Tam Nhật Phục Sinh 2004 bắt đầu. Đặc biệt Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, tại nhà thờ Chính Toà Vancouver, thánh lễ Dầu Thánh do Đức tân Tổng Giám Mục Raymond Roussin chủ tọa. Trước kia ngài là tổng giám mục tổng giáo phận Victoria, ở cách Vancouver một con phà.

Nhà thờ Chính Toà Vancouver có bốn dãy ghế : hai dãy giữa và hai dãy hai bên. Hằng năm, cứ mỗi lễ Dầu Thánh, một số hàng ghế phía trên thuộc hai dãy giữa được dành riêng cho các linh muc, sau khi hết chỗ ngồi trên cung thánh. Đặc biệt năm nay, trọn hai dãy ghế giữa dành cho giáo dân. Ngoại trừ một số ít nữ tu ngồi vài hàng ghế đầu, còn lại toàn là giáo dân. Chỉ một số hàng ghế phía trên thuộc dãy bên trái bàn thờ được dành cho các linh mục mà thôi.

Chi tiết nhỏ nhặt nhưng mới mẻ nầy mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Lễ Dầu Thánh nhắc lại việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể và truyền chức linh mục để các ngài phục vụ cộng đồng dân Chúa. Vậy cộng đồng dân Chúa được phục vụ, phải được ngồi ở hai dãy giữa. Còn hàng linh mục phục vụ cộng đồng phải ngồi dãy ghế kế bên. Đó là chi tiết nhỏ nhặt nhưng gây một ấn tượng mạnh, vì từ trước tới nay chưa bao giờ xảy ra như thế ở bất cứ nơi đâu.

Bài đọc một của Thánh lễ Dầu Thánh hôm đó là đoạn Phúc Âm rất quen thuộc sau đây (Lc 4, 18-21):

Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
……
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe
.”

Điểm đặc biệt là đoạn Phúc Âm đó đã được đọc bởi một nữ tu Cát-Minh còn trẻ với giọng đầm ấm và toát ra một sức sống nội tâm mãnh liệt. Sự sung mãn của tâm hồn nữ tu đã truyền sang người nghe với những rung động thật sâu xa.

Trong sách “Một Tâm Hồn” (trang 11-12), Thánh nữ Têrêxa đã viết:

“Đoạn mở sách Phúc Âm, con nhìn ngay thấy những lời nầy: ‘Lúc ấy Chúa Giêsu đứng trên núi, Người gọi những kẻ Người Yêu lại với Người’ (Mac 3, 13).

Ấy chính là sự mầu nhiệm về ơn Chúa gọi con, về cả đời con sống, nhất là về những đặc ân Chúa ban cho linh hồn con. Chúa không gọi những người đáng gọi, một gọi những người Chúa yêu, quả như lời Thánh Phaolồ đã nói: ‘Đức Chúa Trời thương kẻ Người muốn thương, tỏ lòng lành với kẻ Người muốn tỏ lòng lành.’ (Xh 33, 19). ‘Vậy chẳng phải bởi việc ai muốn, hay công ai chạy, một chỉ bởi lòng Chúa thương xót thôi.’ (Roma 19, 16).”

Chị nữ tu Cát-Minh đó không thuyết giảng, không dẫn giải Phúc Âm, không đưa ra những lý luận có tính cách khúc chiết, dựa trên thần học, triết học hay từ nguyên học…Chị chỉ đọc đoạn Thánh kinh ngắn gọn với tất cả tâm hồn yêu mến Đức Kitô. Chị đã sống trọn vẹn những gì mà chị đọc ra từ đoạn Thánh kinh. Chị đã được kêu gọi để sống đời Yêu Thương và chị đã Yêu Thương trọn vẹn, thể hiện ngay cả trong những giòng Thánh kinh mà chị đọc lên.

Sống Lời Chúa thì quan trọng hơn dẫn giải Lời Chúa biết bao! Thánh Phao-Lô đã nói: “Quả vậy, Đức Kitô…sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu.” (1Cr 1, 17).

Ngài còn nói thêm: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng…Khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.” (1Cr 9, 16-18). “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.” (1Cr 9, 27).

Hôm sau là Thứ Sáu Tuần Thánh - tưởng niệm cuộc Tử Nạn của Đức Kitô, xảy ra gần hai ngàn năm qua. Ngài đã lấy cái chết đau thương nhất để loan truyền sứ điệp Yêu Thương và Tha Thứ, nhưng sứ điệp của Ngài đối với đại đa số Kitô hữu chỉ là những tiếng kêu nơi hoang địa.

Khi tham dự nghi thức Đi Đàng Thánh Giá, lần đầu tiên, chặng thứ mưới “Quân Dữ Lột Áo Đức Chúa Giêsu” đã gây xúc động mãnh liệt nơi tôi. Qua cử chỉ thô bạo đó, tôi mới ý thức sự tàn nhẫn của con người đối với đồng loại. Người ta đã giả điếc làm lơ trước những cảnh khổ, dở sống dở chết của những người sống bên cạnh mình. Người ta đã thẳng thừng bóc lột, đã không nương tay lăng nhục người anh em mình. Họ không từ bỏ những trò gian ác nào hết, kể cả việc đưa ra ánh sáng những “sự thật trần truồng” của những người anh em rơi vào đường cùng, khi bị ngã ngựa…nhằm mục đích hạ nhục tối đa.

Đến nghi thức hôn Thánh Giá, tôi liên tưởng đến mấy vần thơ đậm đà sau đây của chị NT chia sẻ với tôi nhân ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, qua mạng lưới truyền thông:

Có những nụ hôn nồng ấm như nụ hôn của người Mẹ dành cho con yêu của mình.
Có những nụ hôn thông cảm khi người con hoang đàng trở về được người cha âu yếm ban cho.
Có những nụ hôn nồng thắm của đôi tình nhân nơi hẹn hò lãng mạn.
Có những nụ hôn phản bội như nụ hôn của Giu-đa.
Có những nụ hôn gió thổi qua đường như những nụ hôn của những người buôn hương bán phấn.
Có những nụ hôn kính cẩn cám ơn, với tấm lóng ăn năn sám hối của Thánh nữ Maria Mađalêna.

Lạy Cha, Hôm nay con sẽ dành cho Ngài nụ hôn nọ


Chúa nhật Phục Sinh đã về. Nhà thờ Chính Tòa Vancouver trong ba bốn Thánh lễ đã chật ních những người mà một số không nhỏ chỉ trở lại thánh đường vào những dịp lễ lớn trong năm. Trời hôm nay nắng đẹp. Đó là điều khá hiếm hoi đối với thời tiết ở đây vì trời Vancouver ngày mưa ngày nắng, đôi khi lại nắng sớm mưa chiều hay ngược lại. Tuy nhiên nhờ thế cảnh vật mang màu sắc xanh tươi tốt đẹp, dù nhuốm màu ảm đạm thê lương.

Nhìn ra ngoài trời, mùa xuân bắt đầu. Hai bên đường những hàng cây hoa anh đào màu hồng đang nở rộ. Trong sân nhà, chung quanh vườn cỏ màu xanh biếc, điểm xuyết những bông hoa đủ màu. Thật là một bức tranh ngoạn mục của cảnh “Du Xuân” được mô tả trong Đoạn Trường Tân Thanh:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
.”

Thỉnh thoảng một làn gió nhẹ thổi qua, những cánh hoa anh đào màu hồng rơi lả tả xuống mặt đường hay trên tấm thảm cỏ xanh. Hồng Ân Phục Sinh có sống mãi trong tâm hồn tôi để giữ mãi màu hồng xinh tươi của Thiên Chúa Tình Yêu nơi tôi, hay để rồi mỗi khi cơn gió heo may của cuộc đời nổi lên, sẽ rơi rụng lả tả trên khắp mọi nẻo đường phố, nơi ghế đá công viên, bên giòng đời lặng lẽ trôi…Và tâm hồn tôi sẽ trở lại khô cằn, chờ đợi mùa Phục Sinh năm sau, năm sau nữa…hay mùa Phục Sinh cuối đời mà tôi không biết chắc sẽ tới lúc nào!

Người phàm nào cũng đều là cỏ,
Mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội.
Cỏ héo hoa tàn, khi thần khí Đức Chúa thổi qua.
Phải, dân là cỏ:
Cỏ héo, hoa tàn,
Nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững
.”
(Is 40, 6-8).