1. Dự thảo nghị quyết của Nga về tình hình nhân đạo tại Ukraine đã bị hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc bác bỏ.
Một dự thảo nghị quyết của Nga về tình hình nhân đạo tại Ukraine đã bị hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc bác bỏ. Theo thông tấn xã Reuters:
Chỉ có Nga và Trung Quốc bỏ phiếu tán thành, và 13 thành viên còn lại của hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu trắng đối với đề xuất do Nga soạn thảo.
Đại sứ Anh tại Liên hợp quốc, Barbara Woodward, cho rằng dự thảo nghị quyết của Nga chỉ là trò “nước mắt cá sấu”. “Nếu Nga quan tâm đến tình hình nhân đạo, họ nên ngừng ném bom trẻ em và chấm dứt chiến thuật bao vây người dân Ukraine. Nhưng họ đã không làm như vậy”. Ông đã đưa ra lập trường trên với hội đồng sau cuộc bỏ phiếu. Nga phủ nhận việc tấn công dân thường.
Để được thông qua, một nghị quyết của hội đồng bảo an ninh cần ít nhất chín phiếu thuận và không bị Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp hoặc Hoa Kỳ phủ quyết.
Thứ Sáu tuần trước, Nga đã loại bỏ một cuộc bỏ phiếu theo kế hoạch của hội đồng bảo an sau khi cáo buộc các nước phương Tây tiến hành một chiến dịch “gây áp lực chưa từng có” chống lại Mạc Tư Khoa. Hoa Kỳ đã bác bỏ cáo buộc của Nga.
Nga đề xuất văn bản này sau khi Pháp và Mễ Tây Cơ rút lại dự thảo của hội đồng bảo an về tình hình nhân đạo tại Ukraine vì họ cho rằng nó sẽ bị Mạc Tư Khoa phủ quyết. Dự thảo đó sẽ chỉ trích Nga vì vai trò của họ trong việc tạo ra tình hình nhân đạo ở Ukraine.
Thay vào đó, Ukraine và các đồng minh đang có kế hoạch đưa một dự thảo nghị quyết tương tự vào cuộc bỏ phiếu trong tuần này tại Đại hội đồng gồm 193 thành viên, nơi không có quốc gia nào có quyền phủ quyết. Các nghị quyết của Đại hội đồng không có tính ràng buộc, nhưng chúng có sức nặng chính trị.
“Trong một tháng, Nga đã gây ra một trong những thảm họa nhân đạo gia tăng nhanh nhất trên thế giới”, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc, Linda Thomas-Greenfield, nói trước đại hội đồng hôm thứ Tư.
Một cuộc ăn miếng trả miếng về mặt ngoại giao đã và đang leo thang tại Liên Hiệp Quốc kể từ khi Nga phát động cái mà họ gọi là “cuộc hành quân đặc biệt” vào ngày 24 tháng 2 được cho là nhằm phá hủy cơ sở hạ tầng quân sự của Ukraine. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres hôm thứ Ba đã chỉ trích “cuộc chiến phi lý” của Nga.
Ông nói với Đại Sứ Nga tại Liên Hiệp Quốc: “Cuộc chiến này các ông không thắng nổi đâu. Không sớm thì muộn, nó sẽ phải chuyển từ chiến trường sang bàn hòa bình. Đây là điều không thể tránh khỏi. Câu hỏi duy nhất là: Phải mất bao nhiêu mạng sống nữa?”
Ông nói thêm: “Cuộc chiến không diễn ra nhanh chóng. Trong hơn hai tuần, Mariupol đã bị quân đội Nga bao vây và không ngừng ném bom, pháo kích và tấn công. Để làm gì? Ngay cả khi Mariupol gục ngã. Ukraine không thể bị chinh phục từng thành phố, từng phố, từng nhà”.
Người đứng đầu Liên Hiệp Quốc cũng kêu gọi các cuộc đàm phán khẩn cấp, và nói rằng cần có một lệnh ngừng bắn ngay lập tức.
2. Chernihiv cạn kiệt nước uống, trong một cảnh báo thảm khốc về một thảm họa nhân đạo
Các quan chức ở Chernihiv cho biết họ đang cạn kiệt nước uống, trong một cảnh báo nghiệt ngã về một thảm họa nhân đạo, tương đương với thảm họa nhân đạo bị san thành bình địa, ở phía đông nam của đất nước, nơi 100,000 người đang vật lộn để chạy trốn.
Các quan chức Chernihiv cho biết: “Số lượng bể chứa nước uống có hạn”. “Do đó, để bảo vệ dân số của thành phố, bắt đầu từ thứ Năm các hạn chế được áp dụng đối với việc phân phối nước uống. Nước sẽ được đổ với số lượng 10 lít cho mỗi người”.
Lyudmila Denisova, thanh tra nhân quyền của Ukraine, tuyên bố rằng người dân đang bị bắt làm con tin, và chính phủ Ukraine lo ngại rằng Điện Cẩm Linh đang tìm cách thúc đẩy các yêu cầu của mình trong các cuộc đàm phán hòa bình hiện tại với Kyiv bằng cách tập trung vào các mục tiêu là dân thường qua các cuộc pháo kích kinh hoàng.
Denisova cho biết: “Hôm nay Chernihiv vẫn hoàn toàn bị cắt khỏi thủ đô. Những kẻ xâm lược đã ném bom cây cầu bắc qua sông Desna, qua đó chúng tôi vận chuyển hàng viện trợ nhân đạo đến thành phố và sơ tán dân thường.
“Thành phố không có điện, nước, nhiệt và hầu như không có khí đốt, cơ sở hạ tầng bị phá hủy. Theo cư dân địa phương, những kẻ xâm lược đang lập danh sách thường dân để 'di tản' đến Lgov ở vùng Kursk của Nga. Những kẻ xâm lược cắt Chernihiv khỏi thủ đô, biến cư dân của nó thành con tin”.
Một thảm họa nhân đạo khác đang diễn ra tại Mariupol. Tổng thống Ukraine Zelenskiy đã cáo buộc các lực lượng Nga tấn công Mariupol cản trở nỗ lực di tản dân thường khỏi thành phố cảng.
Ông cho biết có khoảng 100,000 người bị kẹt trong thành phố “trong những điều kiện vô nhân đạo, hoàn toàn bị phong tỏa, không thức ăn, không nước uống, không thuốc men, bị pháo kích liên tục, liên tục bắn phá”.
Công tố viên trưởng Ukraine cho biết cuộc vây hãm Mariupol là 'diệt chủng'
Tổng công tố Ukraine Iryna Venediktova đã cho biết bằng chứng cho thấy Nga đang phạm tội “diệt chủng” trong cuộc bao vây thành phố cảng chiến lược Mariupol.
Venediktova nói với hãng tin AFP: “Giờ tôi thấy gì ở Mariupol, đó không phải là chiến tranh, mà là nạn diệt chủng. Chiến tranh có những quy tắc của nó. Những gì chúng tôi thấy ở Mariupol, là không có quy tắc nào cả,” cô nói.
Nga đã kêu gọi các lực lượng Ukraine tại thành phố cảng Mariupol phía đông đầu hàng, và đe dọa “một thảm họa nhân đạo khủng khiếp” đang diễn ra.
“Hãy bỏ vũ khí xuống”, Thượng Tướng Mikhail Mizintsev, Giám đốc Trung tâm Quản lý Quốc phòng Quốc gia Nga, cho biết trong một cuộc họp báo do Bộ Quốc phòng Nga phát đi.
“Một thảm họa nhân đạo khủng khiếp đã nảy sinh,” Thượng Tướng Mizintsev nói.
“Tất cả những ai buông vũ khí đều được bảo đảm an toàn ra khỏi Mariupol.”
Mariupol đã phải hứng chịu một số đợt pháo kích nặng nề nhất kể từ khi Nga xâm lược Ukraine vào ngày 24 tháng Hai.
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng Ukraine nói sẽ không có chuyện đầu hàng. Quân Nga đã chịu tổn thất rất nặng tại Mariupol. Quân Ukraine tin rằng nếu ra đầu hàng, họ sẽ bị giết. Vì thế, kế hoạch chiêu hàng của Nga thất bại.
Nga đã pháo liên tục vào thành phố kể từ đó.
Trong một chiến thắng của quân Ukraine, Đại tá Alexei Sharov, Tư lệnh Biệt đội cận vệ 810 của Lữ đoàn Zhukov trong Thủy quân lục chiến Nga, đã thiệt mạng tại Mariupol.
Tuy nhiên, Nga vẫn pháo liên tục vào thành phố. Ít nhất có 5 chiến hạm ở Biển Đen liên tục pháo bừa bão vào thành phố này.
3. Buổi tiếp kiến chung thứ Tư hàng tuần
Tiếp tục bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung thứ Tư hàng tuần về ý nghĩa và giá trị của tuổi già, Đức Thánh Cha Phanxicô hướng sự chú ý đến ơn gọi đặc biệt của người cao tuổi là truyền lại cho thế hệ mới kinh nghiệm cá nhân của họ về đức tin của Giáo hội.
Trong phần tiếp tục dạy giáo lý về ý nghĩa và giá trị của tuổi già, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy cảm hứng từ lời kể của Kinh thánh về cái chết trong tuổi già của ông Môisê.
Trong buổi Tiếp kiến Chung hôm thứ Tư từ Hội trường Phaolô Đệ Lục, Đức Giáo Hoàng nói với những người có mặt rằng, vào cuối cuộc xuất hành, ông Môisê đã viết một bài hát tuyệt vời của chính ông về niềm tin tưởng vào Chúa, Đấng vẫn luôn trung thành với những lời hứa của Ngài.
Đức Thánh Cha giải thích rằng “Bài ca của Môisê” cũng là “ký ức về lịch sử sống động với Thiên Chúa, về cuộc phiêu lưu của con người được hình thành từ đức tin vào Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacốp.”
“Môisê cũng ghi nhớ sự cay đắng và thất vọng của chính Thiên Chúa: lòng trung tín của Ngài liên tục bị thử thách bởi sự không chung thủy của dân Ngài”
Mở đầu bài huấn đức, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi sáng!
Trong Kinh thánh, trước bài tường thuật về cái chết của ông già Môsê là di chúc tinh thần của ông, được gọi là "Bài ca Môsê". Ca khúc này trước hết là một lời tuyên xưng đức tin đẹp đẽ, và nó được diễn tả như sau: “Này tôi xưng tụng thánh danh Đức Chúa, trời đất hãy suy tôn Thiên Chúa ta thờ ! Người là Núi Đá: sự nghiệp Người hoàn hảo, vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay. Chúa tín thành, không mảy may gian dối, Người quả là chính trực công minh” (Đnl 32: 3-4). Nhưng đó cũng là ký ức về lịch sử sống với Thiên Chúa, về những cuộc phiêu lưu của dân tộc được hình thành từ niềm tin vào Thiên Chúa của Ápraham, Ysaác và Giacóp. Và sau đó, Môsê cũng nhớ lại sự cay đắng và thất vọng của chính Thiên Chúa, và nói như vậy với điều này: Lòng trung tín của Người liên tục bị thử thách bởi sự bất trung của dân Người. Thiên Chúa trung thành và sự đáp trả của những kẻ không chung thủy: vì Dân muốn thử lòng trung thành của Thiên Chúa. Và Người vẫn luôn trung thành, gần gũi với dân Người. Đây chính là cốt lõi của Bài ca Môsê: Lòng trung thành của Thiên Chúa, một lòng trung thành luôn đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc đời.
Khi Môsê nói lên lời tuyên xưng đức tin này, ông đang ở ngưỡng cửa đất hứa, và cũng là lúc ông từ giã cõi đời. Theo tường thuật, ông đã một trăm hai mươi tuổi, “nhưng mắt ông không mờ” (Đnl 34: 7). Khả năng nhìn đó, nhìn thấy thực sự, nhưng cũng nhìn thấy một cách tượng trưng, như những người cao niên vẫn nhìn, những người có khả năng nhìn thấy mọi điều, [thấy] ý nghĩa gốc rễ nhất của sự vật. Sức sống của cái nhìn của ông là một hồng ân quý giá: nó giúp ông có thể truyền lại di sản kinh nghiệm sống và đức tin lâu đời của ông, với sự rõ ràng cần thiết. Môsê nhìn thấy lịch sử và truyền lại lịch sử; người già thấy lịch sử và truyền lại lịch sử.
Một tuổi già được ban tặng cho sự rõ ràng này là một hồng ân quý giá cho thế hệ đến sau. Đích thân và trực tiếp lắng nghe câu chuyện về đức tin từng mang ra sống, với tất cả những điểm cao và điểm thấp của nó, là điều không thể thay thế được. Đọc về nó trong sách vở, xem nó trong phim ảnh, tham khảo nó trên liên mạng, dù có thể hữu ích đến đâu, sẽ không bao giờ y hệt như nhau. Việc lưu truyền này – vốn là truyền thống đích thực và đúng đắn, sự lưu truyền cụ thể từ người già đến người trẻ! - sự lưu truyền này ngày nay rất thiếu đối với các thế hệ mới, một sự thiếu vắng đang tiếp tục lớn dần. Tại sao? Bởi vì nền văn minh mới này quan niệm rằng cái cũ là phế liệu, cái cũ phải được bỏ đi. Điều này thật là tàn bạo! Không, không, không được như vậy. Có một âm điệu và phong cách truyền thông để kể chuyện trực tiếp, giữa người với người mà không phương tiện nào khác có thể thay thế được. Một người lớn tuổi, người từng sống lâu, và nhận được hồng ân làm chứng một cách sáng suốt và say mê cho lịch sử của mình, là một phúc lành không gì thay thế được. Chúng ta có khả năng nhận ra và tôn vinh hồng ân này của người cao niên không? Liệu việc lưu truyền đức tin - và ý nghĩa cuộc sống - có đi theo con đường này ngày nay, tức lắng nghe người già không? Tôi có thể đưa ra một chứng từ bản thân. Tôi học được lòng căm thù và giận dữ đối với chiến tranh từ ông tôi, người đã chiến đấu tại Piave năm 1914, và ông đã truyền lại cho tôi cơn thịnh nộ đối với chiến tranh này. Bởi vì ông đã kể cho tôi nghe về sự đau khổ của một cuộc chiến tranh. Và điều này không được học trong sách vở hay theo những cách khác… nó được học theo cách này, được truyền từ ông bà sang con cháu. Và điều này là không thể thay thế được. Ngày nay, thật không may, điều này không xảy ra, và chúng ta nghĩ rằng ông bà là đồ bỏ đi: Không! Đó là ký ức sống của một dân tộc, và những người trẻ tuổi và trẻ em phải nghe lời ông bà của họ.
Trong nền văn hóa của chúng ta, một nền văn hóa hết sức “đúng về mặt chính trị”, con đường này dường như bị cản trở nhiều cách: trong gia đình, ngoài xã hội, trong chính cộng đồng Kitô hữu. Một số người thậm chí còn đề nghị bãi bỏ việc giảng dạy lịch sử, coi như một thứ thông tri thừa thãi về các thế giới không còn liên quan nữa, điều này sẽ lấy đi nguồn tài nguyên cho kiến thức về hiện tại. Như thể chúng ta mới sinh ra ngày hôm qua, phải không?
Mặt khác, việc lưu truyền đức tin thường thiếu niềm đam mê của một “lịch sử sống động”. Lưu truyền đức tin không phải chỉ là nói những điều, “bla, bla, bla”. Không! Nó là việc nói tới kinh nghiệm đức tin. Và như vậy, làm sao nó có thể lôi kéo người ta đến chỗ lựa chọn tình yêu mãi mãi, trung thành với lời đã trao ban, kiên trì cống hiến, lòng cảm thương đối với những khuôn mặt bị thương và ngã lòng? Tất nhiên, những câu chuyện đời sống thường phải được biến đổi thành chứng từ, và chứng từ phải trung thành. Một ý thức hệ luôn bẻ cong lịch sử theo những kế hoạch của chính nó chắc chắn không trung thành; tuyên truyền sửa đổi lịch sử để quảng bá cho nhóm của mình là không trung thành; thật không trung thành khi biến lịch sử thành một tòa án, trong đó quá khứ bị lên án và bất cứ tương lai nào cũng bị đả kích. Không. Trung thành là kể lại lịch sử như nó vốn có; và chỉ những người đã sống nó mới có thể kể nó một cách trung thành được. Vì lý do này, lắng nghe người già, lắng nghe ông bà: để con cháu trò chuyện với các ngài là điều rất quan trọng.
Chính các sách Tin Mừng đã trung thực kể lại câu chuyện hồng phúc của Chúa Giêsu mà không che giấu những sai lầm, hiểu lầm, và thậm chí cả các phản bội của các môn đệ. Đấy là lịch sử, là sự thật, đấy là nhân chứng. Đấy là hồng phúc ký ức mà các “vị trưởng lão” của Giáo Hội truyền lại, ngay từ những ngày đầu, truyền lại “từ tay này sang tay khác” cho thế hệ đến sau. Quả là điều tốt khi ta biết tự hỏi: Chúng ta đánh giá được bao nhiêu cách lưu truyền đức tin này, truyền cây gậy từ những người lớn tuổi trong cộng đồng qua những người trẻ biết mở lòng ra đó nhận tương lai? Và đến đây, tôi bỗng nghĩ đến điều tôi từng nói nhiều lần, nhưng tôi muốn nhắc lại: Niềm tin được lưu truyền như thế nào? “À, đây là một cuốn sách, hãy nghiên cứu nó”. Không. Đức tin không thể được lưu truyền như vậy. Đức tin được truyền lại bằng phương ngữ, nghĩa là, trong cách nói quen thuộc, giữa ông bà và các cháu, giữa cha mẹ và con cái của họ. Đức tin luôn được lưu truyền bằng phương ngữ, phương ngữ và kinh nghiệm của nhiều năm tháng quen thuộc đó. Đây là lý do tại sao cuộc đối thoại trong gia đình là điều rất quan trọng, cuộc đối thoại của con cái với ông bà của chúng, là những người có sự khôn ngoan của đức tin.
Đôi khi tôi ngẫm nghĩ về sự bất thường kỳ lạ này. Ngày nay, sách giáo lý khai tâm Kitô giáo đã dựa nhiều vào Lời Chúa và truyền đạt các thông tri chính xác về các tín điều, luân lý của đức tin, và các bí tích. Tuy nhiên, điều thường thiếu là sự hiểu biết về Giáo Hội, một hiểu biết phát xuất từ việc lắng nghe và làm chứng cho lịch sử đức tin và đời sống thực sự của cộng đồng Giáo Hội, từ những ngày khởi đầu cho đến ngày nay. Khi còn nhỏ, chúng ta học Lời Chúa trong các lớp giáo lý; nhưng Giáo hội - Giáo hội - Các người trẻ “biết” Giáo Hội trong các lớp học và trên các phương tiện thông tin hoàn cầu.
Sự tường thuật về lịch sử đức tin nên giống như Bài ca Môsê, giống như chứng từ của các sách Tin mừng và sách Tông đồ Công vụ. Nói cách khác, một câu chuyện có khả năng nhắc lại các phước lành của Thiên Chúa một cách xúc động và các thất bại của chúng ta một cách thành thực. Quả là một điều tốt nếu ngay từ ban đầu, việc dạy giáo lý đã bao gồm thói quen lắng nghe kinh nghiệm sống của người cao niên; thói quen thẳng thắn tuyên xưng các ân phúc nhận được từ Thiên Chúa, mà chúng ta phải trân trọng; và lắng nghe chứng từ về chính các thất bại của chúng ta về lòng trung thành, mà chúng ta phải sửa chữa và chỉnh sửa. Người già bước vào miền đất hứa, điều mà Thiên Chúa mong muốn cho mọi thế hệ, khi các ngài hiến cho người trẻ sự khai tâm tốt đẹp về chứng tá của họ và truyền lại câu chuyện về đức tin, đức tin, bằng phương ngữ, phương ngữ quen thuộc đó, phương ngữ của người xưa gửi giới trẻ. Rồi, được Chúa Giêsu hướng dẫn, người già và người trẻ cùng nhau bước vào Vương quốc sự sống và tình yêu của Người. Nhưng tất cả cùng nhau. Mọi người trong gia đình, với kho tàng lớn lao này là đức tin được truyền lại bằng phương ngữ. Cảm ơn anh chị em.