1. Nhiều người tham dự lễ tang Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 hô hào tuyên thánh ngay cho ngài

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ trì lễ tang cho Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 hôm thứ Năm, dịu dàng chạm vào quan tài của người tiền nhiệm khi ngài đứng chống gậy trước hàng chục nghìn người đưa tang, trong đó một số đông đã kêu gọi tuyên thánh cho Đức Cố Giáo Hoàng.

Cái chết của Đức Bênêđictô hôm thứ Bảy đã chấm dứt một thập kỷ cựu giáo hoàng và đương kim giáo hoàng sống cạnh nhau ở Vatican.

Vào cuối lễ tang ở quảng trường Thánh Phêrô, một số người đã hét lên bằng tiếng Ý “Santo Subito!” (Phong thánh ngay cho ngài!). Đó là cụm từ tương tự được sử dụng trong đám tang của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 2005, mặc dù khi đó nhiều người tham dự lễ tang hơn.

Ba trong số năm vị giáo hoàng gần đây nhất đã được tuyên thánh, nhưng chỉ khoảng một phần ba tổng số 265 vị giáo hoàng qua đời được tuyên thánh trong lịch sử 2.000 năm của Giáo hội.

Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã ngồi trong phần lớn thời gian của buổi lễ vì bị đau đầu gối, kể cả khi đọc bài giảng, trong đó ông chỉ nhắc đến tên Đức Bênêđíctô một lần tại buổi lễ có hơn 50.000 người tham dự tại một quảng trường bị sương mù bao phủ.

Cuối cùng, ngài đứng dậy khi quan tài của Đức Bênêđíctô đang được mang đi chôn cất trong một nghi thức riêng bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Cúi đầu thầm cầu nguyện, Đức Thánh Cha Phanxicô chạm nhẹ vào quan tài.

Ở tuổi 86, Đức Phanxicô, người đã phải ngồi xe lăn nhưng không có dấu hiệu chậm lại, với các chuyến đi được lên kế hoạch cho Phi Châu và Bồ Đào Nha trong những tháng tới. Đức Thánh Cha Phanxicô giờ đây hơn Đức Bênêđictô một tuổi khi ngài nghỉ hưu.

Bản thân Đức Phanxicô đã nói rõ rằng một ngày nào đó ngài sẽ không ngần ngại thoái vị nếu sức khỏe tinh thần hoặc thể chất cản trở ngài thực hiện nhiệm vụ của mình, nhưng các quan chức Vatican luôn nghi ngờ ngài có thể làm điều này khi Đức Bênêđictô XVI vẫn còn sống.

Một trình thuật về triều đại giáo hoàng của Benedict, cùng với các đồ vật khác, bao gồm cả tiền xu của Vatican được đúc trong thời kỳ trị vì của ngài, đã được cất trong quan tài của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16. Bản tường trình, được viết bằng tiếng Latinh, nói rằng Đức Bênêđictô “đã kiên quyết đấu tranh” chống lại sự lạm dụng tình dục của các giáo sĩ trong Giáo hội.

Sau lễ an táng, quan tài được quấn trong dải ruy băng màu đỏ có hình chữ thập. Các công nhân sau đó đã đặt nó vào một chiếc quan tài bằng kẽm và hàn nó lại. Cả hai sau đó được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ, trước khi hạ xuống hầm mộ.

Mọi người từ khắp nơi trên thế giới, nhiều người từ Đức, quê hương của Đức Bênêđictô, đã đến từ rất sớm để nói lời từ biệt, trong đó có một số nguyên thủ quốc gia và một số hoàng gia Âu Châu.

“Đó là một ngày buồn nhưng đầy ý nghĩa. Tôi muốn ở đây nhiều đến nỗi tôi có thể cảm nhận được điều đó trong trái tim mình,” một phụ nữ Ý, cô Marianna, cho biết.

Dorotea Dadaeki, một phụ nữ Rwandan sống ở Rôma, cho biết: “Tôi tự nhủ rằng mình phải đến tham dự Thánh lễ để cùng cầu nguyện với ngài”.

Xavier Mora, 24 tuổi, người Tây Ban Nha chuẩn bị thụ phong linh mục, cho biết anh đã học thần học của Đức Bênêđíctô và có “tình cảm và sự kính trọng lớn đối với ngài”.

Khoảng 200.000 người đã xếp hàng để đi ngang qua thi hài của Đức Bênêđíctô được trưng bày trong ba ngày cho đến tối thứ Tư.

Buổi lễ bắt đầu khi 12 người khiêng quan tài của ngài ra khỏi Đền Thờ Thánh Phêrô và đặt trên mặt đất trước ngôi nhà thờ lớn nhất trong thế giới Kitô. Chuông cũng được vang lên ở các thành phố của Đức.

Lần cuối cùng một vị giáo hoàng đương kim chủ trì lễ tang của người tiền nhiệm là vào năm 1802, khi Đức Piô Đệ Thất chủ trì nghi lễ cho Đức Piô Đệ Lục, thi hài của ngài đã trở về Vatican sau khi ngài qua đời vào năm 1799 trong cuộc sống lưu vong.

Trong bài giảng của mình, Đức Phanxicô chỉ nhắc đến tên của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 một lần duy nhất vào dòng cuối cùng. Nhiều người tỏ ra không hài lòng. Tuy nhiên, nói một cách công tâm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã sử dụng nhiều phát biểu và tác phẩm của Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 và ngài đi xa đến mức so sánh tâm tình phó thác của Đức Bênêđictô với Chúa Giêsu, kể cả những lời cuối cùng của ngài trước khi chết trên thập giá: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha.”

Trong Thánh lễ được đồng tế bởi 125 Hồng Y, 200 giám mục và khoảng 3.700 linh mục, Đức Phanxicô đã nói về “sự khôn ngoan, dịu dàng và tận tụy mà ngài đã ban cho chúng ta trong những năm qua”.

Ngài đã đề cập đến Đức Bênêđíctô ở dòng cuối cùng, nói rằng: “Bênêđictô, người bạn trung thành của Chàng Rể, ước gì niềm vui của bạn được trọn vẹn khi bạn nghe thấy giọng nói của Ngài, bây giờ và mãi mãi!”

Theo yêu cầu của ngài, Đức Bênêđíctô được chôn cất trong các hang động dưới lòng đất của Vatican trong hốc nơi đầu tiên để thi hài của Đức Giáo Hoàng Gioan 23 và sau đó là Đức Gioan Phaolô II trước khi hài cốt của các ngài được chuyển đến những nơi nổi bật hơn trong Đền Thờ Thánh Phêrô sau khi các vị được tuyên Chân Phước.

2. Cảm nhận của một người cựu Anh giáo về Đức Bênêđictô XVI

Linh mục tiến sĩ James Bradley, Giảng sư Giáo luật tại Đại học Công Giáo America ở Washington, DC, và là một linh mục của Bản quyền Tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, nhân dịp Đức Bênêđictô qua đời, đã thuật lại ảnh hưởng của vị Giáo hoàng này trong việc ngài từ Anh giáo chuyển sang Công Giáo (https://catholicherald.co.uk/benedict-xvis-most-tangible-legacy-the-ordinariates):

Tôi không biết mình đã từng gặp một người Công Giáo thực hành đạo nào chưa trước khi vào đại học. Tôi được biết một người bạn ở trường có tên họ Ái nhĩ lan và cha mẹ anh có đi lễ. Nhưng lớn lên trong một gia đình Anh giáo và theo học các trường Anh giáo, kiến thức của tôi về Công Giáo trước đó là con số không. Một trải nghiệm duy nhất xẩy ra trong một chuyến đi Rome. Chúng tôi ở đó vài ngày, và một số ít người trong chúng tôi quyết định thử gặp Đức Giáo Hoàng.

Chúng tôi nhận được vé dự Buổi yết kiến chung, và vào một buổi sáng thứ Tư buồn tẻ, đứng trong phòng yết kiến Phaolô VI khi Đức Gioan Phaolô II, lúc đó đã khá già và không được khỏe, đi ngang qua chúng tôi ở lối đi giữa. Tôi đã chụp một bức ảnh của vị giáo hoàng ốm yếu và nhớ đã khoe nó khi tôi về nhà như một trong nhiều điểm tham quan trong chuyến đi, cùng với Pantheon, Forum và chiếc bánh pizza mà chúng tôi đã ăn vào đêm cuối cùng.

Đến lúc đó, đức tin của tôi, ngược lại, đang tăng trưởng. Tôi được hưởng ơn ích từ một nền tảng Anh giáo vững chắc: giáo xứ nông thôn tốt, ca đoàn nhà thờ và tuyên úy trường học tận tụy. Nhưng Công Giáo không nằm trong tầm ngắm của tôi. Tôi không có ác cảm với nó - ít nhất là không hơn bất cứ cậu học sinh nào có giáo viên lịch sử dường như không buộc phải bắt kịp các bài viết của Eamon Duffy - tôi chỉ đơn giản là không có quan điểm mạnh mẽ nào về nó.

Điều trên đã thay đổi khi tôi tiếp xúc với Anh-Công Giáo. Tôi bắt đầu đánh giá cao nghi thức và nghi lễ của Công Giáo trong việc thờ phượng, và qua đó bắt đầu hỏi nó đến từ đâu và tại sao nó lại quan trọng. Điều này lần lượt dẫn đến việc khám phá ra đức tin mà sự thờ phượng đặc biệt này đã tìm cách thể hiện, và chẳng mấy chốc, tôi đã trở thành một người theo chủ nghĩa Giáo hoàng Anh đầy thuyết phục…

Cái bước đi nước kiệu hướng tới Giáo Hội Công Giáo này đã có một hướng rõ ràng hơn khi tôi được chấp nhận làm mục vụ trong Giáo hội Anh. Tại trường thần học ở Oxford, tôi bắt đầu củng cố bằng lý luận thần học những gì tôi đã tiếp nhận theo bản năng. Các Giáo phụ rất quan trọng, nhưng các tác phẩm của các vị giáo hoàng sau này và của Công đồng Vatican II cũng vậy. Những điều này đã được trình bày và trở nên rõ ràng như là những nguồn học thuyết mạch lạc và đáng tin cậy – ít nhất là vào thời điểm đó – chỉ đơn giản là khẳng định một cách thuận tiện các quan điểm hiện có.

Giáo hội Anh vào đầu thập niên 2000 không phải là nơi thích hợp để đưa ra những kết luận này. Cuộc tranh cãi về các nữ linh mục một thập niên trước đó vẫn chưa lắng xuống, và một cơn bão mới đang ập đến với kế hoạch phong chức giám mục cho phụ nữ. Đây là một vấn đề mà tôi đã cố gắng hết sức để tránh có một quan điểm chắc chắn. Nhưng sự mơ hồ của tôi đã kết thúc khi những mệnh lệnh mà tôi khao khát nhận được ngày càng gần hơn. Đối với tôi, ít nhất, tính toàn vẹn của những gì chúng tôi đã làm trong Giáo hội, của những gì chúng tôi nói chúng tôi tin và của các nguồn mà chúng tôi tìm cho cả hai, chỉ có ý nghĩa - chỉ có tính toàn vẹn - nếu chúng tôi “tất cả đều ở trong”. Tất nhiên, điều này dẫn đến một con đường rõ ràng hơn.

Đức Bênêđictô XVI đã bước vào cái ngưỡng quá độ [liminality] này. Từng bị thuyết phục trước các chân lý của đức tin Công Giáo nhưng ý thức sâu sắc rằng mình đang ở bên ngoài những giới hạn hữu hình của nó, tôi đứng “trên bờ sông Babylon” mà không biết phải rẽ vào đâu. Trong sự bối rối này xuất hiện một vị giáo hoàng người Bavaria, người ngay lập tức dường như hiểu chính xác cách chúng tôi tri nhận cuộc sống Kitô hữu của mình, chính xác cách chúng tôi sa vào sự hỗn độn của giáo hội, và (môt cách quan trọng) chính cách chúng tôi xem việc thờ phượng không những chỉ là nghĩa vụ đơn thuần, mà còn là biểu hiện cao nhất và sống động nhất của sự sống trong Chúa Giêsu Kitô. Đáng ngạc nhiên hơn nữa, nhân vật này – người ngẫu nhiên bị nhiều người có vẻ không thích - muốn chúng tôi mang tất cả những điều đó vào Giáo Hội Công Giáo, và thậm chí nhờ đó làm phong phú thêm cuộc sống của chính Giáo hội này.

Như tôi đã nói, trước thời điểm này, tôi không có ác cảm với Giáo Hội Công Giáo. Nó chỉ đơn giản là có vẻ không có liên quan. Tuy nhiên, ở Đức Bênêđictô, tôi không những chỉ thấy một nhà lãnh đạo giáo hội cống hiến tất cả những gì mà trái tim Anh giáo quanh co của chúng tôi tìm kiếm, mà còn làm như vậy không phải trong sự cô lập vốn đã trở thành tiêu chuẩn của chúng tôi, mà với tư cách là Mục tử tối cao của Giáo hội hoàn vũ. Nói tóm lại: tôi đã nhìn thấy ở ngài, và lần đầu tiên, vị giáo hoàng của thiên niên kỷ thứ nhất mà tôi đã thấy ở các Giáo phụ, và do đó, theo bản năng, tôi đã tin tưởng ngài khi ngài cho thấy định chế này vẫn còn được tìm thấy trong ngôi giáo hoàng ngày nay.

Hiện thân của cuộc hành trình bản thân này, mà tôi luôn coi như phát triển từ mối liên kết bản thân với Đức Giáo Hoàng Bênêđictô, đã xẩy đến với tông hiến Anglicanorum coetibus năm 2010. Các tòa Bản quyền tòng nhân là di sản hữu hình nhất của triều đại giáo hoàng Bênêđictô, được thiết lập vĩnh viễn viễn kiến phụng vụ và giáo hội học của ngài trong các cơ cấu. Tất nhiên, đây là lý do tại sao việc mất ngài đối với chúng tôi ngay lập tức là một nguyên nhân gây nên nỗi buồn và lòng biết ơn.

Chúng tôi sẽ vô cùng hoài nhớ ngài và chúng tôi thương tiếc sự ra đi của ngài, nhưng chúng tôi cũng biết rằng sự phong phú trong suy nghĩ và niềm tin của ngài vẫn tiếp tục trong cộng đồng của chúng tôi, trong sự thờ phượng của chúng tôi và trong cuộc sống của hàng ngàn cựu tín hữu Anh giáo giờ đây đang vui mừng trong sự hiệp thông trọn vẹn và hòa bình của những gì Thánh John Henry Newman gọi là “một đoàn chiên của Đấng Cứu Chuộc”.