Những “thiên thần” mất cuộc sống . Phần 3

II. Cộng sản và chủ trương triệt hạ niềm tin, đời sống và phong cách giáo dục của tôn giáo.

Ngay từ khi còn sống đời du mục, bộ lạc, con người đã tin rằng trên họ phải có những đấng thần linh, luôn che chở và bảo vệ cho con người. Thần linh ấy không nhất thiết phải giống nhau, có thể là ông Trời Cao, là hồn thiêng của ông bà, cha mẹ những người đã khuất, hay những vị Thần, Thánh. Đôi khi còn là thần sông, thần núi, thần gío, thần lửa, thần mưa… Nên từ đó, ý niệm về thiện ác về công bằng đã phát sinh rồi triển nở, giúp kiến tạo những bộ lạc sơ khai thành những xã hội có quy củ, có luật lệ như hôm nay. Có lẽ cũng bắt nguồn từ những điểm cơ bản này, nhiều luận thuyết của xã hội ngày nay cho thấy rằng niềm tin Tôn Giáo đem đến cho con người Ánh Sáng và Sự Sống. Ngược lại, Xã Hội không có Tôn giáo là một xã hội chết khi còn sống.

Rồi khi tìm hiểu về những nguyên nhân làm cho cuộc sống của con người thay đổi, thăng hoa, nhiều người cho rằng nét đẹp và giá trị giáo dục từ tôn giáo đã khai sinh, giữ một phần ảnh hưởng rất quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân hay của mỗi chủng tộc. Trước hềt, nền giáo dục này không chỉ trợ giúp cho việc phát triển nhân cách của con người từ trong gia đình, nhưng còn là nâng cao phẩm hạnh trong đời sống luân lý của xã hội, nơi họ sống. Hơn thế, có khả năng ngăn chặn nhiều loại tội ác. Kế đến, nguồn sống của tôn giáo đã thúc đẩy con người hướng đến đỉnh cao của việc phục vụ Công Lý và công bằng xã hội.

Trong khi đó, với tầm nhìn hạ cấp, kém cỏi, được phát sinh và nuôi dưỡng bằng lòng thù hận, Cộng sản theo hệ Mac-Lê chủ trương thiết lập một nhà nước bao cấp, lấy biện chứng duy vật làm cơ sở, dùng chiêu bài giai cấp là lực lượng đấu tranh, dùng bạo lực để cướp chính quyền và xây dựng xã hội theo ý đồ tam vô: Vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc. Với mớ lý thuyết phản nhân tính này, nó đã dẫn con người xa rời cuộc sống lành mạnh, bình đẳng, nhân bản, tiến bộ. Nó nhấn chìm con người và xã hội vào bóng đêm, máu lửa, thù hận, tội ác và sự chết. Chết bởi vì. Nếu ai đó cho rằng Tôn giáo chỉ là những “bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống đầy xiềng xích, bóc lột thì khi không có những “bông hoa giả” ấy, cuộc sống của con người chỉ còn lại xiềng xích, búa liềm và tội ác của cộng sản mà thôi.

Theo đó, về lý thuyết, nếu chỉ xét qua việc khả thi những chủ thuyết của cộng sản vào xã hội như Vô Tổ Quốc, tôi tin rằng, cho đến khi mặt đất này không còn một sinh vật nào, cộng sản cũng không thể áp đặt được. Bởi ý thức độc lập, sinh tồn của mỗi một chủng tộc là rất sâu sắc. Mỗi một quốc gia có một đường biên giới riêng. Cộng sản không bao giờ có thể phá vỡ được những đường biên giới này ( dù tất cả là cộng sản). Ngay đến những đàn bò, đàn trâu rừng cũng tự vạch ra phạm vi kiếm ăn của mình. Chúng ít khi xâm lăng bờ cõi của nhau. Tôi không biết các loài trùng, giun đất có tự định lệ cho bầy đàn của mình một biên giới hay không. Nếu có, đó là lẽ thường. Nếu không, chắc là nó đã quán triệt lý thuyết của cộng sản, hoặc cộng sản đã học từ đó!

Đến chủ trương vô gia đình và vô Tôn giáo cũng thế. Cộng sản không bao giờ có thể phá vỡ được nền tảng này. Bởi vì còn con người là còn đời sống của gia đình và còn sinh hoạt của tôn giáo. Hãy nhìn một đàn gà. Nó cũng có một tổ ấm. Gà mẹ luôn giang đôi cánh ra bảo vệ lấy đàn con. Nhưng khác với tinh thần của những đàn gà, lại mang bản chất cuồng bạo, độc ác, sau khi cướp được chính quyền, cộng sản đã không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn thâm độc nào trong việc tìm bắt, lùa gà con ra khỏi đôi cánh của gà mẹ và tìm cách triệt tiêu niềm tin, truyền thống, đời sống và đường lối giáo dục đạo đức của tôn giáo. Chúng hành động như một cuộc trả thù Công Lý. Tuy nhiên, dù có bạo ngược như thế, hoặc hơn thế, theo tôi cộng sản cũng chỉ có thể hạn chế được đôi phần ảnh hưởng của tôn giáo và gia đình vào xã hội mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ có thể phá vỡ được nền tảng luân lý của tôn giáo, dù chúng có một quy trình để hành động như sau:

a. Triệt hạ ảnh hưởng của tôn giáo trên đời sống xã hội.

Khởi đi từ công tác rình rập, chém lén, vồ gà bắt vịt, khiêng heo của người dân trong các làng thôn để tìm sống ( tôi viết từ kinh nghiệm ở làng tôi). Cộng sản đã tiến một bước dài khi cướp được chính quyền. Trước tiên, để phá vỡ nền tảng gia đình, xã hội, cộng sản đã tổ chức mùa đấu tố, gây ra cái cái chết cho hơn 172000 ngàn người dân vô tội, tạo ra nỗi kinh hoàng, sợ hãi triền miên cho các gia đình, cho toàn xã hội và đe doạ đời sống của tôn giáo. Chỉ riêng ở địa bàn Hà Nội, 72 cơ sở sinh hoạt của Công Giáo, trong đó bao gồm từ viện tế bần, viện mồ côi, nhà thương cho dân nghèo, bệnh viện, trường học…. là những cơ sở phục vụ, bao bọc và làm thăng tiến con người, thăng tiến xã hội, đều bị cộng sản cưỡng đoạt. Mà chẳng riêng gì Hà Nội, tất cả những cơ sở tương tự như thế nằm trong các tỉnh thành khác tại miền bắc và miền nam sau 30-4-1975 cũng đều chung số phận.

Bên cạnh đó, những cơ sở đào tạo huấn luyện nhân sự để phục vụ cho các bệnh viện, trường học, viện mồ côi, tế bần hay chuyên ngành của tôn giáo cũng đều bị đóng cửa. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, đình miếu biến thành nhà kho, nơi chất rơm rạ cho trâu bò, hoặc là nơi trao đổi, trộm cắp của quan cán. Các nhà in, sách báo của tôn giáo cũng đều bị đóng cửa và cưỡng chiếm. Đồng thời, CS mở ra một chiến dịch gọi là bài trừ nạn mê tín dị đoan, thực chất là muốn đạp đổ các đình miếu và các cơ sở mang tính văn hóa, tôn giáo cổ truyền của Việt Nam và thay vào đó là những hình ảnh đáng tởm của Hồ chí Minh để phỉ báng tôn giáo.

b- Biến các Giáo Hội thành công cụ tuyên truyền cho CS.

Khi không thể triệt tiêu được niềm tin, sức mạnh của Tôn Giáo trong xã hội, lại cũng không thể sống chung với tôn giáo bởi bóng tối sợ ánh sáng, bởi tội ác không thể nằm kề bên sự thiện, tốt lành. Tập đoàn Cộng sản tại VN quay sang một lối thoát khác. Để kìm kẹp, kiểm soát và giới hạn tối đa những hoạt động của tôn giáo, CS đã lần lượt đưa ra những văn bản như nghị quyết 297/CP năm 1977, chỉ thị 379/TTg năm 1993, nghị định 26/CP năm 1999, rồi tháng 12/2000 là Dự thảo Pháp lệnh Tôn giáo và gần đây là dự thảo 4, Luật Tôn Giáo. Kế đến, Cộng Sản lập ra các “ ban tôn giáo” từ trung ương cho tới địa phương, đây là hình thức của một loại công an tôn giáo, nhằm kiểm soát hoạt động của mọi Giáo Hội. Riêng ngành công an cũng có phòng A16 đặc trách về tôn giáo. Ngoài ra, tập thể vô thần này còn lập ra những "Giáo Hội quốc doanh" hay "ủy ban đoàn kết" nhằm dò xét, mua chuộc và đưa người vào nội bộ Giáo Hội để phá hoại sự Linh Thánh của tôn giáo.

Song hành với những luật lệ và tổ chức trên, CS cho ra vài tờ báo gỉa mang danh nghĩa của tôn giào, nhưng thực chất là nơi quy tụ những kẻ dấu mặt hay phản bội tôn giáo điều hành như “ người Công Giáo ở Hà Nội, ”Công Giáo và dân tộc” ở Sài Gòn, hay “Gíac Ngộ”! Phải nói ngay rằng, người ta không thể tìm ra được một nét thiện hảo nào hỗ trợ cho đời sống của tôn giáo trong những loại báo làm công cụ tuyên truyền cho nhà nước Việt cộng. Trái lại, chỉ là những báng bổ tôn giáo. Nó sống không phải vì sự cần thiết, hữu ích cho các tôn giáo, nhưng sống vì một nhà nước bá đạo muốn chà đạp tôn giáo!

c- Phá hoại bản chất Chân Thiện Mỹ của tôn giáo.

Như tôi đã viết ở trên: Một xã hội không có tôn giáo là một xã hội chết khi còn sống. Chết trong gian trá và chết trong tội ác. Mỉa mai thay, cộng sản lại chỉ có thể sống và tồn tại trong xã hội “ người ta phải nói dối nhau mà sống” (TQT). Nghĩa là, Cộng sản không thể tồn tại trong một xã hội nhân văn có đạo đức và công lý. Đó là lý do thúc bách cộng sản phải tìm đủ mọi phương cách để triệt hạ niềm tin và đời sống đạo đức của tôn giáo. Nó thúc bách cộng sản sử dụng dối trá để lphá hoại, làm mờ nhạt đi bản chất chân thật của tôn giáo. Và đây chính là một đòn thâm độc nhất trong công tác nhằm triệt hạ, lung lạc niềm tin của các tín đồ đặt vào tôn giáo của cộng sản.

Thí dụ trường hợp của ông Lm T. ở họ đạo vườn soài, vườn mít, bỗng nhiên xe lớn xe nhỏ của cán bộ ra vào không dứt. Ông ta yêu cầu gì chính quyền địa phương đều thỏa mãn. Kế đến, luôn ngất ngưởng bên chai rượu với quan cán, đôi khi lại còn có cả hộ lý của nhà nước nữa. Ông nổi danh vì những tai tiếng, Nhât cán nhì cha! Khi tìm hiểu ra. Y là kẻ được nhà nước mua chuộc, cài vào trong hệ thống chức sắc của Công Giáo để báng bổ tôn giáo ngay từ khi còn là một tu sinh! Bên nhà Chùa cũng có vài câu chuyện tương tự như thế. Bỗng nhiên một chiều từ một thành phố nào đó phát đi những chuyện phim dâm ô, làm ô uế cửa Chùa. Thật khó ai tin, nhân vật chính của cuốn phim, của câu chuyện hiếp dâm trẻ kia là một nhà tu hành. Có chăng là sư Việt cộng.

Thật ra, đây không phải là chuyện mới lạ gì. Ngay từ khi xuất hiện tại Việt Nam, CS đã có chủ trương biến dối trá thành một nguyên tắc cơ bản trong mọi ngành hoạt động. Từ các cơ sở trung ương đến hạ tầng. Từ trong các cơ quan công quyền, cho đến những nhà thương, trường học hay ở trong mọi lãnh vực đời sống của nhân dân, không một nơi nào mà cán bộ đoàn đảng viên nhà nước không thi đua nhau tạo ra gian trá. Kết quả, sau hơn 70 năm, từ quan cán đến dân thường, không phân biệt nam nữ, tuổi tác đều phải biết và thuộc lòng dối trá để tồn tại, để được thăng quan tiến chức mau lẹ, hay để cho xuôi công việc. Người ta, hầu như không còn tìm ra được những chân thật trong đời sống, ngoại trừ trong phạm vi nhỏ hẹp của các gia đình còn giữ niềm tin tôn giáo mà thôi!

Những phương cách tạo ra gian trá này không khó chứng minh. Hiện nay, tôi không tìm ra những tài liệu nào khả tín để có những con số dẫn chứng về tỷ lệ những người có ghi rõ tôn giáo như Công Giáo, Phật giáo, đạo Ông Bà, Tin Lành, Hòa Hảo… trong phần lý lịch của mình tại Việt Nam. Theo sự ước đoán của nhiều người, tỳ lệ ghi rõ tôn giáo khó vượt qua con số 20- 25% dân số. Trong khi đó, ai cũng biết tuyệt đại đa số người Việt Nam đều là người có tìn ngưỡng và rất sùng, mộ đạo. Theo đó, số lượng người Việt nam theo các tôn giáo phải ở con số 80- 90% dân số, bao gồm đạo thờ ông bà, đạo Phật, đạo Công Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo…

Tại sao ngày nay lại có con số qúa nhỏ được ghi trong phần lý lịch? Tại vì sự dối trá của cộng sản đã trở thành một nguyên tắc trong mọi sinh hoạt ở nơi đó. Người dân rất e ngại khi ghi rõ tôn giáo của mình trong phần lý lịch. Họ không ghi, không phải là không theo một tôn giáo nào, không phải là chốì đạo, bỏ đạo, nhưng là vì nếu tờ lý lịch nào ghi rõ tôn gíao là Phật Giáo, Công Giáo, Phật Gíáo Hòa Hảo, Tin lành… thì đều gặp rất nhiều trở ngại với Việt cộng, nhất là việc liên quan đến công ăn việc làm. Kết qủa, dầu không chấp nhận gian trá, không bao giờ chấp nhận cộng sản nhưng“ người ta phải nói dối nhau mà sống!”. Phải nói dối nhau cho xuôi công việc.!

Ngoài ra cũng có một điểm khác đáng ghi nhận trong công tác tạo ra gian trá của cộng sản là: Tất cả các đoàn đảng viên cán bộ của cộng sản đều là những kẻ vô thần. Trong lý lịch của họ, chắc chắc chẳng có mấy kẻ ghi trong mục tôn giáo là Công Giáo, Phật Giáo, đạo Ông Bà. Tin Lành, Hòa Hảo…. Nhưng đến khi về với bùn đất thì tất cả lại thi đua nhau mở lễ hội tụng kinh, gõ kẻng, khua trống làm như một kẻ có đạo thuần thành, nên khi chết cũng đưa tiễn theo nghi thức của một tôn giáo. Thế nghĩa là gì? Đạo này là đạo gì? Nhang đèn và lễ nghi kia có phải để dành cho những tên cộng sản vô thần đâu? Thử hỏi, đây có phải là cú lừa, cái dối trá cuối cùng mà mỗi đoàn đảng viên Việt cộng buộc phải làm trước khi không còn dịp nào dối trá nữa hay không? Rồi sau khi hạ huyệt, cũng có chuyện lạ, trên mộ phần của những người này đều không có cái búa, cái liềm là nghi biểu của đoàn đảng viên tôn thờ trong đời, nhưng lại là bát nhang và hình ảnh của Thần, Phật! Hỏi xem, việc làm cuối cùng này mang ý nghĩa gì? Bỏ bác đảng quay về với Thần, Thánh hay suốt đời vì bác vì đảng mà gian dối: Tôi đây cũng là người có “đạo”?

Nếu kể ra, chắc còn nhiều những thủ đoạn cộng sản dành cho tôn giáo, nhưng sự thật vẫn là: CS bùng phát tại Liên Sô vào đầu thế kỷ 20 lan tràn sang các quốc gia Âu châu, trong đó có Tây ban Nha. Liên Sô đã trợ giúp các nhóm cộng sản, xã hội và vô chính phủ, tạo nên cuộc nội chiên với cánh hữu, tội ác của chúng đã gây ra cái chết của hàng trăm ngàn người. Trong đó có khoảng hơn 4000 linh mục và tu sỹ, kể cả các nữ tu, đã bị phe tả ( cộng sản) giết hại, hành quyết. Hàng nghìn nhà thờ tu viện bị đốt phá. Liên Sô dưới thời Stalin đã coi đây là một thị trường lớn để xuất khẩu vũ khí và ý thức hệ Stalinism. Nhưng Cs đã bị vuì dập ngay lập tức tại quốc gia này vào năm 1936. Rồi nhờ vào đệ nhị thế chiến, CS Liên Sô tràn sang Đông Âu, tạo nên những cuộc giết người vô cùng tàn bạo trong lịch sử, không thua kém gì, nếu không muốn nói còn hơn những tội ác của Hitler, trong đó phải kể đến việc Stalin thảm sát hơn 20000 sỹ quan của Ba Lan tại rừng Katyn vào tháng 4-5/ 1940. Kết qủa, toàn bộ hệ thống cộng sản tại Đông Âu, kể cả Liên Sô đã sụp đổ vào năm 1989. Bản thân Lenin, Stalin dù đã chết vẫn không thoát án treo cổ. Hình ảnh của y bị đập bỏ ngay từ chính nơi y được sinh ra. Hồ chí Minh sẽ bị xử thế nào?

Trở lại chuyện Việt Nam. Liệu tội ác và gian trá của CS có thể thắng và chế ngự được nền luân lý, đạo nghĩa và văn hóa nhân bản của Việt Nam hay không? Tôi khẳng định rằng không và sẽ không bao giờ chúng có thể chế ngự được, dù chúng có dựa vào thế lực của Trung cộng cũng là không. Vào lúc này Cộng sản xem có vẻ thắng thế. Tuy nhiên, cái sự kiện gọi là thắng thế và dựa vào kẻ ngoại xâm ấy rất giới hạn. Nó giống cái xác thối vô thừa nhận bên lề đường đang rữa mục. Tất cả xú uế sẽ trôi đi sau một trận mưa lớn. Bởi vì:

a. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có tín ngưỡng, có lòng đạo hạnh cao độ và là người rất trọng tình nghĩa.

b. Văn hóa của Việt Nam là một dòng văn hóa có truyền thống đạo nghĩa. Hiền hòa, hiếu khách nhưng thù ghét sự dối trá. Nền luân lý của họ dựa trên Nhân Lễ Nghĩa Tín Trung. Không bao giờ có chữ Trá!

c. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc hào hùng, khí phách, có tinh thần yêu quê hương đất nước vượt bực. Không hề chấp nhận bất cứ một cuộc thống trị, hoặc lai căng nào từ bên ngoài, dù đó là Tàu hay Tây.

Với nền luân lý căn bản này, tôi cho rằng cảnh tầm gửi của cộng sản tại Việt Nam không thể lâu dài. Việc CS đập phá các chùa chiền, cướp đoạt các cơ sở của các tôn giáo tưởng là thành quả vĩ đại, ai ngờ, chính là phương cách chúng tự đào mồ cho mình. Bởi vì đó là việc làm của những kẻ “đưa chân đạp mũi nhọn”, tự chuốc lấy sự hủy diệt. Và vì lịch sử đã chứng minh rằng, dẫu có là ngàn năm dưới gông kìm bị bách hại, niềm tin và sự giáo dục của tôn giáo và truyền thống đạo nghĩa vẫn thiên thu bền vững.

III. Đẩy tuổi trẻ Việt Nam vào lối sống đoản kỳ, không tương lai..

Với một nền giáo dục vô đạo nghĩa, cộng sãn đã đẩy tuổi trẻ Việt Nam vào bước đường cùng, không lôi thoát, không có tương lai, nói chi đến sự phát triển. Sự kiện khủng hoảng này đã buộc tuổi trẻ bước vào lối sống đoản kỳ, tranh đua với chút vật chất, hướng hạ, qua ngày. Bỏ hẳn phần tinh thần, hướng thượng, mà một đời người cần phải có khi vào đời. Và Đây là nguyên nhân thú hai sau phương cách giáo dục quá tồi tệ đã làm tràn nước mắt của bao người khi nhìn những hình ảnh đau thương ở các nghĩa trang Hài Nhi.

Trong cuộc sống vội vàng, hướng hạ cho qua từng ngày, xem ra việc trao đổi thân xác để dành lấy chút tiện nghi cho mình như bộ váy đẹp, cái đồng hồ, cái phone kiểu mới hay đồng tiền, không còn được tính toán bằng tinh thần, lý trí, nhưng là cân nặng bằng vật chất, trở thành một việc làm gần như bình thường. Nó trở nên bình thường vì tâm hồn trong trắng và lòng cao thượng của tuổi trẻ vốn đã bị vuì dập, làm cho hoen ố vì những bài học vô gia đình, vô cội nguồn vô tôn giáo của cộng sản. Do đó, một khi tâm hồn con người đã bị hoen ố, đã bị băng hoại lại không tìm được chỗ đứng, không nhìn thấy tương lai để vươn lên, tuổi trẻ còn kể chi đến cái thể xác đã mất hướng đi kia mà không lao đầu vào cuộc sống vội vã, chụp giựt?

Bên cạnh sự trống vắng của tâm hồn, của hướng đi, của giáo dục, lại đầy dẫy những cạm bẫy, mời chào từ những tranh ảnh, phim trường. Hay từ những kẻ vô đạo dựa vào cộng sản mà có tiền, có thế, có quyền lực sẵn sàng vung tiền bạc vào những cuộc ăn chơi, đua đòi. Kết qủa, giáo dục hướng hạ của cộng sản mở ra. Nó lôi kéo tuổi trẻ, thanh thếu niên nam nữ vào những cuộc đổi chác chớp nhoáng bằng thân xác. Kẻ có tiền, có thế thì vung tiền. Kẻ không có thì lao đầu vào cuộc trộm cướp, chém giết, đôi khi nạn nhân chính là người thân của mình để kiếm tiền mua cuộc sống ngắn ngủi, đoản kỳ.*( xem phụ ghi).

Câu chuyện về cái quần, cái váy, cái đồng hò, cái xe máy, đồng tiền… không dừng lại ở đó. Trái lại, nó đòi phải thỏa mãn cho những nhu cầu đã có, và tiếp tục có. Kết quả. Nó đẩy hàng trăm ngàn, hơn thế, hàng triệu thanh thiều nữ, học sinh trung học, sinh viên cao đẳng, đại học, thậm chí sinh viên cao học lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ đoản kỳ với nhiều lý do, bất chấp hậu quả. Rồi cái hậu qủa cuối cùng đã đến là nhiều bào thai vô thừa nhận, có khi được thừa nhận đã hình thành. Nhưng không ai chịu trách nhiệm bảo dưỡng nó. Tệ hơn, lại có nhiều đồ tể ở trong các cơ sở của nhà nước Việt cộng sẵn sàng giết nó bằng cách nạo, hút, phá bỏ…

Máu của những “thiên thần bé nhỏ” đã chảy xuống từ đây. Được đưa qua các ống cống nhà cầu. Một số bị vất bên lề đường, thùng rác cho chó tha, mèo gặm, ruồi bu, kiến độ. Một số rất nhỏ, may mắn gặp được những tâm hồn quảng đại như bà Nhiệm, ông Thạo, ông Nho, ông Bao, cô Lập, cô Sinh, anh Phước, anh Năng, LM Đông, LM Phaolo, LM Tịch… Những cuộc đời chưa được sinh ra đã mất cuộc sống này còn được tắm rửa, khâm liệm, được yên nghỉ trong một phần mộ, trong mảnh đất lắm đau thương này thì cũng được gọi là “ cho tròn một kiếp nhân sinh”, có hạnh ngộ với con người! Cuộc ra đi lắm đau thương tràn nước mắt như thế thì tìm đâu ra kẻ tự xưng là “ bác hồ” thương thiếu nhi, nhi đồng? Có chăng chỉ có những bạo tàn, gian dối và bầy Cáo Hồ chí Minh lăm le toan đoạt mạng sống của các em mà thôi!

Hỡi tuổi trẻ Việt Nam, hãy đứng dậy đi. Chúng ta không thể ngồi chờ hay ngủ vùi trong bóng tối của cộng sản, là bóng tối của gian trá của tội ác và sự chết. Chúng ta hãy vùng dậy để đòi quyền sống và quyền làm ngưòi cho chúng ta và cho con cháu chúng ta mai sau...

IV. Làm sao cho vơi nguồn bất hạnh?

Bảo Giang

• phụ ghi từ Vnexpress.net

• Thi thể bé gái trong thùng rác vùng ven Sài Gòn

Sáng 27/6/15, bé gái còn nguyên cuống rốn được phát hiện đã tử vong trong sọt rác khu phố 4, phường An Phú Đông, quận 12, TP HCM.

• Kẻ phi tang xác mẹ trong lu nước lĩnh 18 năm tù

Sau ba tháng ra tay sát hại đấng sinh thành, Đạt phải nhận mức án cao nhất dành cho người chưa thành niên. Ngày 26/6, TAND tỉnh Kiên Giang đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Khả Đạt (18 tuổi) 18 năm tù về tội Giết người và Cướp tài sản. Đạt khai, đã dùng khúc gỗ đập nhiều cái đến khi người mẹ chết hẳn. Gây án xong, nghịch tử lột toàn bộ lắc, dây chuyền, bông tai của mẹ. Để che giấu, kẻ thủ ác lôi xác nạn nhân ra phía sau nhà, bỏ vào lu nước rồi đậy nắp lại, Sáng hôm sau, hung thủ rủ bạn gái đi bán vàng được hơn 60 triệu đồng…