Theo tạp chí Aleteia (aleteia.org/2023/08/17/complex-faith-panorama-in-mongolia-popes-next-destination/), Quốc gia có đa số Phật giáo này có lịch sử phát triển lâu đời và sự tương tác giữa các truyền thống bản địa và tôn giáo thế giới.



Chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến Mông Cổ, từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 năm 2023, sẽ là cơ hội để ngài ngỏ lời với một dân tộc có truyền thống tôn giáo đa dạng và cổ xưa. Nói về Thiên Chúa trong bối cảnh này sẽ là một thách thức đối với Đức Giáo Hoàng, người đã coi việc đối thoại huynh đệ với các tôn giáo khác là một trong những khía cạnh quan trọng trong triều giáo hoàng của ngài.

Ở Mông Cổ, các tôn giáo độc thần - chủ yếu là Hồi giáo và Kitô giáo - chiếm rất ít. Một nửa dân số hiện nay theo đạo Phật, nhưng đất nước này vẫn còn bị đánh dấu bởi chủ nghĩa vô thần của nhà nước trong nhiều năm thời kỳ Cộng sản (hơn 40% dân số cho biết họ là những người không có tín ngưỡng) và bởi một truyền thống pháp sư rất cổ xưa, đạo thờ Tengri [*], dẫn đến nhiều thực hành hòa đồng chủ nghĩa.

Trong xã hội 3.3 triệu dân này, tôn giáo là một vấn đề phức tạp và thường mang tính chính trị. Tuy nhiên, nhân vật Thành Cát Tư Hãn (khoảng 1160-1227) đã hợp nhất - về mặt tinh thần hoặc lịch sử - các nhánh khác nhau của truyền thống tôn giáo của đất nước. Trong một tiểu luận xuất bản năm 2016, nhà nhân chủng học người Pháp Roberte Hamayon lưu ý rằng, sau thời kỳ cộng sản, người dân Trung Á cảm thấy cần phải hồi sinh quá khứ tôn giáo của mình. Điều đó bao gồm việc tìm kiếm các vị thần của riêng họ và hình thành các tôn giáo quốc gia. Ở Mông Cổ, nhân vật huyền thoại Thành Cát Tư Hãn, người sáng lập, trở nên được tôn vinh.

Vào những năm 2000, Lịch sử bí mật của người Mông Cổ, một bản văn có từ thế kỷ 13 kể lại gia phả và lịch sử của vị lãnh tụ vĩ đại, bắt đầu được sử dụng như một loại kinh thánh. Tuy nhiên, việc thần thánh hóa Thành Cát Tư Hãn đã có từ rất lâu. Nó có nguồn gốc từ hình tượng truyền thống về thủ lĩnh Mông Cổ, người có được sức mạnh từ mối liên hệ đặc biệt với “Tenger” - “bầu trời” - nơi ông được cho là có khả năng đọc được những điềm báo.

Đạo Tengri [*], thiên đường không có Thiên Chúa

Mối liên kết nguyên tố, pháp sư với thiên đường này nằm ở trung tâm của “ đạo Tengri”, truyền thống tâm linh vĩ đại của Trung Á. Vào thế kỷ 12, nhà truyền giáo người Flemish Guillaume de Rubrouck đã lưu ý rằng thuật ngữ “khan” là một “danh hiệu của phẩm giá, có cùng ý nghĩa với người bói toán (…); do đó các hoàng tử của họ đã lấy tên này, bởi vì chức vụ của họ là cai trị các dân tộc bằng phương pháp bói toán.” Nhưng, Roberte Hamayon nói, trong hệ thống tôn giáo này, “thiên đường” không phải là một con người, càng không phải là một vị thần.

Quan niệm này mang một hình thức hòa đồng chủ nghĩa trong truyền thống Phật giáo Mật tông, với hình tượng Gesar, người anh hùng trong sử thi mang tên ông. Trong Phật giáo Mông Cổ, người anh hùng Gesar được coi là hóa thân của thần chiến tranh Begtse, một vị thần phẫn nộ có chức năng bảo vệ những Phật tử thực hành tốt, nhưng không phải là một vị thần sáng tạo hay toàn năng.

Vị vua thần thoại này được biết đến với sự đồng hành của 33 anh hùng, “baatar”. Thuật ngữ này được tìm thấy trong tên thủ đô, Ulaanbaatar, có nghĩa là “anh hùng đỏ”, biệt danh của nhà cách mạng cộng sản Mông Cổ Damdin Sükhbaatar.

Phật giáo, sức mạnh kiến tạo của Mông Cổ

Có mặt ở Mông Cổ từ thế kỷ thứ 8, Phật giáo thực sự phát triển vào thế kỷ 13 với cháu trai của Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt, người sáng lập triều đại nhà Nguyên trị vì Trung Quốc trong một thế kỷ (1271-1368). Ông quyết định tiếp nhận truyền thống Tây Tạng và áp đặt nó lên người dân của mình. Tuy nhiên, truyền thống pháp sư đã giành lại ưu thế sau khi đế chế của ông sụp đổ.

Phật giáo Tây Tạng đã trở lại vào thế kỷ 16 với Altan Khan, một người cai trị đã sử dụng các tu sĩ Phật giáo để củng cố quyền lực của mình, lấy cảm hứng từ quá khứ huy hoàng của triều đại Thành Cát Tư Hãn. Tôn giáo ngày càng có tầm quan trọng cao, lên đến tuyệt đỉnh vào đầu thế kỷ 20 với Bogd Khan, người vừa là nhà lãnh đạo chính trị của Mông Cổ vừa là “lạt ma” quan trọng nhất trong hệ thống tôn giáo Phật giáo của đất nước.

Sau khi trở thành một nhà nước thực sự trong một nhà nước, mạng lưới tu viện hùng mạnh đã bị những người Cộng sản lên nắm quyền vào năm 1924 phá hủy một cách tàn bạo và chỉ được tái lập sau khi Bức tường Berlin sụp đổ. Vào cuối những năm 1990, Phật giáo đã được chính quyền công nhận là quốc giáo và được một nửa dân số cả nước thực hành.

Phật giáo Tây Tạng thực hành ở Mông Cổ không tin vào sự tồn tại của một vị thần tối cao mà khuyến khích sự tôn kính các vị thần và linh hồn địa phương. Nó cũng coi trọng những nhân cách siêu nhiên như Đức Phật, một con người có thể đạt đến giai đoạn giác ngộ và do đó trải nghiệm một dạng thần thánh; Phật có nghĩa là “thức tỉnh”.

Thành Cát Tư Hãn, ông tổ của các tôn giáo Trung Á

Trong lịch sử Mông Cổ, hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn quan tâm đến các truyền thống Hồi giáo và Kitô giáo mà quân Mông Cổ gặp phải trên đường đi. Sự hiện diện của người Hồi giáo ở trung tâm đế quốc Mông Cổ có thể bắt nguồn từ thế kỷ 13, dưới triều đại của chắt ông là Ghazan, người đã cải đạo và thành lập đế chế Ilkhanate, một đế chế Hồi giáo mở rộng sang Ba Tư và vùng Caucasus vào thế kỷ 14. Berke, một cháu trai khác của Thành Cát Tư Hãn, được biết đến là người sáng lập Golden Horde - trải dài từ Ukraine đến Mông Cổ cho đến thế kỷ 14 - cũng cải sang đạo Hồi. Ngày nay, 2% dân số Mông Cổ theo đạo Hồi và tin vào Alla, vị Thiên Chúa đã được mạc khải cho nhà tiên tri Mohammed.

Vào thế kỷ 13, một trong những người con trai của Thành Cát Tư Hãn, Tolui, đã trở thành người bảo vệ phái Nestoriô, một lạc giáo của Kitô giáo lúc bấy giờ hiện diện khắp khu vực. Mặc dù ông chọn Phật giáo Tây Tạng nhưng con trai ông là Kubilai Khan sẽ được phái Nestoriô nuôi dưỡng nhưng bị cấm chịu phép rửa. Lạc giáo Nestoriô cuối cùng đã biến mất, và Kitô giáo quay trở lại muộn hơn nhiều với hai làn sóng truyền giáo, làn sóng đầu tiên từ thế kỷ 19 đến thời kỳ cộng sản, và làn sóng thứ hai bắt đầu từ đầu thế kỷ 21.

Ngày nay, cộng đồng Công Giáo nhỏ bé sát cánh với Chính thống giáo, hiện diện để đồng hành với cộng đồng người Nga hải ngoại, cũng như với các nhà truyền giáo Thệ phản và Ngũ tuần. Những người sau đặc biệt tích cực trong việc truyền đạo và là nguồn gây căng thẳng với chính phủ và các tôn giáo khác. Một cựu truyền giáo ở Mông Cổ nói với I.MEDIA: “Là những Kitô hữu, tất cả chúng ta đều tập hợp lại với nhau”.

Khi nói về Thiên Chúa, Roberte Hamayon lưu ý rằng các Kitô hữu ở Mông Cổ thường sử dụng thuật ngữ “Burhan”, có nghĩa là “quyền lực cao quý”. Chữ này cũng được dùng để chỉ Đức Phật. Đôi khi họ sử dụng “Iertönciin Ezen”, có nghĩa là “bậc thầy của vũ trụ” - một thuật ngữ cũng được dùng để chỉ Thành Cát Tư Hãn. Tuy nhiên, việc sử dụng nó của Kitô hữu bị người Mông Cổ coi là xúc phạm và do đó đã bị bỏ rơi. Trong Từ điển Công Giáo Anh-Mông Cổ năm 2008, linh mục người Pháp Pierre Palussière đề xuất thuật ngữ tổng hợp “Tengerburhan”, kết hợp các khái niệm Tenger (thiên đường) và Burhan.
__________________________________________________________________________________________________________________
[*] Theo từ điển mở Wikipedia, Đạo Tengri [Tengrism, có khi viết là Tengriism, Tengerism, hay Tengrianism) là một tôn giáo có tính cách sắc tộc Thổ Nhĩ Kỳ, Yeniseia, Mông Cổ có nguồn gốc ở các thảo nguyên Âu Á dựa trên đạo pháp sư và vật hồn giáo. Một cách tổng quát, nó liên hệ tới vị thần trời tên là Tengri, đấng không được coi như một thiên chúa theo nghĩa thông thường, như là hiện thân của vũ trụ. Theo một số học giả, các tín đồ của đạo Tengri coi mục đích đời người là sống hoà hợp với vũ trụ.