Như đã loan tin (https://vietcatholic.net/News/Html/290140.htm), khi nói với các giám mục Ý đừng chấp nhận người có sinh hoạt đồng tính hay có xu hướng đồng tính sâu xa vào chủng viện, Đức Phanxicô đã trích dẫn huấn thị năm 2005 của Bộ Giáo Dục Công Giáo. Mời bạn đọc đọc lại nguyên văn Huấn thị này, dịch theo bản tiếng Anh của Tòa Thánh:

Dẫn nhập

Tiếp nối giáo huấn của Công đồng Vatican II và đặc biệt với Sắc lệnh Optatam Totius [1] về đào tạo linh mục, Bộ Giáo dục Công Giáo đã xuất bản nhiều Văn kiện khác nhau nhằm mục đích thúc đẩy việc đào tạo phù hợp và toàn diện cho các linh mục tương lai, bằng cách đưa ra các hướng dẫn và tiêu chuẩn chính xác về các khía cạnh đa dạng của nó. [2] Trong khi đó, Thượng Hội đồng Giám mục năm 1990 cũng suy nghĩ về việc đào tạo các linh mục trong hoàn cảnh ngày nay, với mục đích hoàn thiện học thuyết của Công đồng về chủ đề này và làm cho nó trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn trong việc Thế giới của ngày hôm nay. Sau Thượng Hội đồng này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã công bố Tông huấn Hậu Thượng hội đồng Pastores Dabo Vobis. [3]

Dưới ánh sáng của giáo huấn phong phú này, Huấn thị hiện tại không có ý định tập trung vào tất cả các vấn đề thuộc lĩnh vực cảm xúc và tính dục, vốn đòi hỏi sự phân định chú ý trong toàn bộ thời kỳ đào tạo. Đúng hơn, nó chứa đựng những quy định liên quan đến một vấn đề cụ thể, được đặt ra cấp bách hơn trong hoàn cảnh hiện tại, đó là: có nên nhận vào chủng viện và chức thánh những ứng viên có khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu sắc hay không.

1. Sự trưởng thành về mặt cảm xúc và tình phụ tử thiêng liêng

Theo Truyền thống thường hằng của Giáo hội, chỉ có người nam đã được rửa tội [4] mới được lãnh nhận chức thánh một cách hợp lệ. Qua Bí tích Truyền chức, Chúa Thánh Thần làm cho ứng viên thành đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô một cách mới mẻ và chuyên biệt: trên thực tế, linh mục đại diện cho Chúa Kitô, thủ lãnh, mục tử và hiền thê của Giáo hội về mặt bí tích [5]. Vì việc đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, toàn bộ đời sống của thừa tác viên thánh phải được sinh động hóa bằng việc hiến dâng toàn bộ con người mình cho Giáo hội và bằng lòng bác ái mục vụ đích thực [6].

Do đó, ứng viên vào thừa tác vụ thụ phong phải đạt tới mức trưởng thành về tình cảm. Sự trưởng thành như vậy sẽ giúp họ có mối quan hệ đúng đắn với cả nam lẫn nữ, phát triển nơi họ ý thức đích thực về tình phụ tử thiêng liêng đối với cộng đồng Giáo Hội được giao phó cho họ [7].

2. Đồng tính luyến ái và thừa tác vụ thụ phong

Từ thời Công đồng Vatican II cho đến ngày nay, nhiều Văn kiện của Huấn quyền, và đặc biệt là Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, đã xác nhận giáo huấn của Giáo hội về đồng tính luyến ái. Sách Giáo Lý phân biệt giữa hành vi đồng tính luyến ái và khuynh hướng đồng tính luyến ái.

Về các hành vi, nó dạy rằng Kinh Thánh trình bày chúng như những tội trọng. Truyền thống luôn coi chúng là vô đạo đức về bản chất và trái với luật tự nhiên. Do đó, trong mọi trường hợp, chúng không thể được chấp thuận.

Các khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu xa, được thấy ở một số đàn ông và phụ nữ, cũng bị rối loạn một cách khách quan và, đối với chính những người đó, thường tạo thành một thử thách. Những người như vậy phải được chấp nhận với sự tôn trọng và nhạy cảm. Phải tránh mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công liên quan đến họ. Họ được kêu gọi thực hiện ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc sống của họ và hiệp nhất với hy tế Thập Giá của Chúa trước những khó khăn mà họ có thể gặp phải [8].

Dưới ánh sáng của giáo huấn như vậy, Bộ này, phù hợp với Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, tin rằng cần phải tuyên bố rõ ràng rằng Giáo hội, trong khi tôn trọng sâu sắc những người được đề cập [9], không thể nhận vào chủng viện hoặc các chức thánh, những người thực hành đồng tính luyến ái, có khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu xa hoặc ủng hộ điều gọi là "văn hóa đồng tính" [10].

Thực vậy, những người như vậy thấy mình ở trong một hoàn cảnh bị cản trở nghiêm trọng trong việc quan hệ một cách đúng đắn với nam giới và nữ giới. Người ta không được bỏ qua những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra từ việc phong chức cho những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu xa.

Tuy nhiên, sẽ khác với trường hợp người ta đang giải quyết các xu hướng đồng tính luyến ái chỉ là biểu hiện của một vấn đề nhất thời - ví dụ, vấn đề của tuổi thiếu niên chưa được thay thế. Tuy nhiên, những khuynh hướng này phải được khắc phục rõ ràng ít nhất ba năm trước khi chịu chức phó tế.

3. Sự phân định của Giáo hội liên quan đến sự phù hợp của các ứng viên

Có hai yếu tố không thể tách rời trong mọi ơn gọi linh mục: hồng ân nhưng không của Thiên Chúa và sự tự do có trách nhiệm của con người. Ơn gọi là một hồng ân của ân sủng Thiên Chúa, được lãnh nhận qua Giáo Hội, trong Giáo Hội và để phục vụ Giáo Hội. Để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa, con người tự nguyện hiến thân cho Người trong tình yêu [11]. Chỉ ước muốn trở thành linh mục thôi thì chưa đủ, và không có quyền lãnh nhận chức thánh. Giáo hội - với trách nhiệm xác định những yêu cầu cần thiết để lãnh nhận các bí tích do Chúa Kitô thiết lập - phải phân định sự phù hợp của người mong muốn được vào chủng viện [12], đồng hành cùng họ trong những năm đào tạo và kêu gọi họ chịu chức thánh nếu họ được đánh giá là có những phẩm chất cần thiết [13].

Việc đào tạo vị linh mục tương lai phải trình bày rõ ràng, theo cách bổ sung cơ bản, bốn chiều kích của việc đào tạo: nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ [14]. Trong bối cảnh này, cần nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc đào tạo con người như là nền tảng cần thiết cho mọi việc đào tạo [15]. Để nhận một ứng viên chịu chức phó tế, Giáo hội phải xác minh, trong số những điều khác, rằng ứng viên đó đã đạt đến mức trưởng thành về tình cảm hay chưa [16].

Ơn gọi vào các chức thánh là trách nhiệm bản thân của Giám mục [17] hoặc bề trên cấp cao. Lưu ý đến ý kiến của những người được giao trách nhiệm đào tạo, Giám mục hoặc bề trên cấp cao, trước khi nhận ứng viên vào chức thánh, phải đưa ra phán quyết chắc chắn về mặt luân lý đối với các phẩm chất của ứng viên. Trong trường hợp có nghi ngờ nghiêm trọng về vấn đề này, ngài không được nhận họ để phong chức [18].

Việc phân định ơn gọi và sự trưởng thành của ứng viên cũng là một nhiệm vụ nghiêm túc của vị giám đốc và của những người khác được giao phó công việc đào tạo trong chủng viện. Trước mỗi lần thụ phong, vị giám đốc phải bày tỏ nhận định của mình về việc liệu ứng viên có những phẩm chất mà Giáo hội yêu cầu hay không [19].

Trong việc phân định liên quan đến sự thích hợp cho việc thụ phong, vị linh hướng có một nhiệm vụ quan trọng. Mặc dù buộc phải giữ bí mật nhưng ngài đại diện cho Giáo hội ở tòa trong. Khi thảo luận với ứng viên, vị linh hướng phải đặc biệt chỉ ra những yêu cầu của Giáo hội liên quan đến đức khiết tịnh của linh mục và sự trưởng thành về tình cảm vốn là đặc điểm của linh mục, cũng như giúp họ nhận ra liệu họ có những phẩm chất cần thiết hay không [20]. Vị linh hướng có nghĩa vụ đánh giá tất cả các phẩm chất nhân cách của ứng viên và đảm bảo rằng ứng viên không bộc lộ những rối loạn về bản chất tình dục, vốn không phù hợp với chức linh mục. Nếu một ứng viên thực hành đồng tính luyến ái hoặc bộc lộ những khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu xa, thì vị linh hướng cũng như cha giải tội của ứng viên đó có nhiệm vụ khuyên nhủ ứng viên về lương tâm không nên tiến tới việc thụ phong.

Điều hiển nhiên là chính ứng viên phải chịu trách nhiệm chính về việc đào tạo của chính mình [21]. Họ phải tin tưởng hiến thân cho sự phân định của Giáo hội, của Giám mục, người đã mời gọi họ vào các chức thánh, của giám đốc chủng viện, cha linh hướng của họ và của các nhà giáo dục chủng viện khác mà Giám mục hoặc bề trên cấp cao đã giao phó nhiệm vụ đào tạo các linh mục tương lai. Sẽ thiếu trung thực trầm trọng nếu một ứng viên che giấu sự đồng tính luyến ái của mình để tiếp tục, bất chấp tất cả, tiến tới việc thụ phong. Một thái độ lừa dối như vậy không tương ứng với tinh thần chân thật, lòng trung thành và cởi mở vốn là đặc điểm của nhân cách người tin rằng mình được kêu gọi phục vụ Chúa Kitô và Giáo hội của Người trong chức linh mục thừa tác.

Kết luận

Thánh Bộ này tái khẳng định sự cần thiết của các Giám mục, bề trên cao cấp và tất cả các cơ quan hữu quan để thực hiện một sự phân định chu đáo liên quan đến sự phù hợp của các ứng viên cho chức thánh, từ lúc được nhận vào chủng viện cho đến khi chịu chức. Việc phân định này phải được thực hiện dựa trên quan niệm về chức linh mục thừa tác phù hợp với giáo huấn của Giáo hội.

Các Giám mục, các Hội đồng Giám mục và các bề trên cao cấp hãy chú ý để thấy rằng các quy tắc liên tục của Huấn thị này được tuân thủ một cách trung thành vì lợi ích của chính các ứng viên, và bảo đảm rằng Giáo hội luôn có các linh mục phù hợp là những mục tử đích thực theo Trái Tim Chúa Kitô.

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, vào ngày 31 tháng 8 năm 2005, đã phê chuẩn Huấn thị này và ra lệnh công bố nó.

Rôma, ngày 4 tháng 11 năm 2005, Lễ nhớ Thánh Charles Borromeo, Bổn mạng các Chủng viện

Đức Hồng Y Zenon Grocholewski
Bộ trưởng

J. Michael Miller, C.S.B.
Tổng giám mục hiệu tòa Vertara
Thư ký


________________________________________

Ghi Chú

[1] Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về đào tạo linh mục Optatam Totius (28/10/1965): AAS 58 (1966), 713-727.

[2] Xem Bộ Giáo dục Công Giáo, Ratio Fundamentalis Institutionis sacerdotalis [lý lẽ nền tảng của định chế linh mục](6 tháng 1 năm 1970; tái bản lần thứ hai ngày 19 tháng 3 năm 1985); Nghiên cứu Triết học trong Chủng viện (ngày 20 tháng 1 năm 1972); Hướng dẫn đào tạo độc thân linh mục (11 tháng 4 năm 1974); Về việc giảng dạy giáo luật cho những người chuẩn bị làm linh mục (2 tháng 4 năm 1975); Việc đào tạo thần học cho các linh mục tương lai (22 tháng 2 năm 1976); Epistula circularis de formatione vocationum adultarum [Thư luân lưu về việc đào tạo ơn gọi người lớn] (14 tháng 7 năm 1976); Huấn thị về Đào tạo Phụng vụ trong Chủng viện (03/06/1979); Thư luân lưu liên quan đến một số khía cạnh cấp bách hơn của việc đào tạo tâm linh trong các chủng viện (ngày 6 tháng 1 năm 1980); Hướng dẫn Giáo dục về Tình yêu Con người: Đề cương Giáo dục Giới tính (1/11/1983); mục vụ Chăm sóc những người lưu động trong việc đào tạo các linh mục tương lai (25 tháng 1 năm 1986); Hướng dẫn đào tạo các linh mục tương lai liên quan đến các công cụ truyền thông xã hội (19 tháng 3 năm 1986); Thư Luân lưu Liên quan đến việc Nghiên cứu các Giáo hội Đông phương (ngày 6 tháng 1 năm 1987); Đức Trinh Nữ Maria trong việc đào luyện trí thức và tâm linh (25/03/1988); Hướng dẫn Nghiên cứu và Giảng dạy Học thuyết Xã hội của Giáo hội trong việc Đào tạo Linh mục (30 tháng 12 năm 1988); Huấn thị về việc Nghiên cứu các Giáo phụ trong việc đào tạo các Linh mục (10 tháng 11 năm 1989); Chỉ thị liên quan đến việc chuẩn bị các nhà giáo dục chủng viện (4 tháng 11 năm 1993); Chỉ thị về việc đào tạo các chủng sinh liên quan đến các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình (19 tháng 3 năm 1995); Hướng dẫn của Hội đồng Giám mục về việc tiếp nhận các ứng viên đến từ các chủng viện hoặc gia đình tôn giáo khác (ngày 9 tháng 10 năm 1986 và ngày 8 tháng 3 năm 1996); Thời kỳ Dự bị (1 tháng 5 năm 1998); Các Thư Luân lưu Liên quan đến các Quy tắc Giáo luật liên quan đến những Điều bất thường và Trở ngại cả ad Ordines recipiendos [các chức thánh được tiếp nhận] lẫn ad Ordines exercendos [các chức thánh thi hành] (ngày 27 tháng 7 năm 1992 và ngày 2 tháng 2 năm 1999).

[3] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25/03/1992): AAS 84 (1992), 657-864.

[4] Xem Bộ Giáo luật, điều 1024 và Bộ Giáo luật Đông phương, điều 754; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư Ordinatio Sacerdotalis [phong chức linh mục] về việc chỉ truyền chức linh mục cho nam giới (22/05/1994): AAS 86 (1994), 545-548.

[5] Xem Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống của các linh mục Presbyterorum Ordinis [chức linh mục](7/12/1965), số 2: AAS 58 (1966), 991-993; Pastores Dabo Vobis [ta ban cho các con các mục tử], số 16: AAS 84 (1992), 681-682. Về việc linh mục nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Phu Quân của Giáo Hội, Pastores Dabo Vobis nói rằng “Linh mục được kêu gọi trở thành hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô, Hôn Phu của Giáo Hội.... Vì vậy, trong đời sống thiêng liêng của mình, ngài được mời gọi sống tình yêu phu thê của Chúa Kitô đối với Giáo hội, hiền thê của Người. Vì vậy, đời sống linh mục phải tỏa sáng tính cách phu thê này, vốn đòi hỏi họ phải trở thành chứng nhân cho tình yêu phu thê của Chúa Kitô” (số 22): AAS 84 (1992), 691.

[6] Xem Presbyterorum Ordinis, số 14: AAS 58 (1966), 1013-1014; Pastores Dabo Vobis, số 23: AAS 84 (1992), 691-694.

[7] Xem Bộ Giáo sĩ, Hướng dẫn về Thừa tác vụ và Đời sống Linh mục (31/03/1994), số 58.

[8] X. Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo (ấn bản tiêu chuẩn, 1997), các số 2357-2358. Cũng xem các Tài liệu khác nhau của Bộ Giáo lý Đức tin: Tuyên bố Persona Humana [nhân vị] về một số vấn đề liên quan đến đạo đức tình dục (29 tháng 12 năm 1975); Thư Homosexitatis problema [các vấn đề đồng tính luyến ái]gửi các Giám mục của Giáo Hội Công Giáo về việc chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính luyến ái (1 tháng 10 năm 1986); Một số cân nhắc liên quan đến việc đáp ứng các đề xuất lập pháp về việc không phân biệt đối xử với người đồng tính (23 tháng 7 năm 1992); Các Xem xét về các Đề xuất công nhận về mặt pháp lý đối với sự kết hợp giữa những người đồng tính (3 tháng 6 năm 2003). Liên quan đến các khuynh hướng đồng tính luyến ái, Thư Homosexitatis problema khẳng định rằng “Mặc dù khuynh hướng đặc biệt của người đồng tính luyến ái không phải là một tội lỗi, nhưng đó là một khuynh hướng ít nhiều mạnh mẽ hướng tới một sự ác luân lý nội tại; và do đó, bản thân khuynh hướng này phải được coi là một sự rối loạn khách quan” (khoản 3).

[9] Xem Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo (ấn bản tiêu chuẩn, 1997), số 2358; cũng xem Bộ Giáo luật, điều 208 và Bộ Giáo luật Đông phương, điều 11.

[10] X. Bộ Giáo dục Công Giáo, Bản ghi nhớ gửi các Giám mục tìm kiếm lời khuyên về các vấn đề liên quan đến đồng tính luyến ái và các ứng viên được nhận vào Chủng viện (ngày 9 tháng 7 năm 1985); Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Thư (16/5/2002): Notitiae 38 (2002), 586.

[11] X. Pastores Dabo Vobis, các số 35-36: AAS 84 (1992), 714-718.

[12] X. Bộ Giáo luật, điều 241 §1: “Giám mục giáo phận chỉ được nhận vào đại chủng viện những người được đánh giá là có đủ khả năng cống hiến lâu dài cho các thừa tác vụ thánh; ngài phải xem xét các phẩm chất nhân bản, luân lý, tâm linh và trí thức, sức khỏe thể chất và tinh thần của họ, và ý định đúng đắn của họ"; xem. Bộ Giáo luật Đông phương, điều 342 §1.

[13] X. Optatam Totius, số 6: AAS 58 (1966), 717. Cũng xem Bộ Giáo luật, điều 1029: “Chỉ những người được tiến chức, theo sự đánh giá khôn ngoan của Giám mục hoặc bề trên cấp cao có thẩm quyền, đã xem xét mọi vấn đề, có đức tin trọn vẹn, được thúc đẩy bởi ý hướng đúng đắn, có kiến thức cần thiết, danh tiếng tốt, có đạo đức trọn vẹn và các nhân đức đã được chứng minh cũng như các phẩm chất thể chất và tinh thần khác phù hợp với chức thánh được tiếp nhận"; xem Bộ Giáo luật Đông phương, điều 758. Việc không mời vào chức thánh những người không có đủ phẩm chất cần thiết không phải là một sự phân biệt đối xử bất công: x. Bộ Giáo lý Đức tin, Một số Xem xét liên quan đến việc đáp ứng các đề xuất pháp lý về việc không phân biệt đối xử với những người đồng tính luyến ái.

[14] X. Pastores Dabo Vobis, các số 43-59: AAS 84 (1992), 731-762.

[15] X. ibid., Số 43: “Linh mục, người được mời gọi trở thành ‘hình ảnh sống động’ của Chúa Giêsu Kitô, đầu và mục tử của Giáo hội, phải tìm cách phản ảnh nơi mình càng nhiều càng tốt sự hoàn hảo nhân bản chiếu sáng nơi Con Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa và được phản ảnh một cách sống động đặc biệt trong thái độ của Người đối với người khác": AAS 84 (1992), 732.

[16] X. ibid., các số 44 và 50: AAS 84 (1992), 733-736 và 746-748. Cũng nên xem: Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Thư luân lưu gửi các Giám mục giáo phận đáng kính nhất và các Đấng bản quyền khác có năng quyền giáo luật để nhận vác các chức thánh liên quan đến: Việc xem xét kỹ lưỡng về sự phù hợp của các ứng viên để lãnh chức thánh (10 tháng 11 năm 1997): Notitiae 33 (1997), 507-518, đặc biệt là Bản Đính Kèm V.

[17] X. Bộ Giám mục, Hướng dẫn Mục vụ của các Giám mục Apostolorum Successores [Kế vị các Tông đồ] (22 tháng 2 năm 2004), số 88.

[18] Xem Bộ Giáo luật, điều1052 §3: "Nếu... vì lý do cụ thể nào đó, Giám mục nghi ngờ liệu một ứng viên có phù hợp để lãnh chức hay không, ngài không được thăng chức cho người đó". Cũng xem Bộ Giáo luật Đông phương, điều 770.

[19] X. Bộ Giáo luật, Điều 1051: “Phải tuân thủ những quy định sau đây liên quan đến việc điều tra các phẩm chất cần có nơi người được thụ phong:...phải có chứng từ của giám đốc chủng viện hoặc nhà đào tạo về những phẩm chất cần thiết để được lãnh nhận chức thánh, nghĩa là về giáo lý đúng đắn của ứng viên, lòng đạo đức chân chính, đạo đức tốt và khả năng thực thi thừa tác vụ của ứng viên, cũng như, sau khi thực hiện một cuộc điều tra đúng đắn, về tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của ứng viên”.

[20] Xem Pastores Dabo Vobis, các số 50 và 66: AAS 84 (1992), 746-748 và 772-774. Cũng xem Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis, số 48.

[21] Xem Pastores Dabo Vobis, số 69: AAS 84 (1992), 778.