Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Giáo Hội có thêm 4 vị thánh mới

Lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật đã có hơn 50 ngàn tín hữu hiện diện tại Quảng trường thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu để tham dự thánh lễ tuyên phong 4 vị Chân Phước lên hàng hiển thánh là cha Vincenzo Grossi, người Ý, Nữ tu Maria Đức Mẹ Vô Nhiễm, người Tây Ban Nha, và Ông Bà Louis Martin và Zélie Guérin, người Pháp, song thân của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

Đồng tế với Đức Thánh Cha có các Hồng Y và Giám Mục tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục, cùng với các Hồng Y, Giám Mục và linh mục liên hệ với 4 vị thánh được tôn phong, trong số này có hơn 100 linh mục thuộc dòng Đạo Binh Chúa Kitô đảm nhận việc cho các tín hữu rước lễ. Tổng cộng có 90 Hồng Y hiện diện trong thánh lễ.

Đầu thánh lễ, sau lời chào phụng vụ của Đức Thánh Cha, cộng đoàn đã hát kinh cầu xin Chúa Thánh Thần, và nghi thức phong hiển thánh bắt đầu: Đức Hồng Y Angelo Amato, dòng Don Bosco, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, nhân danh toàn thể Giáo Hội xin Đức Thánh Cha ghi tên 4 chân phước Vincenzo Grossi, Maria Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Louis Martin và Marie Azélie Guérin, đôi vợ chồng, vào sổ bộ các thánh. Rồi Đức Hồng Y trình bày vắn tắt tiểu sử 4 vị, trước khi Đức Thánh Cha mời gọi toàn thể các tín hữu cùng đọc kinh cầu các thánh để cầu xin ơn phù trợ của các ngài trước quyết định quan trọng sắp diễn ra.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Giờ đây, Đức Thánh Cha long trọng đọc công thức tuyên thánh cho 4 vị Chân Phước:

“Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi cực thánh, để tuyên dương đức tin Công Giáo và thăng tiến đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi suy nghĩ chín chắn, nhiều lần khẩn cầu ơn phù trợ của Chúa và lắng nghe ý kiến của nhiều anh em chúng tôi trong hàng Giám Mục, chúng tôi tuyên bố và xác định Chân Phước Vincenzo Grossi, Maria Đức Mẹ Vô Nhiễm, Louis Martin và Marie Zélie Guérin là hiển thánh và chúng tôi truyền ghi tên các ngài vào sổ bộ các Thánh và qui định rằng trong toàn thể Giáo Hội, các Ngài được được tôn kính với lòng sùng mộ nơi Các Thánh. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”

Đức Thánh Cha vừa dứt lời, cộng đoàn vỗ tay nồng nhiệt và ca đoàn cùng cộng đoàn ca bài Jubilate Deo, Hãy tung hô Chúa, hãy hát mừng Chúa.. Trong khi đó, thánh tích của 4 vị tân hiển thánh được rước lên cho Đức Thánh Cha hôn kính trước khi đặt trên một giá nhỏ phía trước bàn thờ.

2. Đức Tổng Giám Mục Jacques Behnan Hindo chỉ trích tuyên bố của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa về tình hình tại Syria

Hôm thứ Tư 30 tháng 9, không quân Nga đã bất ngờ mở các cuộc không kích mà họ cho là nhắm vào các lực lượng của quân khủng bố Hồi Giáo IS. Nhà lãnh đạo hàng đầu của Giáo Hội Chính Thống Nga là Đức Thượng Phụ Kirill của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa đã nhanh chóng lên tiếng ủng hộ sự can thiệp quân sự của Nga tại Syria.

Ngài nói:

“Liên bang Nga đã thực hiện một quyết định có trách nhiệm về việc sử dụng các lực lượng vũ trang nhằm bảo vệ người dân Syria khỏi những thống khổ gây ra bởi sự tùy tiện của những kẻ khủng bố. Chúng tôi tin rằng quyết định này sẽ sớm mang lại hòa bình và công lý cho vùng đất cổ xưa này.”

“Chúng tôi cầu nguyện cho cuộc xung đột địa phương thê thảm này không phát triển thành một cuộc chiến tranh lớn hơn nữa, xin cho việc sử dụng vũ lực này không dẫn đến cái chết của thường dân vô tội, và cho tất cả quân nhân Nga trở về an toàn”.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc hôm 2 tháng 10, Đức Tổng Giám Mục Jacques Behnan Hindo của tổng giáo phận Hassaké, Syria cũng lên tiếng ủng hộ can thiệp của người Nga.

Ngài nói: “Các cuộc tấn công của không quân Nga gần đây đã buộc các lực lượng Hồi giáo phải rút lui. Can thiệp của Mạc Tư Khoa đang đem lại những hệ quả rất tích cực”

Tuy nhiên, trước tuyên bố hồi đầu tuần này, trong đó các nhà lãnh đạo của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa tuyên bố rằng cuộc chiến của Nga tại Syria là một cuộc “thánh chiến”, Đức Tổng Giám Mục Jacques Behnan Hindo nói với thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc rằng “thật là ngu xuẩn khi mô tả can thiệp quân sự của Nga là một cuộc thánh chiến”.

Ngài nói thêm với Fides rằng khái niệm về một “cuộc thánh chiến” là một trong những khái niệm nguy hiểm chết người, được đưa ra bởi các giáo sĩ “không hề sống ở Trung Đông.” Ngài cảnh báo chống lại việc khai thác có tính cách ý thức hệ những đau khổ các Kitô hữu phải chịu đựng của trong khu vực.

Đức Tổng Giám Mục chỉ ra rằng những kẻ cực đoan Hồi giáo thường xuyên rêu rao rằng họ đang tham gia vào một cuộc “thánh chiến”. “Khi chúng ta cũng dùng một diễn đạt tương tự như thế, chúng ta mặc nhiên xác nhận ý thức hệ đẫm máu của họ: nếu thực sự đang có một cuộc thánh chiến đang diễn ra, bọn khủng bố có thể biện minh mạnh hơn cho mỗi tội ác chúng gây ra cho các Kitô hữu ở đây.”

Quan hệ thân mật giữa Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa và chính quyền dân sự Nga đã gây nên nhiều chỉ trích trong thế giới Chính Thống Giáo.

Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô, là Thượng Phụ Đại Kết Chính Thống Giáo, đã thường xuyên tranh cãi trong những năm gần đây với các nhà lãnh đạo của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa về mối quan hệ quá khắn khít với nhà cầm quyền Điện Cẩm Linh.

Một đoạn trong diễn từ của ngài hôm 29 tháng 8 vừa qua trước 140 Giám Mục Chính Thống tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, rõ ràng là nhằm chỉ trích các lãnh đạo Chính thống Nga khi ngài phê phán rằng trong Giáo Hội Chính Thống có các thể chế “duy trì một mối quan hệ mật thiết với nhà nước nhằm tận hưởng những hỗ trợ tài chính dồi dào,” và thúc đẩy các lợi ích chính trị của quốc gia mình.

3. Đức Tổng Giám Mục Paul-André Durocher của tổng giáo phận Gatineau, Canada giải thích về đề nghị phong chức phó tế vĩnh viễn cho phụ nữ

Một trong các phát biểu gây ra nhiều bàn cãi bên trong cũng như bên ngoài Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đình là đề nghị nghiên cứu việc phong chức phó tế vĩnh viễn cho phụ nữ của Đức Tổng Giám Mục Paul-André Durocher của tổng giáo phận Gatineau, Canada.

Khi được hỏi tại sao ngài đưa ra một đề nghị chuyên biệt như vậy trong khuôn khổ của một Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đình, Đức Cha Paul-André Durocher cho biết như sau:

Thực ra, đó không phải là vấn đề chuyên biệt mà tôi trình bày. Tôi đã đề cập vấn đề bạo hành đối với phụ nữ và những điểm đầu tiên trong bài phát biểu của tôi là nhắc nhở các nghị phụ Thượng Hội Đồng về số liệu thống kê gần đây của một tổ chức quốc tế y tế là Tổ chức Sức khỏe Thế giới theo đó gần một phần ba phụ nữ bị bạo hành bởi người phối ngẫu của mình. Làm sao chúng ta là Thượng Hội Đồng về gia đình lại có thể không màng đến thực tế khủng khiếp như thế và vì vậy tôi đề nghị và tôi nhắc nhở các nghị phụ Thượng Hội Đồng rằng tôi đã quen thuộc với vấn đề này 30 năm trước khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chỉ trích điều này và yêu cầu phải có những hành động rất cụ thể về phía tất cả các cơ quan của Giáo Hội để chống lại tai ương này. Tôi chỉ gợi lại cho anh em mình, tôi chỉ nhắc lại lại lời kêu gọi này của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị và tôi đề nghị với Giáo Hội điều trước nhất và tối thiểu nhất chúng ta có thể làm là khẳng định rằng chúng ta không thể, và không ai có thể lý giải cho sự thống trị phụ nữ bởi nam giới bằng cách biện minh về mặt chính trị cho hành động này.

Anh biết rằng thật là một diễn dịch sai về Kinh Thánh khi cho rằng đàn ông cao trọng hơn phụ nữ, tôi muốn tham chiếu đoạn Kinh Thánh trong thư của Thánh Phaolô, trong đó ngài nói người đàn bà phải phục tùng chồng mình. Văn bản đó không biện minh cho sự thống trị và bạo lực của nam giới đối với phụ nữ và chúng ta nên nói điều này thật to và rõ ràng. Đó là điểm thứ nhất trong phát biểu của tôi, nhưng sau đó Tài Liệu Làm Việc còn nữa, vì những gì tôi đang làm là trả lời số 29 trong Tài Liệu Làm Việc trong đó đề cập đến vấn đề này. Tài Liệu Làm Việc tiếp tục nói đến sự liên kết giữa vai trò lớn hơn của phụ nữ trong Giáo Hội và một phương thế nào đó, Giáo Hội thể hiện sự bình đẳng của phụ nữ và nam giới và vì vậy tôi nghĩ là tôi muốn đưa ra ba đề xuất về lãnh vực này. Trước hết là xem xét những vị trí hiện có trong Giáo triều Rôma và các giáo phận của chúng ta, những vị trí có thẩm quyền, những vị trí có thể đưa ra các quyết định mà chúng ta có thể mở rộng cho phụ nữ trong một nỗ lực thực sự có phối hợp để chỉ định những vị trí như thế cho phụ nữ. Đó sẽ là một trong những điều chúng ta có thể làm. Điều thứ hai, có lẽ là chúng ta có thể cho phép các cặp vợ chồng, những người nam nữ được đào tạo kỹ lưỡng và được tháp tùng chặt chẽ để có thể nói chuyện trong khuôn khổ những bài giảng Chúa Nhật để họ có thể nói về sự liên kết, sự liên hệ giữa Lời Chúa và những kinh nghiệm sống như những cặp vợ chồng và như những bậc cha mẹ. Đó sẽ là một cách khác để làm nổi bật phẩm giá của phụ nữ trong Giáo Hội và điều thứ 3 mà tôi cho rằng có lẽ bây giờ là thời gian để nghiên cứu nghiêm túc các khả năng mở rộng chức phó tế vĩnh viễn cho phụ nữ. Bởi vì vấn đề đó chưa có kết luận. Nó vẫn là một vấn đề được để ngỏ. Đó là 3 gợi ý, mà tôi thực sự muốn nói là cách nào đó chúng ta có thể cho thấy Giáo Hội như một định chế đề cao sự bình đẳng của phụ nữ. Đây sẽ là một dấu chỉ rất mạnh mẽ đến tất cả các cặp vợ chồng đó là những phụ nữ không thể, và không bao giờ có thể bị ngược đãi, bị đối xử bằng bạo lực, bị chà đạp giữa các cặp vợ chồng hay trong gia đình.

Cho đến nay chúng ta có thể nói Đức Cha không phải là người duy nhất đề cập đến chủ đề này trong Thượng Hội Đồng. Có những nghị phụ Thượng Hội Đồng khác cũng đặt nặng vấn đề bạo lực đối với phụ nữ và sự bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới ở một số nơi trên thế giới. Nhưng dựa trên 3 gợi ý do Đức Cha đưa ra một số người e sợ là nếu chúng ta xem xét một số vấn đề như thế, thì điều này sẽ tự động mở ra cánh cửa cho việc phong chức cho phụ nữ. Chúng ta đều biết rằng phong chức linh mục cho phụ nữ là một cái gì đó Giáo Hội không thể thực hiện được. Đức Cha đáp lại như thế nào trước những suy diễn như thế về đề nghị của Đức Cha?

Vâng, tôi sẽ nói là chúng ta hãy xem xét các đề nghị này đúng với bản chất của chúng và đừng xem chúng như một âm mưu nhằm đạt được các mục tiêu khác. Tôi đang suy tư về những gì có thể nhằm mang lại cho phụ nữ một vai trò lớn hơn trong Giáo Hội để Hội Thánh được phong phú với những tài năng của phụ nữ và đồng thời để Giáo Hội như một định chế có thể thể hiện trước thế giới một thái độ cần phải được noi theo bởi tất cả các tổ chức trên thế giới và bởi tất cả các cặp vợ chồng. Tôi sẽ thấy buồn nếu những đề nghị này bị gạt sang một bên vì sự sợ hãi những vấn đề khác. Vì vậy, tôi hy vọng chúng sẽ được xem xét đúng thực chất, và được nghiên cứu dưới ánh sáng này.

4. Người Palestine trong cơn cuồng nộ đốt phá ngôi mộ ông Giuse con tổ phụ Giacóp

Căng thẳng giữa Do Thái và Palestine tiếp tục dâng cao sau gần một tháng bạo động. Hôm thứ Sáu 16 tháng 10, những người biểu tình đã đốt cháy một đền thờ Do Thái ở Tây Ngạn. Trong khi đó, tại Hebron, một kẻ tấn công giả mạo như là một nhà báo đã đâm một người lính Israel trước khi bị bắn chết.

Quân đội Israel cho biết khoảng 100 người đã đổ về đền thờ có ngôi mộ của ông Giuse, con của tổ phụ Giacóp tại thành phố Nablus trong khu vực do người Palestine kiểm soát và đốt phá đền thờ này trước khi lực lượng an ninh Palestine đến và đẩy lui những kẻ phá hoại.

Sách Sáng Thế Ký, từ chương 37 đến chương cuối cùng là chương 50, đã thuật lại câu chuyện của ông Giuse từ khi bị các anh em bán sang Ai cập cho đến cuối đời.

Ngôi mộ ông Giuse đã được tôn kính trong nhiều thế kỷ qua bởi người Do Thái, người Samaritanô, các Kitô hữu và cả người Hồi giáo.

Một tuyên bố của quân đội Do Thái về các cuộc tấn công đền thờ này cho biết: “Chúng tôi xem vụ việc này là rất nghiêm trọng và mạnh mẽ lên án bất kỳ cuộc tấn công vào các đền thờ. Chúng tôi sẽ tìm và bắt giữ những ai đốt phá”.

Tổng thống Palestine Mahmoud Abbas đã lên án vụ tấn công. Ông ra lệnh cho sửa chữa ngay các thiệt hại và mở một cuộc điều tra vụ đốt phá này.

Một tuyên bố từ văn phòng của ông Abbas nói: “Tổng thống mạnh mẽ lên án hành vi này và tất cả mọi hành động vi phạm pháp luật và trật tự, xuyên tạc nền văn hóa, đạo đức và tôn giáo của chúng ta.”

Vài giờ sau đó, một kẻ tấn công người Palestine giả làm nhà báo đã dùng dao đâm bị thương một người lính Israel trước khi bị bắn chết gần thị trấn Hebron.

Hiệp hội báo chí nước ngoài tại Israel và các vùng lãnh thổ Palestine lên án vụ tấn công và kêu gọi các tổ chức truyền thông Palestine kiểm soát chặt chẽ tất cả thông tín viên của mình.

Những bất ổn đã nổ ra chủ yếu ở Giêrusalem và Tây Ngạn trước khi lan sang dải Gaza. Đây là những vụ bạo động nghiêm trọng nhất trong nhiều năm qua năm, đến nay đã cướp đi mạng sống của 35 người Palestine và 7 người Israel. Trong số những người Palestine bị thiệt mạng có 11 kẻ đã dùng dao tấn công ngẫu nhiên vào người Do Thái trên đường phố hay trên xe buýt.

Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc sẽ tổ chức một cuộc họp đặc biệt để thảo luận về tình hình nghiêm trọng trong khu vực. Trong khi đó, lực lượng Hamas, đang kiểm soát dải Gaza, tiếp tục kêu gọi “các cuộc biểu tình cuồng nộ” trong tất cả các thành phố ở Tây Ngạn.

5. Đức Thánh Cha bất ngờ thăm nhà trọ dành cho người vô gia cư

Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực hiện một chuyến thăm bất ngờ đến nhà trọ dành cho người vô gia cư mới được Tòa Thánh khánh thành ngay bên ngoài thành phố Vatican. Đây là động thái mới nhất của vị giáo hoàng nhằm kêu gọi sự chú ý tới tình cảnh nghèo nàn trên thế giới.

Đức Thánh Cha đã thực hiện một chuyến đi ngắn từ Vatican đến trung tâm Rôma, gần sông Tiber, vào khoảng 7 giờ tối ngày thứ Năm 15 tháng 10.

Khoảng 30 người đàn ông vô gia cư đang cư ngụ tại đây đã hết sức vui mừng. Nhiều người đã có thể nói chuyện với Đức Giáo Hoàng, kể lại câu chuyện của họ và yêu cầu ngài ban phép lành cho mình. Chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng đã kéo dài khoảng 20 phút.

Cùng đi với Đức Thánh Cha còn có quan phát chẩn của Tòa Thánh là Đức Tổng Giám mục Konrad Krajewski và cha Adolfo Nicolas, là bề trên Tổng Quyền Dòng Tên; và ba nữ tu làm việc tại nhà trọ này.

Nhà trọ Dono di Misericordia, nghĩa là “Món quà của lòng Từ Bi”, đã được khánh thành vào đầu tháng này và có thể cung cấp chỗ nghỉ đêm cho 34 người. Tòa nhà này đã được các tu sĩ Dòng Tên hiến tặng theo lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong việc giúp đỡ người nghèo.

Có những tin đồn rằng Đức Thánh Cha thỉnh thoảng vẫn ra khỏi Vatican để gặp gỡ những người vô gia cư và các nhân viên giúp đỡ họ.

Trong các nỗ lực kêu gọi sự chú ý đến người nghèo đặc biệt là những người vô gia cư, Tòa Thánh đã lần lượt khánh thành nhà tắm miễn phí, cũng như nơi cắt tóc và cạo râu miễn phí. Một nhóm người vô gia cư đã được mời tham gia một chuyến du lịch bảo tàng viện Vatican, bao gồm cả nhà nguyện Sistina.

Trong chuyến thăm gần đây của Đức Thánh Cha tại Hoa Kỳ, ngài đã đến thăm một cư xá dành cho người vô gia cư ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nơi ngài nói rằng “không thể biện minh cho việc thiếu nhà ở.”

6. Vòng đàm phán thứ hai Trung Quốc-Vatican tại Bắc Kinh

Vòng đàm phán thứ hai Trung Quốc-Vatican đã được tổ chức từ 11 tháng 10 tại Bắc Kinh. Cuộc họp được tổ chức trong bối cảnh một cuộc đàn áp tôn giáo quy mô lớn đang diễn ra ở Trung Quốc, trong đó nhà cầm quyền trung ương tìm cách thúc đẩy chính sách “Trung Hoa hóa” về tôn giáo ở nước này. Nhà nước tìm cách hạn chế, nếu không thể loại bỏ hoàn toàn, những ảnh hưởng từ bên ngoài.

Các báo cáo từ tỉnh Tứ Xuyên cho biết nhà cầm quyền Trung quốc đã buộc các linh mục phải viết một “bản tự kiểm” giải thích về sự hiểu biết của các ngài đối với chính sách Trung Hoa hóa và làm thế nào để vận dụng chính sách này trong các hoạt động mục vụ của họ.

Phái đoàn Vatican đã rời Trung Quốc hôm 14 tháng 10. Không có thông tin chính thức về những gì đã được thảo luận và những người tham gia trong vòng đàm phán này. Tuy nhiên, báo chí tại Hương Cảng cho biết phiá Trung quốc có các giới chức ngoại giao và cục tôn giáo vụ Trung quốc.

Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đã từng tham dự cuộc đàm phán vòng thứ nhất tại Trung Quốc vào năm 2009 khi ngài còn là thứ trưởng ngoại giao của Vatican.

7. Đức Tổng Giám Mục Charles Chaput nói không thể theo Chúa nửa vời

Trong khi Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đình thu hút “sự chú ý đông đảo của giới truyền thông với những diễn giải rất khác nhau”, Đức Tổng Giám Mục Charles Chaput của Philadelphia nói trên tờ báo hàng tuần của tổng giáo phận Philadelphia rằng “Giáo Hội không thể đánh đổi tính trung thực của mình để được tiếng là thương xót.”

“Nhiệm vụ của chúng tôi trong tư cách là các giám mục tại thượng hội đồng trong tháng này, và nói thẳng ra là nhiệm vụ mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi mỗi Kitô hữu ở mọi thời đại, là nói lên sự thật với sự kiên nhẫn, khiêm nhường và tình yêu. Chân lý mà không có lòng từ bi gây ra những vết thương và làm nản chí; nhưng lòng thương xót mà không có sự thật chỉ là một hình thức nói dối thoải mái”.

Ngài nói thêm:

“Nếu việc trở thành một người Kitô hữu chỉ đơn giản là gia nhập một tổ chức, thì tư cách thành viên có thể dễ dàng thay đổi theo ý chúng ta muốn. Nhưng nếu là một Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Giêsu Kitô, thì những lời của Chúa Giêsu không thể bị uốn nắn hay bỏ qua, vì cái Người đòi hỏi nơi chúng ta là một tình yêu thể hiện sự trao ban tổng thể cho Chúa như Người đã trao ban cho chúng ta. Chúng ta không thể thương lượng chỉ muốn được một phần của Chúa Giêsu. Chúng ta chỉ có thể có Chúa khi chúng ta trao cho Người tất cả mọi thứ. Nếu chúng ta chỉ muốn trao cho Người một phần của chính mình, chúng ta sẽ chẳng nhận được gì - chẳng được sự thật, và chẳng được Chúa Giêsu đâu.

Chúng ta đều cảm nhận được sự tiến thoái lưỡng nan của những người tốt đã ly dị và tái hôn dân sự nhưng muốn có sự an ủi của bí tích Thánh Thể, và cả những người khác đang đối mặt với những hấp lực đồng giới. Không ai có thể phủ nhận những khó khăn mà những người này đôi khi phải đối mặt. Nhưng chúng ta cần Tin Mừng để hướng dẫn chúng ta trong lý luận của mình. Vấn đề trọng tâm là: chúng ta và họ muốn đón nhận Chúa Giêsu Kitô trên các điều kiện của Ngài hoặc trên các điều kiện của chúng ta? Nếu trên nguyên tắc chúng ta không thể chấp nhận cảm giác khó chịu, đau khổ và cả sự tử đạo nữa, thì chúng ta không thể là môn đệ Ngài. Chúng ta không thể viết lại hoặc bỏ qua những gì Chúa Giêsu đòi hỏi để theo Ngài.

Chúng ta có thể chọn để bao gồm hoặc loại trừ bản thân mình trên con đường theo Chúa Giêsu. Ngài sẽ không bao giờ ngừng yêu thương chúng ta, bất cứ chúng ta lựa chọn con đường nào. Nhưng trong tất cả các vấn đề luân lý khó khăn hiện nay, các điều khoản trong mối quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu không đến lượt chúng ta quyết định.

8. Cha Jacques Mourad đã trốn thoát khỏi quân khủng bố Hồi Giáo IS.

Cha Jacques Mourad, bề trên tu viện Mar Elian, bị quân khủng bố Hồi Giáo IS bắt giữ tại Syria ngày 21 tháng Năm 2015, đã trốn thoát vào hôm thứ Bảy 10 tháng Mười năm 2015.

Trong một cuộc trao đổi phát trên Ðài Truyền hình Công Giáo Italia TV2000, cha Mourad thuộc Giáo Hội Công Giáo Syria, kể lại: “Tôi đã giả dạng làm một tín đồ Hồi giáo và nhờ sự giúp đỡ của một người bạn Hồi giáo, tôi dùng xe môtô trốn khỏi nơi giam giữ và chạy tới tận Zeydal, gần Homs”.

Cha cũng cho biết về những ngày bị giam giữ: “Hầu như ngày nào cũng có người vào phòng giam và hỏi tôi: 'Mi là ai ?' Tôi trả lời : 'Tôi là người Nazareth, tức là Kitô hữu'. - 'Như vậy mi là một người ngoại, mi phải cải đạo, bằng không sẽ bị cắt cổ' - 'Không bao giờ tôi ký vào giấy bỏ đạo Kitô giáo!”. Khi bị bắt đi, cha Mourad đang trông coi tu viện Mar Elian gần Qaryatayn, cách Palmyra khoảng 100 kilômét.

Trong hai năm 2013 và 2014, tu viện này đã tiếp nhận hàng mấy trăm người tị nạn Hồi giáo và Kitô giáo chạy trốn khỏi các làng lân cận. Cha Mourad bị bắt khi ngài đang làm công việc tổ chức tiếp nhận các người tị nạn ở Palmyra. Hai tháng sau, thành phố và tu viện bị quân Hồi giáo tấn công, tu viện bị xe ủi san bằng, và 230 người bị bắt, trong số này có 60 người Kitô hữu.

Cha Mourad kể, sau khi bắt cha, quân khủng bố Hồi Giáo IS đã nhốt cha bốn ngày trong một chiếc xe giữa vùng núi trước khi chuyển tới Raqqa và giam cha tại đây ba tháng, sau đó vào ngày 11 tháng Tám năm 2015 lại chuyển tới một nơi gần Palmyra, “nơi có 250 Kitô hữu khác cũng bị giam giữ”.

Cha cho biết cha không hề sợ chết: “Ðó là phép lạ của Chúa: bị giam giữ và chờ ngày chết mà vẫn cứ cảm thấy rất bình an trong sâu thẳm lòng mình... Tôi chẳng ngại khi phải chết vì danh Chúa, tôi không phải là người đầu tiên mà cũng chẳng phải là người cuối cùng, tôi chỉ là một trong hàng ngàn người tử đạo chết vì Ðức Kitô”.

Hiện nay, cùng với một linh mục Chính Thống giáo và mấy người bạn Bedouin và Hồi giáo, cha đang tìm cách giải cứu cho 200 người Kitô hữu khác đang còn bị giam giữ. Bốn mươi người trong số này có thể đã chạy thoát, theo tin của TV2000.


9. Tóm lược các diễn biến Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đình tuần thứ hai

Sau một ngày nghỉ ngơi, hôm thứ Hai 12 tháng 10, các nghị phụ và các tham dự viên khác đã tái nhóm và thảo luận trong 13 nhóm nhỏ trong hai ngày thứ Hai và thứ Ba trước khi nhóm phiên khoáng đại vào sáng thứ Tư để nghe các nhóm tường trình. Chiều thứ Tư và trọn ngày thứ Năm, các nghị phụ đã tiếp tục trình bày những ý kiến của các ngài trong các phiên khoáng đại. 93 vị đã phát biểu trong hai phiên chiều thứ Tư và sáng thứ Năm. Sáng thứ Sáu, 16/10, Thượng Hội Đồng Giám Mục nhóm phiên khoáng đại để nghe ý kiến của các dự thính viên và đại diện của các Giáo Hội anh em. Các tham dự viên đã trở lại thảo luận trong 13 nhóm nhỏ vào chiều thứ Sáu và sẽ tiếp tục thảo luận trong nhóm cho tới sáng thứ Ba 20 tháng 10.

Tài liệu làm việc dự kiến chia làm ba phần rõ rệt trong đó mỗi tuần các nghị phụ sẽ trình bày và thảo luận về một chủ đề nhất định. Tuy nhiên, cuối tuần thứ nhất đã có những nghị phụ phát biểu về phần thứ ba. Trong tuần thứ hai, nhiều nghị phụ đã trình bày các chia sẻ của các ngài về phần cuối cùng này.

Nhiều nghị phụ đã nhấn mạnh sự cần thiết là Giáo Hội phải nói với một giọng tích cực, rõ ràng, đơn giản, và kiên trì khẳng định cuộc sống gia đình theo lý tưởng Kitô là có thể đạt được. Đức Tổng Giám Mục Diarmuid Martin của Ái Nhĩ Lan nói rằng “lặp đi lặp lại các công thức giáo lý sẽ không mang ánh sáng Phúc Âm và tin mừng gia đình vào một xã hội đối kháng. Chúng ta phải tìm một thứ ngôn ngữ giúp những người trẻ đánh giá cao sự mới mẻ và những thách đố của Tin Mừng”. Đức Tổng Giám Mục Mark Coleridge của Brisbane, Australia đồng ý, và nói rằng cách đọc “hời hợt và ảm đạm” về xã hội hiện đại không giúp được gì. Một nhóm đề nghị thảo luận về tính bất khả phân ly của hôn nhân như một ân sủng chứ không phải là một gánh nặng.

Theo Đức Tổng Giám Mục Charles Chaput, sự chính xác trong ngôn ngữ có một tầm quan trọng rất lớn, đặc biệt là khi nói về “sự bao gồm hay loại trừ” và “sự thống nhất trong đa dạng”. Đức Tổng Giám Mục Diarmuid Martin cảnh giác rằng chiến dịch hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ở Ái Nhĩ Lan thành công được là do sử dụng “những ngôn ngữ truyền thống của chúng ta như bình đẳng, từ bi, tôn trọng và khoan dung”. Ngài nói thêm là Giáo Hội cần “tìm ra một ngôn ngữ bắt được một nhịp cầu với thực tế ngày qua ngày của hôn nhân - một thực tại của con người, không chỉ gồm những điều lý tưởng, nhưng có cả các cuộc đấu tranh và thất bại, có cả nước mắt lẫn niềm vui”. Tổng giám mục Eamon Martin, cũng của Ái Nhĩ Lan, cho biết Hội Thánh cần loại trừ mọi hình thái bạo lực gia đình và chăm sóc cho những ai là nạn nhân của bạo lực, là những người mà việc công bố những gì chúng ta gọi là “tin mừng của gia đình” có thể chẳng có mấy ý nghĩa hoặc thậm chí là vô nghĩa đối với họ.

Nhiều nghị phụ lưu ý rằng ở các vùng khác nhau trên thế giới các gia đình phải đối mặt với các vấn đề khác nhau. Một số khu vực có nhiều cặp vợ chồng ly dị và tái hôn dân sự, trong khi những người khác phải đối mặt với các nền văn hóa cho phép chế độ đa thê. Một số xã hội khác nữa, như tại Nhật Bản và nhiều quốc gia Đông Nam Á, lại xảy ra tình trạng dân số Công Giáo giảm dần vì hôn nhân khác đạo.

Bên cạnh những vấn đề khác như việc đào tạo các linh mục để tháp tùng với các gia đình, các gia đình tháp tùng lẫn nhau, các khóa hôn nhân và gia đình, việc giáo dục tính dục trong gia đình, tình trạng nghèo đói và bị bách hại của các gia đình Kitô ngày nay; vấn đề khả thể cho người đã ly dị và tái hôn dân sự được rước lễ trong những trường hợp và những điều kiện nhất định nào đó theo đề nghị của Đức Hồng Y Walter Kasper đã là một trong những đề tài chủ yếu được thảo luận sôi nổi.

Philippa Hitchen của Radio Vatican tường thuật có nghị phụ cay đắng đặt đề nghị của Đức Hồng Y Walter Kasper đối lập triệt để với giáo huấn Chúa Giêsu đã truyền lại cho Giáo Hội qua cụm từ “Con đường của Chúa Giêsu, hoặc con đường của Walter Kasper” và bày tỏ lo âu về ảnh hưởng của vị Hồng Y người Đức đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô vì ngài đã trích dẫn cuốn sách của vị Hồng Y trong buổi đọc kinh Truyền Tin đầu tiên của mình, và đã mời vị Hồng Y nói chuyện ngay buổi khai mạc công nghị ngoại thường về gia đình hôm 20 tháng Hai năm ngoái 2014.

Trong một bài phát biểu hôm 10 tháng 10, nhà lãnh đạo hàng đầu của Công Giáo Kazakhstan nói mạnh đến mức là “Trong Thượng Hội Đồng năm ngoái, khói của Satan đã cố gắng để lẻn vào hội trường Phaolô Đệ Lục”

Đức Tổng Giám mục Thomas Peta của thủ đô Astana đã đồng hóa với khói của Satan “đề nghị cho những người đã ly dị và sống trong các kết hiệp dân sự mới được rước Mình Thánh Chúa; khẳng định việc chung sống tự nó có thể có một số giá trị nào đó; và kêu gọi coi đồng tính luyến ái là một cái gì đó bình thường.”

Trong buổi họp báo hôm 15 tháng 10, Đức Tổng Giám Mục Stanislaw Gadecki, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan nói với các phóng viên rằng “Hội Đồng Giám Mục Ba Lan không ủng hộ việc cho phép người ly dị tái hôn rước lễ.”

Ngài nhìn nhận rằng những người ly dị và tái hôn không bị vạ tuyệt thông và nhiều khi họ là những người có ước muốn được rước lễ, mạnh hơn những ai có thể rước lễ. Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng những người ly dị và tái hôn có quyền tham dự vào đời sống Giáo Hội mà không cần rước Mình Thánh Chúa.

Chung quanh những nỗ lực chống lại đề nghị của Đức Hồng Y Walter Kasper và một số Giám Mục Đức, còn phải kể đến chuyện lá thư gởi Đức Thánh Cha của 13 vị Hồng Y.

Hôm thứ Hai 12 tháng 10, Sandro Magister, là ký giả đã từng bị rút giấy phép vì tung ra thông điệp Laudeto Sí trước cả Tòa Thánh, lại đưa ra trên tờ L'Espresso, một lá thư được cho là của 13 Hồng Y viết cho Đức Thánh Cha bày tỏ quan ngại về cách thức Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đình được tổ chức.

Bốn vị Hồng Y được cho là có tên trong danh sách các vị ký tên là các Đức Hồng Y Erdo, Scola, Piacenza, and Vingt-Trois lên tiếng phủ nhận.

Nhưng chỉ một ngày sau đó, Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết rằng Đức Hồng Y George Pell nhìn nhận đã viết thư cho Đức Thánh Cha nhưng nội dung và danh sách các Đức Hồng Y ký tên đều không đúng. Ngài lên án việc tiết lộ lá thư riêng gởi cho Đức Thánh Cha là quấy rối Thượng Hội Đồng.

Đức Hồng Y Dolan cũng xác nhận mình ký tên trong lá thư theo sáng kiến của Đức Hồng Y George Pell với các quan ngại bao gồm: Liệu tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng, (Instrumentum laboris) có nên là trọng tâm duy nhất của các cuộc thảo luận của các giám mục hay không; liệu quá trình thảo luận có cho phép tranh luận công bằng và cởi mở không; và liệu các giám mục tham gia trong Thượng Hội Đồng có nên được cho một cơ hội để ảnh hưởng đến việc lựa chọn các giám mục viết các văn bản chính thức sau cùng hay không.

Sandro Magister lên tiếng đính chính ông ta không phải là người có “tay trong” tiết lộ cả những lá thư riêng của Đức Giáo Hoàng và chỉ ra Andrea Tornielli của tờ La Stampa mới là người đầu tiên tung ra lá thư đó từ ngày 8 tháng 10. Tuy nhiên, ông ghi nhận rằng bài viết của ông bày tỏ sự đồng cảm đối với mối quan tâm của các vị Hồng Y nên được chú ý hơn, trong khi bài của Tornielli với nhiều nhận định tiêu cực thu hút ít sự chú ý của công chúng.

Trong buổi triều yết chung thứ Tư 14/10, trước khi bắt đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha ứng khẩu nói:

“Trước khi bắt đầu bài giáo lý, nhân danh Giáo Hội, tôi muốn xin lỗi anh chị em vì những gương mù đã xảy ra gần đây tại Roma và Vatican. Tôi xin lỗi anh chị em”.

Ngài dừng lại ở đó nên không ai biết chính xác là ngài muốn đề cập đến những vấn đề gì. Tuy nhiên, câu chuyện lá thư lọt ra ngoài có lẽ đứng đầu trong danh sách các nghi vấn.

Đức Tổng Giám Mục Mark Coleridge của tổng giáo phận Brisbane, Australia ước tính ít nhất 65% các giám mục sẽ phản đối việc cho phép người Công Giáo ly dị và tái hôn được rước lễ. Tuy nhiên, như vậy vẫn còn 35% các nghị phụ ủng hộ đề nghị của Đức Hồng Y Kasper.

Một số nghị phụ tiếp tục kiên trì khẳng định rằng Giáo Hội không loại trừ một ai và Chúa Kitô không đến để chữa người lành, nhưng là người bệnh: vì thế những người ly dị tái hôn cần được tháp tùng, yêu thương và tha thứ, vì họ là thành phần của Giáo Hội và chi thể của Chúa Kitô, vì thế hệ quả tất nhiên là họ có thể lãnh nhận Thánh Thể.

Nhiều vị không lý luận nhưng khơi gợi tình cảm như đọc những lá thư của những người trong hoàn cảnh ly dị tái hôn và những người đang sống trong những quan hệ đồng tính; hay kể những câu chuyện chẳng hạn như chuyện một em bé lên rước lễ lần đầu, đã cầm Mình Thánh Chúa bẻ ra làm đôi và chia cho ba của em, lý do vì ông không được rước lễ vì là người ly dị tái hôn.

Có cả một đề nghị phân cấp những vấn đề kỷ luật và tín lý như việc rước Mình Thánh Chúa của những người ly dị và tái hôn cho các Hội Đồng Giám Mục địa phương quyết định. Đây là một trong những đề nghị đã được Đức Hồng Y Reinhard Marx, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức lặp đi lặp lại nhiều lần ngay cả trước Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đình nhưng bị nhiều Giám Mục và Hồng Y Hoa Kỳ phản đối là sẽ làm mất sự hiệp nhất trong Giáo Hội.