LTS: Nhằm mục đích giúp độc giả hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ViệtCatholic, trong mục Khảo Cứu, sẽ lần lượt trích đăng lược sử 26 giáo phận Việt Nam.. Kinh mong quý độc giả theo dõi.
A. Lược Sử Giáo Phận Bà Rịa
1. Ðịa Danh Bà Rịa
Bà Rịa xa xưa là đất Chiêm Thành gồm cả một vùng rộng lớn từ Biên Hòa đến Bình Thuận. Năm 650 – 655, vùng này bị Thủy Chân Lạp thôn tính và đặt tên là nước Lịa, Lục Ðịa Thiết; về sau người địa phương đọc trại ra là Bà Rịa theo thổ âm.
2. Ðịa Hạt Bà Rịa
Linh mục JB. Errard, thuộc Hội Thừa sai Paris, là cha xứ Bà Rịa từ năm 1874 đến 1887, đã tường trình về địa hạt Bà Rịa có trước năm 1862. Ðịa hạt này gồm có năm họ đạo: Ðất Ðỏ là họ đạo chính có khoảng 1.100 giáo dân; Thôn bây giờ gọi là họ Long Tân có 500 giáo dân; Dinh bây giờ gọi là Phước Lễ (Bà Rịa) có 400 giáo dân; Thành bây giờ gọi là họ Long Ðiền có 200 giáo dân và Gò Sầm có 100 giáo dân. Như thế, địa hạt Bà Rịa lúc đó chỉ có tổng cộng 2.300 giáo dân.
3. Ðôi dòng tóm lược sự hình thành giáo phận Bà Rịa
Giáo phận Bà Rịa được tách từ giáo phận Xuân Lộc năm 2005, là một trong các giáo phận đàn em, nhưng việc sống Tin Mừng đã phát triển tại đây rất sớm (khoảng năm 1698). Trên 300 năm hình thành và phát triển, nhờ ơn Chúa và sự góp sức chung lòng của các thừa sai: dòng Tên, Hội Thừa Sai Paris, thừa sai thuộc Thánh Bộ, dòng Phanxicô, các linh mục, tu sĩ và giáo dân vùng Vũng Tàu – Bà Rịa đã viết nên trang sử của mình và góp phần vào trang sử Giáo hội Việt Nam.
Từ sắc chỉ cấm đạo của nhà Nguyễn năm 1630-1665, và cuộc khai phá đất Phương Nam (1698), các Kitô hữu đến vùng đất Bar-Ya hay Ba-ria (Bà Rịa), Dou-nai (Ðồng Nai), Ben-go (Bến Gỗ), Dat-do (Ðất Ðỏ)… để yên bề sinh sống và giữ đạo. Họ được các thừa sai dòng Tên đi theo phục vụ. Năm 1670, ở Xích Lam (Ðất Ðỏ), gần Bà Rịa đã có gần 300 gia đình Công Giáo. Năm 1692, Ðức cha F. Pérez kinh lý các họ đạo tại vùng Bến Gỗ. Theo Ðức cha M. Labbé, năm 1670, “miền Ðồng Nai có ít nhất trên 2.000 giáo dân”. Sự việc các cha dòng Tên ở Ðồng Nai, được cha Juan Antonio nhắc tới từ năm 1700, cụ thể năm 1738, cha Johann Grueber phục vụ 8.000 giáo hữu. Ngày 2-7-1740, Ðức cha E.F. de la Baume (khâm sai Tòa Thánh) ra nghị định phân chia địa sở cho các thừa sai hoạt động, trong đó Ðồng Nai được trao cho các cha dòng Tên coi sóc (trừ Bến Gỗ thuộc Hội Thừa Sai Paris). Theo cha Adrien Launay, năm 1747, vùng Ðồng Nai có số giáo hữu như: Ben-go (Bến Gỗ) 200 giáo hữu thuộc Hội Thừa Sai Paris. Các cha dòng Tên coi sóc: R. Dou-nai (Ðồng Nai) 400, Ben-go (Bến Gỗ) 250, Da-lua 500, Ke-tat 70, Dou-mon 40, R. Moxoai (Mô Xoài) 400, Ba-ria (Bà Rịa) 140, Nui-nua (Núi Nứa) 50 và Ðất Ðỏ 380.
Năm 1844, giáo phận Ðàng Trong được chia thành hai: Ðông Ðàng Trong (Quy Nhơn) và Tây Ðàng Trong (Saigòn). Tây Ðàng Trong gồm 6 tỉnh Nam Kỳ, xứ Cao Miên (Khơ Me) và các tỉnh phía Nam Ai Lao. Vùng đất Bà Rịa, Vũng Tàu, có đông giáo hữu thuộc giáo phận Tây Ðàng Trong do Ðức cha D. Lefèbvre Ngãi coi sóc.
Năm 1850, Tòa Thánh tách trọn phần đất Khơ Me để thành lập giáo phận mới gọi là Nam Vang, trao cho Ðức cha J.C. Miche Mịch coi sóc. Từ ngày phân chia giáo phận đến hết năm 1862, các thừa sai, linh mục, tu sĩ và giáo dân thuộc giáo phận Bà Rịa ngày nay đã phải gánh chịu cơn bách hại cách tàn khốc. Ngoài các bản án được triều đình phê chuẩn cụ thể như vụ thiêu sinh 4 ngục: ngục Dinh (Phước Lễ), ngục Thơm (Long Kiên), ngục Thành (Long Ðiền) và ngục Ðất Ðỏ (Phước Thọ) gồm 700 người. Ðêm 7-1-1862), nhà cầm quyền cho đốt bốn ngục thiêu sinh 444 giáo hữu thuộc 5 họ lẻ: Ðất Ðỏ, Thơm, Dinh, Thành, Gò Sâm (Thạnh Mỹ) hạt Bà Rịa, các vị tử đạo được thừa sai Croc Hòa và cha Trí mai táng trong ba ngôi mộ thập thể ngày 8-1-1862.
Năm 1924, giáo phận Tây Ðàng Trong được đổi tên thành giáo phận Sàigòn. Năm 1954, gần 800.000 người Công Giáo từ Bắc Việt di cư vào Nam và ở rải rác khắp các tỉnh từ miền Trung trở vào, một số rất đông đã tụ về miền Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tàu tạo nên các xứ đạo mới như Hố Nai, Gia Kiệm, Phương Lâm, Vũng Tàu… Năm 1960, Tòa Thánh chia giáo phận Saigòn thành 3 giáo phận: một giữ tên cũ giáo phận Saigòn, giáo phận Ðà Lạt và giáo phận Mỹ Tho. Vùng đất giáo phận Xuân Lộc thuộc giáo phận Saigòn.
Ngày 14-10-1965, Ðức Phaolô VI ban sắc chỉ tách giáo phận Saigòn thành 3 giáo phận: giáo phận Saigòn vẫn giữ tên cũ, giáo phận Phú Cường và giáo phận Xuân Lộc. Giáo phận Xuân Lộc gồm 3 tỉnh: Long Khánh, Biên Hòa và Phước Tuy (Bà Rịa). Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức cha Giuse Lê Văn Ấn làm giám mục tiên khởi. Khi thành lập, giáo phận Xuân Lộc gồm: 164.144 giáo dân trong tổng số dân 521.595 người với 133 giáo xứ, 135 linh mục triều, 19 linh mục dòng, 50 tu sĩ (La San, Gioan Thiên Chúa, Xitô, Ða Minh), 200 nữ tu (Thánh Phaolô, Mến Thánh Giá, Ða Minh). Năm 1974, có 374.560 giáo hữu trên tổng số 1.048.164 dân cư với 155 giáo xứ, 218 linh mục triều, 25 linh mục dòng, 97 đại chủng sinh, 215 tiểu chủng sinh, 109 tu sĩ, 949 nữ tu, 168 trường trung – tiểu học.
Ðức cha Giuse Lê Văn Ấn đã mở mang giáo phận Xuân Lộc về mọi phương diện. Ngài đã xây dựng những cơ sở cần thiết cho giáo phận như tòa Giám mục Xuân Lộc, chủng viện, Trung Tâm Hành Hương Ðức Mẹ Bãi Dâu. Ngày 17-6-1974, ngài đã qua đời sau một cơn bạo bệnh.
Ðức cha Ða Minh Nguyễn Văn Lãng được Tòa Thánh chỉ định làm Giám mục Chính Tòa Giáo phận Xuân Lộc ngày 11-8-1974. Từ giữa năm 1975, tình hình chính trị Việt Nam thay đổi, Ðức cha Ða Minh đã sáng suốt lèo lái con thuyền giáo phận Xuân Lộc trong những khó khăn thử thách lớn lao.
Vì nhu cầu mục vụ của giáo phận Xuân Lộc ngày càng tăng, Ðức cha Ða Minh, với sự chấp thuận của Tòa Thánh, đã làm lễ tấn phong giám mục cho cha Phaolô Nguyễn Minh Nhật và đặt ngài làm Giám Mục phó Giáo phận Xuân Lộc ngày 16-7-1975.
Ngày 22-2-1988, Ðức cha Ða Minh Nguyễn Văn Lãng đột ngột qua đời, Ðức cha Nguyễn Minh Nhật lên làm giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc trong thời kỳ đất nước đang đổi mới. Ngài đã tích cực xây dựng giáo phận, nhất là thúc đẩy phong trào học hỏi giáo lý trong toàn giáo phận, đào tạo Hội Ðồng Giáo Xứ và đặc biệt đào tạo các ơn gọi linh mục.
Năm 1992, cha Tôma Nguyễn Văn Trâm được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Xuân Lộc. Ngài được tấn phong ngày 7-5-1992.
Ngày 30-9-2004, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Ða Minh Nguyễn Chu Trinh làm giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc. Ngày 11-11-2004, lễ tấn phong giám mục được tổ chức tại nhà thờ Chính tòa Giáo phận Xuân Lộc, cũng ngày này Ðức cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật chính thức nghỉ hưu.
Ngày 22 tháng 11 năm 2005, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã thiết lập Tân Giáo Phận Bà Rịa, tách ra từ Giáo phận Xuân Lộc, thuộc Giáo Tỉnh Sài Gòn, vừa đồng thời bổ nhiệm Ðức Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, làm Giám mục Chính toà tiên khởi của tân Giáo phận Bà Rịa. Nhà thờ giáo xứ Bà Rịa, được dâng kính hai thánh tông đồ Giacôbê và Philipphê, trở thành Nhà Thờ Chánh Toà.
Giáo phận Bà Rịa nằm trọn trong địa giới hành chính của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với diện tích 1.975 km2, dân cư 1.027.226 người, trong đó, số tín hữu Công Giáo chiếm khoảng 24, 2% ( thống kê năm 2011). Số linh mục giáo phận là 106; số linh mục dòng: 58, nam tu: 215, nữ tu: 568, chủng sinh: 50 và tu sinh: 102 ( thống kê tháng 01 năm 2013 ).
4. Ký Ức Hào Hùng của Giáo phận Bà Rịa
Khi quân đội Pháp, năm 1861, thôn tính Sài Gòn – Gia Ðịnh và sẵn sàng tấn công Vũng Tàu Bà Rịa, quan quân triều Nguyễn đã bắt giam các tín hữu cư ngụ tại địa hạt Bà Rịa vào bốn trại giam:
a. Trại giam chính ở Bà Rịa giam cầm 300 đàn ông. Ngày nay còn di tích là Nhà Mồ các vị tử đạo Bà Rịa.
b. Trại giam thứ hai ở Long Ðiền, giam cầm 135 người. Còn vết tích là cây Thánh giá ở đất thánh họ Long Ðiền bây giờ.
c. Trại giam thứ ba ở họ Long Tân giam cầm 140 người.
d. Trại giam thứ tư là ở Ðất Ðỏ giam cầm 125 phụ nữ và trẻ em. Bây giờ còn mộ bia tại công viên Ðất Ðỏ.
Ngày 07 tháng 01 năm 1862, từ Vũng Tàu quân đội Pháp tiến công về Bà Rịa, quan quân triều Nguyễn trước khi rút lui đã thiêu sống các tín hữu ở cả bốn trại giam trên. Tổng số giáo dân bị chết thiêu là 444 người gồm có 288 đàn ông và 156 phụ nữ và trẻ em. Linh mục JB. Errard đã ghi bia đá danh sách 300 người và an táng chung tại huyệt mộ Bà Rịa. Ngôi Nhà thờ Mồ các vị tử đạo Bà Rịa vẫn tồn tại với năm tháng nơi quê hương này và đã trở thành chứng tích hào hùng của các chiến sĩ đức tin lấy máu mình làm nảy sinh các tín hữu, lấy mạng sống mình để vun đắp sự sống cho con cháu, là đức tin sống động đang lưu thông trong huyết quản từng tín hữu Bà Rịa hôm qua, hôm nay và mãi về sau.
B. Ðịa Lý
1. Ranh giới:
Giáo Phận Bà Rịa nằm trọn trong địa giới hành chính của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với diện tích 1.975 km2. Phía Ðông giáp giáo phận Phan Thiết. Phía Tây giáp giáo phận Saigòn. Phía Nam giáp Biển Ðông. Phía Bắc giáp giáo phận Xuân Lộc.
2. Sông Núi:
Thành phố Bà Rịa, tỉnh lỵ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, gồm núi thấp và đồng bằng nhỏ ở ven biển. Như núi Dinh 125m; núi Lé 265m… Trong tỉnh có sông Cỏ Chi, sông Ray, sông Cá…
Thành phố Vũng Tàu là một thành phố du lịch và dầu khí, có 4 ngọn núi chính là núi Hòn Sụp cao 250m, núi Tương Kỳ 249m, núi Vũng Mây 240m và núi Tao Phùng 170m.
Sông lớn nhất là sông Dinh dài 11km, rạch Cây Khế dài 6km; rạch Bà dài 8km.
GP. Bà Rịa
A. Lược Sử Giáo Phận Bà Rịa
1. Ðịa Danh Bà Rịa
2. Ðịa Hạt Bà Rịa
Linh mục JB. Errard, thuộc Hội Thừa sai Paris, là cha xứ Bà Rịa từ năm 1874 đến 1887, đã tường trình về địa hạt Bà Rịa có trước năm 1862. Ðịa hạt này gồm có năm họ đạo: Ðất Ðỏ là họ đạo chính có khoảng 1.100 giáo dân; Thôn bây giờ gọi là họ Long Tân có 500 giáo dân; Dinh bây giờ gọi là Phước Lễ (Bà Rịa) có 400 giáo dân; Thành bây giờ gọi là họ Long Ðiền có 200 giáo dân và Gò Sầm có 100 giáo dân. Như thế, địa hạt Bà Rịa lúc đó chỉ có tổng cộng 2.300 giáo dân.
3. Ðôi dòng tóm lược sự hình thành giáo phận Bà Rịa
Giáo phận Bà Rịa được tách từ giáo phận Xuân Lộc năm 2005, là một trong các giáo phận đàn em, nhưng việc sống Tin Mừng đã phát triển tại đây rất sớm (khoảng năm 1698). Trên 300 năm hình thành và phát triển, nhờ ơn Chúa và sự góp sức chung lòng của các thừa sai: dòng Tên, Hội Thừa Sai Paris, thừa sai thuộc Thánh Bộ, dòng Phanxicô, các linh mục, tu sĩ và giáo dân vùng Vũng Tàu – Bà Rịa đã viết nên trang sử của mình và góp phần vào trang sử Giáo hội Việt Nam.
Từ sắc chỉ cấm đạo của nhà Nguyễn năm 1630-1665, và cuộc khai phá đất Phương Nam (1698), các Kitô hữu đến vùng đất Bar-Ya hay Ba-ria (Bà Rịa), Dou-nai (Ðồng Nai), Ben-go (Bến Gỗ), Dat-do (Ðất Ðỏ)… để yên bề sinh sống và giữ đạo. Họ được các thừa sai dòng Tên đi theo phục vụ. Năm 1670, ở Xích Lam (Ðất Ðỏ), gần Bà Rịa đã có gần 300 gia đình Công Giáo. Năm 1692, Ðức cha F. Pérez kinh lý các họ đạo tại vùng Bến Gỗ. Theo Ðức cha M. Labbé, năm 1670, “miền Ðồng Nai có ít nhất trên 2.000 giáo dân”. Sự việc các cha dòng Tên ở Ðồng Nai, được cha Juan Antonio nhắc tới từ năm 1700, cụ thể năm 1738, cha Johann Grueber phục vụ 8.000 giáo hữu. Ngày 2-7-1740, Ðức cha E.F. de la Baume (khâm sai Tòa Thánh) ra nghị định phân chia địa sở cho các thừa sai hoạt động, trong đó Ðồng Nai được trao cho các cha dòng Tên coi sóc (trừ Bến Gỗ thuộc Hội Thừa Sai Paris). Theo cha Adrien Launay, năm 1747, vùng Ðồng Nai có số giáo hữu như: Ben-go (Bến Gỗ) 200 giáo hữu thuộc Hội Thừa Sai Paris. Các cha dòng Tên coi sóc: R. Dou-nai (Ðồng Nai) 400, Ben-go (Bến Gỗ) 250, Da-lua 500, Ke-tat 70, Dou-mon 40, R. Moxoai (Mô Xoài) 400, Ba-ria (Bà Rịa) 140, Nui-nua (Núi Nứa) 50 và Ðất Ðỏ 380.
Năm 1844, giáo phận Ðàng Trong được chia thành hai: Ðông Ðàng Trong (Quy Nhơn) và Tây Ðàng Trong (Saigòn). Tây Ðàng Trong gồm 6 tỉnh Nam Kỳ, xứ Cao Miên (Khơ Me) và các tỉnh phía Nam Ai Lao. Vùng đất Bà Rịa, Vũng Tàu, có đông giáo hữu thuộc giáo phận Tây Ðàng Trong do Ðức cha D. Lefèbvre Ngãi coi sóc.
Năm 1850, Tòa Thánh tách trọn phần đất Khơ Me để thành lập giáo phận mới gọi là Nam Vang, trao cho Ðức cha J.C. Miche Mịch coi sóc. Từ ngày phân chia giáo phận đến hết năm 1862, các thừa sai, linh mục, tu sĩ và giáo dân thuộc giáo phận Bà Rịa ngày nay đã phải gánh chịu cơn bách hại cách tàn khốc. Ngoài các bản án được triều đình phê chuẩn cụ thể như vụ thiêu sinh 4 ngục: ngục Dinh (Phước Lễ), ngục Thơm (Long Kiên), ngục Thành (Long Ðiền) và ngục Ðất Ðỏ (Phước Thọ) gồm 700 người. Ðêm 7-1-1862), nhà cầm quyền cho đốt bốn ngục thiêu sinh 444 giáo hữu thuộc 5 họ lẻ: Ðất Ðỏ, Thơm, Dinh, Thành, Gò Sâm (Thạnh Mỹ) hạt Bà Rịa, các vị tử đạo được thừa sai Croc Hòa và cha Trí mai táng trong ba ngôi mộ thập thể ngày 8-1-1862.
Năm 1924, giáo phận Tây Ðàng Trong được đổi tên thành giáo phận Sàigòn. Năm 1954, gần 800.000 người Công Giáo từ Bắc Việt di cư vào Nam và ở rải rác khắp các tỉnh từ miền Trung trở vào, một số rất đông đã tụ về miền Xuân Lộc, Bà Rịa, Vũng Tàu tạo nên các xứ đạo mới như Hố Nai, Gia Kiệm, Phương Lâm, Vũng Tàu… Năm 1960, Tòa Thánh chia giáo phận Saigòn thành 3 giáo phận: một giữ tên cũ giáo phận Saigòn, giáo phận Ðà Lạt và giáo phận Mỹ Tho. Vùng đất giáo phận Xuân Lộc thuộc giáo phận Saigòn.
Ngày 14-10-1965, Ðức Phaolô VI ban sắc chỉ tách giáo phận Saigòn thành 3 giáo phận: giáo phận Saigòn vẫn giữ tên cũ, giáo phận Phú Cường và giáo phận Xuân Lộc. Giáo phận Xuân Lộc gồm 3 tỉnh: Long Khánh, Biên Hòa và Phước Tuy (Bà Rịa). Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức cha Giuse Lê Văn Ấn làm giám mục tiên khởi. Khi thành lập, giáo phận Xuân Lộc gồm: 164.144 giáo dân trong tổng số dân 521.595 người với 133 giáo xứ, 135 linh mục triều, 19 linh mục dòng, 50 tu sĩ (La San, Gioan Thiên Chúa, Xitô, Ða Minh), 200 nữ tu (Thánh Phaolô, Mến Thánh Giá, Ða Minh). Năm 1974, có 374.560 giáo hữu trên tổng số 1.048.164 dân cư với 155 giáo xứ, 218 linh mục triều, 25 linh mục dòng, 97 đại chủng sinh, 215 tiểu chủng sinh, 109 tu sĩ, 949 nữ tu, 168 trường trung – tiểu học.
Ðức cha Giuse Lê Văn Ấn đã mở mang giáo phận Xuân Lộc về mọi phương diện. Ngài đã xây dựng những cơ sở cần thiết cho giáo phận như tòa Giám mục Xuân Lộc, chủng viện, Trung Tâm Hành Hương Ðức Mẹ Bãi Dâu. Ngày 17-6-1974, ngài đã qua đời sau một cơn bạo bệnh.
Ðức cha Ða Minh Nguyễn Văn Lãng được Tòa Thánh chỉ định làm Giám mục Chính Tòa Giáo phận Xuân Lộc ngày 11-8-1974. Từ giữa năm 1975, tình hình chính trị Việt Nam thay đổi, Ðức cha Ða Minh đã sáng suốt lèo lái con thuyền giáo phận Xuân Lộc trong những khó khăn thử thách lớn lao.
Vì nhu cầu mục vụ của giáo phận Xuân Lộc ngày càng tăng, Ðức cha Ða Minh, với sự chấp thuận của Tòa Thánh, đã làm lễ tấn phong giám mục cho cha Phaolô Nguyễn Minh Nhật và đặt ngài làm Giám Mục phó Giáo phận Xuân Lộc ngày 16-7-1975.
Ngày 22-2-1988, Ðức cha Ða Minh Nguyễn Văn Lãng đột ngột qua đời, Ðức cha Nguyễn Minh Nhật lên làm giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc trong thời kỳ đất nước đang đổi mới. Ngài đã tích cực xây dựng giáo phận, nhất là thúc đẩy phong trào học hỏi giáo lý trong toàn giáo phận, đào tạo Hội Ðồng Giáo Xứ và đặc biệt đào tạo các ơn gọi linh mục.
Năm 1992, cha Tôma Nguyễn Văn Trâm được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Xuân Lộc. Ngài được tấn phong ngày 7-5-1992.
Ngày 30-9-2004, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Ða Minh Nguyễn Chu Trinh làm giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc. Ngày 11-11-2004, lễ tấn phong giám mục được tổ chức tại nhà thờ Chính tòa Giáo phận Xuân Lộc, cũng ngày này Ðức cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật chính thức nghỉ hưu.
Ngày 22 tháng 11 năm 2005, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã thiết lập Tân Giáo Phận Bà Rịa, tách ra từ Giáo phận Xuân Lộc, thuộc Giáo Tỉnh Sài Gòn, vừa đồng thời bổ nhiệm Ðức Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, làm Giám mục Chính toà tiên khởi của tân Giáo phận Bà Rịa. Nhà thờ giáo xứ Bà Rịa, được dâng kính hai thánh tông đồ Giacôbê và Philipphê, trở thành Nhà Thờ Chánh Toà.
Giáo phận Bà Rịa nằm trọn trong địa giới hành chính của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với diện tích 1.975 km2, dân cư 1.027.226 người, trong đó, số tín hữu Công Giáo chiếm khoảng 24, 2% ( thống kê năm 2011). Số linh mục giáo phận là 106; số linh mục dòng: 58, nam tu: 215, nữ tu: 568, chủng sinh: 50 và tu sinh: 102 ( thống kê tháng 01 năm 2013 ).
4. Ký Ức Hào Hùng của Giáo phận Bà Rịa
Khi quân đội Pháp, năm 1861, thôn tính Sài Gòn – Gia Ðịnh và sẵn sàng tấn công Vũng Tàu Bà Rịa, quan quân triều Nguyễn đã bắt giam các tín hữu cư ngụ tại địa hạt Bà Rịa vào bốn trại giam:
a. Trại giam chính ở Bà Rịa giam cầm 300 đàn ông. Ngày nay còn di tích là Nhà Mồ các vị tử đạo Bà Rịa.
b. Trại giam thứ hai ở Long Ðiền, giam cầm 135 người. Còn vết tích là cây Thánh giá ở đất thánh họ Long Ðiền bây giờ.
c. Trại giam thứ ba ở họ Long Tân giam cầm 140 người.
d. Trại giam thứ tư là ở Ðất Ðỏ giam cầm 125 phụ nữ và trẻ em. Bây giờ còn mộ bia tại công viên Ðất Ðỏ.
Ngày 07 tháng 01 năm 1862, từ Vũng Tàu quân đội Pháp tiến công về Bà Rịa, quan quân triều Nguyễn trước khi rút lui đã thiêu sống các tín hữu ở cả bốn trại giam trên. Tổng số giáo dân bị chết thiêu là 444 người gồm có 288 đàn ông và 156 phụ nữ và trẻ em. Linh mục JB. Errard đã ghi bia đá danh sách 300 người và an táng chung tại huyệt mộ Bà Rịa. Ngôi Nhà thờ Mồ các vị tử đạo Bà Rịa vẫn tồn tại với năm tháng nơi quê hương này và đã trở thành chứng tích hào hùng của các chiến sĩ đức tin lấy máu mình làm nảy sinh các tín hữu, lấy mạng sống mình để vun đắp sự sống cho con cháu, là đức tin sống động đang lưu thông trong huyết quản từng tín hữu Bà Rịa hôm qua, hôm nay và mãi về sau.
B. Ðịa Lý
1. Ranh giới:
Giáo Phận Bà Rịa nằm trọn trong địa giới hành chính của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với diện tích 1.975 km2. Phía Ðông giáp giáo phận Phan Thiết. Phía Tây giáp giáo phận Saigòn. Phía Nam giáp Biển Ðông. Phía Bắc giáp giáo phận Xuân Lộc.
2. Sông Núi:
Thành phố Bà Rịa, tỉnh lỵ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, gồm núi thấp và đồng bằng nhỏ ở ven biển. Như núi Dinh 125m; núi Lé 265m… Trong tỉnh có sông Cỏ Chi, sông Ray, sông Cá…
Thành phố Vũng Tàu là một thành phố du lịch và dầu khí, có 4 ngọn núi chính là núi Hòn Sụp cao 250m, núi Tương Kỳ 249m, núi Vũng Mây 240m và núi Tao Phùng 170m.
Sông lớn nhất là sông Dinh dài 11km, rạch Cây Khế dài 6km; rạch Bà dài 8km.
GP. Bà Rịa