Lược Sử Giáo Phận Bùi Chu
I. LƯỢC SỬ
Bùi Chu là mảnh đất được diễm phúc đón nhận hạt giống Tin Mừng đầu tiên tại Việt Nam. Theo Khâm Định Việt Sử:
«Giatô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân danh Inêxu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thủy chi Trà Lũ âm dĩ Giatô tả đạo truyền giáo – Tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533), đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là Inêxu lén lút đến làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy và làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân, ngấm ngầm truyền tả đạo Giatô» (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển XXXIII, tờ 5-6).
«Trước kia, vào khoảng năm Nguyên Hoà (1533-1548) đời Lê Trang Tông, Inêxu, người Tây Dương, mới đem đạo ấy vào vùng ven biển, thuộc huyện Giao Thuỷ, huyện Nam Chân, lén lút truyền giáo, gọi là “đạo Thiên Chúa” cũng gọi là “Thập tự giáo”. Giáo lý này dùng thiên đường địa ngục để phân biệt báo ứng về điều thiện, điều ác, cũng gần giống đạo Phật, có thêm vào thuyết xưng tội, rửa tội nữa» (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển XLI, tờ 24-25).
Sự kiện này đã ghi đậm một dấu mốc lịch sử của Giáo Hội Việt Nam. Nó không chỉ khai mở công cuộc truyền giáo ở Việt Nam, mà còn đặt Bùi Chu vào những trang đầu và trở thành trung tâm truyền giáo ở giáo phận Đàng Ngoài trong những thế kỷ kế tiếp.
Bùi Chu còn thêm vào trang sử hào hùng của Giáo Hội Việt Nam: 26 vị thánh tử vì đạo sinh quán tại giáo phận Bùi Chu và 18 vị phục vụ tại đây trong số 117 vị thánh tử vì đạo nước Việt Nam. Đó là 44 vị hiển thánh tử vì đạo đại diện cho 514 tôi tớ Chúa và khoảng 16.500 vị anh hùng tử vì đạo đã chết để làm chứng cho Chúa, thuộc hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và giáo dân trong giáo phận Bùi Chu.
Ngày 9/9/1659, khi Toà Thánh chính thức thành lập 2 giáo phận đầu tiên tại Việt Nam thì vùng đất của giáo phận Bùi Chu đã có đông giáo hữu thuộc giáo phận Đàng Ngoài do các thừa sai dòng Tên rồi đến các cha dòng Đa Minh phục vụ.
Năm 1668, Đức cha Pierre Lambert de la Motte đã truyền chức linh mục cho 4 thầy người Việt đầu tiên tại Xiêm (Thái Lan), trong đó có cha Gioan Huệ (1668-1671) được cử về phục vụ ở Kiên Lao giáo phận Bùi Chu.
Ngày 19/2/1670, Đức cha đã lập dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao và chủ lễ khấn dòng cho hai nữ tu tiên khởi là chị Paola và chị Anê. Cũng năm đó, Kiên Lao là giáo xứ có đông giáo hữu nhất trong giáo phận Đàng Ngoài (hơn 2000 tín hữu) và cha Simon Kiên (nguyên quán), 1 trong 7 linh mục thuộc lớp linh mục người Việt thứ hai được truyền chức tại công đồng Phố Hiến (Hưng Yên), đã phục vụ rồi qua đời tại đây (1670-1684).
Ngày 15/11/1679, giáo phận Đàng Ngoài được chia thành hai: giáo phận Đông do Đức cha Deydier Điển coi sóc và giáo phận Tây do Đức cha Bourges coi sóc. Suốt thời gian 1679-1848, Toà giám mục thường được đặt tại Lục Thủy Hạ (Liên Thủy), Trà Lũ, Trung Linh và Bùi Chu. Từ năm 1757, Toà Thánh trao giáo phận Đông cho các cha dòng Đa Minh coi sóc và đảm nhiệm việc truyền giáo.
Năm 1848, Toà Thánh tách giáo phận Đông Đàng Ngoài: một giữ tên giáo phận cũ và một lấy tên giáo phận Trung (nằm giữa giáo phận Đông và Tây). Giáo phận mới tuy nhỏ bé về địa lý nhưng giáo dân lại nhiều gấp ba lần giáo phận Đông (139.000 tín hữu).
Trong thời gian này, Giáo Hội Việt Nam gặp biết bao gian nan thử thách, do các sắc chỉ cấm đạo của các vua quan, đặc biệt là đời các vua Minh Mạng và Tự Đức. Tưởng chừng Kitô giáo bị xoá sổ tại Bùi Chu, thì vào năm 1858, Đức cha Valentinô Berrio Ochoa Vinh và cha chính Emmanuel Riaño Hoà đã khấn dâng giáo phận cho Đức Mẹ: “Vì lời cầu bầu của Đức Mẹ, khi Thiên Chúa cho giáo dân thoát khỏi cơn bắt bớ đạo và được sống bình an, thì sẽ xây cất một thánh đường xứng đáng dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và nhận Người làm bổn mạng của giáo phận”. Sau nhiều lần xây dựng, đền thánh Phú Nhai hiện nay (xức dầu thánh hiến trọng thể ngày 7/12/1933) là chứng tích tình Mẹ che chở giáo phận và lòng yêu mến của toàn thể con cái Bùi Chu đối với Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Ngày 3/12/1924, tất cả các giáo phận ở Việt Nam đều được đổi tên theo địa hạt hành chính nơi đặt toà giám mục, giáo phận Trung được đổi tên thành giáo phận Bùi Chu do Đức cha Pedro Muñagorri Trung coi sóc.
Giáo phận Bùi Chu trở nên quá lớn đối với một chủ chăn. Ngày 9/3/1936, Toà Thánh chia giáo phận làm hai: giáo phận Bùi Chu do Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn, vị giám mục bản quốc thứ hai cai quản, và giáo phận Thái Bình vẫn do các vị thừa sai dòng Đa Minh cai quản. Điều đó chứng tỏ giáo phận Bùi Chu đã có sự trưởng thành khá vững chắc. Khi đó, giáo phận gồm 6 huyện tỉnh Nam Định, dân số 944.900, số giáo dân 230.000 (24, 45%), 100 linh mục (không kể linh mục thừa sai dòng Đa Minh), 390 thầy giảng, 520 thánh đường.
Cho đến năm 1954, giáo phận Bùi Chu đã là một giáo phận có sự trưởng thành khá vững chắc với 178 linh mục triều, 14 linh mục dòng, 78 đại chủng sinh, một số lớn nữ tu và khoảng gần 210 ngàn giáo dân trên tổng số gần 900 ngàn người trên địa bàn và 103 giáo xứ. Biến cố ngày 20/7/1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước: Đức cha, cha chính, cha văn phòng cùng với phần lớn các cha (khoảng 142 cha) trong đó có cha giám đốc, ban giáo sư đại chủng viện và chủng sinh, các bề trên và các hội dòng: Gioan Thiên Chúa, Đồng Công, Khiết Tâm (thầy giảng Bùi Chu), Mân Côi, Đa Minh, Mến Thánh Giá và dòng Kín Cát Minh đã di cư vào miền Nam cùng với trên 100.000 giáo dân. Giáo phận rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cả giáo phận còn lại 35 linh mục hầu hết là già yếu, nhiều cha đã về hưu nay phải trở lại coi xứ cùng với 54 thầy giảng và 90 nữ tu.
Trong hoàn cảnh đó, Đức cha Phêrô Phạm Ngọc Chi đã cử cha văn phòng Giuse Phạm Năng Tĩnh trở về miền Bắc với tư cách là đại diện tông toà rồi giám quản giáo phận và được tấn phong giám mục ngày 10/11/1960, tức là trước ít ngày thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam (24/11/1960) với tông hiến Venerabilium Nostrorum của Đức Thánh Cha Gioan XXIII. Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh đã cho thành lập chủng viện Mẫu Tâm với hơn 200 chủng sinh. Ngày 27/11/1960, ngài phong chức linh mục cho 4 thầy giảng trong đó có thầy Giuse Vũ Duy Nhất, sau này làm giám mục.
Từ khi giáo phận tông toà Bùi Chu được nâng lên giáo phận chính toà ngày 24/11/1960, với sự tài tình khôn ngoan của Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, giáo phận đã từng bước vượt qua những chặng đường gian khó. Ngày 8/12/1963 đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức cha đã truyền chức linh mục cho 29 thầy tại đền thánh Phú Nhai. Sự kiện đó như ngày phục sinh của giáo phận, nhiều giáo xứ đã có chủ chiên coi sóc sau nhiều năm không người chăn dắt.
Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh đã chu toàn các nhiệm vụ khác nhau của một vị mục tử khôn ngoan và thánh thiện. Với tư cách là giám mục, giáo sư đại chủng viện, nhà đào tạo cho các chủng sinh và tu sĩ, chăm sóc mục vụ cho 7 giáo xứ với số giáo dân tới 2 vạn người, viết sách và dịch sách…, cuộc đời của ngài thật bề bộn. Vì quá vất vả và thời thế khó khăn, ngài đã lâm trọng bệnh và tạ thế ngày 11/2/1974 lúc tuổi đời vẫn còn trẻ (57 tuổi), trong sự tiếc thương vô vàn của mọi thành phần Dân Chúa.
Sau hơn 1 năm trống toà, ngày 29/6/1975, cha chính giáo phận Đa Minh Lê Hữu Cung được thụ phong giám mục với khẩu hiệu “Adveniat regnum tuum”. Ngài đã phó dâng giáo phận cách đặc biệt cho Thánh Tâm Chúa Giêsu và cổ võ việc sùng kính Thánh Tâm. Vì thế ngài đã nhận tu hội Thánh Tâm vào giáo phận năm 1980. Ngài đã truyền chức linh mục cho 13 thầy trong thầm lặng và đã nhờ các đức cha khác truyền chức linh mục cho 3 thầy tại miền Nam. Ngoài ra ngài cũng nhường cho Đức cha phó Giuse Vũ Duy Nhất truyền chức linh mục cho 6 thầy cũng trong thầm lặng. Với tuổi cao và dày công phúc, Chúa đã gọi Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung về Nhà Cha ngày 12/3/1987. Trên bia mộ tại gian cung thánh nhà thờ Chính Toà Bùi Chu, có ghi: “Nguyện xin cho Nước Chúa trị đến, mục tử trung thành, tông đồ Thánh Tâm Chúa”.
Sau khi Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung qua đởi, Đức cha phó Giuse Vũ Duy Nhất (thụ phong giám mục 8/8/1979) lên làm giám mục chính toà (1987-1999) trong lúc đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới. Ngài đã canh tân cơ cấu tổ chức của giáo phận, phát động các phong trào học hỏi giáo lý, cổ võ và khôi phục các hội đoàn trong giáo phận. Ngài đặc biệt quan tâm việc đào tạo các linh mục. Từ năm 1989, giáo phận có các chủng sinh theo học tại đại chủng viện Hà Nội. Tính đến nay đã có 25 linh mục của các khóa. Cùng lúc đó, được sự giúp đỡ của Đức ông Gioan Trần Văn Hiến Minh, Đức cha đã gửi các chủng sinh vào học trong đại chủng viện Đức Ái tại Sài Gòn, một chủng viện ngoại trú liên giáo phận, học tập và tu luyện theo hiến pháp và chỉ nam gia đình Đức Ái, được Toà Thánh khích lệ với sự giúp đỡ của các vị chủ chăn và các giáo sư chuyên viên tại Sài Gòn, đặc biệt là Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và nhóm các giáo sư gốc Bùi Chu. Có 7 khóa đã tốt nghiệp. Năm 1999, Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất đã truyền chức cho 20 linh mục trong âm thầm. Sau khi hoàn tất công việc của người đầy tớ khôn ngoan và trung thành, ngài đã được Chúa gọi về vào ngày 11/12/1999.
Sau hơn 1 năm trống ngôi, ngày 8/8/2001 giáo phận Bùi Chu có vị chủ chăn mới là Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm. Với nhiều sáng kiến canh tân cơ sở vật chất và đường hướng mục vụ, giáo phận mang một diện mạo mới. 120 linh mục giáo phận đã được phong chức dưới thời ngài. Đợt phong chức nhiều nhất vào năm 2007 gồm 64 linh mục, trong đó có 45 linh mục thuộc Bùi Chu. Ngài cũng gửi nhiều linh mục, tu sĩ và chủng sinh du học, làm nhân sự cho Học viện Thần học và Đại Chủng viện Bùi Chu, được Toà Thánh ban phép thiết lập năm 2009.
Ngày 24/12/2012, Đức cha Tôma Vũ Đình Hiệu được Toà Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó giáo phận Bùi Chu. Lễ nhậm chức được diễn ra ngày 01/2/2013, tại nhà thờ Chính Toà Bùi Chu. Ngày 17/8/2013, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm qua đời, Đức cha Tôma Vũ Đình Hiệu lên kế vị. Tiếp nối công việc của các vị tiền nhiệm, ngài dần đưa giáo phận vào ổn định về cơ cấu tổ chức, tăng cường nhân sự cho các ban ngành.
Nhờ lời cầu bầu của Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Bùi Chu và của Cha thánh Đa Minh, cùng với những hy sinh lơn lao các vị chủ chăn và mọi thành phần Dân Chúa, giáo phận Bùi Chu đã vượt qua những chặng đường gian nan, với bao thăng trầm của lịch sử, để có được những thành quả tốt đẹp như ngày hôm nay.
Sắc chỉ thành lập: việc thành lập giáo phận Bùi Chu đã được Toà Thánh chính thức ban sắc chỉ ba lần:
- Ngày 5/9/1848, Đức Thánh Cha Piô IX ban sắc lệnh Apostolatus Officium, tách giáo phận Đông Đàng Ngoài thành giáo phận Trung gồm tỉnh Hưng Yên, Thái Bình và 6 huyện của tỉnh Nam Định; phần còn lại vẫn mang tên giáo phận Đông.
- Ngày 3/12/1924, Đức Thánh Cha Piô XI ban sắc lệnh Ordinarie Indosinensis đổi tên giáo phận Trung thành giáo phận Bùi Chu.
- Ngày 9/3/1936, Đức Thánh Cha Piô XI ban sắc lệnh Proecipuas inter Apostolicas chia giáo phận Bùi Chu thành giáo phận Thái Bình (tỉnh Hưng Yên và Thái Bình) và giáo phận Bùi Chu (2/3 tỉnh Nam Định).
II. ĐỊA LÍ VÀ DÂN SỐ
2. Ranh giới: Giáo phận Bùi Chu là giáo phận nhỏ nhất Việt Nam, nằm gọn trên phần diện tích khoảng 1.350 km2, bao gồm 6 huyện (Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng) và khu vực giáo xứ Khoái Đồng trong thành phố Nam Định. Phía Đông Bắc giáp giáo phận Thái Bình với dòng sông Hồng, phía Tây Bắc giáp giáo phận Hà Nội bằng sông Đào, phía Tây Nam giáp giáo phận Phát Diệm bằng sông Đáy và phía Đông Nam là Biển Đông (vịnh Bắc Bộ).
Dân cư: tổng dân số trên địa bàn giáo phận Bùi Chu thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng quãng chừng hơn một triệu người, đại đa số là người Kinh.
Nghề nghiệp: khoảng 60% làm nông nghiệp, 5% làm muối và đi biển, 35% làm nghề thương mại, cơ khí, kỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp …
Sông ngòi: Giáo phận Bùi Chu được bao bọc bởi ba con sông lớn, tiếp giáp với ba giáo phận và biển Đông rộng lớn. Hai con sông Hồng và sông Đáy tựa như hai cánh tay khoẻ bao bọc lấy giáo phận. Cùng với sông Đào nối liền hai con sông lớn này và sông Ninh Cơ, một nhánh của sông Hồng chảy qua giữa giáo phận, tạo thành một hệ thống sông ngòi cung cấp nước và phù sa cho những cánh đồng phì nhiêu. Không những thế, hệ thống sông ngòi này mỗi năm còn bồi đắp thêm một lượng lớn phù sa ra biển, tạo nên những cồn đất màu mỡ, hình thành những vùng đất mới cho giáo phận. Chính vì điều này mà diện tích thống kế hằng năm có thay đổi ít nhiều, tuỳ thuộc vào đất bồi ra biển nhiều hay ít. Ngoài việc đưa nước và phù sa đến tất cả các huyện, hệ thống sông này còn là những trục giao thông rất thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển. Nhờ thế, khu vực giáo phận trở nên rất trù phú, dân cư đông đúc sống hiền lành chất phác. Đây thật là một môi trường thuận lợi cho việc đón nhận và phát triển đức tin, in đậm dấu vết của những cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của các nhà truyền giáo.
3. Địa chỉ Toà giám mục
Xuân Ngọc Xuân Trường Nam Định
Tel: 0350 3887 514 (VP) 0350 3751 161 (ĐGM) Fax: 0350 3887 521
Email: tgmbcvn@gmail.com
4. Số giáo hạt và giáo xứ
Hạt Báo Đáp:
1. Bách Tính. Sth: 872. Đc: Nam Hồng, Nam Trực, Nam Định
2. Báo Đáp. Sth: 3.622. Đc: Hồng Quang, Nam Trực, Nam Định
3. Cổ Ra. Sth: 1.969. Đc: Nam Cường, Nam Trực, Nam Định
4. Dương A. Sth: 1.365. Đc: Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định
5. Hồng Quang. Sth: 1.320. Đc: Hồng Quang, Nam Trực, Nam Định
6. Hưng Nhượng. Sth: 1.390. Đc: Nam Lợi, Nam Trực, Nam Định
7. Khoái Đồng. Sth: 334. Đc: 127 Lê Hồng Phong, TP. Nam Định
8. Lã Điền. Sth: 850. Đc: Điền Xá, Nam Trực, Nam Định
9. Nam Dương. Sth: 975. Đc: Nam Dương, Nam Trực, Nam Định
10. Phong Lộc. Sth: 820. Đc: Nam Phong, Nam Trực, Nam Định
11. Trực Chính. Sth: 809. Đc: Nam Giang, Nam Trực, Nam Định
Hạt Bùi Chu:
12. Bùi Chu. Sth: 1.880. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
13. Cát Xuyên. Sth: 695. Đc: Xuân Thành, Xuân Trường, Nam Định
14. Hạc Châu. Sth: 755. Đc: Xuân Châu, Xuân Trường, Nam Định
15. Kiên Lao. Sth: 9.426. Đc: Xuân Tiến, Xuân Trường, Nam Định
16. Liên Thuỷ. Sth: 1.849. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
17. Liên Thượng. Sth: 1.037. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
18. Lục Thuỷ. Sth: 2.142. Đc: Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định
19. Ngọc Tiên. Sth: 1.740. Đc: Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định
20. Thánh Danh. Sth: 2.700. Đc: Xuân Tiến, Xuân Trường, Nam Định
21. Thuỷ Nhai. Sth: 2.331. Đc: Xuân Thuỷ, Xuân Trường, Nam Định
22. Trung Linh. Sth: 2.157. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
23. Xuân Dương. Sth: 5.271. Đc: Xuân Hoà, Xuân Trường, Nam Định
Hạt Đại Đồng:
24. Ấp Lũ. Sth: 1.741. Đc: Giao An, Giao Thuỷ, Nam Định
25. Đại Đồng. Sth: 5.616. Đc: Giao Lạc, Giao Thuỷ, Nam Định
26. Định Hải. Sth: 2.040. Đc: Hồng Thuận, Giao Thuỷ, Nam Định
27. Hà Cát. Sth: 1.660. Đc: Hồng Thuận, Giao Thuỷ, Nam Định
28. Hoành Đông. Sth: 2.882. Đc: Giao Thiện, Giao Thuỷ, Nam Định
29. Lạc Nam. Sth: 2.329. Đc: Giao Lạc, Giao Thuỷ, Nam Định
30. Minh Đường. Sth: 1.126. Đc: Giao Thanh, Giao Thuỷ, Nam Định
31. Phú Hương. Sth: 1.314. Đc: Giao Thiện, Giao Thuỷ, Nam Định
32. Phú Ninh. Sth: 3.298. Đc: Giao Xuân, Giao Thuỷ, Nam Định
33. Phú Thọ. Sth: 4.500. Đc: Giao Thiện, Giao Thuỷ, Nam Định
34. Thanh Thuỷ. Sth: 1.805. Đc: Giao An, Giao Thuỷ, Nam Định
35. Thiện Giáo. Sth: 3.200. Đc: Giao Hương, Giao Thuỷ, Nam Định
36. Thuận Thành. Sth: 4.780. Đc: Hồng Thuận, Giao Thuỷ, Nam Định
Hạt Kiên Chính:
37. Hải Điền. Sth: 1.650. Đc: Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định
38. Hoà Định. Sth: 1.549. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
39. Kiên Chính. Sth: 2.156. Đc: Hải Chính, Hải Hậu, Nam Định
40. Liên Phú. Sth: 2.810. Đc: Hải Tây, Hải Hậu, Nam Định
41. Long Châu. Sth: 1.849. Đc: Hải Hoà, Hải Hậu, Nam Định
42. Phú Hoá. Sth: 1.375. Đc: Hải Thịnh, Hải Hậu, Nam Định
43. Phương Chính. Sth: 5.165. Đc: Hải Triều, Hải Hậu, Nam Định
44. Quế Phương. Sth: 1.271. Đc: Hải Tây, Hải Hậu, Nam Định
45. Tang Điền. Sth: 1.767. Đc: Hải Chính, Hải Hậu, Nam Định
46. Tân An. Sth: 1.750. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
47. Tây Cát. Sth: 1.810. Đc: Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định
48. Thịnh Long. Sth: 1.697. Đc: Hải Thịnh, Hải Hậu, Nam Định
49. Trung Châu. Sth: 1.250. Đc: Hải Thịnh, Hải Hậu, Nam Định
50. Trung Phương. Sth: 1.023. Đc: Hải Quang, Hải Hậu, Nam Định
51. Văn Lý. Sth: 1.838. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
52. Xuân Đài. Sth: 2.018. Đc: Hải Hoà, Hải Hậu, Nam Định
53. Xuân Hà. Sth: 2.080. Đc: Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định
54. Xương Điền. Sth: 4.112. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
Hạt Lạc Đạo:
55. Âm Sa. Sth: 891. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
56. Bình Hải. Sth: 3.500. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
57. Đài Môn. Sth: 637. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
58. Đồng Liêu. Sth: 2.640. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
59. Đồng Nghĩa. Sth: 1.650. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
60. Đồng Nhân. Sth: 1.011. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
61. Đồng Quỹ. Sth: 1.150. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
62. Đồng Tâm. Sth: 1.179. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
63. Giang Liêu. Sth: 880. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
64. Giáp Nghĩa. Sth: 840. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
65. Giáp Phú. Sth: 1.683. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
66. Lạc Đạo. Sth: 5.501. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
67. Lạc Hồng. Sth: 1.875. Đc: Nghĩa Phong, Nghĩa Hưng, Nam Định
68. Liêu Ngạn. Sth: 1.145. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
69. Nam Phú. Sth: 925. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
70. Quần Lạc. Sth: 4.306. Đc: Nghĩa Phong, Nghĩa Hưng, Nam Định
71. Tân Bơn. Sth: 2.016. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
72. Thuần Hậu. Sth: 641. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
Hạt Liễu Đề:
73. Chương Nghĩa. Sth: 550. Đc: Hoàng Nam, Nghĩa Hưng, Nam Định
74. Cốc Thành. Sth: 950. Đc: Nghĩa Đồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
75. Đại Đê. Sth: 2.215. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
76. Hà Dương. Sth: 1.500. Đc: Nghĩa Châu, Nghĩa Hưng, Nam Định
77. Liễu Đề. Sth: 4.553. Đc: Tt. Liễu Đề, Nghĩa Hưng, Nam Định
78. Lý Nghĩa. Sth: 650. Đc: Nghĩa Châu, Nghĩa Hưng, Nam Định
79. Nam Trực. Sth: 1.026. Đc: Nam Tiến, Nam Trực, Nam Định
80. Ngoại Đông. Sth: 1.428. Đc: Nam Thái, Nam Trực, Nam Định
81. Quần Liêu. Sth: 5.697. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
82. Quỹ Đê. Sth: 1.002. Đc: Trực Mỹ, Trực Ninh, Nam Định
83. Quỹ Ngoại. Sth: 1.366. Đc: Trực Mỹ, Trực Ninh, Nam Định
84. Thạch Bi. Sth: 2.481. Đc: Nam Thái, Nam Trực, Nam Định
Hạt Ninh Cường:
85. An Đạo. Sth: 2.626. Đc: Hải An, Hải Hậu, Nam Định
86. An Nghĩa. Sth: 1.811. Đc: Hải An, Hải Hậu, Nam Định
87. Đông Bình. Sth: 577. Đc: Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định
88. Lác Môn. Sth: 4.342. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
89. Ninh Cường. Sth: 5.387. Đc: Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định
90. Tân Châu. Sth: 1.121. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
91. Tân Cường. Sth: 1.860. Đc: Trực Cường, Trực Ninh, Nam Định
92. Tân Lý. Sth: 4.452. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
93. Tân Phường. Sth: 1.224. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
94. Tây Đường. Sth: 2.350. Đc: Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định
95. Tích Tín. Sth: 2.837. Đc: Trực Thái, Trực Ninh, Nam Định
Hạt Phú Nhai:
96. An Phú. Sth: 2.286. Đc: Xuân Đài, Xuân Trường, Nam Định
97. Cát Phú. Sth: 1.305. Đc: Xuân Phú, Xuân Trường, Nam Định
98. Kính Danh. Sth: 2.003. Đc: Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định
99. Lạc Thành. Sth: 2.669. Đc: Xuân Phú, Xuân Trường, Nam Định
100. Nam Điền. Sth: 941. Đc: Xuân Vinh, Xuân Trường, Nam Định
101. Phù Sa. Sth: 683. Đc: Xuân Phú, Xuân Trường, Nam Định
102. Phú Nhai. Sth: 5.212. Đc: Xuân Phương, Xuân Trường, Nam Định
103. Quần Cống. Sth: 3.780. Đc: Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định
104. Thánh Mẫu. Sth: 973. Đc: Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định
105. Thánh Thể. Sth: 2.495. Đc: Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định
106. Vạn Lộc. Sth: 2.188. Đc: Xuân Phong, Xuân Trường, Nam Định
Hạt Quần Phương:
107. Cồn Vẽ. Sth: 856. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
108. Giáp Nam. Sth: 2.150. Đc: Hải Phương, Hải Hậu, Nam Định
109. Hai Giáp. Sth: 4.137. Đc: Hải Anh, Hải Hậu, Nam Định
110. Hải Nhuận. Sth: 2.892. Đc: Hải Lộc, Hải Hậu, Nam Định
111. Hưng Nghĩa. Sth: 3.980. Đc: Hải Hưng, Hải Hậu, Nam Định
112. Kim Thành. Sth: 1.562. Đc: Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định
113. Nam Đường. Sth: 1.904. Đc: Hải Đường, Hải Hậu, Nam Định
114. Nam Hoà. Sth: 3.269. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
115. Phạm Pháo. Sth: 3.169. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
116. Phạm Rị. Sth: 3.120. Đc: Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định
117. Phú Hải. Sth: 1.229. Đc: Hải Phúc, Hải Hậu, Nam Định
118. Quần Phương. Sth: 4.999. Đc: Tt. Yên Định, Hải Hậu, Nam Định
119. Tân Bồi. Sth: 1.689. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
120. Tùng Nhì. Sth: 897. Đc: Trực Thắng, Trực Ninh, Nam Định
121. Trại Đáy. Sth: 1.076. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
122. Triệu Thông. Sth: 2.037. Đc: Hải Bắc, Hải Hậu, Nam Định
123. Trung Thành. Sth: 6.108. Đc: Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định
124. Xuân Dục. Sth: 4.313. Đc: Xuân Ninh, Xuân Trường, Nam Định
Hạt Quỹ Nhất:
125. Ân Phú. Sth: 1.955. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
126. Chỉ Thiện. Sth: 1.530. Đc: Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng, Nam Định
127. Giáo Lạc. Sth: 4.500. Đc: Nghĩa Tân, Nghĩa Hưng, Nam Định
128. Lạc Thiện. Sth: 1.994. Đc: Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng, Nam Định
129. Nghĩa Dục. Sth: 5.670. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
130. Ninh Hải. Sth: 2.684. Đc: Nghĩa Thắng, Nghĩa Hưng, Nam Định
131. Ngọc Lâm. Sth: 1.189. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
132. Phú Giáo. Sth: 1.090. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
133. Phúc Điền. Sth: 3.170. Đc: Nam Điền, Nghĩa Hưng, Nam Định
134. Phúc Đông. Sth: 1.470. Đc: Tt. Rạng Đông, Nghĩa Hưng, Nam Định
135. Phương Lạc. Sth: 2.370. Đc: Nghĩa Bình, Nghĩa Hưng, Nam Định
136. Quần Vinh. Sth: 2.923. Đc: Nghĩa Thắng, Nghĩa Hưng, Nam Định
137. Quỹ Nhất. Sth: 4.502. Đc: Tt. Quỹ Nhất, Nghĩa Hưng, Nam Định
138. Rạng Đông. Sth: 940. Đc: Tt. Rạng Đông, Nghĩa Hưng, Nam Định
139. Tây Thành. Sth: 824. Đc: Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng, Nam Định
140. Thượng Trại. Sth: 1.040. Đc: Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng, Nam Định
141. Văn Giáo. Sth: 2.911. Đc: Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng, Nam Định
142. Vinh Phú. Sth: 1.681. Đc: Nghĩa Lợi, Nghĩa Hưng, Nam Định
Hạt Thức Hoá:
143. Diêm Điền. Sth: 700. Đc: Giao Nhân, Giao Thuỷ, Nam Định
144. Du Hiếu. Sth: 1.970. Đc: Giao Thịnh, Giao Thuỷ, Nam Định
145. Duyên Thọ. Sth: 1.119. Đc: Giao Nhân, Giao Thuỷ, Nam Định
146. Hoành Nhị. Sth: 903. Đc: Giao Hà, Giao Thuỷ, Nam Định
147. Mộc Đức. Sth: 1.070. Đc: Giao Thịnh, Giao Thuỷ, Nam Định
148. Ngưỡng Nhân. Sth: 3.265. Đc: Giao Nhân, Giao Thuỷ, Nam Định
149. Phong Lâm. Sth: 1.068. Đc: Giao Phong, Giao Thuỷ, Nam Định
150. Quất Lâm. Sth: 2.850. Đc: Giao Lâm, Giao Thuỷ, Nam Định
151. Sa Châu. Sth: 6.421. Đc: Giao Châu, Giao Thuỷ, Nam Định
152. Thức Hoá. Sth: 4.921. Đc: Giao Thịnh, Giao Thuỷ, Nam Định
Hạt Tương Nam:
153. An Lãng. Sth: 1.365. Đc: Trực Chính, Trực Ninh, Nam Định
154. Nam Hưng. Sth: 1.060. Đc: Nam Lợi, Nam Trực, Nam Định
155. Nam Lạng. Sth: 1.558. Đc: Trực Tuấn, Trực Ninh, Nam Định
156. Phú An. Sth: 1.558. Đc: Tt. Cát Thành, Trực Ninh, Nam Định
157. Trang Hậu. Sth: 1.243. Đc: Nam Hải, Nam Trực, Nam Định
158. Trung Lao. Sth: 9.559. Đc: Trung Đông, Trực Ninh, Nam Định
159. Tương Nam. Sth: 1.502. Đc: Nam Thanh, Nam Trực, Nam Định
Hạt Tứ Trùng:
160. An Bài. Sth: 2.625. Đc: Tt. Cồn, Hải Hậu, Nam Định
161. An Cư. Sth: 989. Đc: Hải Tân, Hải Hậu, Nam Định
162. Giáp Năm. Sth: 2.800. Đc: Hải Ninh, Hải Hậu, Nam Định
163. Lục Phương. Sth: 2.323. Đc: Hải Cường, Hải Hậu, Nam Định
164. Nam Phương. Sth: 853. Đc: Hải Sơn, Hải Hậu, Nam Định
165. Ninh Mỹ. Sth: 2.657. Đc: Hải Giang, Hải Hậu, Nam Định
166. Ninh Sa. Sth: 2.528. Đc: Hải Giang, Hải Hậu, Nam Định
167. Phúc Hải. Sth: 2.412. Đc: Hải Phong, Hải Hậu, Nam Định
168. Phú Văn. Sth: 940. Đc: Hải Ninh, Hải Hậu, Nam Định
169. Trung Hoà. Sth: 700. Đc: Hải Phú, Hải Hậu, Nam Định
170. Trùng Phương. Sth: 830. Đc: Hải Đường, Hải Hậu, Nam Định
171. Tư Khẩn. Sth: 907. Đc: Hải Châu, Hải Hậu, Nam Định
172. Tứ Trùng. Sth: 2.062. Đc: Hải Tân, Hải Hậu, Nam Định
173. Xuân Chính. Sth: 2.286. Đc: Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định
174. Xuân Hoà. Sth: 2.207. Đc: Hải Hoà, Hải Hậu, Nam Định
175. Xuân Hoá. Sth: 1.250. Đc: Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định
176. Xuân Thuỷ. Sth: 5.192. Đc: Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định
III. TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH GIÁO PHẬN
Giám mục: Tôma Vũ Đình Hiệu
1. HỘI ĐỒNG TƯ VẤN
- Tổng đại diện: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Thư ký: Lm. Vinhsơn Đỗ Huy Hoàng
- Quản lý: Lm. Giuse Trần Hưng Đạo
- Phó giám đốc ĐCV: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Đăng
và các lm. quản hạt
2. HỘI ĐỒNG LINH MỤC
- Tổng đại diện: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Thư ký: Lm. Vinhsơn Đỗ Huy Hoàng
- Quản lý: Lm. Giuse Trần Hưng Đạo
- Phó giám đốc ĐCV: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Đăng
- Quản hạt Báo Đáp: Lm. Gioakim Nguyễn Văn Tường
- Quản hạt Bùi Chu: Lm. Giuse Trần Quốc Tuyến
- Quản hạt Đại Đồng: Lm. Giuse Phạm Văn Hy
- Quản hạt Kiên Chính: Lm. Giuse Trần Trung Hiếu
- Quản hạt Lạc Đạo: Lm. Đa Minh Phạm Văn Dược
- Quản hạt Liễu Đề: Lm. Đa Minh Mai Văn Đảm
- Quản hạt Ninh Cường: Lm. Đa Minh Đinh Ngọc Hoàn
- Quản hạt Phú Nhai: Lm. Giuse Phạm Quang Vinh
- Quản hạt Quần Phương: Lm. Đa Minh Nguyễn Văn Vàng
- Quản hạt Quỹ Nhất: Lm. Gioan Đỗ Duy Môn
- Quản hạt Thức Hoá: Lm. Giuse Mai Văn Châu
- Quản hạt Tương Nam: Lm. Đaminh Đinh Xuân Cảnh
- Quản hạt Tứ Trùng: Giuse Nguyễn Văn Toanh
- Đại diện hạt Báo Đáp: Lm. Giuse Phạm Ngọc Oanh
- Đại diện hạt Bùi Chu: Lm. Giuse Phạm Ngọc Oanh (GĐ Cô nhi viện)
- Đại diện hạt Đại Đồng: Lm. Phêrô Nguyễn Văn Đối
- Đại diện hạt Kiên Chính: Lm. Giuse Đinh Văn Viện
- Đại diện hạt Lạc Đạo:
- Đại diện hạt Liễu Đề: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Dương
- Đại diện hạt Ninh Cường: Lm. Giuse Phạm Minh Tuấn
- Đại diện hạt Phú Nhai: Lm. Giuse Micael Vũ Minh Tuấn
- Đại diện hạt Quần Phương: Lm. Đa Minh Phạm Kim Tiền
- Đại diện hạt Quỹ Nhất: Giuse Phạm Minh Phan
- Đại diện hạt Thức Hoá: Lm. Giuse Trần Quốc Điêm
- Đại diện hạt Tương Nam: Lm.
- Đại diện hạt Tứ Trùng: Lm. Giuse Phạm Văn Quyết
- Đại diện các linh mục dòng nhập vụ: Lm. Phaolô Đinh Văn Đông, SDB
và các lm. trong HĐMV
3. HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
a. Các trưởng ban:
- Ban Giáo lý Đức tin: Lm. Giuse Trần Quốc Tuyến
- Ban Thánh Kinh: Lm. Vinh Sơn Mai Văn Kính
- Ban Phụng tự, nghệ thuật thánh và xây dựng: Lm. Giuse Trần Thiện Tĩnh
- Ban Thánh nhạc: Lm. Giuse Nguyễn Văn Chân
- Ban Giáo sĩ: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Ban Tu sĩ: Lm. Giuse Lê Văn Sở
- Ban Giáo dân, đặc trách quý chức HĐGX: Lm. Giuse Đinh Công Phúc
- Ban Hôn nhân và gia đình: Lm. Vinh Sơn Nguyễn Bản Mạnh
- Ban Truyền giáo: Lm. Giuse Phạm Văn Hy
- Ban Bác ái xã hội: Lm. Giuse Trần Hưng Đạo
- Ban Văn hoá và truyền thông: Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh
- Ban Công lý hoà bình: Lm. Đa Minh Đinh Ngọc Hoàn
- Ban Mục vụ di dân: Lm. Phêrô Đinh Trung Hiếu
- Ban Giáo dục: Lm. Giuse Vũ Ngọc Tứ
b. Các trưởng ngành và đoàn hội:
- Đặc trách Chủng sinh: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Đăng
- Đặc trách Ơn gọi: Lm. Giuse Lê Văn Dương
- Đặc trách Thiếu nhi Thánh Thể: Lm. Giuse Đỗ Văn Thực
- Đặc trách Giới trẻ: Lm. Micael Phạm Văn Tương
- Đặc trách Sinh viên: Lm. Phêrô Lương Đức Thiệu
- Đặc trách Huynh đoàn Đa Minh: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Đặc trách Hội con Đức Mẹ: Lm. Augustinô Trần Văn Đông
- Đặc trách Hội gia trưởng: Lm. Phaolô Đinh Quang Tiến
- Đặc trách Hội CBMCG: Lm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Tính
- Đặc trách Hội Legio Mariae: Lm. Giuse Lê Thành Tâm
- Đặc trách Hội gia đình phạt tạ Thánh Tâm: Lm. Đa Minh Nguyễn Văn Vàng
IV. SỐ LIỆU THỐNG KÊ CỦA GIÁO PHẬN
(x. Số liệu thống kê về hiện tình Giáo hội Việt Nam, chương 23)
Dân số chung: 1.193.104
Số dân Công Giáo: 398.084
Linh mục: 186
Nữ tu: 868
Chủng sinh: 145
Chủng sinh dự bị: 243
V. MỘT SỐ CƠ SỞ CỦA GIÁO PHẬN
1. Nhà thờ chính toà
Bùi Chu là nơi đã được đón nhận Tin Mừng từ rất sớm và dần được hình thành vào khoảng năm 1670 do nỗ lực rao giảng của các cha thừa sai dòng Tên, nhất là cha chính François Deydier Điển (đến Bắc Kỳ năm 1666) rồi sau đó là các vị thừa sai dòng Đa Minh. Từ năm 1676, các cha dòng Đa Minh được cử đến vùng Sơn Nam Hạ (trong đó có làng Bùi Chu) để chăm sóc mục vụ và truyền giáo.
Năm 1763, khi toà giám mục tạm thời chuyển về làng Bùi Chu, thì giáo xứ Bùi Chu chính thức được thành lập lấy tên làng Bùi Chu mà đặt cho giáo xứ hay còn gọi là Kẻ Bùi.
Nhà thờ của giáo xứ Bùi Chu nhận tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi làm quan thầy. Trong những năm bị bách hại, nơi đây đã nhiều lần là toà giám mục của giáo phận Đông Đàng Ngoài. Từ năm 1848, toà giám mục đã được đặt cho đến ngày nay.
Nhà thờ chính toà Bùi Chu được xây dựng và khánh thành vào năm 1885 thời Đức cha Wenceslao Oñate Thuận (1884-1897) với chiều dài 78m, chiều rộng 22m, chiều cao 15m và 2 tháp chuông cao 30m. Trên gian cung thánh là nơi an nghỉ của 7 vị giám mục đã từng coi sóc giáo phận Bùi Chu (Đức cha Wenceslao Oñate Thuận, Đức cha Pedro Muñagorri Trung, Đức cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn, Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung, Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất và Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm).
Cho đến nay, nhà thờ vẫn còn giữ được những nét cổ kính ban đầu, xứng đáng là nhà thờ mẹ của các nhà thờ trong giáo phận.
2. Toà giám mục
Toà giám mục Bùi Chu được xây dựng lại từ thời Đức cha Wenceslao Oñate Thuận (1883-1897) cùng lúc với nhà thờ chính toà, trường lý đoán và nhà thiên thần (cô nhi viện), sau đó được củng cố thêm thời Đức cha Pedro Muñagorri Trung và các đấng kế nhiệm.
Đến thời Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiêm, toà giám mục được xây dựng lại, để phục vụ việc mục vụ chung của giáo phận, đồng thời là nơi hành hương với tên gọi là trung tâm hành hương Ave Maria. Trung tâm hành hương này nổi bật với nhà nguyện, hầm các thánh tử vì đạo và vườn Kinh Ave Maria. Trong vườn này có cỗ tràng hạt rất lớn với tượng Đức Mẹ bằng cẩm thạch. Quanh khu vườn là các bản Kinh Kính Mừng, Kinh Lạy Cha, Kinh Magnificat bằng các thứ tiếng trên thế giới, tổng số bản kinh trong vườn là 150 bản và các công trình nghệ thuật thánh khác cùng với đại kèn đồng, đỉnh hương, cồng chiêng…
Ngoài ra, trung tâm hành hương này còn có nhà số 4, số 5 và tháp đồng hồ hiệu Farnier của Pháp có từ năm 1848.
3. Đại chủng viện
Sau hơn nửa thế kỷ bị đóng cửa, Đại chủng viện Bùi Chu đã được mở cửa trở lại. Đây là đại chủng viện liên giáo phận, được Toà Thánh phê chuẩn qua văn thư số 52-2/09, đề ngày 7 tháng 12 năm 2009, do Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng trưởng Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ký. Phía Nhà Nước Việt Nam, với văn thư 35/TGCP-CG, Thủ tướng Chính phủ cũng chấp thuận việc thiết lập này. Thể theo sự hướng dẫn của Toà Thánh và chiếu theo các quy định của Bộ Giáo luật, ngày 2 tháng 2 năm 2010, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, giám mục giáo phận Bùi Chu đã long trọng công bố sắc lệnh thiết lập Đại chủng viện Bùi Chu, đồng thời ngài cũng ban hành sắc lệnh thiết lập ban giám đốc và ban linh giám. Đại Chủng viện được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Thánh Cả Giuse và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay có 124 chủng sinh, chia làm 5 lớp: tu đức, triết I, triết II, thử và ngoại khoá.
4. Nhà hưu dưỡng các linh mục
Năm 1909, một số gia đình đã đi xuống đồn điền Xuân Thuỷ và đã lập ra họ Xuân Hoá. Đức cha Pedro Muñagorri Trung cho phép xây dựng nhà nguyện và nhà hưu dưỡng các linh mục của giáo phận. Công trình được khởi công xây dựng dưới sự điều hành của cha Gioan Đinh Khắc Tuấn và được hoàn thành năm 1918. Ngày 8/11/1936, giáo họ Xuân Hoá được nâng lên thành giáo xứ Xuân Hoá. Cũng trong năm này, cha Gioan Tuấn lâm bệnh và từ trần. Cha Gioakim Phạm Đức Nguyên về thay thế.
Từ năm 1979 đến năm 2006, giáo xứ Xuân Hoá, cách riêng nhà hưu dưỡng không còn linh mục nào trông coi nữa. Trải qua thời gian, nhà hưu dưỡng bị xuống cấp trầm trọng. Năm 2006, nhà hưu dưỡng được tái thiết để phục vụ các linh mục già yếu, bệnh tật có nơi nghỉ ngơi và cầu nguyện.
5. Cô nhi viện
Đức cha thánh An (José María Díaz Sanjurjo, OP) thành lập cô nhi viện năm 1852 với mục đích đón nhận và nuôi dưỡng trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi hay vì nghèo khó từ 12 tuổi trở xuống. Trải qua thời gian, nhất là giai đoạn bách hại, cô nhi viện vẫn duy trì và phát triển mạnh cho đến nay.
6. Các đền thánh
Nhà thờ Chính toà Bùi Chu:
Làng Bùi Chu là nơi đã được đón nhận Tin Mừng vào khoảng năm 1670 do nỗ lực rao giảng của các cha thừa sai dòng Tên, nhất là cha chính François Deydier Điển (đến Bắc Kỳ năm 1666) rồi sau đó là các vị thừa sai dòng Đa Minh. Từ năm 1676, các cha dòng Đa Minh được cử đến vùng Sơn Nam Hạ (trong đó có làng Bùi Chu) để chăm sóc mục vụ và truyền giáo.
Năm 1763, toà giám mục tạm thời chuyển về làng Bùi Chu, giáo xứ Bùi Chu chính thức được thành lập lấy tên làng Bùi Chu đặt cho giáo xứ, hay còn gọi là Kẻ Bùi.
Từ năm 1848, toà giám mục được đặt tại giáo xứ Bùi Chu. Nhà thờ của giáo xứ Bùi Chu nhận tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi làm quan thầy. Trong những năm bị bách hại, nơi đây đã nhiều lần là toà giám mục của giáo phận Đông Đàng Ngoài.
Nhà thờ Chính toà Bùi Chu được xây dựng và khánh thành vào năm 1885 thời Đức cha Wenceslao Oñate Thuận (1884-1897) với chiều dài 78m, chiều rộng 22m, chiều cao 15m và 2 tháp chuông cao 30m. Trên gian cung thánh là nơi an nghỉ của bảy vị giám mục đã từng coi sóc giáo phận Bùi Chu (Đức cha Wenceslao Oñate Thuận, Đức cha Pedro Muñagorri Trung, Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn, Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung, Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất và Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm).
Cho đến nay, nhà thờ vẫn còn giữ được những nét cổ kính ban đầu, xứng đáng là nhà thờ mẹ của các nhà thờ trong giáo phận.Việc trùng tu cũng sắp được tiến hành.
Nhà thờ Khoái Đồng
Giáo xứ Khoái Đồng nằm trong thành phố Nam Định. Giáo dân được đón nhận Tin Mừng từ thời các thừa sai đến Phố Hiến. Khoảng năm 1730 được các cha dòng Tên phục vụ, sau đó được giao lại cho các cha dòng Đa Minh từ năm 1759. Năm 1875, giáo xứ được thành lập. Đến thời Đức cha Pedro Muñagorri Trung (1908-1936), khu vực nhà thờ có tổng diện tích 56.085m2, bao gồm nhà thờ (xây dựng: năm 1934; tước hiệu: Đền Nữ Vương các thánh Tử đạo; kiến trúc: Roman [duy nhất tại Việt Nam]), Đại chủng viện thánh Albertô Cả (sau được Toà Thánh nâng lên thành Giáo hoàng Học viện), trường Saint Thomas và một số khu phố xung quanh, được Cha Eugenio André Kiên thiết kế và chỉ huy xây dựng. Sau thời di cư 1954, nhà nước quản lý tất cả các công trình này. Năm 2009, giáo phận Bùi Chu mới chỉ nhận lại được nhà thờ và đã giao cho dòng Đa Minh trùng tu.
Đền thánh Phú Nhai
Năm 1533, Phú Nhai (Trà Lũ) cùng với Ninh Cường, Quần Phương (Quần Anh) được vinh dự là nơi đón nhận Tin Mừng đầu tiên trên quê hương Việt Nam. Vào nửa thế kỷ 19 là thời kỳ cấm đạo gắt gao nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, cách riêng với giáo phận Bùi Chu, làm phát sinh nhiều chứng nhân tử vì đạo. Thời kỳ ấy giáo xứ Phú Nhai vinh dự đóng góp 6 thánh tử vì đạo trong số 117 thánh tử vì đạo nước Việt Nam, đó là các thánh: Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm, Vinh Sơn Đỗ Yến, Đa Minh Đinh Đạt, Tôma Đinh Viết Dụ, Đa Minh Đinh Đức Mậu, Giuse Trần Văn Tuấn. Trước sự bách hại ghê gớm đó, năm 1858, Đức cha thánh Valentinô Berrio Ochoa Vinh, giám mục Bùi Chu và cha chính Emmanuel Riaño Hoà đã dâng giáo phận Bùi Chu cho Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội và hứa rằng nếu Đức Mẹ ban cho giáo phận được bình an, thì sẽ nhận Người làm quan thầy và sẽ xây một đền thờ nguy nga để tỏ lòng tôn kính và khắc ghi công ơn. Lời khấn hứa đã được Đức Mẹ nhận lời. Năm 1868, cha chính Emmanuel Riaño Hoà được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận. Năm 1881, ngài đã khởi công xây dựng ngôi thánh đường tại Phú Nhai và tổ chức lễ cách long trọng vào ngày 8/12 hằng năm.
Đền thánh Phú Nhai được xây dựng nhiều lần khác nhau. Ngày 8/12/1923, sau 6 năm xây dựng, một đền thánh to đẹp hơn thay thế cho một ngôi đền thánh kiểu Đông phương, đã được khánh thành với chiều dài 88m, 2 tháp cao 30m, được xây theo kiến trúc gothic do cha chính Y thiết kế và chỉ huy xây dựng.
Ngày 30/9/1929, một trận bão lớn đã làm đổ 48 nhà thờ, trong đó có đền thánh Phú Nhai. Công việc tái thiết được tiến hành ngay sau đó và năm 1933, một đền thánh đồ sộ hơn, nguy nga hơn đã được hoàn thành để dâng kính Mẹ Vô Nhiễm, với kích thước: dài 80m, rộng 27m, cao 30m, tháp cao 44m, lớn lao và đồ sộ nhất Đông Dương. Ngày 7/12/1933, Đức cha Pedro Muñagorri Trung xức dầu thánh hiến cách trọng thể để dâng kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong ngày đại lễ này, có sự hiện diện của Đức Khâm sứ Toà Thánh Columban Dreyer, nhiều giám mục người Pháp, người Tây Ban Nha, các linh mục triều, dòng và đông đảo tín hữu trong và ngoài giáo phận.
Từ năm 1991 cho đến nay, đền thánh Phú Nhai đã được đại tu nhiều lần, đặc biệt với sự giúp đỡ của Đức cha bản hương Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, giám mục giáo phận Xuân Lộc và đồng hương trong nước, hải ngoại.
Ngày 12/8/2008, nhân dịp kỷ niệm 150 năm (1848-2008) dâng hiến giáo phận Bùi Chu cho Đức Mẹ, Toà Thánh đã phong tước hiệu Tiểu Vương cung Thánh đường cho đền thánh Phú Nhai và ngày 8/12/2008, nhân dịp bế mạc Năm Thánh, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm đã long trọng công bố sắc lệnh này.
Đền thánh Quần Phương
Dâng kính các thánh tử vì đạo nước Việt Nam, đặc biệt các thánh tử vì đạo thuộc giáo phận Bùi Chu. Cùng với Phú Nhai và Ninh Cường, Quần Phương (Quần Anh) được đón nhận Tin Mừng ngay từ buổi sơ khai (năm 1533) khi các thừa sai dòng Tên đến truyền giáo tại Việt Nam.
Năm 1876 xây dựng ngôi thánh đường theo kiến trúc Đông phương, bằng gỗ to lớn nguy nga. Năm 1938 khởi công xây dựng ngôi thánh đường theo kiến trúc Tây phương với chiều dài 60m, rộng 21m, cánh 34m, cao 18m, hoàn thành và thánh hiến ngày 31/8/1941 do Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn để dâng kính các thánh tử vì đạo Việt Nam. Thánh đường này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất xức dầu cung hiến ngày 23/11/1989 với tước hiệu Đức Mẹ Nữ Vương các thánh tử đạo Việt Nam. Giáo xứ Quần Phương có nhiều thánh tử vì đạo, trong số đó có 2 thánh quê hương là cha thánh Bênađô Vũ Văn Duệ và cha thánh Giuse Ngô Duy Hiển. Hiện nay tại đền thánh Quần Phương còn lưu kính linh cốt nhiều vị thánh tử vì đạo và hài cốt của nhiều vị tôi tớ Chúa.
Đền thánh Ninh Cường
Đền thánh Ninh Cường toạ lạc trên mảnh đất mà giáo sĩ Inêxu đã đến rao giảng Tin Mừng vào tháng 3 năm 1533. Nơi đây, người xưa tự hào gọi là “Phúc Âm địa linh nhân kiệt”. Ngay từ khi đón nhận hạt giống Tin Mừng, Ninh Cường đã trở thành cơ sở truyền giáo lớn trong vùng Sơn Nam (tỉnh Nam Định ngày nay).
Đền thánh được xây dựng trong 22 năm (1872-1894) và đã được trùng tu lại năm 1994 với chiều dài 65m, chiều rộng 24m, chiều cao 18m, 4 hàng cột gỗ và kèo vì chạm trổ, tháp chính cao 50m. Đây được coi là ngôi thánh đường gỗ lớn nhất giáo phận hiện nay.
Với những mốc son lịch sử truyền giáo cũng như tinh thần đạo đức của giáo dân, ngày 27/12/1997, Đức cha Giuse Maria Vũ Duy Nhất đã xức dầu thánh hiến và phong nhà thờ Ninh Cường lên đền thánh kính Đức Mẹ Mân Côi của giáo phận.
Đền thánh Kiên Lao
Kiên Lao được phúc đón nhận Tin Mừng từ rất sớm. Đời vua Trang Tôn, một số vị thừa sai đã đến giảng đạo ở Bích Câu. Giáo hữu mạnh dần lên từ thời cha Đắc Lộ, rồi đến cha Amaral năm 1632 và cha Morelli đến Kiên Lao tháng 12/1637.
Năm 1667, cha chính Deydier Điển đến Kiên Lao tiếp nối công việc của các vị đi trước. Ngoài ra ngài còn hướng dẫn các chị em sống ơn gọi dòng Mến Thánh Giá. Ngày 19/2/1670, Đức cha Lambert de la Motte chủ sự lễ khấn dòng tại Kiên Lao.
Vì Kiên Lao là giáo xứ có đông giáo hữu nhất trong giáo phận Đàng Ngoài (hơn 2000 tín hữu), nên tại công đồng Phố Hiến ngày 14/2/1673 được Đức Giáo Hoàng Clêmentê X phê chuẩn ngày 23/12/1673, ở điều 3 chia giáo phận Đàng Ngoài thành 5 xứ đạo thì Kiên Lao là 1 trong 5 xứ này và cha Gioan Huệ († 1671) thuộc lớp linh mục người Việt đầu tiên do Đức cha Lambert de la Motte truyền chức linh mục tại Xiêm (Thái Lan), được cử về coi sóc giáo xứ Kiên Lao. Cha Gioan Huệ cũng là cha xứ tiên khởi của giáo xứ; đồng thời, Kiên Lao là giáo xứ đầu tiên trong lịch sử giáo phận Bùi Chu theo sắc lệnh của công đồng này.
Sau khi cha Gioan Huệ qua đời, cha Simon Kiên (nguyên quán Kiên Lao), 1 trong 7 linh mục thuộc lớp linh mục người Việt thứ hai do Đức cha Lambert de la Motte truyền chức vào tháng giêng năm 1670, được cử đi phục vụ tại Trình Xuyên, rồi Làng Tòng thuộc Nghệ An, sau về coi giáo xứ nhà rồi qua đời tại đây (1671-1684). Cha Juan de Santa Cruz Thập lo việc mai táng cho cha Simon Kiên trên mảnh đất quê hương.
Năm 1678, cha chính Juan de Santa Cruz Thập cai quản giáo xứ với sự giúp đỡ của cha Raymondo Lezoli Cao, rồi đến cha Emmanuel Obelar Khâm coi sóc cho đến khi làm giám mục năm 1779 và giáo xứ Kiên Lao được giao lại cho cha chính Feliciano Alonso Phê và các vị kế tiếp.
Nhà thờ cũ khởi công xây dựng năm 1880 và khánh thành năm 1889, tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi với kích thước: dài 62m, rộng 20m, cao 14m với hàng cột gỗ lim, lợp ngói nam 4 mái. Ngôi thánh đường mới xây dựng từ năm 1994, với chiều dài 75m, rộng 26m, cao 28m với 2 tháp cao 48m, được Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất xức dầu thánh hiến nâng lên đền thánh dâng kính Thánh Gia Thất ngày 28/12/1997.
Đền thánh Sa Châu
Từ thế kỷ 16-17, dân cư từ làng Gòi (Hưng Yên) đến lập ấp và thành lập giáo họ Sa Châu thuộc xứ Quất Lâm vào năm 1889. Được nâng lên thành giáo xứ năm 1914, thời Đức cha Pedro Muñagorri Trung.
Năm 1936 khởi công xây dựng thánh đường và hoàn thành năm 1942 với kích thước: dài 70m, rộng 24m, cao 25m, tháp cao 40m.
Ngày 2/5/1996, Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất đã xức dầu thánh hiến nâng nhà thờ xứ Sa Châu lên đền thánh dâng kính thánh cả Giuse, quan thầy nam giới Công Giáo giáo phận.
Đền thánh Báo Đáp
Báo Đáp xưa có các tên gọi khác nhau là Trang Hóp, Kẻ Hóp, Cà Hóp, Chân Chính. Các vị thừa sai dòng Tên đến truyền giáo và coi sóc xứ này, tiếp đến là các cha dòng Đa Minh.
Giáo xứ được thành lập năm 1740. Nhà thờ xứ nhận tước hiệu Đức Bà Rosa làm quan thầy và cha Ven (Juan Ventura) là cha xứ đầu tiên. Ngài đến Việt Nam năm 1715 cùng với cha Eleuterio Güelda.
Thời kỳ bách hại, giáo xứ Báo Đáp có 10 vị tôi tớ Chúa.
Ngôi thánh đường thứ ba xây dựng năm 1901 đời cha Eugeniô Anrê Kiên, với chiều dài 53m30, rộng 23m60, cao 17m với tháp cao 33m. Năm 1913, Đức cha Pedro Muñagorri Trung khánh thành và làm phép trọng thể với tước hiệu nhà thờ Mình Thánh Chúa.
Ngày 25/5/2008, Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm ban sắc nâng nhà thờ xứ Báo Đáp lên đền thánh, với tước hiệu đền thánh Thánh Thể Báo Đáp. Ngày 23/4/2015, một nhà thờ khác mới hơn, nhưng vẫn theo lối kiến trúc cũ, được khánh thành sau hơn 4 năm xây dựng.
Đền thánh Phương Chính
Phương Chính trước kia là bãi biển bồi, có tên gọi là Cồn Xôm hay Cồn Đen, phía Nam giáp Biển Đông, ba mặt là rừng vẹt, rừng sậy và rừng sạp. Khi những người dân từ các nơi đến lập ấp như từ Quần Phương, Kiên Lao, Hoà Định…, họ đã chung tay làm một nhà nguyện, nhận tước hiệu thánh Phanxicô Xaviê làm quan thầy, trực thuộc xứ Kiên Chính.
Nhờ những khu rừng, đặc biệt là rừng vẹt mà nơi đây trở thành nơi ẩn náu lý tưởng cho các thừa sai và giáo dân trong thời kỳ bách hại dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức. Năm 1900, Đức cha Fernandez Định đã cho xây nhà thờ kính Đức Mẹ Lên Trời, gọi là nhà Nam. Năm 1902, ngài xây thêm một nhà nguyện lớn về phía Tây để kính Trái Tim Đức Mẹ.
Năm 1910, Đức cha Pedro Muñagorri Trung ban sắc thành lập giáo xứ Hạ Trại. Năm 1936, Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn đổi tên xứ Hạ Trại thành xứ Phương Chính, nhận tước hiệu Đức Mẹ Lên Trời làm quan thầy.
Năm 1995, giáo xứ xây nhà thờ mới dài 59m, rộng 18m, cao 18m50, tháp chuông cao 40m và khánh thành năm 1998 thời Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất.
Ngày 29/6/2008, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm ban sắc nâng giáo xứ Phương Chính lên đền thánh, với tước hiệu đền thánh Phêrô Phương Chính.
Ngoài các đền thánh vừa kể, còn có thêm các đền thánh: Mẹ Thiên Chúa Trung Lao, Mẹ Lên Trời Thức Hoá, Thánh Tâm Đại Đồng, Thánh Tâm Hưng Nghĩa và Lòng thương xót Chúa Liễu Đề. Các đền thánh này được phong dưới thời Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm.
7. Các cơ sở ngoài giáo phận
Tại Tp. HCM
- Trụ sở Bùi Chu: 1B Tôn Thất Tùng, P. Phạm Ngũ Lão, Q. 1
- Đền Công Chính và Nhà hưu dưỡng: 69 Trường Chinh, P. 12, Q. Tân Bình
- Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm: 4B Hoàng Hoa Thám, P. 7, Q. Bình Thạnh
Tại Hoa Kỳ
- Trụ sở Bùi Chu và Nhà hưu dưỡng: 10421 Orangewood Ave, Garden Grove, CA 92840
VI. DANH SÁCH LINH MỤC
A. DANH SÁCH CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN
Xem tại: http://gpbuichu.org/dslinhmuc.html
B. DANH SÁCH CÁC LINH MỤC NHẬP VỤ GIÁO PHẬN
1. Phaolô Đinh Văn Đông, SDB: NT. Dương A; Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định; Đt: 0919 706037
2. Laurensô M. Vương Thế Hùng, CMC: NT. Xuân Hoá; Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định; Đt: 01686109105
3. Vinh Sơn Nguyễn Văn Hoà, SSS: sinh 1956; Lm. 1993; NT. Phong Lâm; Giao Phong, Giao Thuỷ, Nam Định; Đt: 0935 546356
4. Giuse Nguyễn Cao Huấn, OP: sinh 1971; Lm. 2008; NT. Khoái Đồng; Tp. Nam Định; Đt: 0974 919456
5. Vinh Sơn Tạ Văn Nguyện, CSC: sinh 1977; Lm. 2012; NT. An Phú; Xuân Đài, Xuân Trường, Nam Định; Đt: 0973 303614
6. Giuse Nguyễn Văn Phúc, SDB: sinh 1973; Lm. 2012; NT. Dương A; Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định; Đt: 01284 281260
7. Gioan B. Trần Thanh Kim, SDB: sinh 1978; Lm. 2013; NT. Dương A; Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định; Đt: 0985251657
8. Stephano Ngô Văn Điền, CMC: sinh 1968, Lm. 2016; NT. Xuân Hoá; Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định; Đt: 01696574554
9. Giuse Nguyễn Văn Tuy, OP: sinh 1974; Lm. 2012; NT. Khoái Đồng; Tp. Nam Định; Đt: 0984 683286
10. Cha Giuse Nguyễn Văn Thuần, OP, NT. Khoái Đồng, Tp. Nam Định
11. Cha Gioan M. Phạm Đức Thuỵ, CMC, NT. Trung Thành, Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định
VII. DANH SÁCH CÁC DÒNG TU (x. Các tổ chức tu trì tại Việt Nam, chương 18)
1. Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Bùi Chu
2. Dòng Nữ Đa Minh Bùi Chu
3. Dòng Thừa Sai Đức Mẹ Trinh Vương Bùi Chu
4. Dòng Mẹ Thăm Viếng Bùi Chu
5. Dòng Mến Thánh Giá Kiên Lao Bùi Chu
6. Tu Hội Đời Nữ Thánh Tâm Chúa Giêsu
I. LƯỢC SỬ
Bùi Chu là mảnh đất được diễm phúc đón nhận hạt giống Tin Mừng đầu tiên tại Việt Nam. Theo Khâm Định Việt Sử:
«Giatô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hoà nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân danh Inêxu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thủy chi Trà Lũ âm dĩ Giatô tả đạo truyền giáo – Tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ nhất (1533), đời Lê Trang Tông, người Tây Dương tên là Inêxu lén lút đến làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy và làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân, ngấm ngầm truyền tả đạo Giatô» (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển XXXIII, tờ 5-6).
«Trước kia, vào khoảng năm Nguyên Hoà (1533-1548) đời Lê Trang Tông, Inêxu, người Tây Dương, mới đem đạo ấy vào vùng ven biển, thuộc huyện Giao Thuỷ, huyện Nam Chân, lén lút truyền giáo, gọi là “đạo Thiên Chúa” cũng gọi là “Thập tự giáo”. Giáo lý này dùng thiên đường địa ngục để phân biệt báo ứng về điều thiện, điều ác, cũng gần giống đạo Phật, có thêm vào thuyết xưng tội, rửa tội nữa» (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển XLI, tờ 24-25).
Bùi Chu còn thêm vào trang sử hào hùng của Giáo Hội Việt Nam: 26 vị thánh tử vì đạo sinh quán tại giáo phận Bùi Chu và 18 vị phục vụ tại đây trong số 117 vị thánh tử vì đạo nước Việt Nam. Đó là 44 vị hiển thánh tử vì đạo đại diện cho 514 tôi tớ Chúa và khoảng 16.500 vị anh hùng tử vì đạo đã chết để làm chứng cho Chúa, thuộc hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và giáo dân trong giáo phận Bùi Chu.
Ngày 9/9/1659, khi Toà Thánh chính thức thành lập 2 giáo phận đầu tiên tại Việt Nam thì vùng đất của giáo phận Bùi Chu đã có đông giáo hữu thuộc giáo phận Đàng Ngoài do các thừa sai dòng Tên rồi đến các cha dòng Đa Minh phục vụ.
Năm 1668, Đức cha Pierre Lambert de la Motte đã truyền chức linh mục cho 4 thầy người Việt đầu tiên tại Xiêm (Thái Lan), trong đó có cha Gioan Huệ (1668-1671) được cử về phục vụ ở Kiên Lao giáo phận Bùi Chu.
Ngày 19/2/1670, Đức cha đã lập dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao và chủ lễ khấn dòng cho hai nữ tu tiên khởi là chị Paola và chị Anê. Cũng năm đó, Kiên Lao là giáo xứ có đông giáo hữu nhất trong giáo phận Đàng Ngoài (hơn 2000 tín hữu) và cha Simon Kiên (nguyên quán), 1 trong 7 linh mục thuộc lớp linh mục người Việt thứ hai được truyền chức tại công đồng Phố Hiến (Hưng Yên), đã phục vụ rồi qua đời tại đây (1670-1684).
Ngày 15/11/1679, giáo phận Đàng Ngoài được chia thành hai: giáo phận Đông do Đức cha Deydier Điển coi sóc và giáo phận Tây do Đức cha Bourges coi sóc. Suốt thời gian 1679-1848, Toà giám mục thường được đặt tại Lục Thủy Hạ (Liên Thủy), Trà Lũ, Trung Linh và Bùi Chu. Từ năm 1757, Toà Thánh trao giáo phận Đông cho các cha dòng Đa Minh coi sóc và đảm nhiệm việc truyền giáo.
Năm 1848, Toà Thánh tách giáo phận Đông Đàng Ngoài: một giữ tên giáo phận cũ và một lấy tên giáo phận Trung (nằm giữa giáo phận Đông và Tây). Giáo phận mới tuy nhỏ bé về địa lý nhưng giáo dân lại nhiều gấp ba lần giáo phận Đông (139.000 tín hữu).
Trong thời gian này, Giáo Hội Việt Nam gặp biết bao gian nan thử thách, do các sắc chỉ cấm đạo của các vua quan, đặc biệt là đời các vua Minh Mạng và Tự Đức. Tưởng chừng Kitô giáo bị xoá sổ tại Bùi Chu, thì vào năm 1858, Đức cha Valentinô Berrio Ochoa Vinh và cha chính Emmanuel Riaño Hoà đã khấn dâng giáo phận cho Đức Mẹ: “Vì lời cầu bầu của Đức Mẹ, khi Thiên Chúa cho giáo dân thoát khỏi cơn bắt bớ đạo và được sống bình an, thì sẽ xây cất một thánh đường xứng đáng dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và nhận Người làm bổn mạng của giáo phận”. Sau nhiều lần xây dựng, đền thánh Phú Nhai hiện nay (xức dầu thánh hiến trọng thể ngày 7/12/1933) là chứng tích tình Mẹ che chở giáo phận và lòng yêu mến của toàn thể con cái Bùi Chu đối với Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Ngày 3/12/1924, tất cả các giáo phận ở Việt Nam đều được đổi tên theo địa hạt hành chính nơi đặt toà giám mục, giáo phận Trung được đổi tên thành giáo phận Bùi Chu do Đức cha Pedro Muñagorri Trung coi sóc.
Giáo phận Bùi Chu trở nên quá lớn đối với một chủ chăn. Ngày 9/3/1936, Toà Thánh chia giáo phận làm hai: giáo phận Bùi Chu do Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn, vị giám mục bản quốc thứ hai cai quản, và giáo phận Thái Bình vẫn do các vị thừa sai dòng Đa Minh cai quản. Điều đó chứng tỏ giáo phận Bùi Chu đã có sự trưởng thành khá vững chắc. Khi đó, giáo phận gồm 6 huyện tỉnh Nam Định, dân số 944.900, số giáo dân 230.000 (24, 45%), 100 linh mục (không kể linh mục thừa sai dòng Đa Minh), 390 thầy giảng, 520 thánh đường.
Cho đến năm 1954, giáo phận Bùi Chu đã là một giáo phận có sự trưởng thành khá vững chắc với 178 linh mục triều, 14 linh mục dòng, 78 đại chủng sinh, một số lớn nữ tu và khoảng gần 210 ngàn giáo dân trên tổng số gần 900 ngàn người trên địa bàn và 103 giáo xứ. Biến cố ngày 20/7/1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước: Đức cha, cha chính, cha văn phòng cùng với phần lớn các cha (khoảng 142 cha) trong đó có cha giám đốc, ban giáo sư đại chủng viện và chủng sinh, các bề trên và các hội dòng: Gioan Thiên Chúa, Đồng Công, Khiết Tâm (thầy giảng Bùi Chu), Mân Côi, Đa Minh, Mến Thánh Giá và dòng Kín Cát Minh đã di cư vào miền Nam cùng với trên 100.000 giáo dân. Giáo phận rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cả giáo phận còn lại 35 linh mục hầu hết là già yếu, nhiều cha đã về hưu nay phải trở lại coi xứ cùng với 54 thầy giảng và 90 nữ tu.
Trong hoàn cảnh đó, Đức cha Phêrô Phạm Ngọc Chi đã cử cha văn phòng Giuse Phạm Năng Tĩnh trở về miền Bắc với tư cách là đại diện tông toà rồi giám quản giáo phận và được tấn phong giám mục ngày 10/11/1960, tức là trước ít ngày thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam (24/11/1960) với tông hiến Venerabilium Nostrorum của Đức Thánh Cha Gioan XXIII. Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh đã cho thành lập chủng viện Mẫu Tâm với hơn 200 chủng sinh. Ngày 27/11/1960, ngài phong chức linh mục cho 4 thầy giảng trong đó có thầy Giuse Vũ Duy Nhất, sau này làm giám mục.
Từ khi giáo phận tông toà Bùi Chu được nâng lên giáo phận chính toà ngày 24/11/1960, với sự tài tình khôn ngoan của Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, giáo phận đã từng bước vượt qua những chặng đường gian khó. Ngày 8/12/1963 đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức cha đã truyền chức linh mục cho 29 thầy tại đền thánh Phú Nhai. Sự kiện đó như ngày phục sinh của giáo phận, nhiều giáo xứ đã có chủ chiên coi sóc sau nhiều năm không người chăn dắt.
Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh đã chu toàn các nhiệm vụ khác nhau của một vị mục tử khôn ngoan và thánh thiện. Với tư cách là giám mục, giáo sư đại chủng viện, nhà đào tạo cho các chủng sinh và tu sĩ, chăm sóc mục vụ cho 7 giáo xứ với số giáo dân tới 2 vạn người, viết sách và dịch sách…, cuộc đời của ngài thật bề bộn. Vì quá vất vả và thời thế khó khăn, ngài đã lâm trọng bệnh và tạ thế ngày 11/2/1974 lúc tuổi đời vẫn còn trẻ (57 tuổi), trong sự tiếc thương vô vàn của mọi thành phần Dân Chúa.
Sau hơn 1 năm trống toà, ngày 29/6/1975, cha chính giáo phận Đa Minh Lê Hữu Cung được thụ phong giám mục với khẩu hiệu “Adveniat regnum tuum”. Ngài đã phó dâng giáo phận cách đặc biệt cho Thánh Tâm Chúa Giêsu và cổ võ việc sùng kính Thánh Tâm. Vì thế ngài đã nhận tu hội Thánh Tâm vào giáo phận năm 1980. Ngài đã truyền chức linh mục cho 13 thầy trong thầm lặng và đã nhờ các đức cha khác truyền chức linh mục cho 3 thầy tại miền Nam. Ngoài ra ngài cũng nhường cho Đức cha phó Giuse Vũ Duy Nhất truyền chức linh mục cho 6 thầy cũng trong thầm lặng. Với tuổi cao và dày công phúc, Chúa đã gọi Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung về Nhà Cha ngày 12/3/1987. Trên bia mộ tại gian cung thánh nhà thờ Chính Toà Bùi Chu, có ghi: “Nguyện xin cho Nước Chúa trị đến, mục tử trung thành, tông đồ Thánh Tâm Chúa”.
Sau hơn 1 năm trống ngôi, ngày 8/8/2001 giáo phận Bùi Chu có vị chủ chăn mới là Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm. Với nhiều sáng kiến canh tân cơ sở vật chất và đường hướng mục vụ, giáo phận mang một diện mạo mới. 120 linh mục giáo phận đã được phong chức dưới thời ngài. Đợt phong chức nhiều nhất vào năm 2007 gồm 64 linh mục, trong đó có 45 linh mục thuộc Bùi Chu. Ngài cũng gửi nhiều linh mục, tu sĩ và chủng sinh du học, làm nhân sự cho Học viện Thần học và Đại Chủng viện Bùi Chu, được Toà Thánh ban phép thiết lập năm 2009.
Ngày 24/12/2012, Đức cha Tôma Vũ Đình Hiệu được Toà Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó giáo phận Bùi Chu. Lễ nhậm chức được diễn ra ngày 01/2/2013, tại nhà thờ Chính Toà Bùi Chu. Ngày 17/8/2013, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm qua đời, Đức cha Tôma Vũ Đình Hiệu lên kế vị. Tiếp nối công việc của các vị tiền nhiệm, ngài dần đưa giáo phận vào ổn định về cơ cấu tổ chức, tăng cường nhân sự cho các ban ngành.
Nhờ lời cầu bầu của Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Bùi Chu và của Cha thánh Đa Minh, cùng với những hy sinh lơn lao các vị chủ chăn và mọi thành phần Dân Chúa, giáo phận Bùi Chu đã vượt qua những chặng đường gian nan, với bao thăng trầm của lịch sử, để có được những thành quả tốt đẹp như ngày hôm nay.
Sắc chỉ thành lập: việc thành lập giáo phận Bùi Chu đã được Toà Thánh chính thức ban sắc chỉ ba lần:
- Ngày 5/9/1848, Đức Thánh Cha Piô IX ban sắc lệnh Apostolatus Officium, tách giáo phận Đông Đàng Ngoài thành giáo phận Trung gồm tỉnh Hưng Yên, Thái Bình và 6 huyện của tỉnh Nam Định; phần còn lại vẫn mang tên giáo phận Đông.
- Ngày 3/12/1924, Đức Thánh Cha Piô XI ban sắc lệnh Ordinarie Indosinensis đổi tên giáo phận Trung thành giáo phận Bùi Chu.
- Ngày 9/3/1936, Đức Thánh Cha Piô XI ban sắc lệnh Proecipuas inter Apostolicas chia giáo phận Bùi Chu thành giáo phận Thái Bình (tỉnh Hưng Yên và Thái Bình) và giáo phận Bùi Chu (2/3 tỉnh Nam Định).
II. ĐỊA LÍ VÀ DÂN SỐ
2. Ranh giới: Giáo phận Bùi Chu là giáo phận nhỏ nhất Việt Nam, nằm gọn trên phần diện tích khoảng 1.350 km2, bao gồm 6 huyện (Xuân Trường, Giao Thuỷ, Hải Hậu, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng) và khu vực giáo xứ Khoái Đồng trong thành phố Nam Định. Phía Đông Bắc giáp giáo phận Thái Bình với dòng sông Hồng, phía Tây Bắc giáp giáo phận Hà Nội bằng sông Đào, phía Tây Nam giáp giáo phận Phát Diệm bằng sông Đáy và phía Đông Nam là Biển Đông (vịnh Bắc Bộ).
Dân cư: tổng dân số trên địa bàn giáo phận Bùi Chu thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng quãng chừng hơn một triệu người, đại đa số là người Kinh.
Nghề nghiệp: khoảng 60% làm nông nghiệp, 5% làm muối và đi biển, 35% làm nghề thương mại, cơ khí, kỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp …
Sông ngòi: Giáo phận Bùi Chu được bao bọc bởi ba con sông lớn, tiếp giáp với ba giáo phận và biển Đông rộng lớn. Hai con sông Hồng và sông Đáy tựa như hai cánh tay khoẻ bao bọc lấy giáo phận. Cùng với sông Đào nối liền hai con sông lớn này và sông Ninh Cơ, một nhánh của sông Hồng chảy qua giữa giáo phận, tạo thành một hệ thống sông ngòi cung cấp nước và phù sa cho những cánh đồng phì nhiêu. Không những thế, hệ thống sông ngòi này mỗi năm còn bồi đắp thêm một lượng lớn phù sa ra biển, tạo nên những cồn đất màu mỡ, hình thành những vùng đất mới cho giáo phận. Chính vì điều này mà diện tích thống kế hằng năm có thay đổi ít nhiều, tuỳ thuộc vào đất bồi ra biển nhiều hay ít. Ngoài việc đưa nước và phù sa đến tất cả các huyện, hệ thống sông này còn là những trục giao thông rất thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển. Nhờ thế, khu vực giáo phận trở nên rất trù phú, dân cư đông đúc sống hiền lành chất phác. Đây thật là một môi trường thuận lợi cho việc đón nhận và phát triển đức tin, in đậm dấu vết của những cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của các nhà truyền giáo.
3. Địa chỉ Toà giám mục
Xuân Ngọc Xuân Trường Nam Định
Tel: 0350 3887 514 (VP) 0350 3751 161 (ĐGM) Fax: 0350 3887 521
Email: tgmbcvn@gmail.com
4. Số giáo hạt và giáo xứ
Hạt Báo Đáp:
1. Bách Tính. Sth: 872. Đc: Nam Hồng, Nam Trực, Nam Định
2. Báo Đáp. Sth: 3.622. Đc: Hồng Quang, Nam Trực, Nam Định
3. Cổ Ra. Sth: 1.969. Đc: Nam Cường, Nam Trực, Nam Định
4. Dương A. Sth: 1.365. Đc: Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định
5. Hồng Quang. Sth: 1.320. Đc: Hồng Quang, Nam Trực, Nam Định
6. Hưng Nhượng. Sth: 1.390. Đc: Nam Lợi, Nam Trực, Nam Định
7. Khoái Đồng. Sth: 334. Đc: 127 Lê Hồng Phong, TP. Nam Định
8. Lã Điền. Sth: 850. Đc: Điền Xá, Nam Trực, Nam Định
9. Nam Dương. Sth: 975. Đc: Nam Dương, Nam Trực, Nam Định
10. Phong Lộc. Sth: 820. Đc: Nam Phong, Nam Trực, Nam Định
11. Trực Chính. Sth: 809. Đc: Nam Giang, Nam Trực, Nam Định
Hạt Bùi Chu:
12. Bùi Chu. Sth: 1.880. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
13. Cát Xuyên. Sth: 695. Đc: Xuân Thành, Xuân Trường, Nam Định
14. Hạc Châu. Sth: 755. Đc: Xuân Châu, Xuân Trường, Nam Định
15. Kiên Lao. Sth: 9.426. Đc: Xuân Tiến, Xuân Trường, Nam Định
16. Liên Thuỷ. Sth: 1.849. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
17. Liên Thượng. Sth: 1.037. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
18. Lục Thuỷ. Sth: 2.142. Đc: Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định
19. Ngọc Tiên. Sth: 1.740. Đc: Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định
20. Thánh Danh. Sth: 2.700. Đc: Xuân Tiến, Xuân Trường, Nam Định
21. Thuỷ Nhai. Sth: 2.331. Đc: Xuân Thuỷ, Xuân Trường, Nam Định
22. Trung Linh. Sth: 2.157. Đc: Xuân Ngọc, Xuân Trường, Nam Định
23. Xuân Dương. Sth: 5.271. Đc: Xuân Hoà, Xuân Trường, Nam Định
Hạt Đại Đồng:
24. Ấp Lũ. Sth: 1.741. Đc: Giao An, Giao Thuỷ, Nam Định
25. Đại Đồng. Sth: 5.616. Đc: Giao Lạc, Giao Thuỷ, Nam Định
26. Định Hải. Sth: 2.040. Đc: Hồng Thuận, Giao Thuỷ, Nam Định
27. Hà Cát. Sth: 1.660. Đc: Hồng Thuận, Giao Thuỷ, Nam Định
28. Hoành Đông. Sth: 2.882. Đc: Giao Thiện, Giao Thuỷ, Nam Định
29. Lạc Nam. Sth: 2.329. Đc: Giao Lạc, Giao Thuỷ, Nam Định
30. Minh Đường. Sth: 1.126. Đc: Giao Thanh, Giao Thuỷ, Nam Định
31. Phú Hương. Sth: 1.314. Đc: Giao Thiện, Giao Thuỷ, Nam Định
32. Phú Ninh. Sth: 3.298. Đc: Giao Xuân, Giao Thuỷ, Nam Định
33. Phú Thọ. Sth: 4.500. Đc: Giao Thiện, Giao Thuỷ, Nam Định
34. Thanh Thuỷ. Sth: 1.805. Đc: Giao An, Giao Thuỷ, Nam Định
35. Thiện Giáo. Sth: 3.200. Đc: Giao Hương, Giao Thuỷ, Nam Định
36. Thuận Thành. Sth: 4.780. Đc: Hồng Thuận, Giao Thuỷ, Nam Định
Hạt Kiên Chính:
37. Hải Điền. Sth: 1.650. Đc: Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định
38. Hoà Định. Sth: 1.549. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
39. Kiên Chính. Sth: 2.156. Đc: Hải Chính, Hải Hậu, Nam Định
40. Liên Phú. Sth: 2.810. Đc: Hải Tây, Hải Hậu, Nam Định
41. Long Châu. Sth: 1.849. Đc: Hải Hoà, Hải Hậu, Nam Định
42. Phú Hoá. Sth: 1.375. Đc: Hải Thịnh, Hải Hậu, Nam Định
43. Phương Chính. Sth: 5.165. Đc: Hải Triều, Hải Hậu, Nam Định
44. Quế Phương. Sth: 1.271. Đc: Hải Tây, Hải Hậu, Nam Định
45. Tang Điền. Sth: 1.767. Đc: Hải Chính, Hải Hậu, Nam Định
46. Tân An. Sth: 1.750. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
47. Tây Cát. Sth: 1.810. Đc: Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định
48. Thịnh Long. Sth: 1.697. Đc: Hải Thịnh, Hải Hậu, Nam Định
49. Trung Châu. Sth: 1.250. Đc: Hải Thịnh, Hải Hậu, Nam Định
50. Trung Phương. Sth: 1.023. Đc: Hải Quang, Hải Hậu, Nam Định
51. Văn Lý. Sth: 1.838. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
52. Xuân Đài. Sth: 2.018. Đc: Hải Hoà, Hải Hậu, Nam Định
53. Xuân Hà. Sth: 2.080. Đc: Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định
54. Xương Điền. Sth: 4.112. Đc: Hải Lý, Hải Hậu, Nam Định
Hạt Lạc Đạo:
55. Âm Sa. Sth: 891. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
56. Bình Hải. Sth: 3.500. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
57. Đài Môn. Sth: 637. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
58. Đồng Liêu. Sth: 2.640. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
59. Đồng Nghĩa. Sth: 1.650. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
60. Đồng Nhân. Sth: 1.011. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
61. Đồng Quỹ. Sth: 1.150. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
62. Đồng Tâm. Sth: 1.179. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
63. Giang Liêu. Sth: 880. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
64. Giáp Nghĩa. Sth: 840. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
65. Giáp Phú. Sth: 1.683. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
66. Lạc Đạo. Sth: 5.501. Đc: Nghĩa Lạc, Nghĩa Hưng, Nam Định
67. Lạc Hồng. Sth: 1.875. Đc: Nghĩa Phong, Nghĩa Hưng, Nam Định
68. Liêu Ngạn. Sth: 1.145. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
69. Nam Phú. Sth: 925. Đc: Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
70. Quần Lạc. Sth: 4.306. Đc: Nghĩa Phong, Nghĩa Hưng, Nam Định
71. Tân Bơn. Sth: 2.016. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
72. Thuần Hậu. Sth: 641. Đc: Nghĩa Phú, Nghĩa Hưng, Nam Định
Hạt Liễu Đề:
73. Chương Nghĩa. Sth: 550. Đc: Hoàng Nam, Nghĩa Hưng, Nam Định
74. Cốc Thành. Sth: 950. Đc: Nghĩa Đồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
75. Đại Đê. Sth: 2.215. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
76. Hà Dương. Sth: 1.500. Đc: Nghĩa Châu, Nghĩa Hưng, Nam Định
77. Liễu Đề. Sth: 4.553. Đc: Tt. Liễu Đề, Nghĩa Hưng, Nam Định
78. Lý Nghĩa. Sth: 650. Đc: Nghĩa Châu, Nghĩa Hưng, Nam Định
79. Nam Trực. Sth: 1.026. Đc: Nam Tiến, Nam Trực, Nam Định
80. Ngoại Đông. Sth: 1.428. Đc: Nam Thái, Nam Trực, Nam Định
81. Quần Liêu. Sth: 5.697. Đc: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định
82. Quỹ Đê. Sth: 1.002. Đc: Trực Mỹ, Trực Ninh, Nam Định
83. Quỹ Ngoại. Sth: 1.366. Đc: Trực Mỹ, Trực Ninh, Nam Định
84. Thạch Bi. Sth: 2.481. Đc: Nam Thái, Nam Trực, Nam Định
Hạt Ninh Cường:
85. An Đạo. Sth: 2.626. Đc: Hải An, Hải Hậu, Nam Định
86. An Nghĩa. Sth: 1.811. Đc: Hải An, Hải Hậu, Nam Định
87. Đông Bình. Sth: 577. Đc: Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định
88. Lác Môn. Sth: 4.342. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
89. Ninh Cường. Sth: 5.387. Đc: Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định
90. Tân Châu. Sth: 1.121. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
91. Tân Cường. Sth: 1.860. Đc: Trực Cường, Trực Ninh, Nam Định
92. Tân Lý. Sth: 4.452. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
93. Tân Phường. Sth: 1.224. Đc: Trực Hùng, Trực Ninh, Nam Định
94. Tây Đường. Sth: 2.350. Đc: Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định
95. Tích Tín. Sth: 2.837. Đc: Trực Thái, Trực Ninh, Nam Định
Hạt Phú Nhai:
96. An Phú. Sth: 2.286. Đc: Xuân Đài, Xuân Trường, Nam Định
97. Cát Phú. Sth: 1.305. Đc: Xuân Phú, Xuân Trường, Nam Định
98. Kính Danh. Sth: 2.003. Đc: Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định
99. Lạc Thành. Sth: 2.669. Đc: Xuân Phú, Xuân Trường, Nam Định
100. Nam Điền. Sth: 941. Đc: Xuân Vinh, Xuân Trường, Nam Định
101. Phù Sa. Sth: 683. Đc: Xuân Phú, Xuân Trường, Nam Định
102. Phú Nhai. Sth: 5.212. Đc: Xuân Phương, Xuân Trường, Nam Định
103. Quần Cống. Sth: 3.780. Đc: Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định
104. Thánh Mẫu. Sth: 973. Đc: Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định
105. Thánh Thể. Sth: 2.495. Đc: Thọ Nghiệp, Xuân Trường, Nam Định
106. Vạn Lộc. Sth: 2.188. Đc: Xuân Phong, Xuân Trường, Nam Định
Hạt Quần Phương:
107. Cồn Vẽ. Sth: 856. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
108. Giáp Nam. Sth: 2.150. Đc: Hải Phương, Hải Hậu, Nam Định
109. Hai Giáp. Sth: 4.137. Đc: Hải Anh, Hải Hậu, Nam Định
110. Hải Nhuận. Sth: 2.892. Đc: Hải Lộc, Hải Hậu, Nam Định
111. Hưng Nghĩa. Sth: 3.980. Đc: Hải Hưng, Hải Hậu, Nam Định
112. Kim Thành. Sth: 1.562. Đc: Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định
113. Nam Đường. Sth: 1.904. Đc: Hải Đường, Hải Hậu, Nam Định
114. Nam Hoà. Sth: 3.269. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
115. Phạm Pháo. Sth: 3.169. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
116. Phạm Rị. Sth: 3.120. Đc: Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định
117. Phú Hải. Sth: 1.229. Đc: Hải Phúc, Hải Hậu, Nam Định
118. Quần Phương. Sth: 4.999. Đc: Tt. Yên Định, Hải Hậu, Nam Định
119. Tân Bồi. Sth: 1.689. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
120. Tùng Nhì. Sth: 897. Đc: Trực Thắng, Trực Ninh, Nam Định
121. Trại Đáy. Sth: 1.076. Đc: Hải Minh, Hải Hậu, Nam Định
122. Triệu Thông. Sth: 2.037. Đc: Hải Bắc, Hải Hậu, Nam Định
123. Trung Thành. Sth: 6.108. Đc: Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định
124. Xuân Dục. Sth: 4.313. Đc: Xuân Ninh, Xuân Trường, Nam Định
Hạt Quỹ Nhất:
125. Ân Phú. Sth: 1.955. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
126. Chỉ Thiện. Sth: 1.530. Đc: Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng, Nam Định
127. Giáo Lạc. Sth: 4.500. Đc: Nghĩa Tân, Nghĩa Hưng, Nam Định
128. Lạc Thiện. Sth: 1.994. Đc: Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng, Nam Định
129. Nghĩa Dục. Sth: 5.670. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
130. Ninh Hải. Sth: 2.684. Đc: Nghĩa Thắng, Nghĩa Hưng, Nam Định
131. Ngọc Lâm. Sth: 1.189. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
132. Phú Giáo. Sth: 1.090. Đc: Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định
133. Phúc Điền. Sth: 3.170. Đc: Nam Điền, Nghĩa Hưng, Nam Định
134. Phúc Đông. Sth: 1.470. Đc: Tt. Rạng Đông, Nghĩa Hưng, Nam Định
135. Phương Lạc. Sth: 2.370. Đc: Nghĩa Bình, Nghĩa Hưng, Nam Định
136. Quần Vinh. Sth: 2.923. Đc: Nghĩa Thắng, Nghĩa Hưng, Nam Định
137. Quỹ Nhất. Sth: 4.502. Đc: Tt. Quỹ Nhất, Nghĩa Hưng, Nam Định
138. Rạng Đông. Sth: 940. Đc: Tt. Rạng Đông, Nghĩa Hưng, Nam Định
139. Tây Thành. Sth: 824. Đc: Nghĩa Thành, Nghĩa Hưng, Nam Định
140. Thượng Trại. Sth: 1.040. Đc: Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng, Nam Định
141. Văn Giáo. Sth: 2.911. Đc: Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng, Nam Định
142. Vinh Phú. Sth: 1.681. Đc: Nghĩa Lợi, Nghĩa Hưng, Nam Định
Hạt Thức Hoá:
143. Diêm Điền. Sth: 700. Đc: Giao Nhân, Giao Thuỷ, Nam Định
144. Du Hiếu. Sth: 1.970. Đc: Giao Thịnh, Giao Thuỷ, Nam Định
145. Duyên Thọ. Sth: 1.119. Đc: Giao Nhân, Giao Thuỷ, Nam Định
146. Hoành Nhị. Sth: 903. Đc: Giao Hà, Giao Thuỷ, Nam Định
147. Mộc Đức. Sth: 1.070. Đc: Giao Thịnh, Giao Thuỷ, Nam Định
148. Ngưỡng Nhân. Sth: 3.265. Đc: Giao Nhân, Giao Thuỷ, Nam Định
149. Phong Lâm. Sth: 1.068. Đc: Giao Phong, Giao Thuỷ, Nam Định
150. Quất Lâm. Sth: 2.850. Đc: Giao Lâm, Giao Thuỷ, Nam Định
151. Sa Châu. Sth: 6.421. Đc: Giao Châu, Giao Thuỷ, Nam Định
152. Thức Hoá. Sth: 4.921. Đc: Giao Thịnh, Giao Thuỷ, Nam Định
Hạt Tương Nam:
153. An Lãng. Sth: 1.365. Đc: Trực Chính, Trực Ninh, Nam Định
154. Nam Hưng. Sth: 1.060. Đc: Nam Lợi, Nam Trực, Nam Định
155. Nam Lạng. Sth: 1.558. Đc: Trực Tuấn, Trực Ninh, Nam Định
156. Phú An. Sth: 1.558. Đc: Tt. Cát Thành, Trực Ninh, Nam Định
157. Trang Hậu. Sth: 1.243. Đc: Nam Hải, Nam Trực, Nam Định
158. Trung Lao. Sth: 9.559. Đc: Trung Đông, Trực Ninh, Nam Định
159. Tương Nam. Sth: 1.502. Đc: Nam Thanh, Nam Trực, Nam Định
Hạt Tứ Trùng:
160. An Bài. Sth: 2.625. Đc: Tt. Cồn, Hải Hậu, Nam Định
161. An Cư. Sth: 989. Đc: Hải Tân, Hải Hậu, Nam Định
162. Giáp Năm. Sth: 2.800. Đc: Hải Ninh, Hải Hậu, Nam Định
163. Lục Phương. Sth: 2.323. Đc: Hải Cường, Hải Hậu, Nam Định
164. Nam Phương. Sth: 853. Đc: Hải Sơn, Hải Hậu, Nam Định
165. Ninh Mỹ. Sth: 2.657. Đc: Hải Giang, Hải Hậu, Nam Định
166. Ninh Sa. Sth: 2.528. Đc: Hải Giang, Hải Hậu, Nam Định
167. Phúc Hải. Sth: 2.412. Đc: Hải Phong, Hải Hậu, Nam Định
168. Phú Văn. Sth: 940. Đc: Hải Ninh, Hải Hậu, Nam Định
169. Trung Hoà. Sth: 700. Đc: Hải Phú, Hải Hậu, Nam Định
170. Trùng Phương. Sth: 830. Đc: Hải Đường, Hải Hậu, Nam Định
171. Tư Khẩn. Sth: 907. Đc: Hải Châu, Hải Hậu, Nam Định
172. Tứ Trùng. Sth: 2.062. Đc: Hải Tân, Hải Hậu, Nam Định
173. Xuân Chính. Sth: 2.286. Đc: Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định
174. Xuân Hoà. Sth: 2.207. Đc: Hải Hoà, Hải Hậu, Nam Định
175. Xuân Hoá. Sth: 1.250. Đc: Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định
176. Xuân Thuỷ. Sth: 5.192. Đc: Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định
III. TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH GIÁO PHẬN
Giám mục: Tôma Vũ Đình Hiệu
1. HỘI ĐỒNG TƯ VẤN
- Tổng đại diện: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Thư ký: Lm. Vinhsơn Đỗ Huy Hoàng
- Quản lý: Lm. Giuse Trần Hưng Đạo
- Phó giám đốc ĐCV: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Đăng
và các lm. quản hạt
2. HỘI ĐỒNG LINH MỤC
- Tổng đại diện: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Thư ký: Lm. Vinhsơn Đỗ Huy Hoàng
- Quản lý: Lm. Giuse Trần Hưng Đạo
- Phó giám đốc ĐCV: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Đăng
- Quản hạt Báo Đáp: Lm. Gioakim Nguyễn Văn Tường
- Quản hạt Bùi Chu: Lm. Giuse Trần Quốc Tuyến
- Quản hạt Đại Đồng: Lm. Giuse Phạm Văn Hy
- Quản hạt Kiên Chính: Lm. Giuse Trần Trung Hiếu
- Quản hạt Lạc Đạo: Lm. Đa Minh Phạm Văn Dược
- Quản hạt Liễu Đề: Lm. Đa Minh Mai Văn Đảm
- Quản hạt Ninh Cường: Lm. Đa Minh Đinh Ngọc Hoàn
- Quản hạt Phú Nhai: Lm. Giuse Phạm Quang Vinh
- Quản hạt Quần Phương: Lm. Đa Minh Nguyễn Văn Vàng
- Quản hạt Quỹ Nhất: Lm. Gioan Đỗ Duy Môn
- Quản hạt Thức Hoá: Lm. Giuse Mai Văn Châu
- Quản hạt Tương Nam: Lm. Đaminh Đinh Xuân Cảnh
- Quản hạt Tứ Trùng: Giuse Nguyễn Văn Toanh
- Đại diện hạt Báo Đáp: Lm. Giuse Phạm Ngọc Oanh
- Đại diện hạt Bùi Chu: Lm. Giuse Phạm Ngọc Oanh (GĐ Cô nhi viện)
- Đại diện hạt Đại Đồng: Lm. Phêrô Nguyễn Văn Đối
- Đại diện hạt Kiên Chính: Lm. Giuse Đinh Văn Viện
- Đại diện hạt Lạc Đạo:
- Đại diện hạt Liễu Đề: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Dương
- Đại diện hạt Ninh Cường: Lm. Giuse Phạm Minh Tuấn
- Đại diện hạt Phú Nhai: Lm. Giuse Micael Vũ Minh Tuấn
- Đại diện hạt Quần Phương: Lm. Đa Minh Phạm Kim Tiền
- Đại diện hạt Quỹ Nhất: Giuse Phạm Minh Phan
- Đại diện hạt Thức Hoá: Lm. Giuse Trần Quốc Điêm
- Đại diện hạt Tương Nam: Lm.
- Đại diện hạt Tứ Trùng: Lm. Giuse Phạm Văn Quyết
- Đại diện các linh mục dòng nhập vụ: Lm. Phaolô Đinh Văn Đông, SDB
và các lm. trong HĐMV
3. HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
a. Các trưởng ban:
- Ban Giáo lý Đức tin: Lm. Giuse Trần Quốc Tuyến
- Ban Thánh Kinh: Lm. Vinh Sơn Mai Văn Kính
- Ban Phụng tự, nghệ thuật thánh và xây dựng: Lm. Giuse Trần Thiện Tĩnh
- Ban Thánh nhạc: Lm. Giuse Nguyễn Văn Chân
- Ban Giáo sĩ: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Ban Tu sĩ: Lm. Giuse Lê Văn Sở
- Ban Giáo dân, đặc trách quý chức HĐGX: Lm. Giuse Đinh Công Phúc
- Ban Hôn nhân và gia đình: Lm. Vinh Sơn Nguyễn Bản Mạnh
- Ban Truyền giáo: Lm. Giuse Phạm Văn Hy
- Ban Bác ái xã hội: Lm. Giuse Trần Hưng Đạo
- Ban Văn hoá và truyền thông: Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh
- Ban Công lý hoà bình: Lm. Đa Minh Đinh Ngọc Hoàn
- Ban Mục vụ di dân: Lm. Phêrô Đinh Trung Hiếu
- Ban Giáo dục: Lm. Giuse Vũ Ngọc Tứ
b. Các trưởng ngành và đoàn hội:
- Đặc trách Chủng sinh: Lm. Đa Minh Trần Ngọc Đăng
- Đặc trách Ơn gọi: Lm. Giuse Lê Văn Dương
- Đặc trách Thiếu nhi Thánh Thể: Lm. Giuse Đỗ Văn Thực
- Đặc trách Giới trẻ: Lm. Micael Phạm Văn Tương
- Đặc trách Sinh viên: Lm. Phêrô Lương Đức Thiệu
- Đặc trách Huynh đoàn Đa Minh: Lm. Giuse Nguyễn Đức Giang
- Đặc trách Hội con Đức Mẹ: Lm. Augustinô Trần Văn Đông
- Đặc trách Hội gia trưởng: Lm. Phaolô Đinh Quang Tiến
- Đặc trách Hội CBMCG: Lm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Tính
- Đặc trách Hội Legio Mariae: Lm. Giuse Lê Thành Tâm
- Đặc trách Hội gia đình phạt tạ Thánh Tâm: Lm. Đa Minh Nguyễn Văn Vàng
IV. SỐ LIỆU THỐNG KÊ CỦA GIÁO PHẬN
(x. Số liệu thống kê về hiện tình Giáo hội Việt Nam, chương 23)
Dân số chung: 1.193.104
Số dân Công Giáo: 398.084
Linh mục: 186
Nữ tu: 868
Chủng sinh: 145
Chủng sinh dự bị: 243
V. MỘT SỐ CƠ SỞ CỦA GIÁO PHẬN
1. Nhà thờ chính toà
Bùi Chu là nơi đã được đón nhận Tin Mừng từ rất sớm và dần được hình thành vào khoảng năm 1670 do nỗ lực rao giảng của các cha thừa sai dòng Tên, nhất là cha chính François Deydier Điển (đến Bắc Kỳ năm 1666) rồi sau đó là các vị thừa sai dòng Đa Minh. Từ năm 1676, các cha dòng Đa Minh được cử đến vùng Sơn Nam Hạ (trong đó có làng Bùi Chu) để chăm sóc mục vụ và truyền giáo.
Năm 1763, khi toà giám mục tạm thời chuyển về làng Bùi Chu, thì giáo xứ Bùi Chu chính thức được thành lập lấy tên làng Bùi Chu mà đặt cho giáo xứ hay còn gọi là Kẻ Bùi.
Nhà thờ của giáo xứ Bùi Chu nhận tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi làm quan thầy. Trong những năm bị bách hại, nơi đây đã nhiều lần là toà giám mục của giáo phận Đông Đàng Ngoài. Từ năm 1848, toà giám mục đã được đặt cho đến ngày nay.
Nhà thờ chính toà Bùi Chu được xây dựng và khánh thành vào năm 1885 thời Đức cha Wenceslao Oñate Thuận (1884-1897) với chiều dài 78m, chiều rộng 22m, chiều cao 15m và 2 tháp chuông cao 30m. Trên gian cung thánh là nơi an nghỉ của 7 vị giám mục đã từng coi sóc giáo phận Bùi Chu (Đức cha Wenceslao Oñate Thuận, Đức cha Pedro Muñagorri Trung, Đức cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn, Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung, Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất và Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm).
Cho đến nay, nhà thờ vẫn còn giữ được những nét cổ kính ban đầu, xứng đáng là nhà thờ mẹ của các nhà thờ trong giáo phận.
2. Toà giám mục
Toà giám mục Bùi Chu được xây dựng lại từ thời Đức cha Wenceslao Oñate Thuận (1883-1897) cùng lúc với nhà thờ chính toà, trường lý đoán và nhà thiên thần (cô nhi viện), sau đó được củng cố thêm thời Đức cha Pedro Muñagorri Trung và các đấng kế nhiệm.
Đến thời Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiêm, toà giám mục được xây dựng lại, để phục vụ việc mục vụ chung của giáo phận, đồng thời là nơi hành hương với tên gọi là trung tâm hành hương Ave Maria. Trung tâm hành hương này nổi bật với nhà nguyện, hầm các thánh tử vì đạo và vườn Kinh Ave Maria. Trong vườn này có cỗ tràng hạt rất lớn với tượng Đức Mẹ bằng cẩm thạch. Quanh khu vườn là các bản Kinh Kính Mừng, Kinh Lạy Cha, Kinh Magnificat bằng các thứ tiếng trên thế giới, tổng số bản kinh trong vườn là 150 bản và các công trình nghệ thuật thánh khác cùng với đại kèn đồng, đỉnh hương, cồng chiêng…
Ngoài ra, trung tâm hành hương này còn có nhà số 4, số 5 và tháp đồng hồ hiệu Farnier của Pháp có từ năm 1848.
3. Đại chủng viện
Sau hơn nửa thế kỷ bị đóng cửa, Đại chủng viện Bùi Chu đã được mở cửa trở lại. Đây là đại chủng viện liên giáo phận, được Toà Thánh phê chuẩn qua văn thư số 52-2/09, đề ngày 7 tháng 12 năm 2009, do Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng trưởng Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc ký. Phía Nhà Nước Việt Nam, với văn thư 35/TGCP-CG, Thủ tướng Chính phủ cũng chấp thuận việc thiết lập này. Thể theo sự hướng dẫn của Toà Thánh và chiếu theo các quy định của Bộ Giáo luật, ngày 2 tháng 2 năm 2010, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, giám mục giáo phận Bùi Chu đã long trọng công bố sắc lệnh thiết lập Đại chủng viện Bùi Chu, đồng thời ngài cũng ban hành sắc lệnh thiết lập ban giám đốc và ban linh giám. Đại Chủng viện được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Thánh Cả Giuse và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay có 124 chủng sinh, chia làm 5 lớp: tu đức, triết I, triết II, thử và ngoại khoá.
4. Nhà hưu dưỡng các linh mục
Năm 1909, một số gia đình đã đi xuống đồn điền Xuân Thuỷ và đã lập ra họ Xuân Hoá. Đức cha Pedro Muñagorri Trung cho phép xây dựng nhà nguyện và nhà hưu dưỡng các linh mục của giáo phận. Công trình được khởi công xây dựng dưới sự điều hành của cha Gioan Đinh Khắc Tuấn và được hoàn thành năm 1918. Ngày 8/11/1936, giáo họ Xuân Hoá được nâng lên thành giáo xứ Xuân Hoá. Cũng trong năm này, cha Gioan Tuấn lâm bệnh và từ trần. Cha Gioakim Phạm Đức Nguyên về thay thế.
Từ năm 1979 đến năm 2006, giáo xứ Xuân Hoá, cách riêng nhà hưu dưỡng không còn linh mục nào trông coi nữa. Trải qua thời gian, nhà hưu dưỡng bị xuống cấp trầm trọng. Năm 2006, nhà hưu dưỡng được tái thiết để phục vụ các linh mục già yếu, bệnh tật có nơi nghỉ ngơi và cầu nguyện.
5. Cô nhi viện
Đức cha thánh An (José María Díaz Sanjurjo, OP) thành lập cô nhi viện năm 1852 với mục đích đón nhận và nuôi dưỡng trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi hay vì nghèo khó từ 12 tuổi trở xuống. Trải qua thời gian, nhất là giai đoạn bách hại, cô nhi viện vẫn duy trì và phát triển mạnh cho đến nay.
6. Các đền thánh
Nhà thờ Chính toà Bùi Chu:
Làng Bùi Chu là nơi đã được đón nhận Tin Mừng vào khoảng năm 1670 do nỗ lực rao giảng của các cha thừa sai dòng Tên, nhất là cha chính François Deydier Điển (đến Bắc Kỳ năm 1666) rồi sau đó là các vị thừa sai dòng Đa Minh. Từ năm 1676, các cha dòng Đa Minh được cử đến vùng Sơn Nam Hạ (trong đó có làng Bùi Chu) để chăm sóc mục vụ và truyền giáo.
Năm 1763, toà giám mục tạm thời chuyển về làng Bùi Chu, giáo xứ Bùi Chu chính thức được thành lập lấy tên làng Bùi Chu đặt cho giáo xứ, hay còn gọi là Kẻ Bùi.
Từ năm 1848, toà giám mục được đặt tại giáo xứ Bùi Chu. Nhà thờ của giáo xứ Bùi Chu nhận tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi làm quan thầy. Trong những năm bị bách hại, nơi đây đã nhiều lần là toà giám mục của giáo phận Đông Đàng Ngoài.
Nhà thờ Chính toà Bùi Chu được xây dựng và khánh thành vào năm 1885 thời Đức cha Wenceslao Oñate Thuận (1884-1897) với chiều dài 78m, chiều rộng 22m, chiều cao 15m và 2 tháp chuông cao 30m. Trên gian cung thánh là nơi an nghỉ của bảy vị giám mục đã từng coi sóc giáo phận Bùi Chu (Đức cha Wenceslao Oñate Thuận, Đức cha Pedro Muñagorri Trung, Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn, Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh, Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung, Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất và Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm).
Cho đến nay, nhà thờ vẫn còn giữ được những nét cổ kính ban đầu, xứng đáng là nhà thờ mẹ của các nhà thờ trong giáo phận.Việc trùng tu cũng sắp được tiến hành.
Nhà thờ Khoái Đồng
Giáo xứ Khoái Đồng nằm trong thành phố Nam Định. Giáo dân được đón nhận Tin Mừng từ thời các thừa sai đến Phố Hiến. Khoảng năm 1730 được các cha dòng Tên phục vụ, sau đó được giao lại cho các cha dòng Đa Minh từ năm 1759. Năm 1875, giáo xứ được thành lập. Đến thời Đức cha Pedro Muñagorri Trung (1908-1936), khu vực nhà thờ có tổng diện tích 56.085m2, bao gồm nhà thờ (xây dựng: năm 1934; tước hiệu: Đền Nữ Vương các thánh Tử đạo; kiến trúc: Roman [duy nhất tại Việt Nam]), Đại chủng viện thánh Albertô Cả (sau được Toà Thánh nâng lên thành Giáo hoàng Học viện), trường Saint Thomas và một số khu phố xung quanh, được Cha Eugenio André Kiên thiết kế và chỉ huy xây dựng. Sau thời di cư 1954, nhà nước quản lý tất cả các công trình này. Năm 2009, giáo phận Bùi Chu mới chỉ nhận lại được nhà thờ và đã giao cho dòng Đa Minh trùng tu.
Đền thánh Phú Nhai
Năm 1533, Phú Nhai (Trà Lũ) cùng với Ninh Cường, Quần Phương (Quần Anh) được vinh dự là nơi đón nhận Tin Mừng đầu tiên trên quê hương Việt Nam. Vào nửa thế kỷ 19 là thời kỳ cấm đạo gắt gao nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, cách riêng với giáo phận Bùi Chu, làm phát sinh nhiều chứng nhân tử vì đạo. Thời kỳ ấy giáo xứ Phú Nhai vinh dự đóng góp 6 thánh tử vì đạo trong số 117 thánh tử vì đạo nước Việt Nam, đó là các thánh: Vinh Sơn Phạm Hiếu Liêm, Vinh Sơn Đỗ Yến, Đa Minh Đinh Đạt, Tôma Đinh Viết Dụ, Đa Minh Đinh Đức Mậu, Giuse Trần Văn Tuấn. Trước sự bách hại ghê gớm đó, năm 1858, Đức cha thánh Valentinô Berrio Ochoa Vinh, giám mục Bùi Chu và cha chính Emmanuel Riaño Hoà đã dâng giáo phận Bùi Chu cho Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội và hứa rằng nếu Đức Mẹ ban cho giáo phận được bình an, thì sẽ nhận Người làm quan thầy và sẽ xây một đền thờ nguy nga để tỏ lòng tôn kính và khắc ghi công ơn. Lời khấn hứa đã được Đức Mẹ nhận lời. Năm 1868, cha chính Emmanuel Riaño Hoà được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận. Năm 1881, ngài đã khởi công xây dựng ngôi thánh đường tại Phú Nhai và tổ chức lễ cách long trọng vào ngày 8/12 hằng năm.
Đền thánh Phú Nhai được xây dựng nhiều lần khác nhau. Ngày 8/12/1923, sau 6 năm xây dựng, một đền thánh to đẹp hơn thay thế cho một ngôi đền thánh kiểu Đông phương, đã được khánh thành với chiều dài 88m, 2 tháp cao 30m, được xây theo kiến trúc gothic do cha chính Y thiết kế và chỉ huy xây dựng.
Ngày 30/9/1929, một trận bão lớn đã làm đổ 48 nhà thờ, trong đó có đền thánh Phú Nhai. Công việc tái thiết được tiến hành ngay sau đó và năm 1933, một đền thánh đồ sộ hơn, nguy nga hơn đã được hoàn thành để dâng kính Mẹ Vô Nhiễm, với kích thước: dài 80m, rộng 27m, cao 30m, tháp cao 44m, lớn lao và đồ sộ nhất Đông Dương. Ngày 7/12/1933, Đức cha Pedro Muñagorri Trung xức dầu thánh hiến cách trọng thể để dâng kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong ngày đại lễ này, có sự hiện diện của Đức Khâm sứ Toà Thánh Columban Dreyer, nhiều giám mục người Pháp, người Tây Ban Nha, các linh mục triều, dòng và đông đảo tín hữu trong và ngoài giáo phận.
Từ năm 1991 cho đến nay, đền thánh Phú Nhai đã được đại tu nhiều lần, đặc biệt với sự giúp đỡ của Đức cha bản hương Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, giám mục giáo phận Xuân Lộc và đồng hương trong nước, hải ngoại.
Ngày 12/8/2008, nhân dịp kỷ niệm 150 năm (1848-2008) dâng hiến giáo phận Bùi Chu cho Đức Mẹ, Toà Thánh đã phong tước hiệu Tiểu Vương cung Thánh đường cho đền thánh Phú Nhai và ngày 8/12/2008, nhân dịp bế mạc Năm Thánh, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm đã long trọng công bố sắc lệnh này.
Đền thánh Quần Phương
Dâng kính các thánh tử vì đạo nước Việt Nam, đặc biệt các thánh tử vì đạo thuộc giáo phận Bùi Chu. Cùng với Phú Nhai và Ninh Cường, Quần Phương (Quần Anh) được đón nhận Tin Mừng ngay từ buổi sơ khai (năm 1533) khi các thừa sai dòng Tên đến truyền giáo tại Việt Nam.
Năm 1876 xây dựng ngôi thánh đường theo kiến trúc Đông phương, bằng gỗ to lớn nguy nga. Năm 1938 khởi công xây dựng ngôi thánh đường theo kiến trúc Tây phương với chiều dài 60m, rộng 21m, cánh 34m, cao 18m, hoàn thành và thánh hiến ngày 31/8/1941 do Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn để dâng kính các thánh tử vì đạo Việt Nam. Thánh đường này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất xức dầu cung hiến ngày 23/11/1989 với tước hiệu Đức Mẹ Nữ Vương các thánh tử đạo Việt Nam. Giáo xứ Quần Phương có nhiều thánh tử vì đạo, trong số đó có 2 thánh quê hương là cha thánh Bênađô Vũ Văn Duệ và cha thánh Giuse Ngô Duy Hiển. Hiện nay tại đền thánh Quần Phương còn lưu kính linh cốt nhiều vị thánh tử vì đạo và hài cốt của nhiều vị tôi tớ Chúa.
Đền thánh Ninh Cường
Đền thánh Ninh Cường toạ lạc trên mảnh đất mà giáo sĩ Inêxu đã đến rao giảng Tin Mừng vào tháng 3 năm 1533. Nơi đây, người xưa tự hào gọi là “Phúc Âm địa linh nhân kiệt”. Ngay từ khi đón nhận hạt giống Tin Mừng, Ninh Cường đã trở thành cơ sở truyền giáo lớn trong vùng Sơn Nam (tỉnh Nam Định ngày nay).
Đền thánh được xây dựng trong 22 năm (1872-1894) và đã được trùng tu lại năm 1994 với chiều dài 65m, chiều rộng 24m, chiều cao 18m, 4 hàng cột gỗ và kèo vì chạm trổ, tháp chính cao 50m. Đây được coi là ngôi thánh đường gỗ lớn nhất giáo phận hiện nay.
Với những mốc son lịch sử truyền giáo cũng như tinh thần đạo đức của giáo dân, ngày 27/12/1997, Đức cha Giuse Maria Vũ Duy Nhất đã xức dầu thánh hiến và phong nhà thờ Ninh Cường lên đền thánh kính Đức Mẹ Mân Côi của giáo phận.
Đền thánh Kiên Lao
Kiên Lao được phúc đón nhận Tin Mừng từ rất sớm. Đời vua Trang Tôn, một số vị thừa sai đã đến giảng đạo ở Bích Câu. Giáo hữu mạnh dần lên từ thời cha Đắc Lộ, rồi đến cha Amaral năm 1632 và cha Morelli đến Kiên Lao tháng 12/1637.
Năm 1667, cha chính Deydier Điển đến Kiên Lao tiếp nối công việc của các vị đi trước. Ngoài ra ngài còn hướng dẫn các chị em sống ơn gọi dòng Mến Thánh Giá. Ngày 19/2/1670, Đức cha Lambert de la Motte chủ sự lễ khấn dòng tại Kiên Lao.
Vì Kiên Lao là giáo xứ có đông giáo hữu nhất trong giáo phận Đàng Ngoài (hơn 2000 tín hữu), nên tại công đồng Phố Hiến ngày 14/2/1673 được Đức Giáo Hoàng Clêmentê X phê chuẩn ngày 23/12/1673, ở điều 3 chia giáo phận Đàng Ngoài thành 5 xứ đạo thì Kiên Lao là 1 trong 5 xứ này và cha Gioan Huệ († 1671) thuộc lớp linh mục người Việt đầu tiên do Đức cha Lambert de la Motte truyền chức linh mục tại Xiêm (Thái Lan), được cử về coi sóc giáo xứ Kiên Lao. Cha Gioan Huệ cũng là cha xứ tiên khởi của giáo xứ; đồng thời, Kiên Lao là giáo xứ đầu tiên trong lịch sử giáo phận Bùi Chu theo sắc lệnh của công đồng này.
Sau khi cha Gioan Huệ qua đời, cha Simon Kiên (nguyên quán Kiên Lao), 1 trong 7 linh mục thuộc lớp linh mục người Việt thứ hai do Đức cha Lambert de la Motte truyền chức vào tháng giêng năm 1670, được cử đi phục vụ tại Trình Xuyên, rồi Làng Tòng thuộc Nghệ An, sau về coi giáo xứ nhà rồi qua đời tại đây (1671-1684). Cha Juan de Santa Cruz Thập lo việc mai táng cho cha Simon Kiên trên mảnh đất quê hương.
Năm 1678, cha chính Juan de Santa Cruz Thập cai quản giáo xứ với sự giúp đỡ của cha Raymondo Lezoli Cao, rồi đến cha Emmanuel Obelar Khâm coi sóc cho đến khi làm giám mục năm 1779 và giáo xứ Kiên Lao được giao lại cho cha chính Feliciano Alonso Phê và các vị kế tiếp.
Nhà thờ cũ khởi công xây dựng năm 1880 và khánh thành năm 1889, tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi với kích thước: dài 62m, rộng 20m, cao 14m với hàng cột gỗ lim, lợp ngói nam 4 mái. Ngôi thánh đường mới xây dựng từ năm 1994, với chiều dài 75m, rộng 26m, cao 28m với 2 tháp cao 48m, được Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất xức dầu thánh hiến nâng lên đền thánh dâng kính Thánh Gia Thất ngày 28/12/1997.
Đền thánh Sa Châu
Từ thế kỷ 16-17, dân cư từ làng Gòi (Hưng Yên) đến lập ấp và thành lập giáo họ Sa Châu thuộc xứ Quất Lâm vào năm 1889. Được nâng lên thành giáo xứ năm 1914, thời Đức cha Pedro Muñagorri Trung.
Năm 1936 khởi công xây dựng thánh đường và hoàn thành năm 1942 với kích thước: dài 70m, rộng 24m, cao 25m, tháp cao 40m.
Ngày 2/5/1996, Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất đã xức dầu thánh hiến nâng nhà thờ xứ Sa Châu lên đền thánh dâng kính thánh cả Giuse, quan thầy nam giới Công Giáo giáo phận.
Đền thánh Báo Đáp
Báo Đáp xưa có các tên gọi khác nhau là Trang Hóp, Kẻ Hóp, Cà Hóp, Chân Chính. Các vị thừa sai dòng Tên đến truyền giáo và coi sóc xứ này, tiếp đến là các cha dòng Đa Minh.
Giáo xứ được thành lập năm 1740. Nhà thờ xứ nhận tước hiệu Đức Bà Rosa làm quan thầy và cha Ven (Juan Ventura) là cha xứ đầu tiên. Ngài đến Việt Nam năm 1715 cùng với cha Eleuterio Güelda.
Thời kỳ bách hại, giáo xứ Báo Đáp có 10 vị tôi tớ Chúa.
Ngôi thánh đường thứ ba xây dựng năm 1901 đời cha Eugeniô Anrê Kiên, với chiều dài 53m30, rộng 23m60, cao 17m với tháp cao 33m. Năm 1913, Đức cha Pedro Muñagorri Trung khánh thành và làm phép trọng thể với tước hiệu nhà thờ Mình Thánh Chúa.
Ngày 25/5/2008, Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm ban sắc nâng nhà thờ xứ Báo Đáp lên đền thánh, với tước hiệu đền thánh Thánh Thể Báo Đáp. Ngày 23/4/2015, một nhà thờ khác mới hơn, nhưng vẫn theo lối kiến trúc cũ, được khánh thành sau hơn 4 năm xây dựng.
Đền thánh Phương Chính
Phương Chính trước kia là bãi biển bồi, có tên gọi là Cồn Xôm hay Cồn Đen, phía Nam giáp Biển Đông, ba mặt là rừng vẹt, rừng sậy và rừng sạp. Khi những người dân từ các nơi đến lập ấp như từ Quần Phương, Kiên Lao, Hoà Định…, họ đã chung tay làm một nhà nguyện, nhận tước hiệu thánh Phanxicô Xaviê làm quan thầy, trực thuộc xứ Kiên Chính.
Nhờ những khu rừng, đặc biệt là rừng vẹt mà nơi đây trở thành nơi ẩn náu lý tưởng cho các thừa sai và giáo dân trong thời kỳ bách hại dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức. Năm 1900, Đức cha Fernandez Định đã cho xây nhà thờ kính Đức Mẹ Lên Trời, gọi là nhà Nam. Năm 1902, ngài xây thêm một nhà nguyện lớn về phía Tây để kính Trái Tim Đức Mẹ.
Năm 1910, Đức cha Pedro Muñagorri Trung ban sắc thành lập giáo xứ Hạ Trại. Năm 1936, Đức cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn đổi tên xứ Hạ Trại thành xứ Phương Chính, nhận tước hiệu Đức Mẹ Lên Trời làm quan thầy.
Năm 1995, giáo xứ xây nhà thờ mới dài 59m, rộng 18m, cao 18m50, tháp chuông cao 40m và khánh thành năm 1998 thời Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất.
Ngày 29/6/2008, Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm ban sắc nâng giáo xứ Phương Chính lên đền thánh, với tước hiệu đền thánh Phêrô Phương Chính.
Ngoài các đền thánh vừa kể, còn có thêm các đền thánh: Mẹ Thiên Chúa Trung Lao, Mẹ Lên Trời Thức Hoá, Thánh Tâm Đại Đồng, Thánh Tâm Hưng Nghĩa và Lòng thương xót Chúa Liễu Đề. Các đền thánh này được phong dưới thời Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm.
7. Các cơ sở ngoài giáo phận
Tại Tp. HCM
- Trụ sở Bùi Chu: 1B Tôn Thất Tùng, P. Phạm Ngũ Lão, Q. 1
- Đền Công Chính và Nhà hưu dưỡng: 69 Trường Chinh, P. 12, Q. Tân Bình
- Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm: 4B Hoàng Hoa Thám, P. 7, Q. Bình Thạnh
Tại Hoa Kỳ
- Trụ sở Bùi Chu và Nhà hưu dưỡng: 10421 Orangewood Ave, Garden Grove, CA 92840
VI. DANH SÁCH LINH MỤC
A. DANH SÁCH CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN
Xem tại: http://gpbuichu.org/dslinhmuc.html
B. DANH SÁCH CÁC LINH MỤC NHẬP VỤ GIÁO PHẬN
1. Phaolô Đinh Văn Đông, SDB: NT. Dương A; Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định; Đt: 0919 706037
2. Laurensô M. Vương Thế Hùng, CMC: NT. Xuân Hoá; Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định; Đt: 01686109105
3. Vinh Sơn Nguyễn Văn Hoà, SSS: sinh 1956; Lm. 1993; NT. Phong Lâm; Giao Phong, Giao Thuỷ, Nam Định; Đt: 0935 546356
4. Giuse Nguyễn Cao Huấn, OP: sinh 1971; Lm. 2008; NT. Khoái Đồng; Tp. Nam Định; Đt: 0974 919456
5. Vinh Sơn Tạ Văn Nguyện, CSC: sinh 1977; Lm. 2012; NT. An Phú; Xuân Đài, Xuân Trường, Nam Định; Đt: 0973 303614
6. Giuse Nguyễn Văn Phúc, SDB: sinh 1973; Lm. 2012; NT. Dương A; Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định; Đt: 01284 281260
7. Gioan B. Trần Thanh Kim, SDB: sinh 1978; Lm. 2013; NT. Dương A; Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định; Đt: 0985251657
8. Stephano Ngô Văn Điền, CMC: sinh 1968, Lm. 2016; NT. Xuân Hoá; Hải Xuân, Hải Hậu, Nam Định; Đt: 01696574554
9. Giuse Nguyễn Văn Tuy, OP: sinh 1974; Lm. 2012; NT. Khoái Đồng; Tp. Nam Định; Đt: 0984 683286
10. Cha Giuse Nguyễn Văn Thuần, OP, NT. Khoái Đồng, Tp. Nam Định
11. Cha Gioan M. Phạm Đức Thuỵ, CMC, NT. Trung Thành, Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định
VII. DANH SÁCH CÁC DÒNG TU (x. Các tổ chức tu trì tại Việt Nam, chương 18)
1. Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Bùi Chu
2. Dòng Nữ Đa Minh Bùi Chu
3. Dòng Thừa Sai Đức Mẹ Trinh Vương Bùi Chu
4. Dòng Mẹ Thăm Viếng Bùi Chu
5. Dòng Mến Thánh Giá Kiên Lao Bùi Chu
6. Tu Hội Đời Nữ Thánh Tâm Chúa Giêsu