[Khi chúng ta cầu nguyện.] Kitô hữu biết hoặc phải biết rằng cầu nguyện là sức mạnh chắc chắn nhất, nhưng tác dụng của nó vẫn chưa ai biết. Khi cầu nguyện, chúng ta đặt vào tay Thiên Chúa một thanh gươm trần trụi, tráng lệ và đáng sợ, với nó, Người có thể làm gì thì làm, và chúng ta không biết gì thêm nữa. Cầu nguyện cho một em nhỏ chắc chắn là điều mầu nhiệm hơn hết về tác dụng của nó. Khi đó, chúng ta là chính chúng ta như những đứa trẻ ở bờ biển, hay như những người ăn xin nhìn vào Dải Ngân hà. Ở chiều cao và ở vực thẳm đều có các kho báu hoặc nỗi kinh hoàng không thể quan niệm được.



Benoit thân yêu của tôi, tôi cảm thấy mạnh mẽ, có nghĩa là, có thể hành động lên Thiên Chúa (praevalens Deo), chỉ khi nào tôi cảm thấy vô cùng khốn khổ và khi điều này làm tôi khóc. Tất nhiên, tôi muốn nói đến sự khốn khổ của tâm hồn và trí óc tôi, vốn có thực hơn nhiều so với những gì người ta có thể nghĩ. Tin tôi đi, tất cả những gì tôi đã có thể viết mà hay, mà đẹp nếu bạn thích, tất cả những gì có lợi cho một vài linh hồn, đều được ban cho tôi bởi vì tôi đã khóc vì chính mình cùng lúc với việc tôi khóc vì nhiều người khác, vì toàn bộ sáng thế bị hủy hoại bởi việc sa ngã, và những giọt nước mắt diễm phúc này, cả chúng nữa, cũng là một hồng phúc nhưng không một cách tuyệt vời, cho tôi, nói thật, vốn là một người rất nghèo, nghèo nhất trong những người nghèo, có Thiên Chúa biết.

[Một mình trước nhan Thiên Chúa.] Gửi Jean de la Laurencie: Bạn thân mến, vợ tôi, người đã thấy bạn hôm nay, nói với tôi rằng bạn gán cho tôi sức mạnh có thể an ủi bạn. Bạn đã viết cho tôi những điều tương tự và nó luôn làm tôi kinh ngạc. Không ai ở lứa tuổi bạn hiện hữu, để bạn nghĩ rằng bạn cần đến tôi! Bản thân tôi cần gì mà lại không dựa vào ai đó! Tôi đã thử bao nhiêu lần rồi! Đã bao lần tôi nghĩ rằng mình đã tìm thấy những cột đá hoa cương mà thực ra chẳng là gì ngoài tro tàn, thậm chí còn tệ hơn thế nữa! Và tôi thực sự sợ hãi rằng bản thân tôi không còn là gì hơn nữa.

Những gì ít ỏi tôi có, Thiên Chúa đều đã ban cho tôi mà không cần tôi dự bất cứ vai trò nào trong đó, và tôi đã sử dụng nó như thế nào? Điều xấu xa nhất không phải là phạm tội mà là không làm điều tốt mình có thể làm. Đó là tội bỏ sót, vốn không là gì khác hơn không-yêu, và về tội này, không ai tự tố cáo mình. Bất cứ ai có thể theo dõi tôi hàng ngày, trong thánh lễ sớm nhất, sẽ thường thấy tôi khóc. Những giọt nước mắt này, có thể là thánh thiện, nhưng đúng hơn là những giọt nước mắt cay đắng. Vào những lúc như vậy, tôi không nghĩ đến tội lỗi của mình, một vài tội trong số đó rất lớn lao. Tôi nghĩ về những gì tôi có thể làm mà đã không làm, và tôi nói với bạn rằng nó thực sự đen đúa.

Bạn đừng nói với tôi rằng nó giống nhau với tất cả mọi người. Thiên Chúa đã ban cho tôi cảm giác, nhu cầu, bản năng — tôi không biết phải diễn đạt thế nào — về Đấng Tuyệt đối, giống như Người đã ban lông cho nhím và vòi cho voi. Một hồng phúc cực kỳ hiếm hoi mà tôi đã ý thức được ngay từ khi còn nhỏ, một khả năng nguy hiểm và day dứt hơn cả thiên tài, vì nó ngụ hàm sự thèm thuồng liên tục và cuồng nhiệt đối với điều không hiện hữu trên trái đất, và vì qua nó là sự cô lập vô hạn đã thủ đắc được. Tôi có thể trở thành một vị thánh, một người làm phép lạ. Nhưng tôi đã trở thành một người của văn đàn.

Ước chi mọi người biết rằng những câu hoặc trang họ chọn để ngưỡng mộ chỉ là cặn bã của một hồng phúc siêu nhiên mà tôi biến thành một mớ hỗn độn đáng ghét và tôi sẽ buộc phải tính sổ một cách đầy sợ hãi! Tôi đã không làm những gì Chúa muốn nơi tôi, điều này chắc chắn. Ngược lại, tôi đã mơ những gì tôi muốn từ Thiên Chúa, và tôi ở đây, ở tuổi sáu mươi tám, không có gì trong tay ngoài mấy tờ giấy! Ôi! Tôi biết rõ bạn sẽ không tin tôi, bạn sẽ cho rằng đây là một sự khiêm tốn nào đó. Chao ôi! Khi một người ở một mình, trước nhan Thiên Chúa, ở lối vào một đại lộ tối tăm nhất, người ta nhìn vào trong chính mình thì không có cách gì để đánh giá quá cao chính mình! Sự tử tế chân chính, thiện chí trung thực, sự đơn sơ của trẻ em, tất cả đều kêu cầu nụ hôn từ Miệng Chúa Giêsu — bạn biết rất rõ rằng bạn không có bất cứ khía cạnh nào của điều này và bạn thực sự không có gì để ban tặng những trái tim đau khổ đáng thương đang nài xin trợ giúp. Đây là quan điểm của tôi đối với bạn, bạn thân mến. Chắc chắn tôi có thể cầu nguyện cho bạn, tôi có thể đau khổ với bạn và vì bạn, bằng cách cố gắng gánh một chút gánh nặng của bạn; vâng, nhưng giọt nước lấy từ một chén thánh của Địa đàng trần gian, tôi không thể ban tặng bạn được. Tôi cảm thấy hôm nay tôi có nhiệm vụ phải nói với bạn điều này để bạn có thể không quá tin tưởng vào một tạo vật yếu đuối và buồn bã.

[Tội bỏ sót.] Tôi thường nghĩ rằng tổn thương đến linh hồn nguy hiểm nhất là tội bỏ sót. Tội hành động, dù có lớn đến đâu, cũng có thể được tha thứ vì Chúa Giêsu đã trả giá cho nó rồi. Nhưng Người không trả giá cho tội bỏ sót, thứ tội liên quan đến Chúa Thánh Thần. Đây là một suy nghĩ day dứt, đặc biệt là vào cuối đời, khi bạn nhớ chính xác một số hoàn cảnh trong đó, đáng lẽ bạn có thể dễ dàng thực hiện một số hành vi được Thiên Chúa yêu cầu, nhưng bạn đã bỏ qua hoặc chính thức từ chối thực hiện. Đó là trường hợp của tôi. Bằng cách này, tôi chính xác ở cùng một bình diện với những người giàu, những người, không gây cho họ mấy rắc rối, đã giúp tôi hoàn thành sứ mệnh của mình, mặc dù họ không muốn. Tất cả những gì tôi có thể làm là khóc lóc thảm thiết, như Thánh Phêrô, người có thể đã tránh được việc chối Thầy của mình, và người chỉ nhận được ơn tha thứ khi Chúa Thánh Thần giáng xuống trên ngài như một tiếng sét.

Tôi sắp rước lễ. Vị linh mục đã thốt ra những lời đáng sợ mà lòng sùng đạo xác thịt gọi là an ủi: Domine non sum dignus... [Lạy Chúa, con không đáng...] Chúa Giêsu sắp ngự đến, và tôi chỉ có một khoảnh khắc chuẩn bị đón tiếp Người... Trong một khoảnh khắc, Người sẽ ở dưới mái nhà tôi.

Tôi không nhớ mình đã dọn dẹp nơi ở này, nơi mà Người sẽ ngự vào trong tư cách một vị vua hay một tên trộm, vì tôi không biết phải nghĩ gì về chuyến viếng thăm này. Thật vậy, đã có bao giờ tôi dọn dẹp nó cho sạch, nơi tôi ở đầy nhớp nhúa và xác thịt chưa?

Tôi liếc nhìn nó, một cái nhìn tội nghiệp đầy kinh hoàng, và tôi thấy nó đầy bụi và đầy rác rưởi. Khắp nơi dường như có một mùi bẩn và thối rữa.

Tôi không dám nhìn vào những góc tối. Ở những nơi khuất bóng cuối cùng, tôi nhìn thấy những điểm kinh khủng, cũ hay mới, nhắc tôi nhớ rằng tôi đã tàn sát những người vô tội, và không biết bao nhiêu người, một cách tàn ác như thế nào!

Những bức tường của tôi đầy những sâu bọ và nhiễu những giọt lạnh lùng làm tôi nhớ tới những giọt nước mắt của rất nhiều kẻ bất hạnh đã cầu xin tôi trong vô vọng, hôm qua, hôm kia, mười, hai mươi, bốn mươi năm trước….

Và kìa! Ở đó, trước cánh cửa ghê rợn đó, ai là con quái vật đang ngồi xổm kia, kẻ mà cho đến giờ tôi vẫn chưa nhận ra, và ai giống với tạo vật mà tôi thỉnh thoảng thoáng thấy trong gương? Anh ta dường như đang thiếp ngủ trên cánh cửa sập bằng đồng, được tôi niêm phong và khóa chặt cẩn thận, để tôi có thể không nghe thấy tiếng kêu la của người chết và tiếng Miserere [xin thương xót] đáng thương của họ.

Ôi! Thực sự Thiên Chúa không sợ khi bước vào một ngôi nhà như vậy!

Và Người ở đây! Tôi phải chào hỏi Người như thế nào, và tôi sẽ nói gì hoặc làm gì? Tuyêt đối chẳng có gì.

Ngay cả trước khi Người vượt qua ngưỡng của tôi, có lẽ tôi đã không còn nghĩ gì về Người, tôi đã không còn ở đó nữa, tôi đã biến mất, tôi không biết làm thế nào, tôi sẽ ở xa vô cùng, giữa những hình ảnh của các tạo vật.

Người sẽ ở một mình và chính Người sẽ dọn dẹp nhà cửa, được sự giúp đỡ của Mẹ Người, đấng mà tôi tự xưng là nô lệ của ngài, còn ngài, thực sự, là người hầu gái khiêm nhường của tôi.

Khi Các Ngài ra đi, cả hai Ngài, để thăm các ổ khác, tôi sẽ lại trở về và mang theo một đống rác rưởi mới.

-----

Lạy nữ vương rất thân yêu của con, con không biết đâu là việc tôn vinh Mẹ vì điều này hay điều nọ trong các Mầu Nhiệm của Mẹ, như đã được một số bạn bè của Mẹ dạy bảo. Con không muốn biết gì ngoài việc Mẹ là Mẹ Sầu Bi, trọn cuộc sống trần gian của Mẹ chỉ là nỗi buồn, nỗi buồn vô hạn, và con là một trong những đứa con của nỗi buồn của Mẹ. Con đã đặt mình phục vụ Mẹ như một nô lệ, con đã giao phó cho Mẹ đời sống vật chất và tinh thần của con để nhờ Mẹ con nhận được ơn thánh hóa của con và của những người khác. Chỉ bằng cách này, dưới tiêu đề này, con mới có thể nói chuyện với Mẹ. Con thiếu đức tin, đức cậy và đức mến. Con không biết cầu nguyện ra sao và con không quen với việc sám hối. Con không thể làm gì và con chẳng là gì ngoài một đứa con của nỗi buồn. Mẹ biết rằng từ rất lâu, hơn ba mươi năm qua, để tuân theo sự thúc đẩy chắc chắn phát xuất từ Mẹ, con đã xin giáng xuống trên con mọi đau khổ có thể có. Bởi vì điều này, con tự lý giải rằng sự đau khổ của con, vốn rất lớn và liên tục, có thể được dâng lên cho Mẹ. Rút ra từ kho lẫm này để trả nợ của con và của tất cả những tạo vật con yêu quý. Và lúc đó, nếu Thiên Chúa muốn, Mẹ hãy bảo đảm để con trở thành nhân chứng của Mẹ trong dằn vặt của cái chết. Con xin Mẹ điều này nhân danh dịu dàng nhất của Mẹ là Maria.

Chúng ta được tạo ra để nên thánh. Nếu có bất cứ điều gì được viết ra, thì chắc chắn là điều này. Sự thánh thiện được đòi hỏi nơi chúng ta, nó nội tại trong bản chất con người, đến nỗi Thiên Chúa cho rằng sự hiện hữu của nó, có thể nói như thế, trong mỗi người chúng ta, nhờ các bí tích của Giáo hội Người, tức là, nhờ các dấu hiệu huyền nhiệm làm cho việc khởi đầu Vinh quang thành hoạt động một cách vô hình trong các linh hồn. Sacramentum nihil aliud nisi rem sacram, abditam atque occultam significant. (Bí tích không là gì khác hơn là một điều thánh thiêng, giấu kín và huyền bí.) Điều thánh thiêng và huyền bí được Công đồng Trent ám chỉ này có hiệu lực kết hợp các linh hồn với Thiên Chúa. Nền thần học siêu việt nhất không nói gì mạnh hơn khẳng định này. Thậm chí có ba bí tích còn in ấn tích, và ấn tích này không thể bị xóa nhòa. Vì vậy, chúng ta hầu như là những vị thánh, những cột trụ của Vinh quang vĩnh cửu. Một Kitô hữu có thể bác bỏ phép rửa của mình, loại Chúa Thánh Thần khỏi suy nghĩ của mình, và nếu anh ta là một linh mục hư hỏng, bác bỏ sự kế vị của các Tông đồ do chức thánh ban cho anh ta; tóm lại, anh ta có thể tự trầm luân mình đời đời; không điều gì có thể chia cắt anh ta, tách anh ta ra khỏi Thiên Chúa, và điều mầu nhiệm khôn dò gây kinh hoàng là sự bền bỉ này của Dấu hiệu thánh thiêng thậm chí còn kéo dài tới tận nỗi đau đời đời bị trầm luân. Do đó phải nói rằng địa ngục đầy rẫy những vị thánh đáng kính trở thành đồng chí của những thiên thần gớm ghiếc!

Bất kể những vị thánh hay thiên thần như thế có ác độc như thế nào đi chăng nữa thì họ cũng có Thiên Chúa ở trong họ. Nếu không, họ không thể tồn hữu, ngay trong trạng thái hư vô, vì hư vô, cũng không thể quan niệm được nếu không có Thiên Chúa, là hồ chứa vĩnh cửu của Sáng Thế.

Tất cả những gì Thiên Chúa đã tạo nên đều thánh thiêng một cách nào đó mà chỉ có Người mới có thể giải thích. Nước là thánh thiêng, đá là thánh thiêng, thực vật và động vật là thánh thiêng, lửa là hình ảnh nuốt chửng của Thánh Thần Người. Toàn bộ công trình của Người là thánh thiêng. Chỉ một mình con người, vốn thánh thiêng hơn các tạo vật khác, sẽ không có sự thánh thiện nào cả.

Họ coi đó là điều lố bịch và thậm chí còn xúc phạm đến phẩm giá của họ. Trong thế kỷ thứ hai mươi của ơn Cứu Chuộc, đó là kết quả trông thấy và tri nhận được của sự bất trung nơi rất nhiều mục tử, của sự mù quáng quái dị do những người lẽ ra phải là ánh sáng thế gian, và kẻ đã dập tắt mọi ánh sáng đem lại.

Quả thực điều chắc chắn là chưa bao giờ, trong bất cứ thời đại lịch sử thế giới nào, con người lại xa cách Thiên Chúa, khinh miệt sự Thánh thiện được Người yêu cầu, thế nhưng cũng chưa bao giờ sự cần thiết trở nên thánh lại được thể hiện rõ ràng như thế. Trong những ngày chung tận này, thực sự dường như chỉ có một bộ phim hư vô ngăn cách chúng ta với những vực ngăn cách vĩnh cửu.

“Không phải tất cả mọi người đều được gọi nên thánh,” một cụm từ đặc trưng của Satan. Hỡi kẻ khốn nạn, vậy ngươi được gọi trở nên gì? và trước hết trong thời đại của chúng ta? Thầy Chí Thánh vốn nói rằng bạn phải hoàn thiện. Người nói điều đó một cách ra lệnh, tuyệt đối, phải hiểu là không hề có phương thức thay thế nào khác, và những người có nhiệm vụ giảng dạy lời Người, phải tự trình bày mình như một tấm gương về sự hoàn thiện, lại không ngừng khẳng định rằng nó không là điều cần thiết, chỉ cần một mức yêu thương trung bình không đáng kể đã là quá đủ để được ơn cứu rỗi, và việc mong muốn lối sống siêu nhiên là thiếu cân nhắc, khi nó không phải là giả định đáng trách.

Aliquam partem, “một phần nào đó,” họ tranh luận, làm giảm một cách diễn đạt trong Phụng vụ, một góc nhỏ bé trong Địa đàng, đó là những gì chúng ta cần. Họ dành cho cuộc rút lui hèn hạ này, cho sự phủ nhận chính thức Lời hứa thần linh này, một màu sắc khiêm tốn, khéo léo bỏ qua phần tiếp theo đầy tính anh hùng ca của hai từ ngữ phụng vụ, trong đó nói rõ rằng “phần” trong trường hợp này chính là “đoàn ngũ các Tông đồ và Tử đạo.”

Nhưng trí óc hèn nhát và trái tim tầm thường chẳng hề thắng vượt được điều gì chống lại Lời Thiên Chúa, và câu Estote perfecti (các con hãy hoàn thiện) trong Bài giảng trên núi tiếp tục đè nặng lên chúng ta hơn tất cả những thiên thể trên bầu trời.

Sự thánh thiện luôn luôn được đòi hỏi nơi chúng ta. Ngày xưa, người ta có thể tin rằng sự thánh thiện được đòi hỏi từ xa, giống như một món nợ phải trả vào một ngày mơ hồ, có thể mất hiệu lực. Ngày nay, sự thánh thiện được đặt trước ngưỡng cửa nhà chúng ta bởi một sứ giả ánh mắt cuồng dại nhuốm đầy máu. Phía sau người này, vài bước sau ông ta, là hoảng loạn, là lửa, là cướp bóc, tra tấn, tuyệt vọng, cái chết kinh hoàng nhất…

Và chúng ta đến một khoảnh khắc cũng không có để lựa chọn!



[Chỉ Có Một Nỗi Buồn.] Hôm nay Clotilde bốn mươi tám tuổi, và trông như thể ít nhất nàng đã một trăm tuổi. Nhưng nàng đẹp hơn trước, và giống như một cột trụ cầu nguyện, cột trụ cuối cùng của một đền thánh bị tàn phá bởi các trận đại hồng thủy.

Tóc nàng đã trở nên trắng hoàn toàn. Đôi mắt nàng, bị thiêu rụi bởi những dòng nước mắt vốn đào rãnh trên khuôn mặt nàng, gần như đã tắt ngúm. Tuy nhiên, nàng không mất đi chút sức mạnh nào của mình.

Hầu như không bao giờ người ta thấy nàng ngồi yên. Luôn đi từ nhà thờ này sang nhà thờ khác, hoặc từ nghĩa trang này sang nghĩa trang khác, nàng dừng lại chỉ để quỳ gối, và bạn có thể nói nàng không biết tư thế nào khác.

Đầu nàng chỉ được che bằng chiếc mũ trùm của chiếc áo khoác đen dài đến đất, đôi chân vô hình của nàng trần trụi trong đôi dép quai, được duy trì trong mười năm bởi một năng lực vượt hẳn năng lực con người, không có thời tiết lạnh giá hay hôi thối nào có thể làm nàng sợ hãi. Nơi ở của nàng là nơi mưa rơi thỏa thích.

Nàng không xin bố thí. Nàng giới hạn bản thân bằng một nụ cười rất dịu dàng khi tiếp nhận bất cứ thứ gì được tặng cho nàng, và trao nó một cách bí mật cho những người túng thiếu.

Bất cứ khi nào gặp một đứa trẻ, nàng đều quỳ xuống trước mặt nó, như Bérulle vĩ đại từng làm, và dùng bàn tay nhỏ bé tinh khiết của nó, làm dấu thánh giá trên trán nàng.

Các Kitô hữu thoải mái và ăn vận đàng hoàng, những người bị Siêu nhiên gây bất tiện và “từng nói với Khôn Ngoan: Ngài là em gái tôi,” đánh giá nàng là người có đầu óc rối loạn, nhưng những người bình thường rất tôn trọng nàng, và một số phụ nữ ăn xin ngoài nhà thờ tin nàng là một vị thánh.

Im lặng như những không gian trên trời, khi nàng nói, dường như nàng trở về từ một thế giới phước hạnh tọa lạc đâu đó trong một vũ trụ không ai biết. Điều này có thể cảm nhận được trong giọng nói xa xôi của nàng, giọng nói mà tuổi tác làm cho thâm hậu mà không làm giảm đi vẻ quyến rũ dịu dàng của nó, và điều này có thể cảm nhận rõ hơn trong lời nói của nàng.

“Mọi điều xảy ra đều có tính thần linh,” là nhận xét thường lệ của nàng, với không khí ngây ngất của một tạo vật bị choáng ngợp cả hàng ngàn lần, người sẽ không tìm thấy lời nói nào khác cho mọi chuyển động của trái tim và tâm trí nàng, bất chấp đó là dịp đại dịch hoàn cầu, hay là khoảnh khắc nàng bị thú dữ nuốt chửng.

Mặc dù họ biết nàng là một kẻ lang thang, nhưng cảnh sát, chính họ cũng phải kinh ngạc trước sức mạnh của nàng, chưa bao giờ tìm cách quấy rối nàng.

Sau cái chết của Leopold - thi thể của chàng không bao giờ được tìm thấy giữa đống đổ nát vô danh và kinh khủng - Clotilde đã tìm cách sống phù hợp theo một trong những Giới luật trong các sách Tin Mừng mà tuân giữ nghiêm ngặt nó được coi là khó chịu đựng hơn cả việc bị tra tấn bằng lửa. Nàng đã bán tất cả những gì nàng sở hữu, đã chia số tiền thu được cho những người nghèo nhất trong số những người nghèo khổ và chỉ qua một đêm đã trở thành một người ăn xin.

Những năm đầu tiên của cuộc sống mới này ra sao, chỉ có Thiên Chúa mới biết! Người ta đã kể những điều kỳ diệu về nàng giống như những gì được các Thánh thực hiện, nhưng điều có vẻ như hoàn toàn đúng là ân sủng đã được ban cho nàng để nàng không bao giờ cần nghỉ ngơi.

“Thưa bà khốn khổ, bà hẳn rất bất hạnh”, một linh mục kia có lần nói với nàng như thế, sau khi thấy nàng đẫm nước mắt trước lúc Bí tích Cực trọng được trưng ra - một người đàn ông tình cờ là một linh mục thực sự.

“Con hoàn toàn hạnh phúc,” nàng trả lời. “Cha không vào Thiên đàng ngày mai, hay ngày kia, hay trong mười năm, cha vào đó ngay ngày hôm nay, khi cha nghèo và bị đóng đinh”.

Hodie mecum eris in paradiso (hôm nay con sẽ ở với Ta trên Thiên đàng),” vị linh mục thì thầm, người đang hết sức tràn ngập tình yêu.

Nhờ chịu đựng đau khổ, Kitô hữu sôi nổi và mạnh mẽ này đã phát hiện ra rằng đặc biệt đối với phụ nữ, chỉ có một cách duy nhất để tiếp xúc với Thiên Chúa và cách đó, cách hoàn toàn độc đáo, là Nghèo khó. Không phải thứ nghèo khó dễ dàng đánh lừa đồng lõa ấy, thứ nghèo khó bố thí cho thói đạo đức giả của thế gian, mà là cái nghèo khó khó chịu, nổi loạn, tai tiếng, thứ nghèo khó phải được giúp đỡ mà không có dù một chút hy vọng được vênh vang và không hề có gì để cho lại.

Nàng thậm chí còn hiểu — và điều này chẳng có gì là cao siêu cả— rằng Người Đàn bà chỉ thực sự hiện hữu với điều kiện không có bánh ăn, không có nơi ở, không có bạn bè, không có chồng và không có con, và chỉ như vậy nàng mới buộc được Đấng Cứu thế của mình phải giáng thế.

Sau cái chết của chồng, người phụ nữ ăn xin tốt bụng này càng trở thành vợ của người đàn ông phi thường đã hiến mạng sống cho Công lý. Hoàn toàn dịu dàng và hoàn toàn không thay đổi.

Liên kết với mọi hình thức khốn cùng, nàng hoàn toàn có thể nhìn thấy nỗi kinh hoàng giết người của điều gọi là bác ái công cộng, và lời cầu nguyện liên tục của nàng là ngọn đuốc lung linh trước kẻ quyền thế.

Lazare Druide là di tích duy nhất trong quá khứ của nàng mà thỉnh thoảng vẫn thấy nàng. Đây là mối nối kết duy nhất nàng không cắt đứt. Người vẽ bức Andronic quá ngay thẳng để có thể giành phần hơn của may mắn, người có phong tục lâu đời là quay nàng vòng vòng một cách vô ích trong ô uế. Điều này giúp Clotilde có thể đến thăm chàng mà không phải phơi bày quần áo rách rưới của nàng như một kẻ lang thang và là “người hành hương của Mộ Thánh” cho bùn đen của xa hoa trần tục.

Trong những khoảng thời gian hiếm hoi, nàng đến để bơm vào linh hồn người nghệ sĩ sâu sắc ấy một chút bình yên, một chút cao cả huyền nhiệm của nàng, rồi nàng lại trở về với niềm cô đơn mênh mông của mình, giữa phố xá tấp nập người qua lại.

Chỉ có một nỗi buồn,” nàng nói với chàng, lần cuối cùng nàng gặp chàng, “và điều đó là chúng ta không phải là những VỊ THÁNH.”

[Trên Thiên Đàng.] Nền tảng của Thiên Đàng hay ý tưởng về Thiên Đàng là sự kết hợp với Thiên Chúa bắt đầu từ đời này, tức là sự Đau khổ vô tận của trái tim con người, và sự kết hợp với Thiên Chúa ở đời sau, tức là Hạnh Phúc đời đời

Sự kết hợp với Thiên Chúa chắc chắn đã đạt được bởi các Thánh, bắt đầu từ đời này, và hoàn toàn hoàn hợp ngay sau khi họ được sinh vào Đời sống khác, nhưng điều đó chưa đủ đối với họ và đối với Thiên Chúa cũng chưa đủ. Sự kết hợp mật thiết nhất là chưa đủ, cần phải có sự đồng nhất, mà tự nó cũng sẽ không bao giờ đủ, và do đó, ta không thể quan niệm hay hình dung Hạnh phúc đời đời trừ khi như một sự đi lên ngày một sống động hơn, sôi nổi hơn, sấm sét hơn, không phải hướng về Thiên Chúa, nhưng vào trong Thiên Chúa, vào trong chính Yếu tính của Đấng Vô Giới Hạn. Một cơn lốc nhận thức về Thiên Chúa không cùng hoặc không ngừng, mà Giáo hội, khi nói với loài người, buộc phải đặt tên là Sự Yên nghỉ Vĩnh cửu! Đoàn ngũ không kể xiết các thánh giống như một đội quân thần tốc khổng lồ, lao thẳng vào Thiên Chúa bằng một vụ nổ có thể nhổ tận gốc các tinh vân, và điều này là vĩnh viễn.

Nó sẽ là một bầu trời đầy ánh quang dị biệt và không thể tưởng tượng được. Các vị Thánh sẽ bay lên với Thiên Chúa như tia chớp, một tia chớp tự nhân đôi về sức mạnh, từng giây từng phút, mãi mãi, đức ái của họ ngày càng lớn theo sự sáng láng của họ — những Ngôi sao khôn tả sẽ được bước theo ở một khoảng cách rất xa bởi tất cả những ai chỉ đã biết Khuôn mặt Chúa Giêsu Kitô và là những người sẽ không biết Trái tim của Người. Còn với những người khác, những Kitô hữu đáng thương được gọi là thực hành, những người tuân giữ Chữ Nghĩa dễ hiểu, nhưng chưa hư đốn, và có khả năng quảng đại phần nào, đến lượt mình, họ sẽ bước theo, không bị lạc, ở khoảng cách hàng tỷ tia chớp, trước đây đã trả giá cho các vị trí của họ với một mức giá khôn tả, nhưng vẫn rất vui vẻ — như thế vô cùng nhiều hơn những gì từ vựng hiếm hoi nhất của hạnh phúc có thể phát biểu — và vui mừng chính vì vinh quang khôn sánh của các trưởng lão của họ, vui mừng về chiều sâu và chiều rộng, vui mừng như Chúa khi Người hoàn thành việc tạo dựng thế giới!

Và tất cả, như tôi đã nói, sẽ cùng nhau leo lên như một cơn bão không yên, cơn bão phước hạnh kết thúc không thôi mọi kết thúc, sự thăng thiên của các dòng thác yêu thương, và đó sẽ là Vườn Vui Thú, Thiên đường không thể định nghĩa được nêu tên trong Kinh thánh.
_______________________________________

Ghi Chú

1. Gioan 15:13.

2. Ở vùng ngoại ô Petit-Montrouge của Paris, được mô tả trong Chương Năm. (R.M.)