1. Tổng giáo phận Washington có số tân linh mục cao nhất từ sáu mươi bốn năm nay

Năm nay, Tổng giáo phận thủ đô Washington, Hoa Kỳ, có số tân linh mục cao nhất từ sáu mươi bốn năm nay, tức là từ năm 1960, với mười sáu linh mục mới được thụ phong, hôm thứ Bảy, ngày 15 tháng Sáu vừa qua, tại Vương cung Thánh đường Quốc gia Đức Mẹ Vô nhiễm.

Trong số các tiến chức, cũng có một người gốc Việt, là cha Nguyễn Thông.

Đức ông Robert Panke, cha sở giáo xứ thánh John Newman ở Gaithersburg, bang Maryland, cựu Giám đốc Đại chủng viện thánh Gioan Phaolô II ở Washington, nói rằng “Bích chương quảng cáo lớn nhất cho ơn gọi là một linh mục hạnh phúc, vì bạn tự hỏi các linh mục có điều gì khiến họ hạnh phúc như vậy. Một linh mục vui tươi dễ làm lây sang người khác”.

Còn cha Anthony Lickeig, Đại diện Giám mục Washington về giáo sĩ, nói với tờ National Catholic Register rằng: “Con số đông đảo các tân linh mục như vậy là một phúc lành tuyệt vời của Chúa. Chúa là Đấng kêu gọi và đặt ơn này nơi tâm hồn của các tiến chức linh mục này”.

Con số tân linh mục cao của Giáo phận Washington nổi bật giữa những lo âu vì sự tiếp tục suy giảm ơn gọi mới trên toàn nước Mỹ. Một phúc trình được công bố đầu năm nay cho thấy từ năm 2014 đến 2021, số linh mục giáo phận ở tuổi hoạt động ở Mỹ giảm 9%, trong khi số linh mục dòng hoạt động giảm 14%, số chủng sinh giảm 22% mà mỗi năm số tân linh mục giảm 24%.

Cha Carter Griffin, Giám đốc Đại chủng viện thánh Gioan Phaolô II, nói: “Cần biết rằng cổ võ ơn gọi linh mục không trở nên dễ dàng hơn, và nhiều yếu tố văn hóa ngăn cản ơn gọi linh mục và các sứ vụ khác trong Giáo hội. Sự kiện năm nay có nhiều tân linh mục như vậy ở đây, thực là một phép lạ”.

2. Đức Hồng Y Sarah cảnh báo về mối nguy hiểm của “chủ nghĩa vô thần thực tiễn” ngay cả trong Giáo hội

Hơn 30 năm trước, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giúp gây ra sự sụp đổ của Liên Xô, vốn đã tìm cách áp đặt chủ nghĩa vô thần Cộng sản lên quê hương Ba Lan và phần còn lại của thế giới.

“Ở một mức độ nào đó, chúng ta đã thắng trong cuộc chiến đó,” Đức Hồng Y Robert Sarah đưa ra lập trường trên trong bài phát biểu tối Thứ Bẩy, 15 Tháng Sáu, tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ, gọi tắt là CUA, ở Washington, DC

Tuy nhiên, ở một cấp độ khác, cuộc chiến đó “tiếp tục ở cấp độ toàn cầu và quốc gia”. Nhưng thay vì một chủ nghĩa vô thần ý thức hệ cứng rắn, đối phương ngày nay là một “chủ nghĩa vô thần thực tiễn”. Mặc dù có thể không đi quá xa đến mức phủ nhận sự tồn tại của Chúa, nhưng người ta cho rằng Ngài không liên quan đến cuộc sống hiện đại.

Ngài nói, trong nhiều thập niên kể từ khi Bức màn sắt sụp đổ, “căn bệnh nguy hiểm” này đã hoành hành khắp Âu Châu, nơi mà đức tin Công Giáo trong nhiều thế kỷ đã định hình và xác định không chỉ lục địa này mà cả nền văn minh phương Tây, đã chết hoặc đang hấp hối. Điều đáng lo ngại hơn đối với Đức Hồng Y Sarah là nó đã có được chỗ đứng trong Giáo hội.

Là một tác giả nổi tiếng với việc bảo vệ mạnh mẽ tính chính thống của Công Giáo, Đức Hồng Y Sarah, người bước sang tuổi 79 vào ngày 15 tháng 6, đã phát biểu gần một giờ đồng hồ trong một giảng đường đông đúc tại Trường Kinh doanh Busch của CUA. Bài phát biểu của ngài, được đồng tài trợ bởi Viện Napa và Trung tâm Thông tin Công Giáo ở Washington, DC, đã đưa ra một đánh giá thẳng thắn về những gì ngài coi là sự suy giảm và gạt ra ngoài lề dần dần nhưng đều đặn đối với đức tin tôn giáo ở phương Tây.

“Đó không phải là sự chối bỏ Thiên Chúa một cách trắng trợn, nhưng nó đẩy Thiên Chúa sang một bên”, bằng một tư duy vô thần thực tiễn. Tuy nhiên, ngài nói thêm: “Cuộc khủng hoảng sâu sắc không phải nơi thế giới trần tục và những tệ nạn của nó, mà là sự thiếu đức tin trong Giáo hội”.

“Có bao nhiêu người Công Giáo tham dự Thánh lễ hàng tuần? Có bao nhiêu người tham gia vào Giáo hội địa phương? Có bao nhiêu người sống như thể Chúa Kitô hiện hữu, hoặc như thể Chúa Kitô được tìm thấy nơi người lân cận của mình, hoặc với niềm tin vững chắc rằng Giáo hội là Nhiệm thể của Chúa Kitô? Có bao nhiêu linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể như thể họ thực sự là Chúa Kitô thay thế, và hơn thế nữa, như thể họ là ipse Christus - chính Chúa Kitô? Có bao nhiêu người tin vào sự Hiện diện Thực sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể?

“Câu trả lời là quá ít. Chúng ta sống như thể chúng ta không cần sự cứu chuộc qua máu của Chúa Kitô. Đó là thực tế thực tế đối với quá nhiều người trong Giáo hội.”

Đức Hồng Y cũng phê phán các khía cạnh của Thượng Hội Đồng đang diễn ra, một quá trình lắng nghe và phân định kéo dài nhiều năm do Đức Thánh Cha Phanxicô khởi xướng, lên đến đỉnh điểm với cuộc họp lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng của các giám mục và các đại biểu khác từ khắp nơi trên thế giới vào tháng 10 tại Vatican. Cụ thể, ngài đã chỉ trích điều mà ngài coi là sự thúc đẩy của Thượng hội đồng nhằm coi các quan điểm không chính thống có tầm quan trọng quá lớn trong quá trình này.

“Trở thành người Công Giáo không chỉ là một bản sắc văn hóa; đó là một lời tuyên xưng đức tin. Nó có một nội dung đặc biệt về đức tin. Đi ra ngoài nội dung đó, cả về niềm tin lẫn thực hành, là đi ra ngoài đức tin”, Đức Hồng Y nói.

Ngài nói thêm: “Thật là một mối nguy hiểm nghiêm trọng khi coi mọi tiếng nói đều hợp pháp”. “Điều này sẽ dẫn đến sự hỗn tạp của các giọng nói gây ra tiếng ồn, ngày nay dường như ngày càng lớn hơn. Như Đức Hồng Y Ratzinger đã nói: ‘Một đức tin mà chúng ta có thể tự quyết định thì không phải là đức tin chút nào.’”

Đức Hồng Y nói: Không ai trong số những người ủng hộ sự thay đổi mô hình này trong Giáo hội “từ chối Thiên Chúa một cách thẳng thắn, nhưng họ coi Mặc Khải là thứ yếu, hoặc ít nhất là ngang hàng với kinh nghiệm và khoa học hiện đại”.

“Đây là cách chủ nghĩa vô thần thực tiễn hoạt động. Nó không phủ nhận Thiên Chúa nhưng hoạt động như thể Thiên Chúa không phải là trung tâm. Chúng ta thấy đường lối này không chỉ trong thần học luân lý mà còn trong phụng vụ. Những truyền thống thiêng liêng đã phục vụ tốt cho Giáo hội hàng trăm năm nay lại bị miêu tả là nguy hiểm. Quá tập trung vào chiều ngang đẩy lùi chiều dọc, như thể Thiên Chúa là một trải nghiệm hơn là một thực tại bản thể.

Người Công Giáo trung thành nên phản ứng thế nào trước những thách thức này? Đức Hồng Y Sarah lần đầu tiên kêu gọi các giám mục ở Hoa Kỳ lên tiếng một cách rõ ràng và can đảm để bảo vệ đức tin và tính trung tâm của Chúa Giêsu Kitô.

“Mỹ không giống Âu Châu. Đức tin vẫn còn trẻ và đang trưởng thành. Sức sống trẻ trung này là một món quà cho Giáo hội”, ngài nói.

“Các chủng viện của anh chị em phần lớn đã được cải tổ, các hoạt động tông đồ giáo dân đang thổi sức sống mới vào đức tin, trong các giáo xứ có những nhóm phò sinh, và tôi cảm nhận rằng sự lãnh đạo của các giám mục của anh chị em nói chung cam kết với Tin Mừng, đức tin vào Chúa Giêsu Kitô và bảo tồn đức tin. Truyền thống thiêng liêng của chúng ta,” Đức Hồng Y nhận xét.

“Chắc chắn là có sự chia rẽ và xung đột nội bộ, nhưng không có sự chối bỏ hoàn toàn đức tin Công Giáo như chúng ta thấy ở nhiều nơi ở Âu Châu và Nam Mỹ. Quan sát của tôi là có những mô hình đức tin ở Hoa Kỳ có lẽ có thể là một bài học cho các nước phương Tây khác.”

Đức Hồng Y Sarah lưu ý rằng Giáo hội ở Phi Châu, “cũng còn non trẻ,” đã cung cấp “chứng tá anh hùng cho đức tin” khi lên tiếng phản đối Fiducia Supplicans, tuyên bố của Vatican đưa ra vào tháng 12 rằng đã cho phép ban phép lành ngoài phụng vụ cho các cặp đồng giới. Đức Hồng Y Sarah gọi tài liệu này là “sai lầm”.

Giáo hội tại Hoa Kỳ cũng có thể là chứng nhân cho đức tin, Đức Hồng Y Sarah nói

“Mỹ lớn mạnh và hùng mạnh về chính trị, kinh tế và văn hóa. Điều này đi kèm với trách nhiệm lớn lao,” ngài nhấn mạnh.

“Hãy tưởng tượng điều gì có thể xảy ra nếu nước Mỹ trở thành quê hương của những cộng đồng Công Giáo sôi động hơn nữa. Niềm tin của Âu Châu đang hấp hối hoặc đã chết. Giáo hội cần thu hút ánh sáng từ những nơi như Phi Châu và Mỹ Châu, nơi mà đức tin vẫn chưa chết”, ngài nói.

Đức Hồng Y kết luận: “Nếu người Công Giáo ở đất nước này có thể là một dấu hiệu mâu thuẫn với nền văn hóa của anh chị em, thì Chúa Thánh Thần sẽ làm những điều vĩ đại qua anh chị em”.


Source:National Catholic Register

3. Đức Hồng Y Koch thảo luận về việc ‘cải cách’ tín điều của Vatican I về tính bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng

Trong một cuộc phỏng vấn về tài liệu nghiên cứu mới của Vatican về tính tối thượng của Đức Giáo Hoàng và tính đồng nghị, Đức Hồng Y Kurt Koch đã nói về việc “tiếp nhận lại”, hoặc thậm chí là “cải cách” các giáo huấn của Công đồng Vatican I (1869- 70) về tính ưu việt và tính bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng.

Vị đứng đầu Bộ Cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô giáo, nơi đã xuất bản tài liệu này, nói rằng “vì các định nghĩa tín lý của nó bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các hoàn cảnh lịch sử”, một số đối tác đại kết “đề nghị rằng Giáo Hội Công Giáo nên tìm kiếm những cách diễn đạt và từ vựng mới trung thành với ý định ban đầu” tích hợp chúng vào nền giáo hội học hiệp thông và điều chỉnh chúng cho phù hợp với bối cảnh văn hóa và đại kết hiện nay. Do đó, người ta đang nói đến việc ‘tiếp nhận lại’ hoặc thậm chí ‘cải cách’ những giáo huấn của Vatican I. “

Đức Hồng Y Koch nói rằng sự tồn tại của ngôi vị giáo hoàng ít gây trở ngại cho đại kết hơn so với năm 1967, khi Thánh Giáo hoàng Phaolô Đệ Lục nói rằng Đức Giáo Hoàng “chắc chắn là trở ngại lớn nhất trên con đường tiến tới đại kết”.

Đức Hồng Y Koch nói: “Trong thế giới toàn cầu hóa của chúng ta, chắc chắn có một ý thức ngày càng tăng về nhu cầu có một mục vụ hiệp nhất ở cấp độ hoàn vũ”. “Vấn đề đặt ra là phải thống nhất về cách thức thực thi thừa tác vụ này, được Đức Gioan Phaolô II định nghĩa là ‘sự phục vụ tình yêu’”.