Allison Graham của tạp chí Foreign Affairs ngày 5 tháng 4 năm 2022 có bài sau đây về lời đe dọa hạt nhân của Putin tại Ukraine: (https://www.foreignaffairs.com/articles/ukraine/2022-04-05/putins-doomsday-threat?):



Khi cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine bị đình trệ và các lực lượng của họ đã xoay trục sang chiến trường ở phía đông, cuộc chiến đang bước vào một giai đoạn mới, đen tối và nguy hiểm hơn. Mariupol giúp ta thấy trước tương lai đó. Vladimir Putin, người đã ném bom thành phố Grozny của Nga thành đống đổ nát để “giải phóng” nó, và người đã cùng nhà độc tài Syria Bashar al-Assad san bằng Aleppo, chắc chắn không có chút dè dặt đạo đức nào về việc hủy diệt hàng loạt. Hơn nữa, cuộc chiến ở Ukraine hiện nay rõ ràng là cuộc chiến của Putin và nhà lãnh đạo Nga biết rằng ông không thể thua - mà không khiến chế độ và thậm chí cả tính mạng của mình lâm cảnh nguy hiểm. Vì vậy, khi cuộc giao tranh tiếp tục, nếu ông ta buộc phải lựa chọn giữa việc rút lui ô nhục và leo thang mức độ bạo lực, chúng ta nên chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Ở cực điểm, điều này có thể bao gồm cả vũ khí hạt nhân.

Với nhiều bằng chứng cho thấy các lực lượng Nga đã tham gia vào những vụ giết hại dân thường vô tội một cách kinh hoàng, Hoa Kỳ và các đồng minh châu Âu đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng trong việc can thiệp theo những cách có nguy cơ mở rộng chiến tranh. Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã huy động một liên minh hoàn cầu hiện đang áp đặt lên Nga danh mục các biện pháp trừng phạt đau đớn nhất mà thế giới từng chứng kiến. Ông đã triệt tiêu hữu hiệu Putin và những người ủng hộ ông ta, khiến họ trở thành những kẻ đáng khinh nhất ở phần lớn thế giới phương Tây. Cùng với các đồng minh NATO, Hoa Kỳ cũng đang cung cấp một lượng lớn vũ khí cho người Ukraine, những người đang dũng cảm đấu tranh cho tự do của họ. Tuy nhiên, nhiều người Mỹ, với tư cách là công dân của quốc gia hùng mạnh nhất trên trái đất, đang tự hỏi chính quyền Biden có thể làm gì hơn nữa. Hiện tại, một nhóm các chuyên gia và chính trị gia đã kêu gọi Biden áp đặt vùng cấm bay trên các khu vực của Ukraine hoặc chuyển máy bay MiG-29 của Ba Lan cho Kyiv.

Tuy nhiên, điều mà những yêu cầu này không tính đến là bài học trung tâm của Chiến tranh Lạnh: nếu các lực lượng quân sự của các siêu cường hạt nhân nên tham gia vào một cuộc chiến tranh nóng trong đó mỗi bên đang giết chóc hoặc cân nhắc nghiêm túc các lựa chọn có thể giết chết hàng trăm hoặc hàng nghìn khác, việc leo thang từ đó đến thảm họa hoàn cầu cuối cùng của chiến tranh hạt nhân có thể ngắn một cách đáng ngạc nhiên. Trường hợp vốn thành sách giáo khoa là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.

Khi một máy bay do thám của Mỹ bắt gặp Liên Xô đang cố gắng lén đưa tên lửa mang đầu đạn hạt nhân vào Cuba, Tổng thống John F. Kennedy đã quyết định ngay rằng việc ấy không thể duy trì được. Ông đã đối đầu với Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev trong điều mà Ngoại trưởng Dean Rusk gọi là cuộc đối đầu "nhãn cầu với nhãn cầu", một cuộc đối đầu bắt đầu bằng một cuộc phong tỏa hải quân đối với Cuba và kết thúc bằng một tối hậu thư đe dọa các cuộc không kích vào các địa điểm tên lửa. Các nhà sử học đồng ý rằng đây là thời điểm nguy hiểm nhất trong lịch sử được ghi lại. Trong một khoảnh khắc yên tĩnh gần cuối 13 ngày đó, Kennedy đã tâm sự riêng với em trai Bobby rằng ông tin cơ hội cho một cuộc đối đầu kết thúc trong chiến tranh hạt nhân là “một trong ba”. Không có điều gì các nhà sử học đã phát hiện trong nhiều thập niên kể từ đó đã làm bất cứ điều gì để kéo dài những tỷ lệ chênh lệch đó. Nếu cuộc chiến đó xảy ra, nó có thể dẫn đến cái chết của 100 triệu người Mỹ và thậm chí nhiều hơn nữa người Nga.

Bài học kinh nghiệm trong cuộc khủng hoảng đó đã thông tri cho nền công nghệ hạt nhân trong nhiều thập niên kể từ đó. Sau 60 năm không có một cuộc đối đầu tương tự, viễn ảnh chiến tranh hạt nhân đã trở nên gần như không thể quan niệm được đối với nhiều nhà quan sát. May mắn thay, Biden và các thành viên chủ chốt trong chính quyền của ông biết rõ hơn. Khi họ đang xây dựng chiến lược để đối đầu với thách thức của Putin, họ biết rằng chiến lược an ninh quốc gia của Nga bao gồm việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong một số trường hợp nào đó ngay cả lúc phía bên kia không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng chúng. Họ đã xem xét các cuộc tập trận quân sự của Nga, trong đó các lực lượng Nga thực hành điều mà học thuyết của họ gọi là "leo thang để xuống thang", một học thuyết dự kiến sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật để chống lại mối đe dọa thông thường quy mô lớn đối với Nga và các đồng minh của nó.

Do đó, trong khi hầu hết các nhà quan sát đều bác bỏ lời đe dọa đen tối của Putin về “những hậu quả mà bạn chưa từng trải qua trong lịch sử” và việc ông đưa lực lượng hạt nhân Nga vào tình trạng “sẵn sàng chiến đấu đặc biệt” chỉ như một việc khua xúng ống, thì nhóm của Ông Biden chắc chắn đã không nghĩ như thế. Thí dụ, nếu ông Putin nhận thấy quân đội của mình thất bại khủng khiếp trên chiến trường qui ước, thì không thể loại trừ khả năng ông ta có thể cố gắng buộc Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đầu hàng bằng cách sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật - một loại bom có năng suất thấp hơn nhưng vẫn gây hậu quả tàn khốc —Trên một trong những thành phố nhỏ hơn của Ukraine. Và nếu Hoa Kỳ trả đũa tương xứng, chúng ta có thể thấy trận đá gà hạt nhân còn nguy hiểm hơn cuộc đối đầu với Cuba.

Các đối đầu có thể biến thành hạt nhân ra sao

Các động lực vào năm 1962 làm thế nào có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân? Các nhà phân tích về cuộc khủng hoảng này đã nhận diện hơn một chục nẻo đường có thể dẫn đến việc thiêu hủy các thành phố của Mỹ. Một trong những nẻo nhanh nhất bắt đầu với một sự kiện mà Kennedy thậm chí không biết vào thời điểm đó. Vấn đề cốt lõi đối với Kennedy và các cộng sự của ông là ngăn cản Liên Xô lắp đặt các tên lửa hạt nhân tầm trung tại Cuba có thể tấn công lục địa Hoa Kỳ. Tuy nhiên, họ không biết rằng Liên Xô đã bố trí hơn 100 vũ khí hạt nhân chiến thuật trên đảo. Hơn nữa, 40,000 quân Liên Xô được triển khai ở đó có cả khả năng kỹ thuật lẫn quyền sử dụng những vũ khí đó nếu họ bị tấn công.

Thí dụ, hãy tưởng tượng vào ngày thứ mười hai của cuộc khủng hoảng định mệnh đó, Khrushchev đã thẳng thừng từ chối lời đề nghị cuối cùng và sau hết của Kennedy để giải quyết nó. Kennedy đã đề xuất một thỏa thuận trong đó Hoa Kỳ sẽ cam kết không bao giờ xâm lược Cuba nếu Liên Xô rút tên lửa của họ, điều mà ông còn kèm theo một tối hậu thư riêng đe dọa sẽ tấn công Cuba trong vòng 24-48 giờ nếu Khrushchev từ chối. Dự đoán phản ứng tiêu cực, Kennedy đã cho phép thực hiện một chiến dịch ném bom để phá hủy tất cả các tên lửa trên đảo; điều này cũng sẽ được tiếp theo một cách trực tiếp bằng một cuộc xâm lược để đảm bảo rằng bất cứ vũ khí nào bị bỏ sót trong các cuộc tấn công đều bị loại bỏ. Nhưng khi quân đội Hoa Kỳ đổ bộ lên hòn đảo và giao tranh với quân đội Liên Xô, các chỉ huy Hoa Kỳ có thể đã tìm được các mục tiêu cho các vũ khí hạt nhân chiến thuật mà họ không hề biết đến. Những vũ khí này cũng rất có thể đánh chìm các tàu Mỹ đã vận chuyển họ đến hòn đảo, và thậm chí có thể đánh các cảng ở Florida mà từ đó đoàn quân Mỹ đã phát xuất.

Tại thời điểm đó, Khrushchev có thể ra lệnh cho các hỏa tiễn 20 ICBM của Liên Xô có khả năng mang đầu đạn tới đất liền Hoa Kỳ phải tiếp nhiên liệu chuẩn bị phóng. Lúc đó, Kennedy phải đối đầu với một tình thế tiến thoái lưỡng nan đáng nguyền rủa. Ông có thể ra lệnh tấn công phủ đầu vào kho vũ khí hạt nhân của Liên Xô - một cuộc tấn công có khả năng khiến Liên Xô vẫn còn đủ vũ khí còn lại để giết hàng chục triệu người Mỹ - hoặc ông có thể chọn không tấn công, vì biết rằng ông sẽ làm cho Hoa Kỳ dễ bị tấn công bởi kho vũ khí đầy đủ của Liên Xô, một cuộc tấn công có thể gây ra cái chết của hơn 100 triệu người Mỹ.

May mắn thay, cuộc chiến khủng khiếp của Nga chống lại Ukraine có trở nên nghiêm trọng đến đâu, nguy cơ nó kết thúc bằng bom hạt nhân phá hủy các thành phố của Mỹ không bằng một phần ba của Tổng thống Kennedy. Thật vậy, theo đánh giá tốt nhất của tôi, nó nhỏ hơn một phần 100 — và có lẽ gần hơn một phần 1,000. Có hai lý do chính khiến cuộc xâm lược của Putin không trở thành cái hậu của cuộc khủng hoảng tên lửa năm 1962. Thứ nhất, Putin đã hết sức thận trọng để không đe dọa các lợi ích quốc gia quan trọng của Mỹ, bao gồm cả việc tránh vượt qua các ranh giới đỏ như một cuộc xâm nhập hoặc tấn công vào lãnh thổ của bất cứ quốc gia NATO nào; và thứ hai, vì ngay từ đầu, Biden đã kiên quyết không cho phép những gì xảy ra ở Ukraine kích hoạt một cuộc chiến tranh quy mô lớn hơn.

Giới hạn phủ đầu

Phản ứng của Biden trước thách thức của Putin đã chứng tỏ sự rõ ràng chiến lược về lợi ích quốc gia của Mỹ. Ông hiểu các rủi ro thực sự mà các động lực ở Ukraine, nếu xử lý sai, có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân. Ông cũng biết rằng Hoa Kỳ không có lợi ích quan trọng nào ở Ukraine, một quốc gia không phải là thành viên của NATO và do đó, không có Điều khoản 5 đảm bảo nào của Washington để bảo vệ một cuộc tấn công chống lại nước này như thể đó là một cuộc tấn công vào Hoa Kỳ. Do đó, để Biden đâm đầu vào cuộc chiến với Nga về vấn đề Ukraine có thể là sai lầm tồi tệ nhất - và thực sự, có khả năng là sai lầm cuối cùng - trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Trong một nỗ lực kiên quyết để ngăn chặn điều đó, khi quân đội Nga bao vây Ukraine, Biden đã nói rõ rằng việc đưa quân đội Mỹ đến chiến đấu ở Ukraine là “một điều không có trong nghị trình”. Trong một cuộc họp báo ngày 8 tháng 12, ông tuyên bố, "Ý tưởng cho rằng Hoa Kỳ sẽ đơn phương sử dụng vũ lực để đối đầu với Nga [để ngăn nước này] xâm lược Ukraine không có trong quân bài ngay bây giờ." Kể từ đó, nhóm Biden đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm đó. Cho dù tội ác của Putin có dã tâm đến đâu, việc gửi quân đội Mỹ đến bảo vệ người Ukraine sẽ đồng nghĩa với chiến tranh với Nga. Cuộc chiến đó có thể leo thang đến một trận Armageddon hạt nhân, trong đó không chỉ người Ukraine mà cả các đối tác của họ ở châu Âu, Nga và Mỹ sẽ là nạn nhân. Tóm lại, như Biden đã nói: Hoa Kỳ “sẽ không chiến đấu trong cuộc chiến tranh thế giới thứ ba ở Ukraine.”

Năm 2008, không ai trong ban an ninh của Bush chuẩn bị tham chiến với Nga để bảo vệ Georgia.

Các nhà phê bình Biden trong Quốc hội hiện cho rằng sự thận trọng của ông đã dẫn đến cuộc xâm lược của Putin. Theo Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Tom Cotton, “Sự xoa dịu nhu nhược của Biden đã kích động Putin”. Cotton và các đồng minh của ông khẳng định, nếu Hoa Kỳ có một tổng thống mạnh mẽ như George W. Bush, cuộc xâm lược sẽ không bao giờ xảy ra. Các tuyên bố giả dụ phản sự kiện (Counterfactuals) rất phức tạp. Nhưng trong trường hợp này, áp dụng một chút lịch sử sẽ đi một chặng đường dài.

Hãy xem xét cuộc xâm lược Georgia của Putin vào năm 2008. Bush là tổng thống, và những phát triển ở Georgia nhìn chung tương tự như ở Ukraine trước cuộc xâm lược của Nga. Vào thời điểm đó, những nỗ lực của Georgia nhằm đối đầu với phe ly khai do Nga hậu thuẫn bị Putin coi là mối đe dọa không thể chấp nhận được. Sau hội nghị thượng đỉnh NATO năm đó, trong đó, Chính quyền Bush đã cố gắng đưa Georgia và Ukraine gia nhập NATO nhưng không thành công, một Tổng thống dạn dĩ của Georgia, Mikheil Saakashvili, đã thẳng tay đàn áp tỉnh ly khai Nam Ossetia. Khi Putin phản ứng bằng cách ra lệnh cho quân đội Nga xâm lược Georgia, ông chắc chắn không nghi ngờ gì về sự sẵn sàng của Bush trong việc gửi quân đội Mỹ tham chiến. Dù sao, ông ta từng chứng kiến Bush điều động 130,000 quân xâm lược Iraq vào năm 2003 và hàng chục nghìn người nữa đến Afghanistan. Thay vì răn đe Putin, bằng chứng cho thấy sự tỏ ra dũng cảm của Bush chủ yếu chỉ để khuyến khích sự liều lĩnh của Saakashvili, một điều, ngược lại, đã tạo cớ cho cuộc xâm lược của Putin.

Khi những kẻ xâm lược Nga tiếp cận thủ đô của Georgia, chính quyền Bush phải đối mặt với một sự lựa chọn khác. Có thể dự đoán, một số thành viên của chính quyền, đặc biệt là các phụ tá trong văn phòng của Phó Tổng thống Dick Cheney, đã kêu gọi gửi quân đội Hoa Kỳ để ngăn chặn việc Nga chiếm Georgia. Tại cuộc họp đặc biệt của Hội đồng An ninh Quốc gia do tổng thống chủ trì, cố vấn an ninh quốc gia của ông, Stephen Hadley, đã trực tiếp nêu ra câu hỏi: "Chúng ta có chuẩn bị chiến tranh với Nga vì Georgia không?" Lúc đó, tổng thống yêu cầu mỗi người tham gia cuộc họp đưa ra câu trả lời của riêng họ. Như Hadley đã nói sau đó, “Tôi muốn mọi người đưa lá bài của họ về một phản ứng quân sự có thể xảy ra” - biết rằng nếu không thì sau này một số người trong số họ có thể tuyên bố rằng họ đã chuẩn bị chiến đấu cho Georgia nhưng ý kiến của họ đã bị loại bỏ. Khi họ đi quanh bàn, không ai, kể cả Cheney, Ngoại trưởng Condoleezza Rice và Bộ trưởng Quốc phòng Bob Gates, sẵn sàng bỏ phiếu đồng ý. Hoa Kỳ đã không đến giúp Georgia, và chiến tranh kết thúc trong vòng hai tuần.

Một tiền lệ đối với nhiều tổng thống

Về mặt giáo dục, những lựa chọn của chính quyền Biden và Bush nhất quán với những lựa chọn của mọi chính quyền khác của Hoa Kỳ đã từng đối đầu với tình huống khó xử tương tự. Khi Liên Xô phong tỏa đường cao tốc đến Berlin vào năm 1948, Tổng thống Harry Truman đã từ chối đề xuất của các chỉ huy quân sự của mình để các lực lượng Hoa Kỳ chiến đấu theo cách của họ. Tổng thống Dwight Eisenhower đã quyết định không gửi quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ cuộc nổi dậy của Hungary năm 1956 — một quyết định được Tổng thống Lyndon Johnson lặp lại ở Tiệp Khắc vào Mùa xuân Praha năm 1968. Kennedy từ chối tấn công quân đội Liên Xô đang xây dựng Bức tường Berlin. Và khi, vào năm 1983, Liên Xô bắn rơi một máy bay thương mại đi lầm vào không phận Liên Xô - một cuộc tấn công giết chết 52 người Mỹ, bao gồm cả một thành viên đương nhiệm của Quốc hội - Tổng thống Ronald Reagan cũng từ chối leo thang. Trong mọi trường hợp, người có trách nhiệm tối cao không sẵn sàng mạo hiểm sự tồn vong của quốc gia vì bất cứ điều gì kém hơn lợi ích sống còn của quốc gia.

Giống như những người tiền nhiệm của họ, Biden, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mark Milley, Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan và những người khác trong chính quyền không chỉ đọc những gì đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba mà còn tham gia vào các trò chơi chiến tranh giả tưởng được thiết kế để giúp họ trải nghiệm một cách gián tiếp sự nguy hiểm hạt nhân. Họ đã đóng vai những người ngồi quanh bàn với Kennedy, tranh luận về những lựa chọn mà họ biết có thể kích động một cuộc tấn công hạt nhân, một cuộc tấn công có thể giết chết gia đình của họ. Họ đã xem xét SIOP, hay Kế hoạch Hoạt động Tích hợp Đơn nhất [Single Integrated Operational Plan] — tức kế hoạch tổng quát của Hoa Kỳ cho một cuộc chiến tranh hạt nhân, được đưa ra lần đầu tiên vào đầu những năm 1960, nhằm cung cấp một danh sách các thủ tục phát động và các lựa chọn mục tiêu cho kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ, khi cần thiết. Biden và các cố vấn cấp cao của ông đã suy nghĩ về sự kiện mặc dù các lực lượng hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ có thể xóa Nga khỏi bản đồ, nhưng khi kết thúc bất cứ cuộc đối đầu nào như vậy, Hoa Kỳ cũng sẽ biến mất. Do đó, họ hiểu được chân lý sâu sắc được Ronald Reagan ghi nhận trong lời nhận xét ngắn nổi tiếng của ông: "Một cuộc chiến tranh hạt nhân không thể nào thắng được và không bao giờ nên chiến đấu".

Trong nhiều thập niên, chính quyền Hoa Kỳ luôn tránh leo thang quân sự với Nga.

Hai mệnh đề của Reagan rất dễ đọc, nhưng khó để tích hợp vào tư duy chiến lược. Mặc dù Hoa Kỳ có quân đội hùng mạnh nhất thế giới, với các lực lượng hạt nhân có thể biến Nga thành nghĩa địa, điểm đầu tiên của Reagan nhắc chúng ta rằng vào cuối cuộc chiến đó, Nga cũng sẽ tiêu diệt hoàn toàn Hoa Kỳ. Không ai có thể gọi đó là chiến thắng. Tình trạng này - được các nhà chiến lược thời Chiến tranh Lạnh mô tả là MAD (mutually assured destruction = sự hủy diệt chắc chắn lẫn nhau) - đã khiến cuộc chiến toàn diện giữa những kẻ thù có kho vũ khí hạt nhân trở thành điên dại. Thực vậy, kỹ thuật đã khiến Mỹ và Nga trở thành cặp song sinh dính liền nhau không thể tách biệt. Mặc dù một trong hai có thể giết người kia, nhưng không thể làm như vậy mà không đồng thời tự sát.

Nửa sau lời cảnh báo của Reagan thậm chí còn khó nuốt hơn: rằng một cuộc chiến tranh hạt nhân “không bao giờ nên được tiến hành”. Bất kể nước Nga ngày nay của Putin xấu xa và nguy hiểm đến đâu, Hoa Kỳ phải tìm cách đánh bại nước này mà không gây chiến. Trong Chiến tranh Lạnh, tránh chiến tranh với Liên Xô đồng nghĩa với việc chấp nhận các giới hạn đối với các sáng kiến của Hoa Kỳ nhằm chống lại Liên Xô mà nếu không sẽ hoàn toàn không thể chấp nhận được. Những điều này bao gồm việc sống càng xa càng tốt với việc Liên Xô chiếm đóng các quốc gia bị giam cầm ở Đông Âu, ngay cả khi Hoa Kỳ đã làm những gì có thể để làm suy yếu sự ủng hộ đối với các chế độ Cộng sản đó, và đạt được những thỏa hiệp trong đó cả hai quốc gia đồng ý không triển khai một số hệ thống vũ khí — thí dụ, lực lượng hạt nhân tầm trung — có thể làm tăng nguy cơ tính toán sai hoặc tai nạn có thể dẫn đến chiến tranh.

Đặc biệt trong bầu không khí nóng bỏng của Washington hiện nay, có thể hữu ích khi nhớ lại rằng lúc Reagan ký Hiệp ước Các Lực lượng Hạt nhân Tầm trung, nhà báo George Will của tờ Washington Post đã cáo buộc ông “khi đẩy nhanh việc giải trừ quân bị tinh thần — thì việc giải trừ vũ khí thực sự sẽ theo sau”. Nhà trí thức bảo thủ hàng đầu thời đó, William Buckley, đã gọi Hiệp ước Các Lực lượng Hạt nhân Tầm trung của Reagan là một “hiệp ước tự sát”. Đối với các lời chỉ trích đó, Reagan viết, “Một số người ủng hộ bảo thủ triệt để của tôi đã phản đối rằng khi đàm phán với người Nga, tôi đã âm mưu đánh đổi an ninh tương lai của đất nước chúng ta. Tôi bảo đảm với họ rằng chúng ta sẽ không ký bất cứ thỏa thuận nào khiến chúng ta gặp bất lợi, nhưng vẫn nhận được rất nhiều tấn công từ phía họ - tôi tin nhiều người trong số họ nghĩ rằng chúng tôi phải chuẩn bị chiến tranh hạt nhân vì đó là điều ‘không thể tránh khỏi’".

Chiến tranh bằng các phương tiện khác

Trong số nhiều bài học từ cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, một bài học có thể tỏ ra đặc biệt quan trọng đối với chính quyền Biden trong những tuần tới — đặc biệt nếu Putin thấy mình bị đẩy vào một góc. Như Kennedy đã nói trong bài phát biểu quan trọng nhất về chính sách đối ngoại của mình, chỉ vài tháng sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, “Trên hết, trong khi bảo vệ lợi ích sống còn của chúng ta, các cường quốc hạt nhân phải ngăn chặn những cuộc đối đầu khiến đối thủ phải lựa chọn rút lui nhục nhã hoặc chiến tranh hạt nhân". Nếu đó là hai lựa chọn duy nhất mà Putin phải chọn, không có gì bảo đảm ông ta sẽ chọn lựa giải pháp đầu. Mặc dù Biden đã cẩn thận tránh ép buộc Putin đến điểm đó, nhưng các sự kiện hiện đang diễn tiến hướng tới điều nhà lãnh đạo Nga có thể coi như một ngã rẽ như vậy. Nếu các sự kiện của cuộc chiến trên đất khiến ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài thất bại trong cuộc chiến này hoặc khiến người dân Ukraine và thế giới bàng hoàng bằng một cuộc tấn công hạt nhân chiến thuật, thì sẽ thật ngu ngốc khi đánh cuộc với lựa chọn thứ hai của ông ta.

Để ngăn chặn điều này, Biden và nhóm của ông nên xem lại những gì Kennedy đã làm khi ông ấy thấy các sự kiện đang đi nhanh tới ngõ cụt. Bất chấp thành công của cuộc phong tỏa hải quân của Hoa Kỳ trong việc ngăn chặn Liên Xô đưa thêm tên lửa tới Cuba, nó đã không làm gì để ngăn họ sẵn sàng phóng tên lửa chống lại Hoa Kỳ. Do đó, vào ngày thứ Bảy cuối cùng của cuộc khủng hoảng, các cố vấn của Kennedy nói với ông rằng ông chỉ có hai lựa chọn: tấn công hoặc chấp nhận một căn cứ tên lửa của Liên Xô ở Cuba như một sự đã rồi. Kennedy đã bác bỏ cả hai. Thay vào đó, ông đưa ra một giải pháp thay thế đầy tưởng tượng bao gồm ba thành phần: một thỏa thuận công khai trong đó Hoa Kỳ cam kết không xâm lược Cuba nếu Liên Xô rút tên lửa, một tối hậu thư đe dọa tấn công Cuba trong vòng 24 đến 48 giờ tới trừ khi Khrushchev chấp nhận lời đề nghị đó, đồng thời hứa hẹn sẽ rút tên lửa của Mỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ trong vòng sáu tháng sau khi cuộc khủng hoảng được giải quyết.

Trong các cuộc đàm phán và ngoại giao đa cấp phức tạp, điều sẽ được yêu cầu để tạo ra một con đường vòng tương tự cho Putin ở Ukraine, Hoa Kỳ và các đồng minh của họ sẽ cần nhiều trí tưởng tượng hơn Kennedy và các cố vấn của ông đã làm vào năm 1962. Nhưng khi Biden và nhóm của ông với tới thử thách này, họ có thể tìm được cảm hứng trong giờ phút đẹp nhất nhất của John Fitzgerald Kennedy.