Theo tin của Aleteia, trong cuộc tông du đến Malta, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chào đón những người hành hương, khuyến khích họ khám phá lại những điều cốt yếu của đức tin và phát triển nghệ thuật chào đón.



“Nơi tưởng như đã mất và ngày nay tái tạo niềm tin và hy vọng của dân Chúa.” - Với những lời này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giới thiệu đền thánh Ta 'Pinu nơi ngài đọc bài diễn từ công khai lần thứ hai trong ngày đầu tiên của ngài ở Malta, ngày 2 tháng 4 năm 2022. Đức Giáo Hoàng hướng việc suy niệm của ngài theo hướng lòng an ủi, cho thấy tính đáng tin cậy của đức tin Kitô hữu hệ ở việc họ cụ thể chú ý đến những người bé nhỏ nhất.

Đức Giáo Hoàng đã tới đền thờ Ta ’Pinu trễ gần 1 tiếng đồng hồ; đền thờ này được xây dựng trên khuôn viên của một nhà thờ nhỏ, nơi một phụ nữ nông dân đã nghe thấy tiếng nói của Đức Trinh nữ Maria vào năm 1883. Được chào đón bởi 3,000 người, hầu hết là những người trẻ tuổi, Đức Giáo Hoàng đã lắng nghe ba chứng từ, trong số đó có chứng từ của một cặp vợ chồng mà người vợ được chẩn đoán mắc bệnh đa xơ cứng lúc mới 23 tuổi.

Trong cuộc Khổ nạn của Người, “Con Thiên Chúa than khóc cái chết của Người trong khi bóng tối bao trùm thế giới,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại như thế trong bài giảng của ngài. Tuy nhiên, nghịch lý thay, Kitô giáo đã ra đời từ sự thất bại biểu kiến này. Ngài giải thích: “Từ giờ chết này, một giờ khác đã xuất hiện, tràn đầy sức sống: đó là giờ Giáo hội được khai sinh”.

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng sứ mệnh của các Kitô hữu là mang trong lòng mình “sự an ủi của Chúa Thánh Thần để lau nước mắt nhân loại”.

Cũng vậy, tại thánh địa Ta ’Pinu này,“ nhiều người đã giao phó những đau khổ và niềm vui của họ cho Đức Trinh Nữ, và tất cả đều cảm thấy được chào đón ”, Vị Giáo Hoàng người Argentina, người thích nêu bật lòng sùng kính Đức Mẹ trong các chuyến công du quốc tế, đã nhấn mạnh như thế.

Một hòn đảo nhỏ với một trái tim lớn

Đức Giáo Hoàng bày tỏ lòng biết ơn đối với “nhiều nhà truyền giáo người Malta, những người đã truyền bá niềm vui của Tin Mừng trên khắp thế giới” và đối với nhiều ơn gọi địa phương.

“Đất nước của anh chị em là một hòn đảo nhỏ, nhưng có một trái tim lớn. Anh chị em là một kho báu trong Giáo hội và cho Giáo hội”, Đức Phanxicô nhấn mạnh như thế và lưu ý rằng“ tình yêu của Thiên Chúa ”và“ việc “chấp nhận người lân cận của mình” là hai ưu tiên cho phép chúng ta “trở lại yếu tính của Kitô giáo”.

Đức Giáo Hoàng khuyến khích người Malta sống Thượng Hội Đồng trong một năng động tính huynh đệ và cả việc chào đón những người khách lạ. Ngài kêu gọi họ "thắp lên ngọn lửa của sự dịu dàng khi cái lạnh của cuộc sống đè nặng lên những người đau khổ".

Không hài lòng với phong tục và truyền thống

Lưu ý rằng “mối quan tâm chính của các môn đệ Chúa Giêsu không phải là uy tín của cộng đồng và các thừa tác viên, ảnh hưởng xã hội, sự tinh chỉnh việc thờ phượng”, Đức Giáo Hoàng cảnh cáo như thế chống lại sự gắn bó quá mức vào các truyền thống, đặc biệt là các truyền thống phụng vụ.

Đức Giáo Hoàng cảnh cáo: “Thực tế, một tủ quần áo trang nhã với các đồ trang trí tôn giáo không phải lúc nào cũng tương ứng với một đức tin sống động được thúc đẩy bởi sự năng động của việc truyền bá Tin Mừng". Ngài nói: “Cần phải bảo đảm để các hoạt động tôn giáo không bị giản lược vào việc lặp đi lặp lại một danh mục của quá khứ, nhưng phải nói lên một đức tin sống động, cởi mở, truyền bá niềm vui của Tin Mừng".

Vào cuối ngày đầu tiên của ngài tại Malta, Đức Giáo Hoàng sẽ lên thuyền trở lại Tòa Khâm sứ để nghỉ đêm.

Dưới đây là toàn văn diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô do Tòa Thánh cung cấp;

Dưới chân Thánh giá Chúa Giêsu, có Đức Đức Maria và Thánh Gioan. Người Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa khóc thương cái chết của Người, trong khi bóng tối bao trùm thế giới. Người đệ tử yêu quý, người đã bỏ tất cả để đi theo Người, giờ đây đứng lặng dưới chân Thầy bị đóng đinh của mình. Mọi thứ dường như đã mất, đã kết thúc, mãi mãi. Mang trên mình thương tích của nhân loại, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Chúa, lạy Chúa của con, tại sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34). Đây cũng là lời cầu nguyện của chúng ta trong những lúc đau khổ. Sandi và Domenico ạ, đó là lời cầu nguyện chân thành, mà các con dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày. Cảm ơn tình yêu bền bỉ và chứng tá đức tin của các con!

Tuy nhiên, “giờ” của Chúa Giêsu, mà trong Tin Mừng Gioan là giờ của cái chết của Người trên thập giá, không biểu thị sự kết thúc của lịch sử. Đúng hơn, nó báo hiệu sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Đứng trước thập giá, chúng ta chiêm ngắm tình yêu nhân hậu của Chúa Kitô, Đấng đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng ta và nhờ cái chết của Người mời gọi chúng ta đến với niềm vui của sự sống vĩnh cửu. Vào giờ cuối cùng đó, cuộc sống mới mở ra trước mắt chúng ta; từ giờ chết đó, một giờ khác, tràn đầy sức sống, được phát sinh. Đó là thời của Giáo hội. Bắt đầu từ việc hai người đứng dưới chân thập giá, Chúa đã tập hợp một dân tộc tiếp tục đi trên những chặng đường quanh co của lịch sử, mang trong lòng họ sự an ủi của Chúa Thánh Thần, để lau khô nước mắt của nhân loại.

Thưa các anh chị em, từ đền thánh Ta ’Pinu này, chúng ta có thể cùng nhau chiêm ngắm sự khởi đầu mới đã diễn ra trong “giờ” của Chúa Giêsu. Ở đây, thay vì dinh thự lộng lẫy mà chúng ta thấy ngày nay, trước đây chỉ là một nhà nguyện nhỏ trong tình trạng hư hỏng. Việc phá hủy nó đã được quyết định: nó dường như là dấu chấm hết. Tuy nhiên, một loạt các sự kiện sẽ xoay chuyển tình thế, như thể Chúa muốn nói với dân tộc này: “Chẳng ai còn réo tên ngươi: Đồ bị ruồng bỏ! Xứ sở ngươi hết bị tiếng là Phận bạc duyên đơn. Nhưng ngươi được gọi: Ái khanh lòng Ta hỡi ! Xứ sở ngươi nức tiếng là Duyên thắm chỉ hồng” (Is 62: 4). Ngôi nhà thờ nhỏ bé ấy đã trở thành đền thánh quốc gia, là điểm đến của những người hành hương và là nguồn sống mới. Jennifer ạ, con đã nhắc nhở chúng ta điều này: ở đây, nhiều người giao phó những đau khổ và niềm vui của họ cho Đức Mẹ và tất cả đều cảm thấy như ở nhà. Thánh Gioan Phaolô II - hôm nay là ngày giỗ của ngài - cũng đến đây như một người hành hương. Một nơi từng tưởng như bị bỏ rơi giờ đây đã hồi sinh niềm tin và hy vọng trong dân Chúa.

Vì vậy, chúng ta hãy cố gắng đánh giá cao ý nghĩa của “giờ” của Chúa Giêsu đối với cuộc sống của chúng ta. Giờ cứu độ đó cho chúng ta biết rằng, để đổi mới đức tin và sứ mệnh chung của chúng ta, chúng ta được mời gọi trở về nguồn cội, trở về với Giáo hội sơ khai mà chúng ta thấy dưới thánh giá nơi con người của Mẹ Maria và Thánh Gioan. Quay trở lại những nguồn gốc đó có ý nghĩa gì? Quay lại từ đầu có ý nghĩa chi?

Khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta

Đầu tiên, nó có nghĩa là khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta. Quay trở lại Giáo hội sơ khai không có nghĩa là nhìn lại và cố gắng tái tạo mô hình giáo hội của cộng đồng Kitô hữu đầu tiên. Chúng ta không thể “nhẩy qua lịch sử”, như thể Chúa không bao giờ nói hoặc hoàn thành những điều vĩ đại trong đời sống của Giáo hội trong những thế kỷ sau đó. Nó cũng không có nghĩa là duy lý tưởng thái quá, nghĩ rằng không có khó khăn trong cộng đồng đó; trái lại, chúng ta đọc thấy rằng các môn đệ đã tranh luận và thậm chí cãi nhau giữa họ, và họ không phải lúc nào cũng hiểu được những lời dạy của Chúa. Thay vào đó, quay trở lại nguồn cội có nghĩa là phục hồi tinh thần của cộng đồng Kitô hữu đầu tiên, trở về với tâm điểm và khám phá lại cốt lõi của đức tin: mối liên hệ của chúng ta với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng của Người cho toàn thế giới. Đó là những điều cốt yếu!

Thật vậy, sau “giờ” Chúa Giêsu chịu chết, các môn đệ đầu tiên, như Maria Mađalena và Gioan sau khi nhìn thấy ngôi mộ trống, với sự phấn khích tột độ đã vội vã trở về loan báo tin mừng về sự Phục sinh. Sự đau buồn của họ trước thập giá đã biến thành niềm vui sướng khi họ rao truyền Chúa Kitô sống lại. Tôi cũng nghĩ đến các Tông đồ, mà về các ngài đã có lời chép: “Mỗi ngày trong đền thờ và tại nhà, họ không ngừng giảng dạy và rao giảng Chúa Giêsu như Đức Kitô” (Công vụ 5:42). Mối quan tâm chính nơi các môn đệ của Chúa Giêsu không phải là uy tín của cộng đồng hoặc các thừa tác viên của cộng đồng, địa vị xã hội hoặc những điểm nổi bật trong việc thờ phượng của cộng đồng. Không. Họ được thúc đẩy để rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Kitô (xem Rm 1: 1).

Anh chị em thân mến, Giáo Hội Malta có thể tự hào về một lịch sử phong phú mà từ đó có thể rút ra các kho tàng mục vụ và tâm linh tuyệt vời. Tuy nhiên, đời sống của Giáo Hội - chúng ta hãy luôn ghi nhớ điều này - không bao giờ chỉ là “quá khứ để tưởng nhớ”, mà là “tương lai vĩ đại để xây dựng”, luôn tuân theo các kế hoạch của Thiên Chúa. Một đức tin được tạo thành từ những truyền thống đã được tiếp nhận, những cử hành long trọng, những lễ hội phổ biến và những khoảnh khắc mạnh mẽ và đầy cảm xúc vốn không thể đủ; chúng ta cần một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới trong cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa Kitô, trong việc lắng nghe lời Người hằng ngày, trong việc tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội và trong lòng đạo đức bình dân chân chính.

Cuộc khủng hoảng đức tin, sự thờ ơ trong thực hành tôn giáo, đặc biệt sau cơn đại dịch, và sự thờ ơ của nhiều người trẻ đối với sự hiện diện của Thiên Chúa: đây không phải là những vấn đề mà chúng ta nên “bọc đường”, vì nghĩ rằng, sau khi mọi điều được xem xét, một tinh thần tôn giáo nào đó vẫn còn tồn tại. Đôi khi, các công trình kiến trúc có thể mang tính tôn giáo, nhưng bên dưới những hình dáng bên ngoài, niềm tin đang mờ dần. Không phải lúc nào một bản sắc trang nhã của các truyền thống tôn giáo cũng tương ứng với một đức tin sôi nổi được đánh dấu bằng lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Chúng ta cần bảo đảm để các hoạt động tôn giáo không bị giản lược vào các di tích quá khứ, nhưng vẫn là biểu hiện của một đức tin sống động, cởi mở, truyền bá niềm vui của Tin Mừng.

Tôi biết rằng, với Thượng Hội đồng, anh chị em đã thực hiện một quá trình đổi mới và tôi cảm ơn anh chị em vì điều này. Anh chị em thân mến, bây giờ là lúc phải quay trở lại thuở ban đầu, đứng dưới chân thập giá và nhìn vào cộng đồng Kitô hữu sơ khai. Là lúc làm một Giáo Hội biết quan tâm đến tình bạn với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng của Người, chứ không phải về tầm quan trọng và hình ảnh. Làm một Giáo hội xoay quanh việc làm nhân chứng, chứ không phải một số phong tục tôn giáo nào đó. Làm một Giáo Hội tìm cách ra ngoài để gặp gỡ mọi người với ngọn đèn Tin Mừng cháy sáng, chứ không phải một vòng tròn khép kín. Anh chị em đừng ngại lên đường trên những con đường mới, như anh chị em từng làm, thậm chí có thể là những con đường đầy rủi ro, của việc truyền giảng Tin Mừng và rao giảng nhằm thay đổi cuộc sống.

Phát triển nghệ thuật chào đón

Vì vậy, chúng ta hãy một lần nữa nhìn về nguồn gốc, về Đức Maria và Thánh Gioan dưới chân thập giá. Tận cùng cội nguồn của Giáo hội là hành động giao phó của họ cho nhau. Chúa giao cho mỗi người trong số họ sự chăm sóc người khác: giao Gioan cho Đức Maria và giao Đức Maria cho Gioan, kết quả là “từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà riêng của mình” (Ga 19:27). Quay trở lại thuở ban đầu cũng có nghĩa là phát triển nghệ thuật chào đón. Những lời của Chúa Giêsu từ thập giá, nói với Mẹ Người và với Gioan, mời gọi chúng ta biến chào đón thành đặc điểm của tư cách môn đệ của chúng ta. Thật vậy, đây không phải là một hành động hiếu thuận đơn giản, theo đó Chúa Giêsu đã giao Mẹ của Người cho Gioan để Mẹ không ở lại một mình sau khi Người qua đời. Thay vào đó, việc Thánh Gioan chào đón Đức Maria vào nhà của mình là một dấu hiệu cụ thể cho thấy chúng ta nên sống điều răn tối cao về tình yêu như thế nào. Sự thờ phượng Thiên Chúa diễn ra qua sự gần gũi với anh chị em của chúng ta.

Trong Giáo hội, tình yêu huynh đệ và sự chào đón mà chúng ta bày tỏ với người lân cận quan trọng biết bao! Chúa nhắc nhở chúng ta về điều này vào “giờ” của thập giá, khi giao phó Đức Maria và Thánh Gioan cho nhau chăm sóc. Người kêu gọi cộng đồng Kitô hữu mọi thời đại đừng quên ưu tiên này: “Này là con trai của bà”, “Này là Mẹ của con” (câu 26,27). Như thể Người muốn nói: “Các con đã được cứu bởi cùng một dòng máu, các con là một gia đình, vì vậy hãy chào đón nhau, yêu thương nhau, chữa lành vết thương cho nhau”. Bỏ lại đàng sau những nghi ngờ, chia rẽ, đồn thổi, đàm tiếu và ngờ vực. Anh chị em hãy trở thành một “thượng hội đồng”, nói cách khác, là “hành trình cùng nhau”. Vì Chúa hiện diện ở bất cứ nơi nào tình yêu ngự trị!

Anh chị em thân mến, sự chào đón lẫn nhau, không phải vì hình thức thuần túy nhưng nhân danh Chúa Kitô, mãi là một thách thức vĩnh viễn. Một thách thức, trước hết đối với các mối liên hệ trong giáo hội của chúng ta, vì sứ mệnh của chúng ta sẽ sinh hoa kết trái nếu chúng ta làm việc cùng nhau trong tình bạn và tình hiệp thông huynh đệ. Anh chị em là hai cộng đồng xinh đẹp, Malta và Gozo, cũng như Đức Maria và Thánh Gioan là hai người! Vậy thì, ước gì lời lẽ của Chúa Giêsu trên thập giá trở thành ngôi sao bắc cực hướng dẫn anh chị em đón nhận nhau, nuôi dưỡng sự thân thuộc và hiệp thông! Tiến về phía trước, luôn bên nhau!

Chào đón cũng là một phép thử để đánh giá xem Giáo Hội thực sự có tinh thần Tin Mừng hay chưa. Đức Maria và Thánh Gioan chấp nhận nhau không phải trong nơi trú ẩn thoải mái của Phòng Tiệc Ly, mà ở dưới chân thập giá, nơi nghiệt ngã, nơi người ta bị kết án và đóng đinh như tội phạm. Chúng ta cũng không thể chấp nhận nhau chỉ trong mái ấm của những ngôi nhà thờ đẹp đẽ của chúng ta, trong khi bên ngoài rất nhiều anh chị em của chúng ta đang đau khổ, bị đóng đinh bởi đau đớn, nghèo đói và bạo lực. Vị trí của anh chị em là vị trí địa dư trọng yếu, nhìn ra Địa Trung Hải; anh chị em giống như một nam châm và là cánh cổng cứu rỗi cho những người bị áp đặt bởi những thử thách của cuộc sống, những người, vì nhiều lý do, đổ bộ vào bờ biển của anh chị em. Chính Chúa Kitô, Đấng hiện ra với anh chị em trong khuôn mặt của những người đàn ông và đàn bà đáng thương này. Đó là kinh nghiệm của Tông đồ Phaolô, người sau một vụ đắm tàu khủng khiếp, đã được tổ tiên của anh chị em vui lòng chào đón. Như chúng ta đọc trong Tông đồ Công vụ, “dân bản xứ… đốt lửa và chào đón tất cả chúng tôi, vì trời bắt đầu mưa và lạnh” (Công vụ 28: 2).

Đây là Tin Mừng mà chúng ta được mời gọi thực hiện: chào đón người khác, trở thành “chuyên gia về tình nhân đạo” và đốt lên ngọn lửa tình yêu dịu dàng cho những ai từng biết đến đau đớn và khắc nghiệt của cuộc sống. Trong trường hợp của Thánh Phaolô cũng vậy, một điều gì đó quan trọng đã được sinh ra từ kinh nghiệm bi đát đó, vì tại đây Thánh Phaolô đã rao giảng Tin Mừng và sau đó nhiều nhà giảng thuyết, linh mục, nhà truyền giáo và nhân chứng đã theo bước chân ngài. Tôi muốn thêm một lời tri ân đặc biệt đến họ: đến nhiều nhà truyền giáo người Malta, những người đã truyền bá niềm vui của Tin Mừng trên khắp thế giới, đến nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, và tất cả anh chị em. Như Đức Cha Teuma đã nói, anh chị em là một hòn đảo nhỏ, nhưng là một hòn đảo có trái tim vĩ đại. Anh chị em là một kho báu trong Giáo hội và cho Giáo hội. Để bảo tồn kho tàng đó, anh chị em phải trở về với yếu tính của Kitô giáo: tình yêu của Thiên Chúa, động lực của niềm vui của chúng ta, là Đấng sai chúng ta vào thế giới; và tình yêu của người lân cận, là bằng chứng đơn giản nhất và hấp dẫn nhất mà chúng ta có thể đưa ra trước thế giới.

Xin Chúa đồng hành với anh chị em trên con đường này và Trinh Nữ rất thánh hướng dẫn những bước đi của anh chị em. Xin Đức Mẹ, Đấng đã yêu cầu chúng ta cầu nguyện ba kinh “Kính Mừng” để nhắc nhở chúng ta về tấm lòng mẫu tử của Mẹ, nhen nhóm trong chúng ta, những đứa con của Mẹ, ngọn lửa truyền giáo và ước muốn chăm sóc lẫn nhau. Xin Đức Mẹ chúc lành cho anh chị em