1. Các Cuộc Chiến Và Những Lựa Chọn
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết đăng trên tờ First Things có nhan đề “Wars And Choices”, nghĩa là “Các Cuộc Chiến Và Những Lựa Chọn”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.
Một trong những ẩn dụ gây nhiều khó chịu hơn ở thời đại này, trong đó kỹ thuật hô khẩu hiệu, nhằm thay thế cho tranh luận, cho rằng có sự khác biệt giữa “cuộc chiến lựa chọn” và “cuộc chiến cần thiết”. Sự tương phản đã bị xuyên tạc và mang tính chất xuyên tạc đó lần đầu tiên được triển khai trên cánh tả chính trị, liên quan đến Afghanistan và Iraq. Nó hiện đã di chuyển sang phía cánh hữu của nền chính trị chúng ta, đặc biệt là trong số những người tự nhận là “những người bảo thủ quốc gia”, một số người trong số đó áp dụng nó vào cuộc chiến ở Ukraine, hiện đã bước sang tháng thứ bảy.
Sự phân biệt là không có thật (và vô ích về mặt phân tích, theo cả quan điểm đạo đức và chính trị) bởi vì tất cả các cuộc chiến tranh đều liên quan đến sự lựa chọn: bao gồm sự lựa chọn cơ bản nhất, đó là tiến hành chiến tranh. Mọi cuộc chiến đều là “cuộc chiến của sự lựa chọn”, kể cả Chiến tranh Thế giới thứ hai, một cuộc chiến hiện nay được mệnh danh là “cuộc chiến cần thiết”. Không tin à? Hãy thử thử nghiệm suy nghĩ này (tiền đề của nó âm vang tiểu thuyết Âm mưu chống lại nước Mỹ của Philip Roth).
Các đảng viên Cộng hòa theo chủ nghĩa cô lập vẫy biểu ngữ “Nước Mỹ trên hết” đề cử anh hùng hàng không Charles Lindbergh làm ứng cử viên của họ trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1940. Lindbergh đánh bại Franklin D. Roosevelt, người đang phá vỡ “Quy tắc của George Washington” bằng cách tìm kiếm nhiệm kỳ thứ ba và là người mà Thỏa thuận mới do ông đề xướng vẫn chưa giải quyết được cuộc Đại suy thoái. Đại bàng cô đơn mang theo một thành viên Quốc Hội theo chủ nghĩa cô lập vào văn phòng với ông ta.
Rồi điều gì xảy ra sau đó? Không có Đạo luật Cho thuê quốc phòng và không có đoàn tàu buôn lén lút nào của Mỹ đến Vương quốc Anh. Không có quân dịch, và Quân đội Hoa Kỳ được giải thể trên thực tế. Không có lệnh cấm vận của Mỹ đối với việc xuất khẩu dầu và các nguyên liệu thô khác sang Nhật Bản, không có sự tăng cường ở Phi Luật Tân, và Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ vẫn đóng tại San Diego chứ không phải ở Trân Châu Cảng. Hoa Kỳ đã chọn không tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới khi đó đang diễn ra, hoang tưởng rằng tự do của Hoa Kỳ có thể cùng tồn tại với một Âu Châu do Đức Quốc xã thống trị và một Khối Thịnh vượng Đông Á do Nhật Bản cầm đầu.
Tương tự, sau thất bại của Pháp vào tháng 6 năm 1940, Vương quốc Anh có thể đã chọn chấp nhận lời đề nghị của Hitler về một nền hòa bình thương lượng nhằm bảo tồn Đế chế Anh trong khi trao cho Đức tự do muốn làm gì thì làm ở lục địa Âu Châu. Phần lớn đảng Bảo thủ của Quốc Hội Anh, khi đó đang nắm quyền, có thể đã thực hiện thỏa thuận đó, và Công tước Windsor (như Lindbergh, một người hâm mộ Hitler) sẽ rất vui khi trở về nhà và tái lập ngai vàng của mình.
Sự phân biệt sai lầm giữa “cuộc chiến lựa chọn” và “cuộc chiến cần thiết” thậm chí còn áp dụng cho Ukraine ngày nay. Đối mặt với sự cuồng nhiệt đế quốc của Vladimir Putin, việc Nga chiếm Crimea và chiếm đóng một phần miền đông Ukraine vào năm 2014 và những gì được nhiều người tưởng tượng là sức mạnh áp đảo của lực lượng vũ trang Nga, sáu tháng trước, Ukraine có thể đã chọn chấp nhận một thỏa thuận với chính quyền độc tài của Nga, hài lòng với một nhà nước Ukraine tồi tàn được quốc tế bảo đảm với trung tâm là thành phố Lviv, trong khi để phần còn lại của đất nước nhập vào Nga. Về lý thuyết, lựa chọn đó là có sẵn, và không nghi ngờ gì nữa, một số người ở phương Tây đang mong muốn Ukraine sẽ thực hiện lựa chọn đó, và như thế giúp họ giảm bớt gánh nặng đạo đức khi đưa ra lựa chọn của riêng họ về việc đối mặt với sự xâm lược.
Nhưng người dân Ukraine đã không chọn quỳ xuống dâng nạp quốc gia của họ và chủ quyền của mình. Và hơn 90% đa số họ vẫn tiếp tục khinh bỉ sự lựa chọn đó, bất chấp sự đổ nát và đau buồn do chiến tranh man rợ của Putin gây ra, bất chấp lời khuyên của các nhà chính sách đối ngoại phi thực tế, “những người theo chủ nghĩa hiện thực” như John Mearsheimer, và bất chấp các chính trị gia Mỹ hèn nhát cáo buộc “giới tinh hoa” đang đưa Hoa Kỳ vào một “cuộc chiến lựa chọn” chứ không phải là một “cuộc chiến cần thiết”.
Sự lựa chọn mà người Ukraine đã đưa ra - lựa chọn để bảo vệ quyền dân tộc và nền dân chủ của họ - đặt ra những lựa chọn cho phần còn lại của thế giới. Ở độ cao hơn 50.000 feet so với thực tế, các lựa chọn bao gồm một “cuộc đối thoại” với Vladimir Putin (theo một số ý kiến, sẽ được Vatican làm trung gian), sau khi ngừng bắn, sẽ tái lập hiện trạng trước cuộc xâm lược ngày 24 tháng 2 của Nga. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy rõ ràng rằng các nhà độc tài như Putin coi những lần tạm dừng như vậy chỉ là một bước xả hơi chiến lược trước khi tiếp tục gây hấn và có thể mở rộng nó (trong trường hợp này là các nước Baltic).
Hơn nữa, điều ngu xuẩn về mặt chiến lược cũng chính là sự điên rồ về mặt đạo đức: đó là chấp nhận một hình thái tội ác chưa từng thấy ở Âu Châu trong hơn bảy thập kỷ qua. Người Ukraine không yêu cầu chúng ta chiến đấu trong cuộc chiến của họ. Họ đang yêu cầu chúng ta cung cấp cho họ những vật liệu cần thiết để bảo vệ chủ quyền của họ (mà Mỹ bảo đảm khi Ukraine tự do từ bỏ vũ khí hạt nhân) và hỗ trợ nhân đạo. Từ chối một trong hai điều này là đóng vai một thằng hèn.
Cũng có thể “những người bảo thủ quốc gia” đã bỏ qua lời cảnh báo của nhà bảo thủ vĩ đại Edmund Burke rằng: “Khi những kẻ xấu kết hợp lại, những người tốt phải đoàn kết; nếu không, họ sẽ ngã xuống, từng người một, và đó là một sự hy sinh không đáng thương hại trong một cuộc đấu tranh không chút vinh quang.”
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết đăng trên tờ First Things có nhan đề “Wars And Choices”, nghĩa là “Các Cuộc Chiến Và Những Lựa Chọn”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.
Một trong những ẩn dụ gây nhiều khó chịu hơn ở thời đại này, trong đó kỹ thuật hô khẩu hiệu, nhằm thay thế cho tranh luận, cho rằng có sự khác biệt giữa “cuộc chiến lựa chọn” và “cuộc chiến cần thiết”. Sự tương phản đã bị xuyên tạc và mang tính chất xuyên tạc đó lần đầu tiên được triển khai trên cánh tả chính trị, liên quan đến Afghanistan và Iraq. Nó hiện đã di chuyển sang phía cánh hữu của nền chính trị chúng ta, đặc biệt là trong số những người tự nhận là “những người bảo thủ quốc gia”, một số người trong số đó áp dụng nó vào cuộc chiến ở Ukraine, hiện đã bước sang tháng thứ bảy.
Sự phân biệt là không có thật (và vô ích về mặt phân tích, theo cả quan điểm đạo đức và chính trị) bởi vì tất cả các cuộc chiến tranh đều liên quan đến sự lựa chọn: bao gồm sự lựa chọn cơ bản nhất, đó là tiến hành chiến tranh. Mọi cuộc chiến đều là “cuộc chiến của sự lựa chọn”, kể cả Chiến tranh Thế giới thứ hai, một cuộc chiến hiện nay được mệnh danh là “cuộc chiến cần thiết”. Không tin à? Hãy thử thử nghiệm suy nghĩ này (tiền đề của nó âm vang tiểu thuyết Âm mưu chống lại nước Mỹ của Philip Roth).
Các đảng viên Cộng hòa theo chủ nghĩa cô lập vẫy biểu ngữ “Nước Mỹ trên hết” đề cử anh hùng hàng không Charles Lindbergh làm ứng cử viên của họ trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1940. Lindbergh đánh bại Franklin D. Roosevelt, người đang phá vỡ “Quy tắc của George Washington” bằng cách tìm kiếm nhiệm kỳ thứ ba và là người mà Thỏa thuận mới do ông đề xướng vẫn chưa giải quyết được cuộc Đại suy thoái. Đại bàng cô đơn mang theo một thành viên Quốc Hội theo chủ nghĩa cô lập vào văn phòng với ông ta.
Rồi điều gì xảy ra sau đó? Không có Đạo luật Cho thuê quốc phòng và không có đoàn tàu buôn lén lút nào của Mỹ đến Vương quốc Anh. Không có quân dịch, và Quân đội Hoa Kỳ được giải thể trên thực tế. Không có lệnh cấm vận của Mỹ đối với việc xuất khẩu dầu và các nguyên liệu thô khác sang Nhật Bản, không có sự tăng cường ở Phi Luật Tân, và Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ vẫn đóng tại San Diego chứ không phải ở Trân Châu Cảng. Hoa Kỳ đã chọn không tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới khi đó đang diễn ra, hoang tưởng rằng tự do của Hoa Kỳ có thể cùng tồn tại với một Âu Châu do Đức Quốc xã thống trị và một Khối Thịnh vượng Đông Á do Nhật Bản cầm đầu.
Tương tự, sau thất bại của Pháp vào tháng 6 năm 1940, Vương quốc Anh có thể đã chọn chấp nhận lời đề nghị của Hitler về một nền hòa bình thương lượng nhằm bảo tồn Đế chế Anh trong khi trao cho Đức tự do muốn làm gì thì làm ở lục địa Âu Châu. Phần lớn đảng Bảo thủ của Quốc Hội Anh, khi đó đang nắm quyền, có thể đã thực hiện thỏa thuận đó, và Công tước Windsor (như Lindbergh, một người hâm mộ Hitler) sẽ rất vui khi trở về nhà và tái lập ngai vàng của mình.
Sự phân biệt sai lầm giữa “cuộc chiến lựa chọn” và “cuộc chiến cần thiết” thậm chí còn áp dụng cho Ukraine ngày nay. Đối mặt với sự cuồng nhiệt đế quốc của Vladimir Putin, việc Nga chiếm Crimea và chiếm đóng một phần miền đông Ukraine vào năm 2014 và những gì được nhiều người tưởng tượng là sức mạnh áp đảo của lực lượng vũ trang Nga, sáu tháng trước, Ukraine có thể đã chọn chấp nhận một thỏa thuận với chính quyền độc tài của Nga, hài lòng với một nhà nước Ukraine tồi tàn được quốc tế bảo đảm với trung tâm là thành phố Lviv, trong khi để phần còn lại của đất nước nhập vào Nga. Về lý thuyết, lựa chọn đó là có sẵn, và không nghi ngờ gì nữa, một số người ở phương Tây đang mong muốn Ukraine sẽ thực hiện lựa chọn đó, và như thế giúp họ giảm bớt gánh nặng đạo đức khi đưa ra lựa chọn của riêng họ về việc đối mặt với sự xâm lược.
Nhưng người dân Ukraine đã không chọn quỳ xuống dâng nạp quốc gia của họ và chủ quyền của mình. Và hơn 90% đa số họ vẫn tiếp tục khinh bỉ sự lựa chọn đó, bất chấp sự đổ nát và đau buồn do chiến tranh man rợ của Putin gây ra, bất chấp lời khuyên của các nhà chính sách đối ngoại phi thực tế, “những người theo chủ nghĩa hiện thực” như John Mearsheimer, và bất chấp các chính trị gia Mỹ hèn nhát cáo buộc “giới tinh hoa” đang đưa Hoa Kỳ vào một “cuộc chiến lựa chọn” chứ không phải là một “cuộc chiến cần thiết”.
Sự lựa chọn mà người Ukraine đã đưa ra - lựa chọn để bảo vệ quyền dân tộc và nền dân chủ của họ - đặt ra những lựa chọn cho phần còn lại của thế giới. Ở độ cao hơn 50.000 feet so với thực tế, các lựa chọn bao gồm một “cuộc đối thoại” với Vladimir Putin (theo một số ý kiến, sẽ được Vatican làm trung gian), sau khi ngừng bắn, sẽ tái lập hiện trạng trước cuộc xâm lược ngày 24 tháng 2 của Nga. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy rõ ràng rằng các nhà độc tài như Putin coi những lần tạm dừng như vậy chỉ là một bước xả hơi chiến lược trước khi tiếp tục gây hấn và có thể mở rộng nó (trong trường hợp này là các nước Baltic).
Hơn nữa, điều ngu xuẩn về mặt chiến lược cũng chính là sự điên rồ về mặt đạo đức: đó là chấp nhận một hình thái tội ác chưa từng thấy ở Âu Châu trong hơn bảy thập kỷ qua. Người Ukraine không yêu cầu chúng ta chiến đấu trong cuộc chiến của họ. Họ đang yêu cầu chúng ta cung cấp cho họ những vật liệu cần thiết để bảo vệ chủ quyền của họ (mà Mỹ bảo đảm khi Ukraine tự do từ bỏ vũ khí hạt nhân) và hỗ trợ nhân đạo. Từ chối một trong hai điều này là đóng vai một thằng hèn.
Cũng có thể “những người bảo thủ quốc gia” đã bỏ qua lời cảnh báo của nhà bảo thủ vĩ đại Edmund Burke rằng: “Khi những kẻ xấu kết hợp lại, những người tốt phải đoàn kết; nếu không, họ sẽ ngã xuống, từng người một, và đó là một sự hy sinh không đáng thương hại trong một cuộc đấu tranh không chút vinh quang.”
2. Đức Thánh Cha tiếp kiến 2.500 lễ sinh người Pháp
Trưa ngày 26 tháng Tám vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến 2.500 bạn trẻ giúp lễ, cũng gọi là các lễ sinh thuộc 51 giáo phận ở Pháp, về Roma trong cuộc hành hương toàn quốc, từ ngày 22 đến 27 tháng Tám, với chủ đề: “Hãy đến, phục vụ và ra đi”.
Cuộc hành hương này bình thường tiến hành hai năm một lần, nhưng đã bị hoãn lại hai lần vì đại dịch. Các bạn trẻ được Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục và mười giám mục khác, cùng với hàng chục linh mục và huynh trưởng hướng dẫn.
Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha cám ơn các bạn trẻ đã chọn phục vụ Giáo hội, nhiều khi phải hy sinh, từ bỏ, chấp nhận dành thời giờ để chu toàn công tác, trong khi nhiều người trẻ cùng lứa muốn ngủ thêm sáng Chúa nhật hoặc đi chơi thể thao. Đức Thánh Cha nói: “Làm như thế, các con có thể là mẫu gương, một điểm tham chiếu cho những người đồng lứa... Vậy các con đừng xấu hổ vì phục vụ tại bàn thờ, cho dù các con lẻ loi một mình, và dù các con đang lớn lên. Thật là một vinh dự được phụng sự Chúa Kitô, Đấng đã hiến mình vì chúng ta trong Thánh Thể... Thái độ của các con trong khi thánh lễ được cử hành là một việc tông đồ cho những người nhìn các con. Nếu các con chu toàn công việc phục vụ bàn thờ trong vui tươi, một cách trang nghiêm, trong thái độ cầu nguyện, thì chắc chắn các con sẽ gợi lên nơi những các bạn trẻ khác ước muốn dấn thân trong Giáo hội như các con”.
Đức Thánh Cha nói thêm rằng: “Phục vụ và ra đi”. Các con biết Chúa Giêsu hiện diện nơi những người anh chị em mà chúng ta gặp. Sau khi phụng sự Chúa trong thánh lễ, các con được Chúa sai đi phục vụ Ngài nơi những người các con gặp trong ngày, nhất là nếu họ là những người nghèo và kém may mắn, vì Chúa đặc biệt kết hiệp với họ”.
“Có lẽ các con cũng có những bạn hữu ở những khu vực khó khăn, hoặc gặp phải nhiều đau khổ, có khi nghiện ngập, những người trẻ bị mất gốc, di dân hoặc tị nạn. Cha khuyên các con hãy quảng đại đón tiếp họ, giúp họ ra khỏi tình cảnh cô đơn, và làm bạn với họ”.
Đức Thánh Cha cũng nhắn nhủ các lễ sinh người Pháp vượt thắng cám dỗ ích kỷ, và quan tâm tới những tương quan với người già, các ông bà nội ngoại: “hãy học hỏi với các ông bà. Những người già là một nguồn mạch cần thiết giúp các con trưởng thành nhân bản. Ngày nay, người ta có nguy cơ không biết nguồn cội của mình, đánh mất gốc rễ, lạc hướng. Nhưng làm sao ta có thể xây dựng tương lai của mình nếu không có những cội rễ vững chắc giúp ta đứng vững và bám chặt vào đất? Vậy các con hãy tìm cội rễ của mình, học nhận ra và yêu mến văn hóa, lịch sử của mình, để đối thoại trong sự thật với những người khác biệt với các con, vững mạnh vì căn tính của mình và tôn trọng căn tính của những người khác”.
3. Chế độ của Tổng thống Ortega đóng cửa thêm một đài phát thanh Công Giáo
Nhà nước Nicaragua đóng cửa thêm một đài phát thanh Công Giáo, đó là đài 'Radio Stereo Đức tin' của giáo phận Estelli. Đài này phát thanh từ 28 năm nay trên siêu tần số FM, đã bị nhà nước đóng cửa hôm 24 tháng Tám vừa qua.
Trước đó, nhà nước tại đây đã đóng cửa sáu đài Công Giáo thuộc giáo phận Matagalpa và bắt giam Đức Cha Rolando Álvares, Giám mục giáo phận này. Ngài cũng là Giám quản Tông tòa của giáo phận Estellí.
Lý do nhà nước đưa ra là Đài 'Stereo Đức Tin' hoạt động với giấy phép cấp cho cha Francisco Valdivia, đã qua đời, và vị giám đốc mới không có giấy phép.
Tuy nhiên, đài này nói rằng điều đó không phải là lý do có thể biện minh được vì đài có nhiều vị giám đốc, sau cha Valdivia, mà không có vấn đề gì trong 28 năm qua.
Vụ tấn Công Giáo Hội Công Giáo tại Nicaragua diễn ra chỉ năm ngày, sau khi Đức Cha Álvarez bị cảnh sát nhà nước đột nhập Tòa giám mục ban đêm và giải về thủ đô Managua, cách đó ba giờ xe hơi. Một nhóm tám người trong Tòa giám mục, gồm các linh mục, chủng sinh và một giáo dân trong Tòa giám mục cũng bị bắt đi và giam tại nhà tù El Chipote, một nơi khét tiếng vì những vụ tra tấn những người đối lập với nhà nước.
Vụ đóng cửa đài Công Giáo ở Esteli xảy ra một ngày, sau khi các linh mục thuộc giáo phận này ra tuyên ngôn kêu gọi nhà nước độc tài của chế độ Ortega hãy hoán cải và để cho các linh mục được hoạt động trong yên hàn, đồng thời hãy trả tự do cho Đức Cha Álvavez.
4. Họp báo chuẩn bị giai đoạn Đại lục của Thượng Hội đồng Giám mục
Hôm 26 tháng Tám vừa qua, Đức Hồng Y Mario Grech, người Malta, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, đã mở cuộc họp báo tại Vatican để trình bày về giai đoạn tham khảo ý kiến cấp giáo phận sắp kết thúc, đồng thời giới thiệu giai đoạn đại lục sắp bắt đầu, để chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục thế giới kỳ thứ XVI sẽ tiến hành tại Vatican, vào tháng Mười năm tới, với chủ đề: “Tiến tới một Giáo hội đồng hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng”.
Hiện diện trên bàn chủ tọa tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, cũng có Đức Hồng Y Jean-Claude Hollerich, dòng Tên, người Luxemburg, Tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng Giám mục tới đây, hai vị Phó Tổng thư ký và một số chức sắc khác.
Đức Hồng Y Hollerich cho biết kể từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô khai mạc tiến trình chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục, ngày 09 và 10 tháng Mười năm ngoái, hàng trăm ngàn các cuộc hội họp ở các cấp đã diễn ra trên thế giới. Các tổng hợp mà Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục nhận được cho đến ngày 25 tháng Tám vừa qua, có thể xếp thành năm loại:
- 98% trên tổng số 114 Hội đồng Giám mục đã bổ nhiệm người tiếp xúc hoặc toán đặc trách về Thượng Hội đồng Giám mục, và đã có 100 Hội đồng Giám mục gửi bản đúc kết về Roma và con số này tiếp tục gia tăng. Các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương cũng tiến hành theo chiều hướng này.
- Đóng góp từ Hiệp hội các Bề trên Tổng quyền các dòng nam và nữ, cũng như Bộ các Dòng tu cũng đã gửi các bản đóng góp chuyên biệt, từ các bộ và cơ quan Tòa Thánh. Đặc biệt Bộ các Dòng tu đã nhận và chuyển những đóng góp của các dòng và tu đoàn Tông đồ.
- Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống đã thu thập các ý kiến và tổng hợp những đóng góp của các Phong trào và hội đoàn của Giáo hội.
- Thêm vào đó, Bộ Truyền thông của Tòa Thánh đã thi hành một dự án tiên phong, gọi tắt là Riial, với tựa đề “Giáo hội lắng nghe bạn”: lắng nghe hoạt động trên các mạng xã hội do một số người có ảnh hưởng (influencers). Khoảng 110.000 câu trả lời đã nhận được và khoảng 20 triệu người đã góp ý kiến.
- Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng gửi một bản tổng hợp ý kiến, lắng nghe từ các vị Sứ thần Tòa Thánh ở các nơi.
- Sau cùng là đóng góp của các nhóm “Quan sát”, thu thập ý kiến của các cá nhân tín hữu, các nhóm giáo dân hoặc cả những nhóm không được Giáo hội địa phương chính thức công nhận.
Công tác của Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục bây giờ là tổng hợp tất cả các bản góp ý đó để soạn thành một văn kiện, hầu khởi đầu giai đoạn ở cấp đại lục, trong tiến trình chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục thế giới. Sau cùng, dựa trên tất cả các đóng góp này, Văn phòng sẽ soạn Tài liệu làm việc cho Thượng Hội đồng Giám mục thế giới vào năm tới.
Đức Hồng Y Grech nhận xét rằng: “Cuộc tham khảo này biểu lộ bản chất của Giáo hội đồng hành, như “một sự cùng nhau tiến bước” của dân Chúa. Những bản tổng hợp gửi về cho thấy nguyên tắc này về Giáo hội được sống trong các Giáo hội địa phương và từ đó, chúng ta hiểu những gì chúng ta còn có thể làm để làm cho mọi người có trách nhiệm và tham gia hơn”.
Đức Hồng Y Tổng thư ký cũng nhắc đến tầm quan trọng của sự phân định, vì không phải tất cả các ý kiến, những gì được phát biểu đều là tiếng nói của Thánh Linh. Vì thế cần sự phân định trong Đại hội các giám mục, các vị là nguyên lý hiệp nhất trong các Giáo hội liên hệ.”
Đức Hồng Y bác bỏ quan niệm của những người cho rằng “các tổng hợp của các Hội đồng Giám mục sẽ là mồ chôn những lời ngôn sứ. Nay là lúc vượt thắng sự ngờ vực ấy, sự dè dặt này chắc chắn có những lý do lịch sử, nhưng nó trái ngược với bản chất của Giáo hội, là “bí tích hiệp nhất”, nghĩa là dân thánh được tập hợp và xếp đặt dưới sự hướng dẫn của các giám mục” (SC 26). Nếu Giáo hội là thân mình của các Giáo hội địa phương, vì sở dĩ mỗi Giáo hội là thân mình như thế, chính là vì giám mục là vị mang nhánh của Tông đồ tính (Xc LG 20). Cần tín nhiệm nhau, không đặt Giáo hội nhân dân đối nghịch với Giáo hội phẩm trật, trái lại cần làm cho các tương quan trong Giáo hội được năng động và phong phú”.