Daniel Payne của hãng tin CNA, ngày 2 tháng 10 năm 2023, đăng tải nguyên văn các câu trả lời của Đức Phanxicô cho 5 dubia được 5 vị Hồng Y nêu lên với ngài hồi tháng 7 năm nay. Dưới đây là bản dubia tháng Bảy với câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho từng câu hỏi:
1. Dubium về chủ trương cho rằng chúng ta nên giải thích lại sự mặc khải của Thiên Chúa theo những thay đổi thịnh hành về văn hóa và nhân học.
Sau những tuyên bố của một số giám mục, không được sửa chữa cũng như rút lại, người ta hỏi liệu mạc khải của Thiên Chúa trong Giáo hội có nên được giải thích lại theo những thay đổi văn hóa của thời đại chúng ta và theo tầm nhìn nhân học mới mà những thay đổi này thúc đẩy hay không; hoặc liệu mạc khải của Thiên Chúa có ràng buộc mãi mãi, bất biến và do đó không thể bị mâu thuẫn, theo châm ngôn của Công đồng Vatican II, rằng đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, phải có “sự vâng phục của đức tin” (Dei Verbum, 5); rằng những gì được mặc khải để cứu rỗi mọi người phải tồn tại “một cách trọn vẹn, qua mọi thời đại” và sống động, và được “truyền lại cho mọi thế hệ” (7); và rằng sự tiến bộ trong hiểu biết không bao hàm bất cứ sự thay đổi nào trong chân lý của sự vật và lời nói, bởi vì đức tin đã được “truyền lại… một lần và mãi mãi” (8), và huấn quyền không cao hơn lời Chúa, nhưng chỉ dạy những gì đã được truyền lại (10).
Câu trả lời của Đức Giáo HoàngPhanxicô:
a) Câu trả lời tùy thuộc vào ý nghĩa mà anh em gán cho từ “tái giải thích”. Nếu nó được hiểu là “để diễn giải tốt hơn” thì cách diễn đạt đó là hợp lệ. Theo nghĩa này, Công đồng Vatican II đã khẳng định rằng điều cần thiết là nhờ công việc của các nhà chú giải - tôi muốn nói thêm của các nhà thần học - "sự phán xét của Giáo hội có thể chín muồi" (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 12).
b) Vì vậy, mặc dù sự thật là mặc khải của Thiên Chúa là bất biến và luôn ràng buộc, nhưng Giáo hội phải khiêm tốn và nhận ra rằng mình không bao giờ múc cạn sự phong phú khôn dò của nó và cần phải phát triển trong sự hiểu biết của mình.
c) Vì thế, Giáo Hội cũng trưởng thành trong việc hiểu biết những gì chính Giáo Hội đã khẳng định trong huấn quyền của mình.
d) Những thay đổi về văn hóa và những thách thức mới của lịch sử không làm thay đổi mạc khải, nhưng chúng có thể kích thích chúng ta làm sáng tỏ hơn một số khía cạnh trong sự phong phú tràn trề của nó, vốn luôn mang lại nhiều hơn thế.
e) Điều không thể tránh khỏi là điều này có thể dẫn đến việc diễn đạt tốt hơn một số tuyên bố trong quá khứ của huấn quyền, và thực sự điều này đã xảy ra trong suốt lịch sử.
f) Mặt khác, đúng là huấn quyền không cao hơn lời Chúa, nhưng cũng đúng là cả các bản văn Kinh Thánh lẫn các chứng từ truyền thống đều cần một lối giải thích giúp chúng ta phân biệt được bản chất muôn thuở của chúng với việc điều kiện hóa của văn hóa. Chẳng hạn, điều đó được thể hiện rõ ràng trong các bản văn Kinh thánh (như Xh 21:20-21) và trong một số can thiệp của huấn quyền nhằm dung túng chế độ nô lệ (x. Đức Nicôla V, Sắc chỉ Oum Diversas, 1452). Đây không phải là một vấn đề nhỏ vì nó có mối liên hệ mật thiết với chân lý muôn thuở về phẩm giá bất khả nhượng của con người. Những bản văn này cần được giải thích. Điều tương tự cũng đúng đối với một số quan điểm của Tân Ước về phụ nữ (1 Cr 11:3-10; 1 Tm 2:11-14) và đối với các đoạn văn Kinh thánh khác và những chứng từ truyền thống mà ngày nay không thể lặp lại theo nghĩa đen.
g) Điều quan trọng cần nhấn mạnh là điều không thể thay đổi là điều đã được mạc khải “để cứu rỗi mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 7). Vì lý do này, Giáo hội phải liên tục phân biệt giữa điều gì là thiết yếu cho sự cứu rỗi và điều gì là thứ yếu hoặc ít liên quan trực tiếp hơn đến mục tiêu này. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại điều Thánh Tôma Aquinô đã khẳng định: “Càng đi sâu vào các vấn đề chi tiết, chúng ta càng thường xuyên gặp phải những khiếm khuyết” (Summa Theologiae 1-11, q. 94, art. 4).
h) Cuối cùng, một công thức duy nhất về một chân lý không bao giờ có thể được hiểu một cách thỏa đáng nếu nó được trình bày một cách biệt lập, tách biệt khỏi bối cảnh phong phú và hài hòa của toàn bộ mạc khải. “Phẩm trật các chân lý” cũng bao hàm việc đặt mỗi chân lý đó trong mối liên hệ thích hợp với các chân lý trung tâm hơn và với toàn bộ giáo huấn của Giáo hội. Điều này cuối cùng có thể làm nảy sinh những cách khác nhau để giải thích cùng một học thuyết, mặc dù “đối với những người khao khát một hệ thống học thuyết độc khối [monolithic] được tất cả mọi người bảo vệ và không có chỗ cho sắc thái, điều này có thể có vẻ không được mong muốn và dẫn đến nhầm lẫn. Nhưng trên thực tế, sự đa dạng như vậy giúp làm nổi bật và phát triển những khía cạnh khác nhau của sự phong phú vô tận của Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 49). Mỗi đường lối thần học đều có những rủi ro nhưng cũng có những cơ hội.
2. Dubium về tuyên bố rằng việc thực hành rộng rãi việc chúc lành cho các cặp đồng tính sẽ phù hợp với mạc khải và huấn quyền (Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo, số 2357).
Theo sự mặc khải của Thiên Chúa, được xác nhận trong Kinh thánh, mà Giáo hội “với sự ủy thác của Thiên Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, … lắng nghe một cách sốt sắng, cẩn thận gìn giữ và giải thích một cách trung thành” (Dei Verbum, 10): “Từ khởi nguyên” Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Người, Người đã tạo dựng họ có nam có nữ và chúc phúc cho họ để họ sinh sôi nảy nở (x. St 1: 27-28), qua đó, tông đồ Phaolô dạy rằng phủ nhận sự khác biệt giới tính là hậu quả của việc chối bỏ Đấng Tạo Hóa (Rm 1:24-32). Người ta hỏi: Liệu Giáo hội có thể xúc phạm “nguyên tắc” tội lỗi khách quan này như các cuộc kết hợp đồng tính mà không phản bội lại giáo lý mạc khải không?
Câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
a) Giáo hội có một quan niệm rất rõ ràng về hôn nhân: một sự kết hợp độc nhất, ổn định và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, mở ra một cách tự nhiên cho việc sinh con cái. Người ta gọi sự kết hợp này là “hôn nhân”. Các hình thức kết hợp khác chỉ thể hiện điều đó “một cách phiến diện và tương tự” (Amoris Laetitia, 292), và vì thế chúng không thể được gọi một cách nghiêm túc là “hôn nhân”.
b) Đây không chỉ là vấn đề về tên gọi, nhưng thực tại mà chúng ta gọi là hôn nhân có một cấu tạo thiết yếu duy nhất đòi hỏi một cái tên độc quyền, không thể áp dụng cho những thực tại khác. Chắc chắn nó không chỉ là một “lý tưởng” đơn thuần.
c) Vì lý do này, Giáo hội tránh bất cứ loại nghi thức hay bí tích nào có thể mâu thuẫn với xác tín này và tạo ấn tượng rằng điều gì đó không phải là hôn nhân vẫn được công nhận là hôn nhân.
d) Tuy nhiên, khi đối xử với mọi người, chúng ta không được đánh mất lòng bác ái mục vụ vốn phải thấm nhuần mọi quyết định và thái độ của chúng ta. Việc bảo vệ sự thật khách quan không phải là biểu hiện duy nhất của lòng bác ái này, nó còn được tạo nên từ lòng nhân ái, sự kiên nhẫn, sự hiểu biết, sự dịu dàng và sự khích lệ. Vì vậy, chúng ta không thể trở thành những quan tòa chỉ phủ nhận, bác bỏ, loại trừ.
e) Vì lý do này, sự khôn ngoan mục vụ phải phân định một cách thỏa đáng xem có những hình thức chúc lành nào, được một hoặc nhiều người yêu cầu, không truyền tải một quan niệm sai lầm về hôn nhân hay không. Vì khi cầu xin một phúc lành, người ta bày tỏ lời cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ, cầu xin một cuộc sống tốt đẹp hơn, tin tưởng vào một Người Cha có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.
f) Mặt khác, mặc dù có những tình huống theo quan điểm khách quan là không thể chấp nhận được về mặt luân lý, nhưng chính đức ái mục vụ đòi hỏi chúng ta không đơn giản coi những người khác là “tội nhân” mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể do lỗi của chính họ gây ra, hoặc trách nhiệm bị suy giảm bởi nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến khả thể qui lỗi chủ quan (x. Thánh Gioan Phaolô II, Reconciliatio et Paenitentia, 17).
g) Những quyết định, trong một số trường hợp, có thể là một phần của sự khôn ngoan mục vụ, không nên nhất thiết phải trở thành một quy luật. Điều đó có nghĩa là, sẽ không thích hợp cho một giáo phận, một hội đồng giám mục hoặc bất cứ cơ cấu giáo hội nào khác liên tục và chính thức cho phép các thủ tục hoặc nghi thức đối với mọi loại vấn đề, vì mọi sự “vốn là một phần của việc phân định thực tế trong những hoàn cảnh đặc thù đều không thể được nâng lên bình diện một quy tắc,” bởi vì điều này “sẽ dẫn đến một khoa giải nghi [casuistry] không thể chấp nhận được” (Amoris Laetitia, 304). Giáo luật không nên và không thể bao trùm mọi điều, các hội đồng giám mục cũng không nên chủ trương làm như vậy với các văn kiện và nghi thức khác nhau của họ, bởi vì đời sống của Giáo hội chạy qua nhiều kênh ngoài những kênh quy phạm.
3. Dubium về việc khẳng định rằng tính đồng nghị là một “yếu tố cấu thành của Giáo hội” (Tông hiến Episcopalis Communio, 6), để Giáo hội, về bản chất, sẽ mang tính đồng nghị.
Xét vì Thượng Hội đồng Giám mục không đại diện cho giám mục đoàn mà chỉ là một cơ quan tư vấn của Đức Giáo Hoàng, vì các giám mục, với tư cách là nhân chứng của đức tin, không thể ủy thác việc tuyên xưng sự thật của mình, nên người ta hỏi liệu tính đồng nghị có thể là tiêu chuẩn qui định tối cao của việc cai quản Giáo hội thường trực mà không làm sai lệch trật tự cấu thành của Giáo hội do Đấng sáng lập của Giáo hội mong muốn, theo đó, thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi cả giáo hoàng nhân danh chức vụ của ngài và bởi hiệp đoàn giám mục cùng với người đứng đầu của nó là Giám Mục Rôma (Lumen Gentium, 22).
Câu trả lời của Đức Giáo HoàngPhanxicô: a) Mặc dù qúi Đức Hồng Y thừa nhận rằng thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi giáo hoàng vì chức vụ của ngài hoặc bởi hiệp đoàn giám mục cùng với người đứng đầu là Giám Mục Rôma (x. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lýLumen Gentium, 22), tuy nhiên, với những nghi ngờ này, chính anh em cũng thể hiện nhu cầu tham gia, đưa ra ý kiến của mình một cách tự do và cộng tác, và anh em đang yêu cầu một số hình thức “tính đồng nghị” trong việc thực thi thừa tác vụ của tôi.
b) Giáo hội là một “mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo”, nhưng sự hiệp thông này không chỉ mang tính cảm xúc hay vĩnh cửu, mà nhất thiết bao hàm sự tham gia thực sự: rằng không chỉ hàng giáo phẩm mà tất cả dân Thiên Chúa, theo những cách thức và bình diện khác nhau, có thể làm cho tiếng nói của họ được lắng nghe và cảm nhận được là một phần của cuộc hành trình của Giáo hội. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng tính đồng nghị, như một phong cách và tính năng động, là một chiều kích thiết yếu của đời sống Giáo hội. Về điểm này Thánh Gioan Phaolô II đã nói những điều rất hay trong Novo Millennio Ineunte.
c) Việc thánh thiêng hóa hoặc áp đặt một phương pháp luận đồng nghị đặc thù làm hài lòng một nhóm, biến nó thành kênh chuẩn mực và bắt buộc cho tất cả mọi người là một điều hoàn toàn khác, bởi vì điều này sẽ chỉ dẫn đến việc “đóng băng” hành trình đồng nghị, bỏ qua các đặc điểm đa dạng của các Giáo hội địa phương khác nhau và sự phong phú đa dạng của Giáo hội hoàn vũ.
4. Dubium về sự ủng hộ của các mục tử và nhà thần học đối với lý thuyết cho rằng “thần học của Giáo hội đã thay đổi” và do đó việc truyền chức linh mục có thể được trao ban cho phụ nữ.
Sau những tuyên bố của một số vị giáo phẩm không được sửa chữa cũng như rút lại, theo đó, với Vatican II, thần học của Giáo hội và ý nghĩa của Thánh lễ đã thay đổi, người ta hỏi liệu châm ngôn của Công đồng Vatican II có còn giá trị hay không khi cho rằng “[chức linh mục chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác hoặc phẩm trật] khác nhau về yếu tính chứ không chỉ về mức độ” (Lumen Gentium, 10) và các linh mục nhờ “quyền thánh thiêng của các chức thánh, để dâng hy lễ và tha tội” (Presbyterorum Ordinis, 2), hành động nhân thánh danh và ngôi vị Chúa Kitô Đấng Trung Gian, qua Người hy lễ thiêng liêng của các tín hữu được làm cho hoàn thiện. Hơn nữa, người ta còn hỏi liệu lời dạy trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis của Thánh Gioan Phaolô II, vốn dạy như một sự thật được khẳng định dứt khoát việc không thể phong chức linh mục cho phụ nữ, có còn giá trị hay không, để giáo huấn này không còn có thể bị thay đổi nữa cũng như được các mục tử hoặc các nhà thần học thảo luận tự do nữa.
Câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
a) “Chức linh mục chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác khác nhau trong yếu tính” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 10). Thật không thích hợp khi duy trì một sự khác biệt về mức độ vốn hàm ý coi chức linh mục chung của các tín hữu như một điều gì đó thuộc “loại thứ hai” hoặc có giá trị thấp hơn (“một mức độ thấp hơn”). Cả hai hình thức chức linh mục đều soi sáng và hỗ trợ lẫn nhau.
b) Khi Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng cần phải khẳng định “dứt khoát” việc không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ, ngài không hề coi thường phụ nữ và trao quyền tối cao cho nam giới. Thánh Gioan Phaolô II còn khẳng định những điều khác. Thí dụ, khi chúng ta nói về quyền linh mục “chúng ta đang ở trong lĩnh vực chức năng chứ không phải về phẩm giá hay sự thánh thiện” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles Laici, 51).
Đây là những lời mà chúng ta chưa chấp nhận đầy đủ. Ngài cũng khẳng định rõ ràng rằng trong khi chỉ có linh mục chủ trì Bí tích Thánh Thể, các nhiệm vụ “không tạo ra sự ưu việt của bên này hơn bên kia” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles Laici, ghi chú 190; xem Bộ Giáo lý Đức tin, tuyên bố Inter Insigniores, VI). Tôi cũng khẳng định rằng nếu chức năng linh mục là “có tính phẩm trật”, thì không nên hiểu nó như một hình thức thống trị, nhưng “cơ cấu này hoàn toàn hướng tới sự thánh thiện của các chi thể của Chúa Kitô”. (Thánh Gioan Phaolô II, Mulieris Dignitatem, 27). Nếu điều này không được hiểu và những hậu quả thực tế của những sự phân biệt này không được rút ra, sẽ khó chấp nhận rằng chức linh mục chỉ dành riêng cho nam giới và chúng ta sẽ không thể thừa nhận các quyền của phụ nữ hoặc sự cần thiết để họ tham gia, theo nhiều cách khác nhau, trong sự lãnh đạo của Giáo hội.
c) Mặt khác, muốn cho nghiêm ngặt, chúng ta hãy thừa nhận rằng một học thuyết rõ ràng và có thẩm quyền vẫn chưa được phát triển một cách thấu đáo về bản chất chính xác của một “tuyên bố dứt khoát”. Nó không phải là một định nghĩa tín điều, tuy nhiên nó phải được tuân theo bởi mọi người. Không ai có thể công khai phủ nhận nó nhưng nó có thể là đối tượng nghiên cứu, như trường hợp giá trị của việc truyền chức trong Cộng đồng Anh giáo.
5. Dubium về tuyên bố “tha thứ là một quyền của con người” và việc Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến nghĩa vụ tha tội cho mọi người và luôn luôn, đến nỗi việc sám hối không phải là điều kiện cần thiết cho sự xá tội theo bí tích.
Người ta hỏi liệu giáo huấn của Công đồng Trent, theo đó sự thống hối của hối nhân, bao gồm việc chán ghét tội đã phạm với ý định không phạm tội nữa (Phiên XIV, Ch. IV: DH 1676), là điều cần thiết cho hiệu lực của việc xưng tội bí tích, có còn hiệu lực, do đó linh mục phải hoãn việc xá tội khi thấy rõ điều kiện này không được đáp ứng hay không.
Câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
a) Sự sám hối là cần thiết để bí tích giải tội có hiệu lực, và bao hàm ý định không phạm tội nữa. Nhưng ở đây không có phép toán nào cả, và một lần nữa tôi phải nhắc anh em rằng tòa giải tội không phải là cơ quan hải quan. Chúng ta không phải là những người chủ mà là những người quản lý khiêm tốn các bí tích nuôi dưỡng các tín hữu, bởi vì những hồng ân này của Chúa, hơn cả những thánh tích cần được bảo vệ, là những trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho đời sống của người ta.
b) Có nhiều cách bày tỏ sự hối hận. Thông thường, ở những người có lòng tự trọng bị tổn thương nặng nề, nhận tội là một cực hình tàn nhẫn, nhưng chính hành động đến xưng tội lại là biểu hiện của sự ăn năn và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa.
c) Tôi cũng muốn nhắc lại rằng “đôi khi chúng ta thấy khó dành chỗ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trong hoạt động mục vụ của chúng ta” (Amoris Laetitia, 311), nhưng chúng ta phải học cách làm như vậy. Theo Thánh Gioan Phaolô II, tôi chủ trương rằng chúng ta không nên đòi hỏi các tín hữu những đề xuất sửa đổi quá chính xác và chắc chắn, những đề xuất kết cục trở nên trừu tượng hoặc thậm chí vị kỷ, nhưng ngay cả khả thể dự đoán một sự sa ngã mới “vẫn không phá hoại tính chân chính của ý định” (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi Đức Hồng Y William W. Baum và những người tham gia cuộc họp của Bộ Giáo lý Đức tin của Đức Hồng Y. William W. Baum và những người tham gia khóa học hàng năm của khóa học Tòa Ân Giải, 22 tháng 3 năm 1996, 5).
d) Cuối cùng, cần phải làm rõ rằng tất cả các điều kiện thường được đặt ra cho việc xưng tội nói chung không được áp dụng khi người đó đang ở trong tình trạng đau khổ, hoặc với khả năng tinh thần và tâm lý rất hạn chế.
1. Dubium về chủ trương cho rằng chúng ta nên giải thích lại sự mặc khải của Thiên Chúa theo những thay đổi thịnh hành về văn hóa và nhân học.
Sau những tuyên bố của một số giám mục, không được sửa chữa cũng như rút lại, người ta hỏi liệu mạc khải của Thiên Chúa trong Giáo hội có nên được giải thích lại theo những thay đổi văn hóa của thời đại chúng ta và theo tầm nhìn nhân học mới mà những thay đổi này thúc đẩy hay không; hoặc liệu mạc khải của Thiên Chúa có ràng buộc mãi mãi, bất biến và do đó không thể bị mâu thuẫn, theo châm ngôn của Công đồng Vatican II, rằng đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, phải có “sự vâng phục của đức tin” (Dei Verbum, 5); rằng những gì được mặc khải để cứu rỗi mọi người phải tồn tại “một cách trọn vẹn, qua mọi thời đại” và sống động, và được “truyền lại cho mọi thế hệ” (7); và rằng sự tiến bộ trong hiểu biết không bao hàm bất cứ sự thay đổi nào trong chân lý của sự vật và lời nói, bởi vì đức tin đã được “truyền lại… một lần và mãi mãi” (8), và huấn quyền không cao hơn lời Chúa, nhưng chỉ dạy những gì đã được truyền lại (10).
Câu trả lời của Đức Giáo HoàngPhanxicô:
a) Câu trả lời tùy thuộc vào ý nghĩa mà anh em gán cho từ “tái giải thích”. Nếu nó được hiểu là “để diễn giải tốt hơn” thì cách diễn đạt đó là hợp lệ. Theo nghĩa này, Công đồng Vatican II đã khẳng định rằng điều cần thiết là nhờ công việc của các nhà chú giải - tôi muốn nói thêm của các nhà thần học - "sự phán xét của Giáo hội có thể chín muồi" (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 12).
b) Vì vậy, mặc dù sự thật là mặc khải của Thiên Chúa là bất biến và luôn ràng buộc, nhưng Giáo hội phải khiêm tốn và nhận ra rằng mình không bao giờ múc cạn sự phong phú khôn dò của nó và cần phải phát triển trong sự hiểu biết của mình.
c) Vì thế, Giáo Hội cũng trưởng thành trong việc hiểu biết những gì chính Giáo Hội đã khẳng định trong huấn quyền của mình.
d) Những thay đổi về văn hóa và những thách thức mới của lịch sử không làm thay đổi mạc khải, nhưng chúng có thể kích thích chúng ta làm sáng tỏ hơn một số khía cạnh trong sự phong phú tràn trề của nó, vốn luôn mang lại nhiều hơn thế.
e) Điều không thể tránh khỏi là điều này có thể dẫn đến việc diễn đạt tốt hơn một số tuyên bố trong quá khứ của huấn quyền, và thực sự điều này đã xảy ra trong suốt lịch sử.
f) Mặt khác, đúng là huấn quyền không cao hơn lời Chúa, nhưng cũng đúng là cả các bản văn Kinh Thánh lẫn các chứng từ truyền thống đều cần một lối giải thích giúp chúng ta phân biệt được bản chất muôn thuở của chúng với việc điều kiện hóa của văn hóa. Chẳng hạn, điều đó được thể hiện rõ ràng trong các bản văn Kinh thánh (như Xh 21:20-21) và trong một số can thiệp của huấn quyền nhằm dung túng chế độ nô lệ (x. Đức Nicôla V, Sắc chỉ Oum Diversas, 1452). Đây không phải là một vấn đề nhỏ vì nó có mối liên hệ mật thiết với chân lý muôn thuở về phẩm giá bất khả nhượng của con người. Những bản văn này cần được giải thích. Điều tương tự cũng đúng đối với một số quan điểm của Tân Ước về phụ nữ (1 Cr 11:3-10; 1 Tm 2:11-14) và đối với các đoạn văn Kinh thánh khác và những chứng từ truyền thống mà ngày nay không thể lặp lại theo nghĩa đen.
g) Điều quan trọng cần nhấn mạnh là điều không thể thay đổi là điều đã được mạc khải “để cứu rỗi mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 7). Vì lý do này, Giáo hội phải liên tục phân biệt giữa điều gì là thiết yếu cho sự cứu rỗi và điều gì là thứ yếu hoặc ít liên quan trực tiếp hơn đến mục tiêu này. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại điều Thánh Tôma Aquinô đã khẳng định: “Càng đi sâu vào các vấn đề chi tiết, chúng ta càng thường xuyên gặp phải những khiếm khuyết” (Summa Theologiae 1-11, q. 94, art. 4).
h) Cuối cùng, một công thức duy nhất về một chân lý không bao giờ có thể được hiểu một cách thỏa đáng nếu nó được trình bày một cách biệt lập, tách biệt khỏi bối cảnh phong phú và hài hòa của toàn bộ mạc khải. “Phẩm trật các chân lý” cũng bao hàm việc đặt mỗi chân lý đó trong mối liên hệ thích hợp với các chân lý trung tâm hơn và với toàn bộ giáo huấn của Giáo hội. Điều này cuối cùng có thể làm nảy sinh những cách khác nhau để giải thích cùng một học thuyết, mặc dù “đối với những người khao khát một hệ thống học thuyết độc khối [monolithic] được tất cả mọi người bảo vệ và không có chỗ cho sắc thái, điều này có thể có vẻ không được mong muốn và dẫn đến nhầm lẫn. Nhưng trên thực tế, sự đa dạng như vậy giúp làm nổi bật và phát triển những khía cạnh khác nhau của sự phong phú vô tận của Tin Mừng” (Evangelii Gaudium, 49). Mỗi đường lối thần học đều có những rủi ro nhưng cũng có những cơ hội.
2. Dubium về tuyên bố rằng việc thực hành rộng rãi việc chúc lành cho các cặp đồng tính sẽ phù hợp với mạc khải và huấn quyền (Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo, số 2357).
Theo sự mặc khải của Thiên Chúa, được xác nhận trong Kinh thánh, mà Giáo hội “với sự ủy thác của Thiên Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, … lắng nghe một cách sốt sắng, cẩn thận gìn giữ và giải thích một cách trung thành” (Dei Verbum, 10): “Từ khởi nguyên” Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Người, Người đã tạo dựng họ có nam có nữ và chúc phúc cho họ để họ sinh sôi nảy nở (x. St 1: 27-28), qua đó, tông đồ Phaolô dạy rằng phủ nhận sự khác biệt giới tính là hậu quả của việc chối bỏ Đấng Tạo Hóa (Rm 1:24-32). Người ta hỏi: Liệu Giáo hội có thể xúc phạm “nguyên tắc” tội lỗi khách quan này như các cuộc kết hợp đồng tính mà không phản bội lại giáo lý mạc khải không?
Câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
a) Giáo hội có một quan niệm rất rõ ràng về hôn nhân: một sự kết hợp độc nhất, ổn định và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, mở ra một cách tự nhiên cho việc sinh con cái. Người ta gọi sự kết hợp này là “hôn nhân”. Các hình thức kết hợp khác chỉ thể hiện điều đó “một cách phiến diện và tương tự” (Amoris Laetitia, 292), và vì thế chúng không thể được gọi một cách nghiêm túc là “hôn nhân”.
b) Đây không chỉ là vấn đề về tên gọi, nhưng thực tại mà chúng ta gọi là hôn nhân có một cấu tạo thiết yếu duy nhất đòi hỏi một cái tên độc quyền, không thể áp dụng cho những thực tại khác. Chắc chắn nó không chỉ là một “lý tưởng” đơn thuần.
c) Vì lý do này, Giáo hội tránh bất cứ loại nghi thức hay bí tích nào có thể mâu thuẫn với xác tín này và tạo ấn tượng rằng điều gì đó không phải là hôn nhân vẫn được công nhận là hôn nhân.
d) Tuy nhiên, khi đối xử với mọi người, chúng ta không được đánh mất lòng bác ái mục vụ vốn phải thấm nhuần mọi quyết định và thái độ của chúng ta. Việc bảo vệ sự thật khách quan không phải là biểu hiện duy nhất của lòng bác ái này, nó còn được tạo nên từ lòng nhân ái, sự kiên nhẫn, sự hiểu biết, sự dịu dàng và sự khích lệ. Vì vậy, chúng ta không thể trở thành những quan tòa chỉ phủ nhận, bác bỏ, loại trừ.
e) Vì lý do này, sự khôn ngoan mục vụ phải phân định một cách thỏa đáng xem có những hình thức chúc lành nào, được một hoặc nhiều người yêu cầu, không truyền tải một quan niệm sai lầm về hôn nhân hay không. Vì khi cầu xin một phúc lành, người ta bày tỏ lời cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ, cầu xin một cuộc sống tốt đẹp hơn, tin tưởng vào một Người Cha có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.
f) Mặt khác, mặc dù có những tình huống theo quan điểm khách quan là không thể chấp nhận được về mặt luân lý, nhưng chính đức ái mục vụ đòi hỏi chúng ta không đơn giản coi những người khác là “tội nhân” mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể do lỗi của chính họ gây ra, hoặc trách nhiệm bị suy giảm bởi nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến khả thể qui lỗi chủ quan (x. Thánh Gioan Phaolô II, Reconciliatio et Paenitentia, 17).
g) Những quyết định, trong một số trường hợp, có thể là một phần của sự khôn ngoan mục vụ, không nên nhất thiết phải trở thành một quy luật. Điều đó có nghĩa là, sẽ không thích hợp cho một giáo phận, một hội đồng giám mục hoặc bất cứ cơ cấu giáo hội nào khác liên tục và chính thức cho phép các thủ tục hoặc nghi thức đối với mọi loại vấn đề, vì mọi sự “vốn là một phần của việc phân định thực tế trong những hoàn cảnh đặc thù đều không thể được nâng lên bình diện một quy tắc,” bởi vì điều này “sẽ dẫn đến một khoa giải nghi [casuistry] không thể chấp nhận được” (Amoris Laetitia, 304). Giáo luật không nên và không thể bao trùm mọi điều, các hội đồng giám mục cũng không nên chủ trương làm như vậy với các văn kiện và nghi thức khác nhau của họ, bởi vì đời sống của Giáo hội chạy qua nhiều kênh ngoài những kênh quy phạm.
3. Dubium về việc khẳng định rằng tính đồng nghị là một “yếu tố cấu thành của Giáo hội” (Tông hiến Episcopalis Communio, 6), để Giáo hội, về bản chất, sẽ mang tính đồng nghị.
Xét vì Thượng Hội đồng Giám mục không đại diện cho giám mục đoàn mà chỉ là một cơ quan tư vấn của Đức Giáo Hoàng, vì các giám mục, với tư cách là nhân chứng của đức tin, không thể ủy thác việc tuyên xưng sự thật của mình, nên người ta hỏi liệu tính đồng nghị có thể là tiêu chuẩn qui định tối cao của việc cai quản Giáo hội thường trực mà không làm sai lệch trật tự cấu thành của Giáo hội do Đấng sáng lập của Giáo hội mong muốn, theo đó, thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi cả giáo hoàng nhân danh chức vụ của ngài và bởi hiệp đoàn giám mục cùng với người đứng đầu của nó là Giám Mục Rôma (Lumen Gentium, 22).
Câu trả lời của Đức Giáo HoàngPhanxicô: a) Mặc dù qúi Đức Hồng Y thừa nhận rằng thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi giáo hoàng vì chức vụ của ngài hoặc bởi hiệp đoàn giám mục cùng với người đứng đầu là Giám Mục Rôma (x. Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lýLumen Gentium, 22), tuy nhiên, với những nghi ngờ này, chính anh em cũng thể hiện nhu cầu tham gia, đưa ra ý kiến của mình một cách tự do và cộng tác, và anh em đang yêu cầu một số hình thức “tính đồng nghị” trong việc thực thi thừa tác vụ của tôi.
b) Giáo hội là một “mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo”, nhưng sự hiệp thông này không chỉ mang tính cảm xúc hay vĩnh cửu, mà nhất thiết bao hàm sự tham gia thực sự: rằng không chỉ hàng giáo phẩm mà tất cả dân Thiên Chúa, theo những cách thức và bình diện khác nhau, có thể làm cho tiếng nói của họ được lắng nghe và cảm nhận được là một phần của cuộc hành trình của Giáo hội. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng tính đồng nghị, như một phong cách và tính năng động, là một chiều kích thiết yếu của đời sống Giáo hội. Về điểm này Thánh Gioan Phaolô II đã nói những điều rất hay trong Novo Millennio Ineunte.
c) Việc thánh thiêng hóa hoặc áp đặt một phương pháp luận đồng nghị đặc thù làm hài lòng một nhóm, biến nó thành kênh chuẩn mực và bắt buộc cho tất cả mọi người là một điều hoàn toàn khác, bởi vì điều này sẽ chỉ dẫn đến việc “đóng băng” hành trình đồng nghị, bỏ qua các đặc điểm đa dạng của các Giáo hội địa phương khác nhau và sự phong phú đa dạng của Giáo hội hoàn vũ.
4. Dubium về sự ủng hộ của các mục tử và nhà thần học đối với lý thuyết cho rằng “thần học của Giáo hội đã thay đổi” và do đó việc truyền chức linh mục có thể được trao ban cho phụ nữ.
Sau những tuyên bố của một số vị giáo phẩm không được sửa chữa cũng như rút lại, theo đó, với Vatican II, thần học của Giáo hội và ý nghĩa của Thánh lễ đã thay đổi, người ta hỏi liệu châm ngôn của Công đồng Vatican II có còn giá trị hay không khi cho rằng “[chức linh mục chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác hoặc phẩm trật] khác nhau về yếu tính chứ không chỉ về mức độ” (Lumen Gentium, 10) và các linh mục nhờ “quyền thánh thiêng của các chức thánh, để dâng hy lễ và tha tội” (Presbyterorum Ordinis, 2), hành động nhân thánh danh và ngôi vị Chúa Kitô Đấng Trung Gian, qua Người hy lễ thiêng liêng của các tín hữu được làm cho hoàn thiện. Hơn nữa, người ta còn hỏi liệu lời dạy trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis của Thánh Gioan Phaolô II, vốn dạy như một sự thật được khẳng định dứt khoát việc không thể phong chức linh mục cho phụ nữ, có còn giá trị hay không, để giáo huấn này không còn có thể bị thay đổi nữa cũng như được các mục tử hoặc các nhà thần học thảo luận tự do nữa.
Câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
a) “Chức linh mục chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác khác nhau trong yếu tính” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 10). Thật không thích hợp khi duy trì một sự khác biệt về mức độ vốn hàm ý coi chức linh mục chung của các tín hữu như một điều gì đó thuộc “loại thứ hai” hoặc có giá trị thấp hơn (“một mức độ thấp hơn”). Cả hai hình thức chức linh mục đều soi sáng và hỗ trợ lẫn nhau.
b) Khi Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng cần phải khẳng định “dứt khoát” việc không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ, ngài không hề coi thường phụ nữ và trao quyền tối cao cho nam giới. Thánh Gioan Phaolô II còn khẳng định những điều khác. Thí dụ, khi chúng ta nói về quyền linh mục “chúng ta đang ở trong lĩnh vực chức năng chứ không phải về phẩm giá hay sự thánh thiện” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles Laici, 51).
Đây là những lời mà chúng ta chưa chấp nhận đầy đủ. Ngài cũng khẳng định rõ ràng rằng trong khi chỉ có linh mục chủ trì Bí tích Thánh Thể, các nhiệm vụ “không tạo ra sự ưu việt của bên này hơn bên kia” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles Laici, ghi chú 190; xem Bộ Giáo lý Đức tin, tuyên bố Inter Insigniores, VI). Tôi cũng khẳng định rằng nếu chức năng linh mục là “có tính phẩm trật”, thì không nên hiểu nó như một hình thức thống trị, nhưng “cơ cấu này hoàn toàn hướng tới sự thánh thiện của các chi thể của Chúa Kitô”. (Thánh Gioan Phaolô II, Mulieris Dignitatem, 27). Nếu điều này không được hiểu và những hậu quả thực tế của những sự phân biệt này không được rút ra, sẽ khó chấp nhận rằng chức linh mục chỉ dành riêng cho nam giới và chúng ta sẽ không thể thừa nhận các quyền của phụ nữ hoặc sự cần thiết để họ tham gia, theo nhiều cách khác nhau, trong sự lãnh đạo của Giáo hội.
c) Mặt khác, muốn cho nghiêm ngặt, chúng ta hãy thừa nhận rằng một học thuyết rõ ràng và có thẩm quyền vẫn chưa được phát triển một cách thấu đáo về bản chất chính xác của một “tuyên bố dứt khoát”. Nó không phải là một định nghĩa tín điều, tuy nhiên nó phải được tuân theo bởi mọi người. Không ai có thể công khai phủ nhận nó nhưng nó có thể là đối tượng nghiên cứu, như trường hợp giá trị của việc truyền chức trong Cộng đồng Anh giáo.
5. Dubium về tuyên bố “tha thứ là một quyền của con người” và việc Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến nghĩa vụ tha tội cho mọi người và luôn luôn, đến nỗi việc sám hối không phải là điều kiện cần thiết cho sự xá tội theo bí tích.
Người ta hỏi liệu giáo huấn của Công đồng Trent, theo đó sự thống hối của hối nhân, bao gồm việc chán ghét tội đã phạm với ý định không phạm tội nữa (Phiên XIV, Ch. IV: DH 1676), là điều cần thiết cho hiệu lực của việc xưng tội bí tích, có còn hiệu lực, do đó linh mục phải hoãn việc xá tội khi thấy rõ điều kiện này không được đáp ứng hay không.
Câu trả lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô:
a) Sự sám hối là cần thiết để bí tích giải tội có hiệu lực, và bao hàm ý định không phạm tội nữa. Nhưng ở đây không có phép toán nào cả, và một lần nữa tôi phải nhắc anh em rằng tòa giải tội không phải là cơ quan hải quan. Chúng ta không phải là những người chủ mà là những người quản lý khiêm tốn các bí tích nuôi dưỡng các tín hữu, bởi vì những hồng ân này của Chúa, hơn cả những thánh tích cần được bảo vệ, là những trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho đời sống của người ta.
b) Có nhiều cách bày tỏ sự hối hận. Thông thường, ở những người có lòng tự trọng bị tổn thương nặng nề, nhận tội là một cực hình tàn nhẫn, nhưng chính hành động đến xưng tội lại là biểu hiện của sự ăn năn và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa.
c) Tôi cũng muốn nhắc lại rằng “đôi khi chúng ta thấy khó dành chỗ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa trong hoạt động mục vụ của chúng ta” (Amoris Laetitia, 311), nhưng chúng ta phải học cách làm như vậy. Theo Thánh Gioan Phaolô II, tôi chủ trương rằng chúng ta không nên đòi hỏi các tín hữu những đề xuất sửa đổi quá chính xác và chắc chắn, những đề xuất kết cục trở nên trừu tượng hoặc thậm chí vị kỷ, nhưng ngay cả khả thể dự đoán một sự sa ngã mới “vẫn không phá hoại tính chân chính của ý định” (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi Đức Hồng Y William W. Baum và những người tham gia cuộc họp của Bộ Giáo lý Đức tin của Đức Hồng Y. William W. Baum và những người tham gia khóa học hàng năm của khóa học Tòa Ân Giải, 22 tháng 3 năm 1996, 5).
d) Cuối cùng, cần phải làm rõ rằng tất cả các điều kiện thường được đặt ra cho việc xưng tội nói chung không được áp dụng khi người đó đang ở trong tình trạng đau khổ, hoặc với khả năng tinh thần và tâm lý rất hạn chế.