Xem hình ảnh bài 1

Tìm lại Ephesus và ngôi nhà của Đức Mẹ

Váo năm 1863 viện Bảo Tàng Hoàng Gia Anh khởi đầu một công cuộc tìm kiếm đền thờ Nữ Thần Artemis và nhà khảo cổ John Turtle Wood đã khám phá ra dấu vết của một cái nền mà ông cho là nền của đền thờ vào năm 1869, nhưng sau đó vì không tìm ra dấu tích nào khác nữa cho nên cuộc khào cổ đã bị bỏ dở.

Dù sao từ khám phá đó, một linh mục người Pháp tên là Abbé Julien Gouyet đã đi qua vùng và bất ngờ thấy được một ngôi nhà đá ở trên một đồi vắng (ngày 18 tháng 10 1881) và tin rằng đó là ngôi nhà trong thị kiến của Chân Phước Emmerich, nhưng lúc đó thì không ai dám tin, và vị linh mục cũng không ghi lại bản đồ của nơi chốn để có thể kiểm chứng.

Nhưng cái tin đó đã lọt vào mắt của một vị nữ tu người Pháp tên là Sister Marie de Mandat-Grancey, DC, (dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vincent De Paul), cho nên10 năm sau đó, khi Sơ đáp lời của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII kêu gọi các nhà truyền giáo Pháp giúp đỡ người nghèo ở Trung Đông, Sơ đã tình nguyên đi phục vụ và trở thành giám đốc cho bệnh viện Hải Quân Pháp ở Smyrna. Nơi này thuộc địa giới Izmir là vùng bao trùm cổ tích Ephesus, cho nên Sơ đã thỉnh cầu 2 người bạn là những linh mục thừa sai dòng Lazarist đi truyền giáo trong vùng xem xét lại.

Sơ Marie de Mandat-Grancey từng là Công Nương của một giòng họ quí tộc danh giá de Grancey (Bourgone) bên Pháp mà trong gia phả có nhiều vị thánh và có tới 2 vị giáo hoàng, cho nên lời thỉnh cầu của Sơ thì có cân lượng lớn lắm.

Hai linh mục Lazarist là Cha Poulin và Cha Jung đã dựa theo những chỉ dẫn của Chân Phước Emmerich mà đi tìm, nhưng một vị đã không hề có ý định sẽ chứng minh ngôi nhà là có thật, mà chủ ý chỉ là chứng minh câu chuyện là bịa đặt!

Sau hai mùa hè nóng cháy đi loanh quanh khắp chốn hoang vu gọi là Ephesus (lúc bấy giờ chưa được khai quật), cả hai linh mục đã không tìm thấy gì cả. Nhưng vào một ngày (ngày 29 tháng 7 1891) khi họ cạn nước uống và phải nhờ một phụ nữ địa phương chỉ cho chỗ kín nước, thì người phụ nữ đó chỉ lên một đỉnh đồi, tới một chỗ mà bà ta gọi là “tu viện”.

Ở đó họ tìm thấy một mạch nước từ kẽ đá chảy ra (bây giờ là giếng Đức Mẹ), và ẩn hiện trong đám bụi cây rậm rạp, họ nhìn thấy phế tích của một nhà nguyện nhỏ bị xập mái (bây giờ là Nhà Đức Mẹ). Toàn thể địa hình địa vật nhìn từ chỗ này thì giống hệt như lời mô tả của Chân Phước Emmerich.

Những liên hệ với Ngôi Nhà của Đức Mẹ

Họ dò hỏi những người địa phương thì biết rằng cái mà người phụ nữ gọi là “tu viện” ấy, chính là Panaya Kapulu ("Cửa dẫn đường tới Đức Trinh Nữ, Doorway to the Virgin ") mà hằng năm một nhóm thổ dân ở vùng núi Sirine cách đó 17 km vẫn tổ chức hành hương vào ngày 15 tháng 8, những thổ dân này là hậu duệ của các Kitô hữu ở Ephesus ngày xưa.

Nhưng làm sao có thể chứng minh đây là ngôi nhà của Đức Mẹ? cuộc khảo sát tiếp theo đã làm cho mọi người thất vọng bởi vì kết quả thử nghiệm về vật liệu của ngôi nhà thì có niên đại thuộc về thế kỷ thứ 7, mà nhà của Đức Mẹ thì ít nhất phải có một niên đại sớm hơn, là thế kỷ thứ 1.

Những thử nghiệm kế tiếp chú trọng đến phần nền móng của nhà nguyện, lúc đó người ta khám phá ra rằng nhiều chỗ đã cũ hơn nhiều, thuộc về thế kỷ 1, đúng vào thời “Các Thánh Tông Đồ”.

Như vậy thì cái nguyện đường được khám phá ra đây có thể đã được các tín hữu của thế kỷ 7 xây lên để thay thế cho một ngôi nhà cũ bị đổ nát, (vì động đất chăng?)

Và thiết kế của nguyện đường thì bất thường, bên phải nhô ra một cái trái nhỏ, làm cho mặt bằng của ngôi nhà trông giống như hình chữ “L” viết ngược. Cái trái nhô ra đó là gì? Một giải thích cho đó là cái phòng ngủ của Đức Mẹ ngày xưa. Những tín hữu khi xây lại ngôi nhà đổ nát, họ biến “phòng khách” thành nguyện đường, và giữ lại và tôn kính cái “phòng ngủ” của Đức Mẹ ở bên cạnh.

Ngày nay những người hành hương sau khi thăm viếng nguyện đường xong rồi thì thường rón rén đi qua “phòng ngủ”, giống như là một người con hiếu thảo không muốn lay động giấc ngủ của Người Mẹ yêu thương của mình vậy.

Trở lại việc khai quật Ephesus bị bỏ dở của viện bảo tàng Anh Quốc, thì năm 1895 (4 năm sau việc tìm ra Nhà Đức Mẹ) nhà khảo cổ người Đức tên là Otto Benndorf đã bắt đầu một công trình đào bới lâu dài và dần dà khôi phục những cổ tích của Ephesus thành một khu du lịch như ngày nay.

Thành lập trung tâm Hành Hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus

Ngay trong năm 1891, Sơ Marie de Mandat-Grancey được trao trách nhiệm làm người thành lập trung tâm hành hương Mary's House, sơ đã dùng của hương hỏa và bề thế ngoại giao của mình mà tạo mãi, sửa chữa, thu mua toàn bộ ngọn núi cho trung tâm.

Sơ Marie mất năm 1915, ngày nay người ta vận động phong Thánh cho Sơ. Ông thị trưởng thành phố Selçuk là một người Hồi Giáo cũng ủng hộ nỗ lực phong thánh này với hy vọng sẽ làm tăng thêm tên tuổi của vùng trên môi trường quốc tế.

Mẫu mực ngoại giao của Sơ Marie là một cái gương sáng cho việc thúc đẩy sự hiểu biết và thông cảm giữa người Hồi Giáo và Công Giáo. Những cáo thỉnh viên cho án phong thánh của Sơ Marie de Mandat-Grancey nói:

“Sơ Marie đã dựng lại một con cầu kết nối giữa người Hồi giáo và Kitô giáo, dựa vào lòng yêu mến Đức Mẹ Maria và cầu xin sự can thiệp và che chở của Mẹ. Chúng ta phải biết cách yêu thương và sống hòa thuận với nhau. Đức Maria đang quy tụ đàn con trở về nhà Mẹ, mọi người đều là con của Mẹ Maria.”

Trung tâm hành hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus, theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là Meryemana Evi, là một trung tâm hành hương Công Giáo tọa lạc trên một đỉnh núi có tên rất đẹp là Bülbüldağı (núi Chim Sơn Ca "Mount Nightingale"), nằm ở phía Nam cổ thành Ephesus, cách thị xã Selçuk 7 cây số (4.3 mi).

Đi từ hải cảng Kuşadası thì mất khoảng nửa giờ xe (21 cây số). Có nhiều tours quảng cáo chở đến đây, cũng có thể dùng xe bus và đi taxi thì dễ dàng nhưng nên thương lượng với tài xế để đi về. Những khi có du thuyền cập bến Kuşadası thì cảnh chen lấn sẽ xảy ra nếu không tìm được một tour đi sớm mà đến.

Ngôi nhà bây giờ đã được sửa chữa lại, có mái che, có tường kín. Mọi tái tạo đều dựa vào mẫu kiến trúc của thế kỷ 7 khi các tín hữu xây lại ngôi nhà, và dùng vật liệu và phương pháp xây cất của thời đó.

Những ân xá khi thực hiện Hành Hương Nhà Đức Mẹ ở Ephesus

Giáo Hội Công Giáo chưa công bố tính xác thực của ngôi nhà là Nhà Đức Mẹ vì thiếu bằng chứng khoa học. Tuy nhiên, sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đến thăm vào năm 1896, thì Giáo hội đã có một thái độ tích cực hơn. Đức Giáo Hoàng Piô X đã ban ơn toàn xá cho việc hành hương vào năm 1914 và ban phước lành cho "những người dũng cảm đi tìm mộ Đức Trinh Nữ Maria".

Năm 1951, sau khi công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nâng ngôi nhà lên hàng Thánh Tích, một đặc ân sau đó được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chính thức phê chuẩn.

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1967), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1979) và Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI (2006) cũng đều có đến thăm ngôi nhà.

Đức đương kim Giáo Hoàng Lêô XIV có đến vào dịp Ngài đi thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng này hay không? (27-30 tháng 11 2025) chúng ta hãy chờ xem.

Do hành động của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII vào năm 1896 và của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII vào năm 1961, Giáo Hội Công Giáo đã thu hồi các ơn toàn xá ban cho Nhà thờ Dormition ở Jerusalem ( Nhà thờ Đức Mẹ Ngủ) và vĩnh viễn ban ơn toàn xá ấy cho những người hành hương đến Nhà Đức Mẹ ở Ephesus.

Người hành hương thường lấy nước từ những vòi nước ở trên con đường phía dưới khu nhà (mà nguồn mạch chảy qua nền của căn phòng Đức Mẹ), giống như việc lấy nước từ suối Lộ Đức vậy.

Một buổi lễ phụng vụ lớn có người Hồi Giáo tham gia vẫn được tổ chức tại đây hàng năm vào ngày 15 tháng 8 để kỷ niệm Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.