là có cả một hệ thống giá trị vật chất cũng như tinh thần được sáng tạo và tích luỹ qua dòng lịch sử. Bây giờ Giáo Hội gặp gỡ và đối thoại với một nền văn hoá nào đó, "trong quá trình gặp gỡ các nền văn hoá khác nhau của thế giới, Giáo Hội chẳng những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình, cũng như đổi mới các nền văn hoá ấy từ bên trong, mà còn thu dụng nhiều yếu tố tích cực có sẵn từ các nền văn hoá khác nhau ấy"[31].
Hơn nữa, việc HNVH bao gồm nhiều giá trị trên các lĩnh vực khác nhau, nên chủ thể hội nhập có thể trao đổi, gặp gỡ và đón nhận các giá trị trên nhiều bình diện khác nhau. Vì thế, ĐTC nói đến việc đưa Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, hay đưa những giá trị về đức tin, thần học, phụng vụ, linh đạo, huấn giáo của Kitô giáo hội nhập vào một nền văn hoá nhất định [32].
Kết luận
Nhìn vào cộng đồng xã hội Việt Nam, người Công Giáo chúng ta không thể không ưu tư vì số người biết Đức Giêsu hãy còn quá ít sau hàng trăm năm loan báo Tin Mừng cũng như tình trạng suy thoái về văn hoá và đạo đức của dân tộc. Chúng ta chỉ có thể cải thiện tình trạng này bằng cách xây dựng nền văn hoá toàn diện và liên đới với những cố gắng hội nhập văn hoá của mọi thành phần dân Chúa.
Câu hỏi gợi ý
1. Giáo Hội muốn xây dựng nền văn hoá với những đặc điểm nào nào?
2. Việc hội nhập văn hoá được diễn tả qua những mối tương quan nào?
[1] Xem Mục lục phân tích chủ đề, mục từ Văn hoá, cúa sách Công đồng Chung Vaticanô II, năm 2012, tr 1025; sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, năm 2010, tr 1063; sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, tr 686-689; sách Docat, năm 2017, tr 112,242,76,155,243,45,102,277-278.
[2] X. Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr 1409
[3] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[4] X. CĐ. Vat.II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 10
[5] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, xuất bản năm 2007, số 62
[6] Sách Công đồng Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012, số 22
[7] X. Sách Công đồng Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012, số 22
[8] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 575-580
[9] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 431
[10] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 583
[11] X. HTXHCG, số 127; CĐ. Vat.II HCMV Gaudium et Spes, số 14
[12] Câu cách ngôn của người Rôma: Mens sana in corpore sano.
[13] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 128
[14] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 131
[15] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 131 số 128; CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 14)
[16] CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 13
[17] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 128,129,130
[18] X. CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 12; Sách Tóm lược HTXHCG, số 130
[19] X. CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 16
[20] X. CĐ. Vat.II, HC Gaudium et Spes, số 20
[21] X. Báo Tuổi Trẻ, ngày 9/3/2009
[22] X. CĐ. Vat.II, Gaudium et Spes, số 15
[23] X. CĐ. Vat.II, Gaudium et Spes, số 22
[24] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 176
[25] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 177
[26] X. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo, năm 2007, số 174
[27] X. Như được nói đến trong Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 13; Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 20; Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, số 52. Trong tông huấn Giáo hội tại Châu Á, ĐTC Gioan Phaolô II nhắc đi nhắc lại từ này nhiều lần, đặc biệt ở số 21 (4 lần) và 22 (10 lần).
[28] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[29] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[30] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[31] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21
[32] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 22