Phaolô và sự nghiệp cầm bút viết cho người thị thành ở La Mã

Phần 3

THƯ RÔMA

Ở thư Rôma đoạn 3 câu 24 đến 26, thánh Phao lô lại đã viết:

“Nay họ được giải án tuyên công, một cách nhưng không,
bởi ơn Người, nhờ việc cứu chuộc trong Đức Kitô Giêsu.
Đấng Thiên Chúa đã bày ra trước mặt thiên hạ như bàn xá tội.
Nhờ bởi lòng tin trong máu Ngài,
làm cách chứng tỏ sự Công Chính của Người.
vì đã bất chấp các tội lỗi họ phạm trước kia,
trong khi Thiên Chúa cầm mình nhẫn nại,
hầu chứng tỏ sự công chính của Người vào thời bây giờ
rằng Người thực công chính, và giải án tuyên công
kẻ nại đến lòng tin vào Đức Giêsu.”

“Trở nên công chính”, là: mọi người được tham gia vào sự công bằng thủy chung của Thiên Chúa một cách tự do, nhờ vào quà tặng Ngài ban cho cách “nhưng-không” thật khó giải thích theo thói thường.

“Nhờ ơn cứu chuộc” (Apolutrosis), tiếng Hy Lạp có nghĩa: thực hiện việc tặng ban huệ lộc, ơn cứu chuộc và sứ mạng giải thoát nô lệ, để mọi người được tự do. Nhưng tất cả, là để dẫn vào ý niệm quản cai vĩ đại, ngõ hầu tẩy gột mọi sự trong hiến tế. Ý niệm “Đền bù mọi lỗi tội” (Hilasterion, Kapporeth), là nói về lớp vàng dát nơi “bàn xá tội” có “khám giao ước” ở đền thờ, trên đó có hình cánh thiên thần, cốt để nói về sự hiện diện của Đấng Thánh, tức Shekinah. Thánh Phaolô lại viết thêm: “Thiên Chúa đã bày Đức Giêsu Kitô ra trước mặt thiên hạ” và coi Ngài là Đấng hiến tế chứ không là hiện thân của động thái “đền bù mọi lỗi tội”. Ngôn ngữ Hy Lạp và Do thái, việc tế hiến thú vật không hẳn là “đền bù mọi lỗi tội” (hilasterion) mà là cách diễn tả việc “trở nên một”. Một hiện diện, không tách rời. Chẳng đánh bật được gốc rễ, để trừ khử.

“Máu”, đây có nghĩa là: sự sống, trong đó máu trở thành thứ “bột tẩy” gột sạch mọi vết nhơ, đặc biệt lôi cuốn việc bù thay cho mọi lỗi phạm của con người. Máu ấy, vị thượng tế hằng rắc vãi khắp chốn, vào buổi tẩy sạch lỗi lầm được tổ chức mỗi năm gọi là “Yom Kippur” hầu trừ khử mọi uế-tạp, bẩn nhơ.

“Công chính” (dikaiosume), có nghĩa: tham gia vào sự công bằng phải lẽ của Thiên Chúa.

“Giải án tuyên công” (aphesis), nghĩa tự vựng, là: xoá sạch hoặc gỡ bỏ mọi lỗi tội, coi đó như hậu quả của nhiều hành xử. Bởi lẽ, lỗi và tội chống lại sự công bằng thủy chung của Thiên Chúa, vẫn thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc.

Ngôn ngữ đây, đưa ra ví dụ cụ thể như chất lỏng chảy xuyên suốt, rất nhào quyện. Thánh Phaolô không viết thêm chú thích nào mang tính chuyên nghiệp ở dưới thư. Thay vào đó, ông vẫn cứ khâu/may các mẩu da thú làm bạt lều và đọc cho thư ký ghi chép những điều ông nghĩ theo kiểu “nhát gừng”, “từng chữ” vẫn rất nhanh. Thành thử, người đọc có thể sẽ phạm phải sai lầm không nhỏ, nếu cứ phân tách hoặc biện giải lời của thánh-nhân theo tinh-thần nhà phê-bình văn-học nghệ-thuật rất chi ly, khúc chiết. Những điều được thánh Phaolô đọc cho thư ký ghi, là giòng tư tưởng gây ấn tượng, chứ tuyệt nhiên không là hệ thống triết lý tự tại, có từ trước.

Tựa như những gì thánh Phaolô sử dụng trong mạch-nguồn tư tưởng, chỉ một thành ngữ “Ngài chết cho ta”, là điều thánh-nhân muốn nói: Ngài lướt vượt cung cách chết cho đạo, như cho đi chính mình Ngài theo cung cách phụng thờ (kapporeth), tựa hồ mô-hình kinh-tế để trả cái giá của tự do. Và, dựa vào kiểu cách của các xã hội sống có pháp luật, nhờ vào đó Ngài cho phép ta gia nhập vào sự Công-chính của Thiên Chúa. Đây, là động thái nhằm đúc kết các ý niệm vào với nhau, để nên một.


Thời Hậu-Phaolô

Trong các thư được thánh Phaolô đọc cho thư ký ghi chép về lề luật hoặc mục vụ, các ý tưởng trên đã giảm xuống thành một ý nghĩa duy nhất, là: tất cả đã khiến ta gọi đó là “cứu chuộc”, nhận từ Chúa.

“Trong Ngài, ta được cứu chuộc nhờ máu của Ngài.” (Ep 1: 7)

“Đức Kitô Giêsu, Đấng tự hiến mình làm giá cứu chuộc mọi người.” (1Tim 1:6)

“Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến mình để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện.”( Titô 2: 14)

“Anh em hãy biết cho rằng, không phải nhờ vào những của chóng hư nát như vàng bạc mà anh em được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Chiên Con vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô.” (1Ph 1: 18-19)

Những điều trên, đã tạo sắc thái đặc trưng lên trên mẫu mã tốt nhất là chỉ trải rộng theo chiều ngang nếu, ở vào thời tiên khởi đầy truyền thống, nó không bị khước từ như thể trả thay cho giá của kinh tế. Đây, còn là bước đầu trong nhiều cố gắng vượt quá thời kỳ của Kinh sách để đi vào với học thuyết “cứu chuộc”, “toại nguyện”, “ảnh hưởng luân lý” và các sự thể như thế.

Loren Rosson có lần cũng nhận xét: “Tân Ước chỉ đưa ra đoạn viết khả dĩ gợi lên việc thay cho hình phạt, là thư thứ nhất do thánh Phêrô viết ở đoạn 2 câu 24b; mà, đoạn này lại được rút từ sách tiên tri Ysaya 53 trong đó có chi tiết nói rất rõ: “nhờ thương tích của Ngài mà ta được chữa lành.”

Thêm vào đó, có thể người Do thái vẫn duy trì lập trường của nhiều vị vào thời trước đây. Ina Willi-Plein, trong “Some Remarks on Hebrews from the Viewpoint of Old Testament Exegesis”, và trong G. Gelardini, ở sách có tựa đề: “Hebrews: Contemporary Methods – New Insights, Leiden, Brill, 2005” lại coi sự kiện Đức Giêsu, qua cung cách của vị Thượng tế Ngài đã thực hiện việc gỡ bỏ mọi điều phiền nhiễu do lỗi và tội gây ra hơn là trải nghiệm bằng những hành xử có tính “chuộc thế mọi lỗi tội”. Đoạn 6 câu 6 của thư cũng diễn ý rằng: “Người sa ngã lỡ lầm trong cộng đoàn, vẫn được bảo là: làm như thế cũng giống như “người đóng đinh Con Chúa vào thập giá, thêm lần nữa”. Đây là ví dụ cụ thể mang tính mỉa mai/châm biếm thấy rất rõ. Điều đó, còn cho thấy: do lầm lỗi, họ đã biến ơn cứu chuộc thành việc khó có thể hiện thực. Ở đây nữa, tác giả lại muốn nói về sự thể như nó vẫn thế --mà giả như nó có thể như thế, nhưng sự thật thì không—đã cho thấy đây là lần đầu (và chỉ một lần mà thôi) qua đó Đức Giêsu đã thí mạng sống của Ngài cho con người theo cách thức không mấy tương xứng…


Phẩm bình các bài viết về thư Rôma
và thánh Phaolô.
(Xem J. McRay, Paul in Recent Research)

Một số nhà cải cách lại đã diễn giải vấn đề nóng bỏng liên quan đến cuộc đời của thánh Phaolô dựa theo điều mà các vị phấn đấu chống hệ thống pháp lý. Các vị dựa theo khuôn mẫu của những người mộ đạo có từ cuối thời Trung Cổ, để coi đó như “mẫu mực” luật lệ đề ra cho người bình thường ở đời. Các vị những muốn đi vào lề lối ấy nhân danh kinh nghiệm riêng tư sâu sắc của mình về niềm tin. Thế nên, các vị đọc thư thánh Phaolô như phấn đấu cho ân huệ để chống báng lề luật.

Làm như thế, các vị lại tạo ra bức hiếm hoạ về Do-thái-giáo như Đạo của hệ thống pháp lý. Điều này, vẫn thấy nơi các bản văn kinh điển của các tác giả từ Ferdinand Weber, Emil Schurer, cho đến Wilhelm Bousset và cả Rudolf Bultmann nữa. Hiểu thế, là hiểu theo cung cách rất “Luther” và “Đức quốc”. Bằng vào chỉ-trích hệ thống pháp lý như thế, nhiều vị đã ngấm ngầm biện luận chống chủ thuyết Công giáo La Mã (về hệ thống pháp lý) và nghe theo nhóm Thệ Phản (về ân huệ).

Các thách đố khác lại đến từ H. Montefiore (người Do thái), hoặc G.F. Moore (người nước Anh). Thế nhưng, bản chất đích thực lại là lập trường của Ed Sanders trong “Paul and Palestinian Judaism”. Tác giả này đã chế ra thành ngữ “định hình giao ước” để nói về đặc tính dễ dạy của con người trong mọi việc, nhưng không coi đó như phương thế thực tiễn dẫn ta đi vào Giao ước của Chúa. Đúng ra, đây là ràng buộc do “tính cách quí tộc cột chặt” một khi ta vào với tính chất ấy, cách tự do. Tự do vào trong đó, không thể là chuyện mình có thể tạo được cho mình. Thế nên, giao ước là thành ngữ quan trọng hơn luật lệ: bởi, giao ước hoàn toàn mang tính tự do và là quà tặng ban đầu. Và, qui định (tức lề luật) đơn giản chỉ là kết quả đối với ta và cho ta, mà thôi. Bằng việc tuân thủ mọi qui định, ta công khai chứng tỏ rằng lâu nay ta vẫn được tặng ban giao ước ấy.

Krister Standhal vốn dĩ khi xưa là giáo sư đại học Harvard và về sau đã trở thành Giám mục thuộc hệ phái Luther ở Thụy Điển, từng xác chứng rằng: thánh Phaolô đã không trải nghiệm về cái nhìn nội tại khá gay gắt vốn dĩ trở thành đặc tính của người phương Tây thời sau thánh Âu Tinh. Thánh-nhân chưa bao giờ có được đặc tính sâu sắc về tâm lý có một không hai của lối chú giải Tin Mừng theo kiểu thánh Âu Tinh hoặc kiểu hệ phái Luther. Nhưng, thánh Phaolô lại có lương tâm rất trong sáng. Chẳng bao giờ ông lại vãn than về những lỗi và tội, hết. Thánh-nhân không chê trách “cái tôi” của bất cứ ai, mà chỉ phiền trách lỗi tội vẫn là rào cản của nhiều thứ. Thánh-nhân không phản chống mọi cố gắng ở cho công bằng/phải lẽ ngõ hầu được hưởng ân lộc của Chúa.

Và, khi tác giả Stendahl bày tỏ điều đó, ông lại đã kéo theo một vấn nạn: vậy thì, thánh Phaolô chống đối những gì?

Trong khi đó, Ed Sanders lại nghĩ rằng: thánh Phaolô có kinh nghiệm từng trải để giải quyết cả trước khi vấn đề được đặt ra nữa. Giải pháp quyết định, là cách thế duy nhất của Đức Kitô trong lịch sử và là quà tặng cứu rỗi vũ trụ nơi Đức Kitô. Nếu điều này đúng, thì ơn cứu chuộc hẳn sẽ không ngang qua luật lệ của người Do thái hoặc bất cứ lề luật nào khác. Tác giả Ed Sanders còn minh xác: luận cứ đích thực nơi thánh Phaolô là thế này: thánh nhân bác bỏ nhu cầu cần trở thành người Do thái mới được đi vào giao ước với Chúa. Thật ra thì, mọi người đều có nhu cầu ở với và ở trong Đức Kitô, đó là điều rất phải lẽ.

James Dunn lại chế ra ý tưởng về cái-gọi-là “viễn tượng mới của thánh Phaolô” (1982). Đó không là lề luật khiến thánh Phaolô từng chỉ trích người khác, nhưng vì nhiều vị sử dụng lề luật cách sai trái để rồi biến nó thành thứ rào cản có từ xã hội bên ngoài. Những sai trái được thánh Phaolô định danh như “động tác của luật lệ”. Đằng khác, gọi là sử dụng luật lệ một cách sai trái, là bởi nhiều người lại coi đó như phù-hiệu đặc trưng để chứng tỏ mình là hội viên trong giao ước được Chúa tặng ban theo cách thế tự do. Cũng tựa như việc buộc người hồi hướng trở về Đạo Chúa phải chấp chịu cắt bì hoặc giữ luật kiêng đồ cúng.

Tom Right, trong sách do ông viết có tựa đề là “Những Điều Được Thánh Phaolô Thực Sự Nói Ra”, đã nhấn mạnh đến cốt tủy của sứ điệp thần-học do thánh Phaolô chủ trương, không là sự “công chính” do niềm tin mình đã có, mà do cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu đem đến mà thôi. “Công chính”, không là tư tưởng cốt cán của thánh Phaolô, nhưng là khẳng định rõ nét về những chuyện như thế. Lập trường của Saolô ở giai đoạn trước khi ông trở thành Phaolô-tín-hữu-Đạo-Chúa không mang tính cách của nhà luân-lý mộ-đạo luôn phản chống cung cách của Pelagius vào với giao ước hoặc đạt chốn Thiên đàng bằng công lênh của mình. Ngay từ đầu, thánh Phaolô không thiết tha gì chuyện “đạt chốn Thiên đàng, sau khi chết”. Thánh nhân là kiều bào gốc Do thái sùng đạo luôn ưu tư/quan ngại về việc gột rửa Israel khỏi tầm tay của người ngoại nay về với Đạo, tức những người từng có thái độ thiếu nghiêm túc đối với luật Torah Do thái. Khi hồi hướng về với Đạo Chúa và trở thành tín hữu rất chuyên chăm, thánh Phaolô quyết duy trì lập trường mang dáng-dấp Do thái, nhưng vẫn đầy ắp tư tưởng có nội dung rất mới. Thánh Phaolô khám phá ra niềm tin nơi Giao ước với Chúa lâu nay được biểu hiện bằng quà tặng nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu. Và, điều đó đã xảy ra cho cộng đoàn hội thánh sống khác biệt vốn dĩ là kết quả của chuyển đổi, cải tân.

Nay, bằng việc nhấn mạnh tương quan thần học về Đế quốc La Mã mà tác giả Crossan và Reed cùng những người cộng tác với hai ông mang đến, khiến ta có thể đặt lớp vỏ chính trị bọc lên xương cốt, lẫn thịt da.


Sự Công chính

Tuyên ngôn Augsburg ban hành ngày 31/10/1999 được ký kết giữa Đức Gioan Phaolô II đại diện cho Hội thánh Công giáo và phía bên kia là Hiệp hội hệ phái Luther thế giới, có viết:

“Cùng nhau, chúng tôi tuyên xưng: chỉ mỗi ơn thánh, trong niềm tin vào ơn cứu chuộc của Đức Kitô chứ không do công nghiệp của con người, mà ta được Chúa chấp nhận cho hưởng ơn lành từ Thần Khí đã canh cải tâm can bằng việc trang bị cho ta và kêu mời ta vào với công trình lành thánh này.

Ơn lành rất thánh, là bạn đồng hành của người công chính có Chúa ở với niềm tin, ở sự thương yêu, hy vọng ngõ hầu lãnh nhận công trình tạo dựng và ơn cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, bổn phận của người công chính là không được phí phạm ơn lành thánh này, mà phải sống đích thực ơn lành ấy. Ta được khích lệ làm việc lành phúc đức, là để sống thực hiện niềm tin ta có được.”

Trên nguyên tắc, việc này chấm dứt mọi tranh luận về ơn thánh. Và, thánh Phaolô vẫn ở giữa mọi cải cách và hội thánh La Mã kể từ khi có sự canh cải.

Diễn giải của giới Công giáo và Anh giáo về cải tân

Thế nào là sự công chính vốn là nền tảng cho công cuộc đại kết?

Tư thế của Hội thánh Công giáo là muốn xoay quanh toàn bộ tranh luận về sự “công chính” dựa vào sự công bằng/phải lẽ trong Chúa, trước nhất không thấy ở “thế giới” thụ tạo. Khi nói “công chính của Chúa”, tôi muốn nói đến đường lối qua đó Thiên Chúa hướng về với người được Ngài hướng tới, qua vinh danh tính nội tại của Chúa. Đây là ý nghĩa của sự việc mà người Hy Lạp gọi đó là “dikaiosume tou theou”. Đây là điểm nhấn qui về tính nội tại ở trật tự khác với bất kỳ thụ tạo nào. Tôi đồng ý có cái gì đó nói về đặc tính “công chính” của Thiên Chúa (mà người Hy Lạp gọi là dik.tou theou) đã không đi vào thế giới thụ tạo một cách có chừng mực, nhưng đó chỉ là sự tham gia tiếp theo sau, chứ không trực tiếp qui về “công minh/chính trực” ngay từ đầu. Không từ đầu, nhưng phát sinh từ trật tự có trong hiện tại hoặc từ vũ trụ thụ tạo của ta, hoặc vào không gian và thời gian, chuỗi lý luận của nó hoặc sự hiện hữu của vũ trụ trong thời hiện tại hoặc vị lai. Lối suy tư của Công giáo tùy vào thần học tiên khởi về Đấng Tạo Dựng và triết lý tham gia vào những gì mang tính chừng mực có được từ Đấng Tạo Dựng rất không chừng. Tham gia vào tạo dựng là quà tặng thuần túy, và bản chất được tặng ban như thụ tạo tốt lành hàm ẩn trong quan hệ giữa các thụ tạo và Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng, vẫn thế mãi. Công cuộc tạo dựng đã là và mãi mãi vẫn “công chính” ở trong và ngang qua sự hiện hữu sống động của Đấng Tạo Dựng rất Công minh.

Theo kinh điển, Thần học Cải cách và theo nghĩa rộng, thì thần học Anh Giáo không tiếp cận vấn đề từ góc cạnh này. Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng, Ngài không hề là nguồn mạch sống động của tham gia nhưng, như một chút nào đó, Ngài là Đấng Trọn Hảo hơi xa vắng, theo tính siêu việt thì Ngài ở trên mọi thụ tạo. Khi thần học nhìn vào thế giới, vào nhân loại như đang có đó, thì thần học này coi thế giới như mớ bòng bong, hỗn độn. Thiên Chúa là Đấng vượt xa mọi hỗn độn, từng bộc lộ Ngài sẽ gột sạch hỗn độn ấy, vào lúc nào đó. Điểm nhấn ở đây là khía cạnh chữa lành của việc Thiên Chúa hiện hữu với thụ tạo, chứ không phải khía cạnh tạo dựng của thế giới. Thế nên, thần học này “thực tiễn” khi nhìn vào hiện tại, như việc chữa lành/gột sạch xảy đến. Và từ đó, nó đặt động thái của Thiên Chúa trong tương lai, thời Cánh Chung.

Điểm nhấn về sự công chính là phải có trong thế giới của ta, sau sa ngã. Bởi, sự công bằng/phải lẽ không thấy có (ít là theo nghĩa trọn vẹn) trong thế giới hiện tại của ta, nên nó chỉ xảy đến trong tương lai, mai ngày (tiếng Hy Lạp gọi là eschaton). Nhưng hiện đã có những bước đi trước của sự việc này –tức: thời khắc ta cảm thấy sự hiện diện tích cực của Thiên Chúa Đấng chữa lành mọi sự. Niềm tin là sự tin tưởng vào sự “công bằng/phải lẽ” này trong hiện tại không tròn đầy của hôm nay, trong hiện hữu trọn vẹn vào vị lai, trong cả việc xảy ra như bước đi trước, của hiện tại. Điều này khiến các nhà thần học nói trên có được lập trường về “công chính và lỗi phạm” cùng lúc. Do bởi tư thế này, nay có điểm nhấn về ơn cứu chuộc không theo chiều kích của sự công chính lẽ đáng phải thế, nhưng như kết cuộc kiểu cánh chung, thời vị lai. Thành thử, giờ đây, ta ở vào tình huống có cả hai, tức: chưa-được-cứu-chuộc và đã-được-cứu-chuộc-trong-lai-thời, thứ cứu chuộc ta hằng tin tưởng và hy vọng, kể từ đây.

Một số vị, đặc biệt là các vị bên Anh giáo, lại cũng nói: tạo dựng nguyên thủy đã có và xứng đáng có được sự “công chính” của nó. Đó là lý do cho thấy tại sao các vị lại đã coi việc Đức Giêsu sống lại như bước tiến vĩ đại trong tái hồi tạo dựng từ nguyên thủy. Sở dĩ sự thể ra như thế, là vì các vị nhìn vào sự công bằng/phải lẽ nơi tạo dựng nguyên thủy, ngay bên trong chứ không chỉ như động thái tham gia vào Đấng Tạo Dựng ở nội tại, nên các ngài lại nghĩ: công bằng/phải lẽ như thế, hẳn phải mang tính chất rất thể lý. Và từ đó, các vị đã nhấn mạnh lên tính chất xác thể của Đức Giêsu Phục sinh. Đây là điểm khởi đầu cho một khẳng định về sự trỗi dậy của thế giới nhân trần, rất vũ trụ.

Xem như thế, có tầm mức ở bên dưới nói về thể loại nào đó có công bằng/phải lẽ rất chức năng mang cung cách Anh quốc trong đó một số vị bên Anh-giáo lại cũng đề cập đến công bằng và phải lẽ.

Riêng tôi, tôi thường nghĩ: đúng hơn, ta được Chúa ban cho khả năng tiếp cận những gì khác lạ hơn thể chế trật tự ở thời hiện tại và tương lai của thế giới này. Từ cái nhìn có tính cách khoa học, tôi nghiêng về lập trường coi toàn bộ trật tự hiện tại và tương lai ở tạo dựng như tiến dần vào “sự thể khác” và thấy nó đầy đặn ở nội tâm.

Nhiều lúc, ta cũng cảm nghiệm được sự thăng hoa của hiện tại và tương lai (tức: mở ra với lập trường lưỡng nguyên rất hữu lý) và có thế, ta mới được nâng nhấc dẫn vào thế “chạc ba/vòng kiềng”. Thánh Phaolô cũng có thời khắc tựa như thế, chí ít là khi thánh-nhân thăng hoa lập trường đối lập lưỡng-nguyên, như: Do thái/dân ngoại, tự do/nô lệ, nam nhân/tự do, vv.. trong điều mà người Hy Lạp gọi là koimonia cũng rất thực. Theo tôi, kinh nghiệm không hẳn là đã mang tính cách “tin tưởng”, dù ta gọi đó là như thế. Bởi, niềm tin là xác nhận trong tin tưởng rằng sự thể đầy tính cách ngoại lệ có thể không thấy nơi và qua Đức Giêsu Kitô, Đấng đi vào phần nội tại của điều mà ta gọi là “Phục Sinh” quang vinh.

Chọn lựa nền thần học nào đó ắt sẽ có ảnh hưởng lên cung cách của người đọc thư do thánh Phaolô ghi, đặc biệt là thư Rôma. Trình bày của tôi, ở đây, chỉ mang tính động lực thúc đẩy dẫn ta vào với Tình Thương Yêu để rồi nhận ra rằng: cuối cùng thì, ta cũng nhận ra được thuốc giải từ thánh Phaolô đế chống lại tình hình của Đế quốc trong đó thánh-nhân đã sinh sống. Đó cũng là lý do khiến tôi đề nghị: ta nên tìm về với Lyonnet cũng như tác giả Crossan, khi đọc thư Rôma, để nắm rõ bối cảnh và tình tiết này.


Thư tịch đọc thêm:

-Helmut Koester, Paul’s proclamation of God’s Justice for the nations, chương 1 trong Paul and his World, Interpreting the New Testament in its context, Fortress Press, Minneapolis, 2007, t. 3-14

-John Dominic Crossan and Jonathan L. Reed, In Search of Paul, how Jesus’s Apostle opposed Rome’s Empire with God’s Kingdom, 2004

-Aloysius Pieris, Jon Sobrino and the Theology of Liberation, East Asian Pastoral Quaterly, 2007.

(còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch

Chú giải của giới Công giáo và Anh giáo về cải tân

Thế nào là sự công bằng/phải lẽ vốn là nền tảng cho công cuộc đại kết?

Thế đứng của Hội thánh Công giáo là muốn xoay quanh toàn bộ cuộc tranh luận về sự “công chính” dựa vào sự công bằng/phải lẽ ở nơi Chúa, trước nhất không hiện diện ở “thế giới” thọ tạo. Khi nói sự “công bằng/phải lẽ ở nơi Chúa”, tôi muốn nói đến đường lối qua đó Thiên Chúa hướng về những người được Ngài đoái nhìn, bằng vào việc vinh danh tính nội tại của Ngài. Đây là ý nghĩa sự việc mà người Hy Lạp thường gọi đó là “dikaiosume tou theou”, tức điểm nhấn qui về tính nội tại ở một trật tự khác bất kỳ thọ tạo nào. Tôi đồng ý có cái gì đó nói về đặc tính công bằng/phải lẽ của Thiên Chúa (mà người Hy Lạp gọi là dik.tou theou) đã không đi vào thế giới thọ tạo một cách chừng mực, nhưng đó chỉ là sự tham gia nối tiếp theo sau, chứ không trực tiếp qui về sự “công bằng/phải lẽ” ngay từ đầu. Không phải là nó có mặt ngay từ lúc đầu, mà là phát sinh từ trật tự hiện đang có hoặc từ vũ trụ thọ tạo của chúng ta; hoặc thể hiện ở không gian và thời gian, hoặc ở chuỗi lý luận có sự hiện hữu của vũ trụ trong hiện tại hoặc tương lai mai ngày. Lề lối suy tư của giới Công giáo tùy thuộc nền thần học tiên khởi về Đấng Tạo Dựng và vào triết lý về việc tham gia vào những gì mang tính chừng mực có từ Đấng Tạo Dựng Không Hạn Chế. Tham gia công cuộc tạo dựng là quà tặng thuần túy và bản chất tặng trao như thọ tạo tốt lành vốn hàm ẩn trong quan hệ giữa thọ tạo và Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng, mãi mãi vẫn là thế. Công cuộc tạo dựng đã là và mãi là “công bằng/phải lẽ” ở bên trong và ngang qua hiện hữu sống động của Đấng Tạo Dựng rất Công Chính.

Theo kinh điển, thì nền thần học Cải cách và, theo nghĩa rộng rãi hơn, thần học của Anh Giáo không tiếp cận vấn đề từ góc cạnh này. Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng, Ngài không hề là nguồn mạch sống tham gia một chút nào đó nhưng Ngài là Đấng Trọn Hảo hơi xa cách, theo tính siêu việt, thì Ngài ở bên trên mọi thọ tạo. Khi nền thần học nhìn vào thế giới và nhân loại như đang hiện hữu, thì thần học này coi thế giới như mớ bòng bong, hỗn độn. Thiên Chúa là Đấng lướt thắng mọi hỗn độn, ngài từng bộc lộ rằng Ngài sẽ gột rửa hỗn độn ấy, vào lúc nào đó cũng rất chóng. Điểm nhấn ở sự việc này, là tính chữa lành của Thiên Chúa vẫn có mặt với thọ tạo, chứ không phải khía cạnh tạo dựng thế giới. Thế nên, thần học này cũng “thực tiễn” khi nhìn vào hiện tại, như việc chữa lành/gột rửa đang xảy đến. Và từ đó, nó đặt động thái của Thiên Chúa vào tương lai, thời Cánh Chung.

Điểm nhấn về sự công chính phải có trong thế giới của ta, sau sa ngã. Bởi, sự công chính ấy không thể như thế (ít nhất theo nghĩa trọn vẹn) ở thế giới hiện tại của ta, nên nó sẽ xảy đến trong tương lai, mai ngày (tiếng Hy Lạp gọi là eschaton). Nhưng, hiện có những bước đi trước của sự việc sẽ xảy ra như thế –tức: thời khắc trong đó ta thấy được sự có mặt rất tích cực của Thiên Chúa, Đấng chữa lành mọi sự. Niềm tin, là tin tưởng vào sự “công chính” ở vào thời hiện tại không đầy đặn của hôm nay, nơi hiện hữu trọn vẹn ở lai thời, và cả ở sự việc xảy ra như bước đi trước, của hiện tại. Điều này khiến cho các nhà thần học nói trên có được lập trường về “công chính và lỗi phạm” cùng một lúc. Do tự tư thế này, nay đã có điểm nhấn về ơn cứu chuộc không theo chiều kích của sự công chính lẽ đáng ra phải như thế, nhưng như một kết cuộc theo kiểu cánh chung, thời vị lai. Thành thử, bây giờ đây, ta đang ở vào tình huống có được cả hai thứ, tức: chưa-được-cứu-chuộc và đã-được-cứu-chuộc-trong-lai-thời, tức ơn cứu chuộc ta hằng tin tưởng và hy vọng, kể từ đây.

Một số vị, đặc biệt là các vị bên Anh giáo, lại cũng nói: tạo dựng nguyên thủy đã có và xứng đáng để có được tính “công chính” của nó. Đó là lý do cho thấy: tại sao các vị ấy đã coi việc Đức Giêsu sống lại như một bước tiến rất lớn trong việc tái hồi tạo dựng từ nguyên thủy. Sở dĩ như thế, là do các vị này nhìn vào sự công chính nơi tạo dựng nguyên thủy ngay tận bên trong, chứ không chỉ như động thái tham gia tùy thuộc Đấng Tạo Dựng ở phần nội tại, nên các ngài lại nghĩ: sự công chính như thế hẳn sẽ mang tính chất rất thể lý. Và từ đó, các vị lại nhấn mạnh lên tính chất xác thể của Đức-Giêsu-Phục-sinh. Đây cũng là điểm khởi đầu cho một khẳng định về sự trỗi dậy của thế giới nhân trần, rất vũ trụ.

Xem như thế, có tầm mức ở bên dưới, lại đã nói về thể loại nào đó có sự công chính rất chức năng mang phong cách rất Anh quốc trong đó một số vị bên Anh-giáo lại cũng đề cập đến sự công chính này.

Riêng tôi, tôi lại nghĩ: đúng hơn, ta được Chúa ban cho khả năng tiếp cận những gì khác lạ nhưng vẫn là thể-chế trọn vẹn có trật tự thời hiện tại và tương lai của vũ trụ này. Từ cái nhìn có tính khoa học, tôi nghiêng về lập trường coi toàn bộ trật tự hiện tại và tương lai ở tạo dựng như việc tiến dần vào “sự thể khác” và thấy nó đầy đặn ở nội tâm.

Nhiều lúc, ta cảm nghiệm được sự thăng hoa của hiện tại và tương lai (tức: mở ra với lập trường lưỡng nguyên rất hữu lý) và có như thế, ta mới được nâng nhấc dẫn vào thế “chạc ba/vòng kiềng”. Thánh Phaolô cũng có nhiều thời khắc tựa như thế, chí ít là khi thánh-nhân thăng hoa lập trường đối lập về lưỡng-nguyên, như: Do thái/dân ngoại, tự do/nô lệ, nam nhân/tự do, vv.. trong điều mà người Hy Lạp gọi là “koimonia” cũng rất thực. Theo tôi, kinh nghiệm không hẳn là đã mang tính cách “tin tưởng”, dù ta có gọi đó là như thế. Bởi, tin là xác nhận trong tin tưởng rằng: sự thể đầy tính cách ngoại lệ có thể không thấy nơi và qua Đức Giêsu Kitô, Đấng đi vào phần nội tại của điều mà ta gọi là “Phục Sinh” quang vinh.

Chọn lựa nền thần học nào đó, ắt sẽ ảnh hưởng lên cung cách của người đọc thư do thánh Phaolô ghi, đặc biệt là thư Rôma. Trình bày của tôi, ở đây, chỉ mang tính động lực dẫn ta đi vào với Tình Thương Yêu để rồi sẽ nhận ra rằng: cuối cùng thì, ta cũng nhận ra được thuốc giải từ thánh Phaolô đế chống lại tình hình của Đế quốc, trong đó thánh-nhân sinh sống. Đó cũng là lý do khiến tôi đề nghị: ta nên tìm về với Lyonnet cùng tác giả Crossan, khi đọc thư Rôma, để nắm rõ bối cảnh và tình tiết này.


Thư tịch đọc thêm:

-Helmut Koester, Paul’s proclamation of God’s Justice for the nations, chương 1 trong Paul and his World, Interpreting the New Testament in its context, Fortress Press, Minneapolis, 2007, t. 3-14

-John Dominic Crossan and Jonathan L. Reed, In Search of Paul, how Jesus’s Apostle opposed Rome’s Empire with God’s Kingdom, 2004

-Aloysius Pieris, Jon Sobrino and the Theology of Liberation, East Asian Pastoral Quaterly, 2007.

(còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch

PHAOLÔ và các thư
Philêmôn, Côlôssê và Êphêsô

Chương 9

Tóm lược

Thư Philêmôn

Đây là thư ngắn gọn, không mấy tình tiết nhưng vẫn có thể do thánh Phaolô viết vào cùng lúc với thư Philípphê, từ Êphêsô. Ôsênimô là tay nô lệ thuộc quyền sở hữu của Philêmôn. Thánh Phaolô đề nghị Philêmôn trả tự do cho anh và yêu cầu cộng đoàn nhận anh làm thành viên chính thức. Yêu cầu này, không do nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của dân con Đạo Chúa thường làm thế. Bởi, trước thời Chúa Quang Lâm đến lại cũng không lâu, các tín hữu theo chân Chúa vẫn sống năng nổ và không đòi mọi người phải đổi thay tương quan mình đang có với xã hội ở bên ngoài. Thế nên, thánh Phaolô đã nhân danh tự do không hạn định Chúa ban cho những người đi theo Ngài, mới yêu cầu Philêmôn trả tự do cho nô lệ của Philêmôn.


Thư Côlôsê và Êphêsô

Hai thư đây, có thể không do thánh Phaolô đích thân đọc cho thư ký ghi, nhưng có lẽ do người học trò nào đó thuộc cộng đoàn Phaolô đã viết lên, vào thời sau. Có thể nói, đây là thư viết theo tinh thần được thánh Phaolô khởi xướng, xuất hiện vào thời “Hậu-Phaolô” nghĩa là: người viết thư đã thêm vào đó nhiều lý thuyết cũng như linh-đạo ở trong thư. Nói cách khác, hai thư đây có thể do tự tay thánh Phaolô ghi ra, nhưng vẫn hàm ngụ tư tưởng do thánh-nhân chủ trương một cách rất khôn ngoan.

Trên lý thuyết, Đức Khôn ngoan sáng láng của Thiên Chúa là trọng tâm ý nghĩa và mạch lạc nơi thọ tạo. Bởi, ở nơi thọ tạo, đã thấy xuất hiện sự đầy đặn/trọn vẹn (tiếng Hy Lạp gọi là Pleroma) tức: đặc trưng hiển hiện nơi Đức Kitô. Xem như thế, thì Đức Kitô đã hiện hữu vào giai đoạn trước cả khi mọi sự được tạo dựng. Ngài là mấu chốt cho thọ tạo hiện hữu vì Ngài và cho Ngài. Và, Đức Khôn ngoan sáng láng đã hiện diện nơi Ngài, vào lúc sớm. Bởi, Ngài là “đầu não” cho thọ tạo được như thế. Với con người, Ngài là “Ađam” thứ hai, nhưng lại là “Ađam” rất thực hữu. Với nỗi chết, Ngài đi đầu trong Phục sinh, trỗi dậy rất tự do. Nơi nhân loại, xác thể vật chất là ảnh hình của “Thân mình” Ngài. Loài người có được “Thân Mình” Ngài để rồi sẽ biến đổi nhờ “Thân Mình” ấy, ở Tiệc Thánh. Công việc của loài người, ở cõi thế này, là phải nâng nhấc mọi người và mọi sự lên với Đức Kitô, Đấng duy nhất Tạo dựng nên con người mà tiếng Hy Lạp gọi là anakephalaisasthai. Thư Êphêsô gọi sự việc này là sự “trọn vẹn/tràn đầy” Thiên Chúa đã tỏ bày ra bên ngoài. Sự việc ấy, hợp cùng với con người để ngợi ca tôn vinh sự cao cả Chúa thắng vượt mọi sự, bởi Ngài là Đấng Tạo dựng nên mọi sự và Ngài sẽ còn làm thế, trong mai ngày.

“Trong số 27 tín hữu dấn bước theo Chúa được liệt kê trong danh sách, có 10 vị là bậc nữ lưu, như: chị Phôêbê, Priscilla, Maria, Giu-ni-a, Triphêna, Triphôsa, Persis và một vị bảo mẫu ẩn danh. Ngoài ra, còn có cả Giu-li-a và một chị khác không rõ tên tuổi, vẫn sinh hoạt đều đặn. Còn lại, là 17 vị kia rặt nam giới…” (Xem Crossan & Reed, In Search of Paul)

----------------------


Chi tiết lịch sử

Thư Philêmôn, Êphêsô và Côlôsê được coi như “thánh thư của người viết khi bị giam giữ” và mọi người cứ nghĩ rằng thánh Phaolô viết lên các thư này vào lúc ông bị tống ngục ở La Mã. Đành rằng, nội dung các thư trên đều kể thánh Phaolô bị cầm chân/giam giữ vào buổi sớm. Kể từ lúc ông lưu lại ít ngày sống ở Xêdarê hoặc Êphêsô. Hẳn ai cũng biết: ngay khi chào đời, thánh Phaolô đã là công dân thành La Mã –ông không chỉ là người thuộc Đế quốc này mà thôi, nhưng ông còn là người từng sinh sống ở Rôma nữa. Điều đó khiến ông trở thành nhân vật chủ chốt, hơi na ná giống kiểu mà người Ấn Độ gọi là KBE. Thánh Phaolô sống ở Rôma suốt hai năm trời quần quật kiếm sống bằng ngành nghề mình đã chọn.

Ở đây, tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc để hỏi: không biết tại chốn thành đô chộn rộn này, ông có được phép hành nghề khâu/may bạt/lều như khi trước không? Thật ra, thì sách Công Vụ, chả có chỗ nào nói những chuyện đại để như thế, và sách này không đả động gì đến chuyện thánh-nhân đích thân phải ra toà, bị kết án hoặc là phạm nhân từng đứng trước pháp đình chịu xử án. Về thời gian xảy ra các vụ việc như thế, có thể cũng qua nhanh trước khi ông bị truy tố, trên thực tế. Thật sự, thì chẳng ai biết rõ tháng ngày nào thánh-nhân đã bỏ mình tại Rôma không một lời từ biệt.

---------------------------


Thư Philêmôn

Diễn giải thư Philêmôn cách riêng, tác giả Murphy O’Connor đã có lần từng viết:

“Yếu tố chủ chốt trong công cuộc mục vụ của thánh Phaolô, là niềm xác tín ông vẫn có, tuy ông không áp đặt quyết định nào mang tính đạo đức với dự tòng bằng lệnh truyền trực tiếp gửi cho họ. Nhưng, thánh Phaolô vẫn ưa thích kêu gọi lòng trắc ẩn của Philêmôn, nên mới thêm: “Không có sự ưng thuận của ông, tôi đã không định làm gì cả, kẻo việc nghĩa ông làm, lại ra như việc cưỡng bức, chứ không bởi tự ý mình làm.” (Phil 1: 14).

Muốn ép buộc ai làm gì, dù họ có ưa có thích hay không, chỉ một cách hay nhất là biến người ấy thành phạm nhân, nhốt giam trong tù. Có làm thế, mới loại trừ được tự do khỏi nơi họ. Ép buộc một ai dù có để họ làm việc nghĩa đi nữa, cũng phản chống lại bản chất tự do của người đó và của Đạo Chúa nữa. Chỉ hành xử nào mang tính tự do chọn lựa mới có giá trị đạo đức, thôi. Chả thế mà, thánh Phaolô lại đã kêu gọi hết mọi người, rằng:

“Anh em hãy cho đi tùy tâm trạng của mình, không cau có, cũng chẳng miễn cưỡng, vì có hớn hở mà trao ban/hiến tặng, thì Thiên Chúa mới ưa chuộng.”

Một khi con người không còn được ban cho mình ơn cứu chuộc cách tự do, thì con người sẽ chỉ biến thành nô lệ cho tội lỗi hoặc Lề luật, thôi. Người ngoài Đạo, thường được khích lệ làm việc gì để mọi người vui lòng cách chung chung, nên mới bị lôi cuốn vào với giá trị tạm bợ, chóng qua, tức những thứ tầm thường, dễ phạm lỗi. Và, người Do thái lại cứ như người mù chỉ biết tuân theo lệnh truyền của Lề luật, rất Torah mà thôi. Những người như thế đều bị gộp vào kế hoạch định sẵn, để rồi họ sẽ bị guồng máy luật lệ khống chế, khuynh loát. Trong khi đó, thánh Phaolô lại khẳng định với họ rằng: “Chính vì muốn cho ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng ta! (Gal 5:1) Với thánh Phaolô, cũng như với mọi người trong cộng đồng dân Chúa, việc đưa ra mệnh lệnh có liên quan đến các hành xử mang tính luân lý/đạo đức là tạo cớ để tín hữu Đạo Chúa quay trở về với tình trạng chưa có hoặc không có ơn cứu chuộc.

Đây cũng là lý do khiến thánh Phaolô đã không đích thân chọn lựa cá nhân người nào để trao cho người ấy phần vụ nắm quyền lãnh đạo giáo hội ấy. Làm như thế, khác nào áp đặt lệnh truyền nào đó đối với họ. Thay vì thế, thánh Phaolô lại vẫn muốn các vị biết “trân trọng những người đã và đang sinh hoạt vất vả/cật lực trong cộng đoàn, hầu dẫn đưa họ về với Chúa. Nên thánh-nhân đã khuyên nhủ bằng những lời rất xác thực:

“Hỡi anh em, chúng tôi xin anh em tỏ lòng tri ngộ những người có công lao khó nhọc nơi anh em, những người chủ sự anh em trong Chúa và sửa bảo anh em. Đối với họ, hãy hết lòng kính trọng, mến yêu, vì công việc của họ. Hãy ở hoà thuận cùng nhau.” (1Th 5: 12-13)

Xem thế thì, các vị không là người được lựa lọc/bầu chọn hoặc chỉ định/mời gọi, nhưng rõ ràng chỉ do công việc mà các vị đã làm thôi. Chẳng hạn như, ở Côrinthô, chính gia nhân của Stêphana là những người thuộc vùng A-Kai-a, tức những người đi tiên phong trong số các người hồi hướng về với Đạo. Hệt như thế, thánh Phaolô đã nhận Gaius ở Côrinthô, Phôêbê ở Cenchrae và vợ chồng Prisca, Aquila và những vị có chân trong ủy ban thành lập cộng đoàn gồm có Philêmôn, Ápphia và Akhipô (Plm 1-2). Cũng chẳng thành vấn đề nếu các vị này làm việc cách riêng rẽ hay hợp lực, là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ.

Quan hệ với Philêmôn rõ ràng được coi như ví dụ cụ thể về thái độ của thánh Phaolô. Thánh-nhân không ra lệnh cho Philêmôn làm bất cứ điều gì. Nhưng, bằng giọng điệu êm đềm, từ tốn thánh-nhân muốn thuyết phục Philêmôn để ông tự ý làm công việc lành/thánh ấy. Thư ở đây, là lề lối sinh hoạt rất sắc bén của Hội thánh thời sau này.

---------------------------------

Thư Côlôsê

Côlôsê là thủ phủ toạ lạc tại Phrygia, nơi vùng thung lũng Lycus gần Laođixê và Hiêrapôlis. Cộng đoàn ở đây không do thánh Phaolô sáng lập, nhưng do Êpápphra tạo nên. Nội dung thư, là về sức mạnh tinh tú có quyền phép trên con người, từ đó có nhu cầu khắc khổ dẫn đến đức Khôn ngoan sáng láng. Điểm nhấn đây, là đặt nặng vai trò hàng đầu của Đức Kitô. Và, Hội thánh là như vũ trụ nhân trần nay đã có Đức Kitô Đấng làm đầu. Hội thánh, là chốn không gian trong đó các kẻ tin được bảo bọc khỏi uy lực của vũ trụ; thế nên, Hội thánh là chốn “Thiên đường” dành cho những kẻ nhận thanh tẩy được trỗi dậy từ cõi chết và sống đạo đức, chức năng vẫn rất mới. Thánh Phaolô được coi là nhân vật trung gian giữa vũ trụ và những người sống ở đây.

Phần lớn các nhà chú giải đều thấy khó mà gán thư Côlôsê cho tác giả các thánh thư rất tốt lành là thánh Phaolô. Thông thường thì, các vị vẫn coi thư này là do học trò của thánh nhân là tác giả viết vào thời Hậu-Phaolô. Bởi:

* Lời lẽ cũng như âm giọng rất khác với thủ thuật bút chiến thánh Phaolô vẫn sử dụng;
* “Đối phương” đây, mang sắc thái lờ mờ chứ không như thư do thánh-nhân viết;
* Các câu trong thư được rút từ thư Phillípphê và Philêmôn, tức: thư sao chép nhái lại.

Theo tôi thì, chủ đề kết hiệp với Đức Kitô trong thư Colôsê và Êphêsô mang tính chất linh đạo/thần bí hơn các thư do thánh Phaolô đọc cho thư ký viết. Thư thánh Phaolô đượm tính chất “chính trị” nhiều hơn các thư này. Nói thế nghĩa là: người viết thư đây có quan điểm/lập trường phản chống tính độc tài cách công khai như Đức Kitô từng làm. Ở thư Côlôsê, đó là sự kết hợp linh đạo nhiều hơn chứ không hề kết nối với lập trường nói ở trên.

-------------------------------



Thư Côlôsê mở đầu bằng bài vịnh ca mang tính chất Kitô luận (Côl 1: 15-20). Có lẽ đây là bài vịnh vẫn được hát vào thời tiên khởi, gồm hai tiểu khúc. LỜI đã xâm nhập thế giới vũ trụ. Và, Đức Kitô chính là LỜI thấy ở đây.

15. Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình 18. Ngài là đầu,
là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. là trưởng tử giữa các vong nhân,
ngõ hầu trong muôn sự,
Ngài là đệ nhất vô song.

16. Vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành
chốn trời cao và nơi dương thế
vật hữu hình, vật vô hình,
19. Vì chưng Thiên Chúa đã quyết ý cho tất cả
Viên mãn đậu lại trong Ngài 20. Và đã giảng hoà cả vạn vật
Nhờ Ngài và cho Ngài
đã ban lại bình an
nhờ bửu huyết đổ ra
nơi Thập giá của Ngài
cho mọi vật ở dưới đất hay trên trời;
17. Ngài có ưu thắng trên mọi sự
và mọi sự tồn tại trong Ngài.” (Côl 1: 15-20)


Tiểu khúc đầu, phù hợp những điều mà người Hy Lạp và Do thái nói về “LỜI”. LỜI đã biến giải Đức Khôn ngoan sáng láng của người Do thái thành tư tưởng của người Hy Lạp. Các bản văn sách Khôn ngoan đã gọi Đức Khôn ngoan là sự Sáng láng của Thiên Chúa. Xem như thế, ta hiện hữu trước cả thời Địa Đàng. Và theo đây, thì Đức Kitô, có trước cả mọi sự và Ngài là tác nhân của tạo dựng. Thọ tạo được dựng nên cho Ngài. Ở đây, Đức Kitô đích thực hiện hữu trước khi có tạo dựng và sinh hoạt của Đức Kitô lại có trước cả vào lúc thọ tạo thoạt hiện hữu. Đức Giêsu hiện hữu ngay trong địa hạt Thần Thiêng Thánh Ái.

Đức Kitô là Trưởng Tử trỗi dậy từ cõi chết, là Ađam Thứ Hai và nơi Ngài muôn vật được tạo thành, rất ổn định. Việc này lại đã xảy ra ở thập tự. Tính chất “đầu hết” của Đức Kitô được hạn chế là để cho con người và sau đó là cho Hội thánh, tiếp đến là cho người nhận thư.

Ở đây cũng có tình trạng dao động về ý nghĩa của Thân Mình Chúa. Chính thánh Phaolô cũng từng nói: “Thân xác của ta là Thân Mình Đức Kitô”. Thánh-nhân lại cũng bảo: bánh ta ăn vào người ở Tiệc Thánh đó chính là Thân Mình Đức Kitô. Thánh Phaolô còn khẳng định: cùng nhau, ta trở thành cùng một Thân Mình Đức Giêsu, và mỗi thành phần trong cơ thể có trọng trách và phần vụ riêng rẽ. Xem ra, khi thư Êphêsô nói đến Thân Mình Đức Kitô tức Hội thánh, thì ở thư Côlôsê đây, Đức Kitô bao choàng cả thể xác như ta đã từng nghe biết. Thật không rõ, Đức Kitô là Đầu của Thân mình này thôi hoặc của toàn thể vũ trụ nhân trần. Tóm lại, Anakephalaiosasthai là nâng nhấc ta vào với Ngài. Và như thế, Thân Mình Chúa còn lớn rộng hơn Hội thánh nữa.

-----------------------


Thư Êphêsô

Về thư này, xem ra nhiều người vẫn cho rằng: thánh Phaolô không phải là tác giả, dù thánh-nhân đã sống rất nhiều ngày ở nơi đây. Đúng ra, thư Êphêsô đây mang tính cách của một thư luân lưu/mục vụ về qui cách. Thư Êphêsô rút tỉa được khá nhiều điều lấy từ thư Côlôsê. Đọc thư, ta không thấy dấu có ám chỉ nào về sự Công chính như thánh Phaolô từng đề cập, nhưng lại nói nhiều hơn về cứu chuộc và sự thứ tha mọi lỗi tội, tức ngôn từ mà thánh Phaolô đặc biệt không sử dụng. Ơn cứu chuộc đã thành toàn và bao gộp hết mọi người. Hội thánh, vốn là thân mình Chúa gồm những người từng nhận được ơn lành cứu chuộc ấy. Và, Hội thánh được thiết lập không ở trên Đức Kitô nhưng trên các tông đồ và ngôn sứ. Ơn cứu chuộc, là xuất từ quyền uy sức mạnh lạ lùng ở bầu trời và nơi khí quyển. Và, ơn cứu chuộc đã như thể vượt quá khỏi tầm tay do con người họ kiểm soát. Người được ơn này vẫn thuộc về Đức Kitô Đấng từ trời đến, nhưng lại không sử dụng chủ đề bè rối như phần chính yếu của Thiên Chúa xuống với gian trần.

Phần đông các nhà phê bình đều xem xét thật kỹ thư Êphêsô trước khi xem ai là tác giả thực thụ của thư này. Các đặc trưng ở trong thư, gồm có:

• Văn bản xưa cũ nhất không đề tên người nhận;
• Cụm từ “bí nhiệm” được sử dụng thường xuyên hơn các thư đích thực do chính thánh Phaolô đọc cho viết lại có ý nghĩa khác hẳn. Ở thư Êphêsô, cụm từ “bí nhiệm” lại có nghĩa là kết hợp mọi người và mọi sự vào với Đức Kitô;
• Điểm nhấn ở thư Êphêsô là về Phục Sinh, nhưng lại ít nói về thập giá;
• Tác giả thư, có cái nhìn tự mãn nguyện về vai trò tông đồ mục vụ của mình, còn thánh Phaolô lại chả bao giờ muốn làm như thế;
• Trong thư, không thấy chỗ nào nói về giai đoạn khó khăn mà thánh Phaolô gặp;
• Israel là chuyện đã qua trong quá khứ và lề luật nay bị Đức Kitô loại trừ;
• Hội thánh toàn cầu vẫn chỉ là một và không mang ý nghĩa một giáo hội sở tại;
• Cung cách phụng vụ ở thư có vẻ hơi khoa trương –nhịp điệu thì như thể đang tiến dần về phía thung lũng lấn chiếm từng gang tấc;
• Thánh Phaolô quan niệm hôn nhân như hành động để xoa dịu kẻ yếu hèn, trong khi tác giả đây lại tôn vinh nó như tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và Hội thánh;
• Đức Kitô được coi như viễn tượng về vũ trụ, bởi Ngài ngự trị chốn Thiên đường;
• Thư đây có nhiều câu lấy từ thư Côlôsê, theo kiểu lù mù bạ đâu lấy đó.

Vậy thì, ai mới thực là tác giả thư Êphêsô?

Theo Holtmann, tác giả thư Côlôsê và Êphêsô vẫn chỉ là một.
Còn Goodspeed lại cho rằng: thư Êphêsô là lời nói đầu viết cho tuyển tập gồm các thư được thánh Phaolô gửi đi các nơi.
Goguel lại nghĩ: thư Êphêsô là phần diễn giải các thư thực sự do thánh Phaolô viết;
Boismard vẫn cho rằng: thư Êphêsô do thánh Phaolô viết từ Rôma, sau đó được một vị nào đó quen thuộc với thư Colôsê phát tán rộng thêm ra. Tác giả Boismard lại vẫn bảo: thư Colôsê là phần diễn đạt nhằm gửi cho các đồng đạo sống ở Laođixê như có nói trong thư Côlôsê đoạn 5 câu 16.
Muddiman có nói: thư Êphêsô lúc đầu là do thánh Phaolô viết nhưng không phải ở Êphêsô, như một thư mục vụ gửi giáo đoàn theo truyền thống Phaolô như đã được phổ biến rộng rãi.
Tác giả Wansborough lại vẫn suy rằng: các vị trong cộng đoàn Phaolô đã sử dụng giáo huấn nói trong thư như khuôn vàng thước ngọc, hầu mừng kính thiết lập cộng đoàn. Tác giả chuyển đạt lối diễn giải truyền thống Phaolô theo phương án giáo huấn người đọc. Tác giả đây trở thành loại hình của một Phaolô vào thời Hậu-Phaolô, thế cũng nên.


Chúc lành thư Êphêsô

Lời lẽ trong thư Êphêsô ở đoạn 1 câu 3-14 và các đoạn sau xem như lời cầu mà tác giả James Dunn gọi đó là “Kitô-luận làm nổ tung đầu óc người đọc.”

Chúc lành trải rộng cả vào lúc trước khi thế giới được tạo dựng, kéo dài mãi mãi động thái của nó. Lời cầu, thấy ở thư Êphêsô mô tả Đức Giêsu trụ trì chốn thiên đường. Điểm nhấn của thư đặt nơi quyền uy lướt vượt mọi sự để tôn Ngài lên trên đó.

Trọn vẹn

Theo từ vựng, điều này mang ý nghĩa của khoang chứa trên tầu, hoặc chỉ về dân số sống tại thị trấn nào đó, hoặc nêu rõ nội dung trong sách hoặc trong thư. Thư Galata sử dụng lời này vào nhiều lúc. Còn với thư Côlôsê và Êphêsô, thì ý tưởng đề ra là Thiên Chúa đã lấp đầy trái đất cách trọn vẹn, có Đức Khôn ngoan hiện diện ở khắp chốn.

Triết lý của nhóm Khắc Kỷ, cho thấy nguyên lý thần linh thánh ái ngập tràn vào tất cả và tất cả được lấp cho đầy. Thư Côlôsê mang ý nghĩa khá thụ động ở chỗ: Thiên Chúa muốn mọi sự tràn đầy vẫn thấy có nơi Người. Thư Êphêsô, có nghĩa chủ động hơn, khi bảo rằng: Đức Kitô chủ động trong tâm can ta và nhờ đó ta được lấp đầy bằng sự trọn vẹn của Thiên Chúa, bằng LỜi. Từ đó, tất cả chúng ta sẽ nên toàn hảo, có sự tràn đầy trọn vẹn của Đức Kitô.

Ơn cứu thuộc ở thư do thánh Phaolô viết, chỉ xảy đến vào lai thời; nhưng thư này, ơn Chúa đã thắng vượt cả thời gian. Thư Rôma do thánh Phaolô đích thân đọc cho thư ký viết, thì người ngoại giáo được ghép vào cây ô-liu của Israel. Còn thư này, việc tháp ghép sẽ xảy ra trong tương lai, mai ngày thôi. Hình ảnh chính được thánh-nhân sử dụng là bức tường thành. Tường chống đối/đố kỵ đã vỡ đổ…

Tư-duy Do thái và Hy Lạp

Thật dễ thấy trong thư Côlôsê và Êphêsô, người đọc có được chủ đề gần gũi với tư-duy Hy Lạp. Có người bảo: chủ đề đây, cũng xa vời tư tưởng Do thái. Theo tôi, thì chủ đề trong cả hai thư được nối kết với Đức Khôn ngoan và LỜI. Chủ đề, tác giả muốn nói, là: đặc trưng của triết thuyết Platô, khá trung hoà.

Tôi xin được gợi ý ở đây, là: nếu quả như thế, thì tác giả hẳn cũng nói đến thần học về Đức Khôn ngoan và LỜI xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ nhất, sau Công nguyên. Và chủ đề này cứ ẩn hiện dưới lớp mặt của bản văn. Có vị, như D. Boyarin lại cho rằng: Lời nói đầu của thánh Gioan mang tính gợi nhớ như thế. Có lẽ ta cũng nên nghiên cứu xem lời nói đầu này có phù hợp với ý trong thư Côlôsê và Êphêsô không. (Xem Daniel Boyarin, The Gospel of Memra: Jewish Binitarianism and the Prologue to John, Harvard Theological Review, 2001, 243-284)

Thông thường ta lại vẫn nghĩ rằng Đạo Chúa và Do-thái-giáo tách rời nhau rất sớm; và nền thần học về Đức Khôn ngoan và LỜI trong Đạo Chúa không nói gì nhiều về Do-thái-giáo ở Palestin. Một số sử gia nay bác bỏ lối biện luận này.

Thần học về Đức Khôn ngoan và LỜI nhập chung làm một với thế giới của người Do thái ở thế kỷ đầu. Đây là lẽ thường tình theo lối tư-duy Do thái. Bởi, ít nhất cũng có một hoặc nhiều nhóm/phái Do-thái-giáo có trước khi Đạo Chúa được lập ra; thế nên, chẳng lạ gì khi thấy các vị đều chủ trương sử dụng cụm từ Thiên Chúa (theos) khi đề cấp đến Đức Khôn ngoan và LỜI.

Với truyền thống ngoài Đạo thời đó, các vị đã bắt đầu suy tưởng về Thiên Chúa lưỡng-vị nếu không muốn nói Ba Ngôi thì ta chỉ nói Thiên Chúa Ngôi thứ hai vô hình vô dạng có danh xưng là LỜI, là Memra; là, Đức Khôn Ngoan, Con Chúa.

Mãi về sau, Do-thái-giáo của các thày tư tế mới có phản ứng đối chọi lại chủ thuyết Hy Lạp.

------------------------


Các chủ đề trong văn chương Do thái


Thần học Do thái và Hy Lạp nói về Đức Khôn ngoan và LỜI thấy rõ trong tiếng Hy Lạp Philo Judaios. Theo thuyết này, Đức Khôn ngoan/LỜI được nối kết với Sự Sáng. Đức Khôn ngoan/LỜI, là Thiên Chúa nên có Chúa ở đó.

Bằng chứng thấy được ở các văn bản dịch từ tiếng Aram của các dịch giả hấu hết là tư tế, thì Đức Chúa có danh xưng: Memra/Shekinah/Kabod đích thực là Thiên Chúa, Đấng Bản Vị.


LỜI trong Tin Mừng thánh Gioan

Dẫn nhập Tin Mừng, thánh Gioan giảng giải và diễn nghĩa, chứ không chủ ý ca tụng, thờ lạy. LỜI, là những điều được kể về thời khởi thủy của nhân loại ở sách Sáng Thế. Là, diễn giải kể truyện chứ không là bài vịnh ở phụng vụ. Là, bài chia sẻ ở hội đường tựa như lời nói đầu thôi. Là, văn chương tư tế chứ không là vịnh ca, khúc hát rất thăng trầm. Không là bài thơ, nhưng là truyện kể “có đầu có đuôi” theo thứ tự thời gian xảy đến. Đó cũng là bài giảng dựa vào kinh sách rút từ Ngũ thư có trích thơ văn từ các sách tiên tri và lề luật, đặc biệt là Văn Chương ở sách Cách ngôn.

Văn bản về Sáng Thế là sách Khởi nguyên Chương 1 câu 1-5. Còn, văn bản về Đức Khôn ngoan là đoạn sách Cách ngôn chương 8 câu 22-31. Vịnh ca Khôn ngoan không là khuôn mẫu qua đó thánh Gioan dùng để viết Tin Mừng nối kết với văn chương tư tế. Ở văn bản này, người viết đã sử dụng thoải mái các nhân vật, từ ngữ và chất lượng của thần linh khác. Điều này bao gồm nhận thức về Đức Khôn ngoan được nhân-cách-hoá như LỜI ở phần dẫn nhập Tin Mừng thánh Gioan. Đây là những gì xảy đến cả vào lúc có trước thời Đạo Chúa ra đời, và rút từ thế giới tư tưởng bình thường của Do-thái, tức thần học về LỜi như hiện trạng.

“Từ khởi thủy Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất, và đất thời trống không mông quạnh”. “Và rồi Thiên Chúa ở bên con người.” “Ở với Thiên Chúa là Đức Khôn ngoan.” “Và sau đó, Đức Khôn ngoan xuất hiện ở dướt đất và sống với con người.”

Tin Mừng thánh Gioan, dẫn con người biết sử dụng tất cả các thứ này. Chính thần thoại về sự bất mãn của Đức Khôn ngoan trong đó, nên ý định của Thiên Chúa quyết tìm chốn cơ ngơi cho Đức Khôn ngoan ở trái đất. Và, để chữa cho khó khăn này là việc Nhập thể. Tính độc đáo nơi Tin Mừng thánh Gioan tuyệt nhiên không nằm ở nền thần học về LỜI nhưng là Kitô-luận về nhập thể: thánh Gioan không chế ra LỜI, nhưng thánh-nhân diễn tả cách độc đáo về LỜI đã mặc xác phàm.

“Đức Khôn ngoan không tìm ra nơi nào để cư ngụ; nhưng chỉ một chỗ dành cho Đức Khôn ngoan là thiên quốc. Sau đó, Đức Khôn ngoan ra ngoài ở với con cái loài người, nhưng vẫn không tìm ra được chỗ nào. Thành thử, Đức Khôn ngoan trở về lại nơi cũ, sống với thiên thần.” (1 Enoch 42: 1-2)

Đức Khôn ngoan từng đến với thế gian trước cả Đức Giêsu Kitô, nhưng không được đón nhận dù là Sự Sáng. Israel từ đó mới đưa Đức Khôn ngoan về lại Thiên đường, sống với thiên thần. Và lúc đó, một số người mới nhận Đức Khôn ngoan. Một số người Do thái lại cũng đón nhận LỜI. Người đó trước nhất là Abraham. Và những người như thế đã trở thành con Thiên Chúa, qua LỜI.

Ở đây, đã thấy rõ sự khởi đầu lời rao giảng đặc biệt nơi Đạo: thánh Gioan nói: chính Đức Khôn ngoan/LỜI đã trở về từ thiên quốc và nhập thể vào với Đức Giêsu và nhờ đó trở thành ánh sáng và là thày dạy tốt nhất về tuổi thơ ấu của Đấng nhập thể vào với con người…

Toàn bộ bài giảng giải ở lời tựa Tin Mừng thánh Gioan đã trở thành cây cầu bắc ngang nối liền khoảng cách giữa thời mà LỜI chưa hiện hữu và lúc LỜI nhập thể và từ đó cắt nghĩa được thời gian tạo động lực cho nhập thể.

Đức Giêsu hoàn thành sứ vụ Môsê nhận được và Ngài không đổi dời sứ vụ ấy. Thế nên, chỉ cần giải thích Luật Torah cho tốt, và LỜI nhập thể là Thày dạy thích hợp nhất cho việc mặc xác phàm. Dạy bằng LỜI vẫn trong sáng, xác thực hơn văn viết (Derrida). Thiên Chúa đã thử bằng văn bản, nhưng sau đó Ngài gửi LỜI nhập vào xác thể của Đức Giêsu.

LỜI nhập xác phàm là Thày dạy tốt và là nhà chú giải tốt nhất nên Ngài mới nhập thể.

Thế nên, sự khác biệt đích thực giữa người Do thái đi Đạo và ngoài Đạo không mang tính thần học. Khác biệt thực thụ giữa hai bên là sự kết hợp giữa thần-học và thần-thoại-học Do thái lúc trước, và Đức Giêsu thành Nadarét là người Do thái rất đặc biệt.

Tin Mừng thánh Gioan đoạn 18:

Tư tế Eliezer là con trai của Tư tế Yose người Galilê có nói: Chín trăm bảy mươi bốn thế hệ đã xảy đến trước khi thế gian được tạo dựng, Luật Torah cũng được viết ra và đặt dưới gót chân của Đấng Chúc Phúc và người con đã cùng với thiên thần hát mừng rằng:

“Ta ở bên Người như đứa trẻ được quý mến,
và ngày ngày ta là nguồn vui sướng của Người,
chơi giỡn trước mặt Người mọi thời.”
(Cách ngôn 8; 30)

Ở đoạn khác, tư tế lại cũng viết:

“Ta đã cưu mang hết những người này
Và ta đã cho chúng được sinh ra
và rồi các ngươi lại sẽ bảo:
Hãy mang Người trong bụng
như bà mụ đỡ mang đứa trẻ”

Bởi lẽ, các tư tế và trẻ thân yêu ấy được Cha mang Con của Thiên Chúa, tức Luật Torah ở trong bụng. Văn chương tư tế vào thời trước khi có Tin Mừng thánh Gioan, Người là LỜI. Là Con Chúa, rất rõ ràng.


---------------------



Khác biệt giữa LỜI và thuyết ngộ đạo


Nhiều lối mòn đi vào Đạo Chúa, thời ban đầu. Nơi họ, có người bị gọi là Bè ngộ đạo, tức những người sùng đạo được dưỡng nuôi vào cùng thời. Cụm từ “ngộ đạo” theo nghĩa từ vựng lại là “tự biết mình”. Bởi, bè nhóm này tự cho mình biết rõ về chính mình. Rồi, họ còn nghĩ: hồn người có linh có gốc từ trời cao, do Đấng Quyền Uy Thánh Ái sơ xuất bước hụt lầm lỡ nên ra thế. Theo nhóm bè này, thì: ở nơi mình, linh hồn bị nhốt hãm vào thân xác chất thể. Vì thế nên, ta quên mất đường đất gốc nguồn rất thánh thiêng của chính mình. Đấng Cứu Chuộc -mà nhóm bè này quan niệm là Đấng được Đạo Chúa gọi là Đức Giêsu- đã kêu gọi con người hãy thức tỉnh, đừng ngủ mê.

Từ đó, vấn đề đặt ra cho ta, là: trước kia, ta là người thế nào? Từng bị thúc thủ, dồn ép vào những đâu? Sao vội vã đi về đâu thế? Ta được cứu vớt khỏi nơi nào? Sản sinh có nghĩa gì? Tái sinh là gì thế? Nghĩ thế rồi, bè nhóm Ngộ đạo bèn triển khai sử liệu của chính con người, như tia sáng chớp soi bóng tối. Họ đưa ra nhiều huyền thoại kể lể bằng ảnh hình rất uy lực. Nhưng, trong giòng chảy nhận thức về đạo như thế lại có nhiều giòng nước vẫn song hành. Nói chung, thì bè Ngộ đạo lại đã cách ly Thiên Chúa Đấng Tạo dựng ở Kinh sách của người Do thái khỏi Đức Chúa cứu chuộc mà họ đạt được nhận thức và đã định danh Ngài vào với Đức Giêsu. Nhóm bè này không nhấn mạnh -và một số vị trong đám người này lại cũng chẳng chấp nhận được- đến cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Họ cũng chẳng bận tâm quan niệm rằng Đức Chúa Cứu Chuộc thực sự đã chết. Họ cứ nghĩ Ngài là Đấng linh thiêng vẫn dẫn dắt họ có nhiều nhận thức, ngày càng nhiều hơn nữa.

Thánh Phaolô lịch sử tuyệt nhiên không thuộc nhóm ngộ đạo nào cả. Thánh-nhân có lẽ cũng không tư-duy về Đức Giêsu Phục sinh ngoại trừ Ngài là Đức Chúa chịu-nạn-chịu-chết-trên-thập-giá đã trỗi dậy từ nơi đó. Thánh nhân vẫn cứ neo chặt vào với thực tại của con người, thực tại của nỗi chết, cả đến thực tại của thứ chính trị bẩn nhơ, và thực tại khủng khiếp gắn liền với thực tại của hành xử đóng đinh Ngài vào thập giá. Thánh-nhân, cuối cùng cũng đạt đến ý niệm để hiểu rằng tình thân thương, yêu mến chính là tên gọi của trò chơi; và không bè nhóm ngộ đạo nào lại trụ vững nơi cung cách của tình thương mến vẫn có giữa Thiên Chúa của Đức Giêsu và con người của ta. Thánh nhân chẳng bao giờ công khai nhân nhượng hiệp thương với bè nhóm Ngộ đạo nào như thế; nhưng, thánh-nhân vẫn luôn giảng rao thực trạng về tình thương mến ấy trước muôn muôn người ở Athens, nhưng quan điểm lập trường của ông đã bắt rễ thật kiên cố trong các nhận định khác nhau.

Thật tình thì, thư Côlôsê và Êphêsô không thể là nhận định thần học mang tính Ngộ đạo nào hết. Cả đến lời tựa của Tin Mừng do thánh Gioan viết cũng không là ý tưởng ngộ đạo nào cả. Tất cả chỉ là giòng chảy thần học trầm mình trong Đức Khôn ngoan rất Do thái cả ở Do-thái-giáo lẫn Đạo Chúa.


-------------------------------


Ngụy thư Phaolô

Xem ra, phần lớn ở Êphêsô, đã thấy xuất hiện một loại hình gọi được là “trường phái Phaolô” gồm những vị đưa ra các bài viết hoặc thừ từ lấy tên vị sáng lập nhóm này.

Nhiều tác giả cũng đã dàn dựng một số vụ việc liên quan đến tác quyền thực thụ mang danh Phaolô ở các thư được viết tiếp theo sau thời buổi đó, ngoại trừ thư gửi giáo đoàn Do thái đồng loạt được coi như không phải là thư thánh Phaolô đích thân đọc cho thư ký mình viết. Bức thư mang danh là “thư gửi cộng đoàn Do thái” được cho rằng không trực tiếp xuất từ thánh Phaolô hoặc trường phái của thánh-nhân. Thực sự đó không là thư viết và có viết cũng không để gửi cho người Do thái nào hết! Tuy nhiên, có sự nhất loạt đồng ý bảo rằng chỉ mỗi 7 thư nói ở trên mới thực sự và không còn nghi ngại gì nữa, là do chính thánh Phaolô chủ xướng.


Thư thứ hai Thessalônikê

Nhiều ý kiến cho rằng thư này là do chính thánh Phaolô, Silas và đồ đệ của thánh-nhân là Timothê gửi đi, tức cùng một người gửi như trước đầu. Nhưng, địa chỉ người nhận có thể là giả tưởng. Bởi, mục đích của thư thứ hai này, trái nghịch hẳn thư thứ nhất, tức chỉ nói về những ngày sau hết, của con người. Tư tưởng nền tảng trong thư này lại đối nghịch với quan niệm về thời Quang Lâm Chúa Đến Lại đã rõ ràng. Điều này xảy đến là do có nhiều dấu chỉ được nghĩ là sẽ đi kèm với thời này, vẫn chưa thấy. Có vị nghĩ là thời ấy được dời lại, mãi về sau. Kết cuộc thì, Hội thánh cần có nhu cầu của một trật tự trong cộng đoàn, với tổ chức sẽ phải thế.

Trong các dấu chỉ mà mọi người kỳ vọng sẽ xảy đến, có sự kiện bội giáo, tức tình trạng rã rữa nói chung về luân lý/đạo đức, và hiện tượng đấng bậc được mệnh danh là “người của tình trạng bất cần luật” đã xuất hiện tương đương với hiện tượng xảy ra ở một vài nơi khác vẫn được gọi là Phản-Kitô hay Giả danh Đức Kitô. Ngược giòng lịch sử, người đọc hẳn sẽ nhận ra một số truyền thống được mệnh danh như: phong trào có liên quan đến phong trào Linh Hiển kiểu Antiochus IV, như: Pôm-pê, Ca-li-gu-la, vv…

Thư Mục Vụ - Thư thứ nhất và thứ hai gửi Timôthê, Titô

Các thư này được gửi cho cá nhân từng người như đấng làm đầu hội thánh sở tại để đưa ra các đường hướng mục vụ, mà tuân theo. Từ vựng của thư gần với thần học Hy Lạp, nói chung chứ không mang tính chất rất Phaolô, như thư khác.

(còn tiếp)
____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch