Sáng ngày 13 tháng Hai, sau khi rời Dinh Tổng Thống Mễ Tây Cơ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tới Nhà Thờ Chính Tòa để gặp gỡ các giám mục nước này. Nhân dịp này, ngài đã có bài nói chuyện khá chi tiết với các vị:

Tôi vui mừng có dịp được gặp các hiền huynh một ngày sau khi tôi tới đây, tới đất nước qúy yêu này, đất nước tôi cũng đến đây để thăm viếng theo chân các vị tiền nhiệm của tôi.

Làm sao tôi không đến đây cho được! Có thế nào người kế vị Phêrô, được gọi từ miền nam xa xôi Mỹ Châu Latinh, lại có thể để mình mất dịp may được diện kiến la Virgen Morenita? (Nữ Trinh Mầu Nâu).

Tôi cám ơn các hiền huynh đã tiếp đón tôi trong Nhà Thờ Chính Tòa này, một casita (“căn nhà nho nhỏ”) lớn hơn nhưng vẫn luôn sagrada (“thánh thiêng”), như Nữ Trinh Diễm Phúc vốn yêu cầu. Tôi cũng cám ơn các hiền huynh vì những lời nghinh đón tốt đẹp.

Tôi biết rằng ở đây có trái tim bí mật của mỗi người Mễ Tây Cơ, và tôi rón rén bước vào đây vì điều này xứng hợp với một người dám bước vào tổ ấm và linh hồn của dân tộc này; và tôi hết sức biết ơn vì các hiền huynh đã mở cửa sẵn cho tôi. Tôi biết rằng khi nhìn vào đôi mắt Nữ Trinh Diễm Phúc, tôi có thể theo dõi cái nhìn của con cái nam nữ của ngài, những người đã học được nơi ngài cách tự biểu lộ ra. Tôi biết rằng không một tiếng nói nào khác có thể nói với tôi một cách mạnh mẽ về trái tim Mễ Tây Cơ bằng Mẹ Diễm Phúc; ngài gìn giữ các khát vọng cao cả nhất và các niềm hy vọng sâu kín nhất của họ; ngài gom góp mọi niềm vui và nước mắt của họ. Ngài hiểu các ngôn ngữ khác nhau của họ và ngài đáp trả bằng một tình âu yếm mẫu thân vì những con người nam nữ này quả là con cái riêng của ngài.

Tôi sung sướng được ở với các hiền huynh tại đây, gần Cerro del Tepeyac, một cách nào đó, gần gũi với hừng đông truyền giảng Tin Mừng trên lục địa này. Xin các hiền huynh vui lòng cho phép la Guadalupana (Đức Mẹ Guadalupe) được là khởi điểm của mọi điều tôi sẽ nói với các hiền huynh. Tôi muốn xiết bao được ngài chuyên chở tới các hiền huynh tất cả những gì thân thiết đối với trái tim Đức Giáo Hoàng, muốn vươn tới những chỗ sâu kín nhất trong trái tim mục vụ của các hiền huynh, và qua các hiền huynh, tới mỗi Giáo Hội đặc thù đang có mặt trên đất nước bao la Mễ Tây Cơ này.

Lâu nay, Đức Giáo Hoàng vốn nuôi dưỡng khát mong được diện kiến la Guadalupana (Đức Mẹ Guadalupe) hệt như Thánh Juan Diego từng được diện kiến, và nhiều thế hệ trẻ em nối tiếp nhau sau ngài. Còn hơn thế nữa, tôi muốn được cái nhìn mẫu thân của Mẹ thôi miên. Tôi từng suy niệm về mầu nhiệm của cái nhìn này và tôi xin các hiền huynh, trong lúc này, tiếp nhận những gì được thổ lộ ra từ trái tim tôi, trái tim một Mục Tử.

Cái nhìn âu yếm dịu dàng

Trên hết, la Virgen Morenita (Nữ Trinh Mầu Nâu) dạy chúng ta rằng sức mạnh duy nhất có thể chiếm được trái tim các người nam nữ là tình âu yếm của Thiên Chúa. Điều gì gây thích thú và lôi cuốn, điều gì khiêm hạ mà lại thắng thế, điều gì cởi mở và giải phóng, không hề là sức mạnh của dụng cụ hay lề luật, mà đúng hơn là sự yếu đuối vạn năng của tình yêu Thiên Chúa, vốn là sức mạnh không thể nào cưỡng được của lòng nhân hậu và lời bảo đảm bất phản hồi của lòng thương xót.

Một nhân vật văn chương ưa tìm tòi và nổi tiếng của các hiền huynh, Octavio Paz, từng nói rằng tại Guadalupe, những mùa gặt vĩ đại và những thửa đất mầu mỡ không còn cần được cầu xin nữa, nhưng thay vào đó, là nơi nghỉ ngơi trong đó, người ta, tuy vẫn còn mồ côi và nghèo rớt, có thể tìm được một nơi trú ẩn, một mái ấm.

Với nhiều thế kỷ qua đi kể từ biến cố khai sinh ra đất nước này và việc truyền giảng Tin Mừng cho lục địa này, người ta có thể đặt câu hỏi: liệu nhu cầu có loãng đi hay thậm chí bị quên đi không đối với nơi nghỉ ngơi ấy, một nơi các trái tim người Mễ Tây Cơ được ủy thác cho các hiền huynh săn sóc từng khát khao mãnh liệt đến thế?

Tôi biết lịch sử lâu dài và đau buồn mà các hiền huynh từng trải qua chưa bao giờ lại không có đổ máu, không có những biến động dữ dội và xé lòng, không có bạo lực và hiểu lầm. Vì những lý do vững chãi, vị tiền nhiệm đáng kính và thánh thiện của tôi, một người cảm thấy ở đây, ở Mễ Tây Cơ này như ở nhà, từng muốn nhắc nhở chúng ta rằng: “giống như những dòng sông đôi khi ẩn khuất và dư tràn, có lúc hợp lưu và có lúc cho thấy các dị biệt bổ túc cho nhau, chưa bao giờ hoàn toàn hợp lưu với nhau: tính nhậy cảm lâu đời và phong phú của các dân tộc bản xứ được Juan de Zumárraga và Vasco de Quiroga yêu mến, những người được nhiều sắc dân này tiếp tục gọi là cha ông; Kitô Giáo, bén rễ trong linh hồn Mễ Tây Cơ; và lý tính hiện đại kiểu Âu Châu, một lý tính rất muốn hiển dương độc lập và tự do” (Gioan Phaolô II, Diễn Văn, Nghi Lễ Nghinh Đón, 22 tháng Giêng, năm 1999).

Và trong lịch sử này, chỗ nghỉ ngơi của mẫu thân nói trên, một chỗ nghỉ ngơi liên tiếp đem sự sống lại cho Mễ Tây Cơ, dù đôi khi giống như “một chiếc lưới 1 trăm 53 con cá” (xem Ga 21:11), chưa bao giờ không có hoa trái, luôn luôn có khả năng hàn gắn các chia rẽ đầy đe dọa.

Vì lý do trên, tôi mời gọi các hiền huynh khởi đầu lại từ nhu cầu cần có chỗ nghỉ ngơi ấy, một nhu cầu phát sinh từ tinh thần của dân tộc các hiền huynh. Nơi nghỉ ngơi của đức tin Công Giáo có khả năng hoà giải quá khứ, thường nặng tính cô đơn, cô lập và hắt hủi, với một tương lai, liên tiếp trao cho ngày mai những gì lọt khỏi bàn tay. Chỉ ở chỗ của đức tin ấy, ta mới “khám phá được chân lý sâu sắc về một nhân loại mới, trong đó, mọi người đều được kêu gọi trở thành con cái Thiên Chúa” (Gioan Phaolô II, Bài Giảng, Lễ Phong Thánh cho Juan Diego) mà không phải từ bỏ bản sắc riêng của ta.

Như thế, các hiền huynh hãy cúi đầu, một cách im lặng và kính cẩn, trước tinh thần sâu sắc của dân tộc các hiền huynh, các hiền huynh hãy thận trọng cúi xuống để giải đoán khuôn mặt mầu nhiệm của dân tộc này. Hiện tại, thường bị pha trộn với phân tán và lễ lạc, đối với Thiên Chúa, Đấng duy nhất hiện diện trọn vẹn, há không phải là một giai đoạn chuẩn bị đó ư? Đã quen với đau đớn và chết chóc, há chúng không phải là các hình thức can đảm và đường dẫn tới hy vọng đó sao? Và quan điểm cho rằng thế giới luôn luôn và độc đáo cần được cứu chuộc, há điều này không phải là một phản cực đối với sự tự mãn kiêu căng của những người nghĩ họ có thể bất cần Thiên Chúa đó sao?

Vì lý do trên, điều tự nhiên cần thiết là có một quan điểm có khả năng phản ảnh lòng âu yếm của Thiên Chúa. Vì thế, tôi xin các hiền huynh hãy trở thành các giám mục có viễn kiến trinh trong, có linh hồn trong sáng, và một khuôn mặt hân hoan. Các hiền huynh đừng sợ sự trong sáng. Giáo Hội không cần bóng tối để thi hành các công việc mình làm. Các hiền huynh hãy tỉnh táo để viễn kiến của các hiền huynh không bị lu mờ vì sương khói của tính thế gian; các hiền huynh đừng để mình bị hủ hóa bởi chủ nghĩa duy vật chất tầm thường hay bởi ảo tưởng đầy quyến rũ của những thỏa hiệp dối trá; các hiền huynh đừng đặt đức tin của các hiền huynh vào “chiến xa và kỵ binh” của các Pharaô ngày nay, vì sức mạnh của ta là ở trong “cột lửa” từng rẽ biển thành hai, mà không cần nhiều trống phách (xem Xh 14:24-25).

Thế gian, trong đó, Chúa kêu gọi chúng ta thi hành sứ mạng của chúng ta đã trở nên cực kỳ phức tạp. Và ngay ý niệm đầy kiêu hãnh cogito (tôi suy nghĩ), một ý niệm ít nhất cũng không chối cãi điều này: có một tảng đá trên hạt cát hữu thể, ngày nay cũng đang bị khuất phục bởi một quan niệm về sự sống hơn bao giờ hết bị nhiều người coi là do dự, lang bang và vô luật lệ vì thiếu một nền tảng vững chắc. Các ranh giới vốn được nại tới và tuân giữ một cách cuồng nhiệt nay cũng đang mở cửa cho cái oái oăm của một thế giới trong đó quyền lực của một số người không thể sống còn được nữa nếu không có sự yếu thế của những người khác. Sự lai giống (hybridization) bất phản hồi của kỹ thuật đang đem lại gần nhau những gì xa cách nhau; tuy nhiên, đáng buồn thay, nó cũng tách xa nhau những gì nên gần nhau.

Trong chính cái thế giới đó, Thiên Chúa đang yêu cầu các hiền huynh phải có một quan điểm có khả năng nắm bắt lời kêu van phát xuất từ trái tim dân tộc các hiền huynh, một lời kêu van có lịch sách đàng hoàng, tức Ngày Lễ Kêu Van. Tiếng kêu van này cần lời đáp ứng: Thiên Chúa hiện hữu và gần gũi trong Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Thiên Chúa mới là thực tại để ta xây dựng trên đó, vì, “Thiên Chúa là thực tại nền tảng, không phải một Thiên Chúa chỉ được tưởng tượng hay giả thiết, nhưng là Thiên Chúa với gương mặt con người” (Đức Bênêđíctô XVI, Diễn Văn với CELAM, 13 tháng Năm, 2007).

Quan sát gương mặt các hiền huynh, dân tộc Mễ Tây Cơ có quyền mục kích được các dấu chỉ của những người “đã nhìn thấy Chúa” (xem Ga 20:25), của những người đã ở với Thiên Chúa. Điều này là điều thiết yếu. Do đó, các hiền huynh đừng phí thì giờ hay năng lực vào những điều phụ thuộc, vào tán gẫu hay mưu đồ, vào mưu kế lừa lọc để tiến thân, vào những kế sách trống rỗng nhằm trổi vượt, vào những nhóm vô dụng chuyên mưu cầu lợi lộc chung với nhau. Các hiền huynh đừng để mình bị lôi vào tán gẫu và vu khống. Các hiền huynh hãy dẫn nhập các linh mục của các hiền huynh vào việc hiểu đúng đắn thừa tác vụ thánh của họ. Đối với chúng ta, các thừa tác viên của Thiên Chúa, được ơn “uống chén của Chúa”, được hồng phúc bảo vệ phần gia nghiệp đã được ủy thác cho chúng ta ấy, dù chúng ta có thể là những nhà quản trị kém tài, cũng đã đủ rồi. Chúng ta hãy để Chúa Cha chỉ chỗ Người đã chuẩn bị cho chúng ta (Mt 20:20-28). Chúng ta có thể thực sự quan tâm tới những việc không phải của Chúa Cha không? Không lo lắng “các việc của Chúa Cha” (Lc 2:48-49), chúng ta sẽ đánh mất căn tính của mình và, vì lỗi lầm của chúng ta, chúng ta sẽ lột hết ý nghĩa của ơn thánh Người.

Nếu viễn kiến của chúng ta không làm chứng được rằng mình đã thấy Chúa Giêsu, thì các lời lẽ ta dùng để nhắc đến Người chỉ là tu từ học và những ngôn từ sáo rỗng. May lắm chúng chỉ có thể nói lên lòng hoài nhớ của những người không thể nào quên được Chúa, nhưng dù gì, cũng đã trở nên những trẻ mồ côi bép xép bên cạnh một ngôi mộ. Cuối cùng, chúng có thể chỉ là những lời lẽ không hề có khả năng ngăn cản được thế giới chúng ta khỏi bị bỏ rơi và bị giản lược vào sức mạnh tuyệt vọng của nó.

Tôi nghĩ đến nhu cầu phải cung cấp chỗ nghỉ ngơi của mẫu thân ấy cho giới trẻ. Ước mong sao viễn kiến của các hiền huynh gặp gỡ các viễn kiến của họ, yêu thương họ và hiểu rõ những điều họ đang tìm kiếm bằng một năng lực từng linh hứng cho nhiều người như họ bỏ cả thuyền và lưới lại phía bên kia hồ (Mc 1:17-18), bỏ cả các lạm dụng của khu vực ngân hàng để theo Chúa trên đường tìm sự thịnh vượng đích thực (xem Mt 9:9).

Tôi đặc biệt quan tâm tới nhiều người khác, vì bị mê hoặc bởi quyền lực trống rỗng của thế gian, nên đang ca ngợi các ảo tưởng và ủng hộ các biểu tượng ma quái nhằm thương mãi hóa sự chết để đổi lấy tiền bạc, một thứ, cuối cùng, “bị mối và rỉ sét tiêu hao” và “trộm cắp xé rào cướp mất” (Mt 6:19). Tôi thúc giục các hiền huynh đừng đánh giá thấp thách đố luân lý và phản xã hội mà việc buôn bán ma túy đem lại cho xã hội Mễ Tây Cơ như một toàn thể, cũng như cho Giáo Hội.

Tính lớn lao của hiện tượng trên, tính phức tạp trong các nguyên nhân của nó, tính bao la và phạm vi của nó, những thứ đang nuốt trửng như một di căn, và tính trầm trọng của bạo lực đang chia rẽ bằng các biểu thức méo mó của nó, đừng khiến chúng ta, các Mục Tử của Giáo Hội, ẩn mình phía sau các tố cáo chỉ có tính xoa dịu (anodyne denunciations). Đúng hơn, chúng đòi nơi chúng ta một lòng can đảm tiên tri cũng như một kế hoạch mục vụ đáng tin và có phẩm chất, để chúng ta có thể từ từ giúp xây dựng mạng lưới liên hệ nhân bản mỏng manh mà nếu không có mạng lưới này tất cả chúng ta sẽ bị đánh bại ngay từ đầu trước một đe dọa qủy quyệt như thế. Chỉ bằng cách bắt đầu với các gia đình, xích lại gần và ôm lấy những ngoại biên của hiện sinh con người tại các khu vực bị tàn phá của các thành phố chúng ta và tìm cách lôi cuốn sự can dự của các cộng đồng giáo xứ, các trường học, các định chế cộng đồng, các cộng đồng và định chế chính trị có trách nhiệm về an ninh, cuối cùng người dân mới thoát khỏi những dòng nước tàn hại từng nhận chìm quá nhiều người, bất kể là nạn nhân của nạn buôn bán ma túy hay những người đứng trước mặt Thiên Chúa mà tay thì vấy đầy máu, dù túi đầy tiền bạc nhơ bẩn và lương tâm của họ đã chết.

Một viễn kiến có khả năng xây dựng

Trong tà áo tinh thần của Mễ Tây Cơ, Thiên Chúa đã sử dụng sợi chỉ mestizo để dệt và biểu lộ khuôn mặt của dân tộc Mễ Tây Cơ vào la Morenita. Thiên Chúa không cần các mầu sắc dịu dàng để vẽ nên khuôn mặt này, vì bản vẽ của Người không lệ thuộc mầu sắc hay sợi chỉ mà đúng hơn lệ thuộc tính vĩnh viễn trong tình yêu của Người, một tình yêu luôn ước mong đóng ấn trên chúng ta.

Do đó, các hiền huynh hãy là các giám mục có khả năng bắt chước sự tự do của Thiên Chúa, Đấng lựa chọn người khiêm nhường để mạc khải sự uy nghi của nhan thánh Người; có khả năng lặp lại sự kiên nhẫn thần thánh bằng cách dệt nên con người mới mà đất nước các hiền huynh đang mong đợi bằng những sợi chỉ mịn màng làm bằng những con người nam nữ mà các hiền huynh gặp được. Đừng để mình bị hướng dẫn bởi các cố gắng rỗng tuếch nhằm thay đổi người ta như thể tình yêu của Thiên Chúa không đủ mạnh để đem lại sự thay đổi này.

Các hiền huynh hãy tái khám phá ra tính kiên trì đầy khiêm nhường mà Cha Ông trong đức tin của xứ sở này đã truyền lại cho các thế hệ nối tiếp nhau bằng ngôn ngữ mầu nhiệm Thiên Chúa. Các ngài làm điều này bằng cách trước nhất học hỏi, rồi truyền dạy thứ văn phạm cần thiết để đối thoại với Thiên Chúa; một Thiên Chúa dấu ẩn trong nhiều thế kỷ tìm tòi và rồi được đem tới gần trong con người của Con Người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là tương lai của ta và là Đấng được thừa nhận như thế bởi rất nhiều người đàn ông và đàn bà khi họ ngắm nhìn khuôn mặt đầy máu và bị hạ nhục của Người. Các hiền huynh hãy bắt chước sự khiêm nhường nhân hậu này và việc Người hạ mình xuống giúp đỡ chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được một cách tạm đủ làm thế nào, chỉ với những sợi chỉ mestizo của nhân dân các hiền huynh, Thiên Chúa đã có thể dệt nên khuôn mặt nhờ đó Người cần được biết đến. Không bao giờ, chúng ta có thể cảm tạ cho đủ.

Tôi yêu cầu các hiền huynh tỏ bầy một sự âu yếm đặc biệt trong cung cách cư xử với các dân tộc bản địa và các nền văn hóa hấp dẫn nhưng thường bị phá hoại của họ. Mễ Tây Cơ cần các gốc gác Mỹ Châu và Bản Địa của nó để không còn là một điều bí ẩn chưa được giải quyết. Người bản địa của Mễ Tây Cơ vẫn đang chờ việc nhìn nhận chân thực sự phong phú trong các đóng góp của họ và tính hoa trái của sự hiện diện của họ. Chỉ bằng cách này, họ mới có thể thừa hưởng thứ bản sắc có thể biến họ thành một dân tộc đơn nhất chứ không phải một bản sắc giữa các bản sắc khác.

Nhiều dịp, người ta nói tới một tương lai liều mình bị thất bại của quốc gia này, tới một mê hồn trận lẻ loi trong đó, nó bị vây hãm bởi địa dư cũng như bởi một số phận gài bẫy nó. Đối với một số người, tất cả những điều này là một trở ngại đối với kế hoạch đạt được một bộ mặt thống nhất, một bản sắc trưởng thành, một địa vị độc đáo giữa hợp quần các quốc gia và một sứ mệnh chung.

Nhiều người khác coi Giáo Hội tại Mễ Tây Cơ một là bị kết án phải chịu địa vị thấp kém, một địa vị nó từng bị đẩy vào trong nhiều thời kỳ của quá khứ, như khi tiếng nói của nó bị giập tắt và người ta cố gắng tận diệt nó; hai là như bị kết án phải liều lĩnh bước vào các biểu thức của chủ nghĩa chính thống cực đoan, do đó, bám lấy những điều chắc chắn tạm bợ mà quên đặt trái tim mình vào Đấng Tuyệt Đối và được kêu gọi kết hợp mọi người chứ không phải chỉ một nhóm người trong Chúa Kitô (xem Lumen Gentium 1:1).

Mặt khác, các hiền huynh đừng bao giờ ngưng nhắc nhở tín hữu của mình nhớ tới gốc rễ xưa hết sức mạnh mẽ của họ, những gốc rễ giúp tạo ra một tổng hợp Kitô Giáo sinh động đối với sự thống nhất về nhân bản, văn hóa và tâm linh vốn được rèn luyện tại đây. Các hiền huynh hãy nhớ rằng trong nhiều dịp, cánh của nhân dân các hiền huynh đã xòe rộng bay bổng lên trên các tình huống đổi thay. Các hiền huynh hãy bảo vệ ký ức của cuộc hành trình lâu dài từng thực hiện được xưa nay và biết cách làm thế nào linh hứng cho niềm hy vọng muốn vươn tới những đỉnh cao mới, vì tương lai sẽ phát sinh ra một lãnh thổ “phong phú hoa trái” dù phải đương đầu với những thách đố đáng kể (Ds 13:27-28).

Ước mong sao viễn kiến của các hiền huynh, nhờ luôn dựa vào một mình Chúa Kitô, có khả năng đóng góp vào việc hợp nhất mọi người dưới sự chăm sóc của các hiền huynh; làm dễ dàng việc hòa giải các khác biệt và việc hội nhập các đa dạng; cổ vũ một giải pháp cho các vấn đề nội sinh (endogenous); ghi nhớ các tiêu chuẩn cao mà Mễ Tây Cơ có thể đạt tới khi học cách thuộc về chính mình hơn là thuộc về người khác; giúp tìm ra các giải pháp chung và lâu dài cho số phận hẩm hiu của mình; động viên toàn bộ quốc gia để đừng bằng lòng với những điều kém hơn điều người ta trông đợi nơi cách sống của người Mễ Tây Cơ trên thế giới.

Một viễn kiến gần gũi và chú ý, chứ không ngủ mê

Tôi thúc giục các hiền huynh đừng để mình tê liệt trong các giải đáp tiêu chuẩn đối với các câu hỏi mới mẻ. Quá khứ của các hiền huynh là nguồn của nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác và là những tài nguyên có thể gợi hứng cho hiện tại và soi sáng cho tương lai. Nhưng bất hạnh xiết bao cho các hiền huynh nếu các hiền huynh chỉ biết ngồi trên các vinh quang của mình! Điều quan trọng là đừng tiêu phí di sản mà các hiền huynh đã nhận được bằng cách che chở nó với việc làm liên tục. Các hiền huynh đang đứng trên vai các bậc khổng lồ: các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân “cho tới tận cùng”, những người từng hiến đời họ để Giáo Hội có thể chu toàn sứ mệnh của mình. Từ những đỉnh cao này, các hiền huynh được mời gọi hướng tầm nhìn của mình về vườn nho của Chúa để đặt kế hoạch cho việc gieo trồng và chờ đợi mùa gặt.

Tôi kêu mời các hiền huynh hiến thân một cách không mệt mỏi và không sợ sệt cho nghĩa vụ truyền giảng Tin Mừng và thâm hậu hóa đức tin bằng một nền giáo lý khai nhiệm (mystagogical) biết trân qúy lòng đạo bình dân của người ta. Thời đại ta đòi phải chú tâm mục vụ tới những con người và những nhóm người đang hy vọng gặp được Chúa Giêsu hằng sống. Chỉ có sự hồi tâm can đảm có tính bản vị nơi các cộng đồng của chúng ta mới có thể tìm kiếm, phát sinh và nuôi dưỡng được các môn đệ của Chúa hiện nay mà thôi (xem Aparecida, 226, 368, 370).

Do đó, điều cần thiết đối với các Mục Tử chúng ta là thắng vượt cơn cám dỗ muốn sống xa cách và chủ nghĩa giáo sĩ trị, cơn cám dỗ lạnh lùng và dửng dưng, cơn cám dỗ hãnh tiến (triumphalism) và qui chiếu vào chính mình. Guadalupe dạy chúng ta rằng Thiên Chúa được biết đến nhờ sự phù giúp (countenance) của Người, và sự gần gũi cũng như khiêm nhường hạ mình xuống luôn mạnh mẽ hơn sức mạnh.

Như truyền thống Guadalupe vốn dạy chúng ta, Đức Mẹ Nâu tụ tập những ai chiêm ngưỡng ngài lại với nhau, và phản ảnh khuôn mặt của những người tìm thấy ngài. Điều chủ yếu cần phải học là trong mọi con người đang hướng về chúng ta trong lúc họ đi tìm Thiên Chúa đều có một điều độc đáo. Chúng ta phải ý tứ đừng trở nên trơ trơ trước những cái nhìn như thế nhưng đúng hơn nhận chúng vào trái tim ta và che chở chúng. Chỉ Giáo Hội nào biết che chở những khuôn mạo đàn ông đàn bà đến gõ cửa nhà mình mới có khả năng nói với họ về Thiên Chúa. Nếu chúng ta không biết cách giải đoán các đau khổ của họ, nếu chúng ta không tiến tới chỗ hiểu được các nhu cầu của họ, thì chúng ta không thể đem lại cho họ bất cứ điều gì. Sự giầu có của chúng ta chỉ tuôn đổ khi chúng ta gặp sự bé nhỏ của những người đến xin và cuộc gặp gỡ này diễn ra ngay trong tâm hồn ta, tâm hồn Mục Tử.

Khuôn mạo đầu tiên tôi muốn các hiền huynh che chở trong trái tim mình là khuôn mạo các linh mục của các hiền huynh. Các hiền huynh đừng để họ bị cô đơn và bỏ rơi, dễ dàng làm mồi cho tính thế gian vốn luôn cắn xé tâm hồn. Các hiền huynh hãy chú tâm và học cách đọc được các phát biểu của họ để hân hoan với họ khi họ cảm thấy vui vì tất cả những điều “họ làm và dạy” (Mc 6:30) đều được xem xét tính toán. Các hiền huynh cũng đừng rút lui khi họ cảm thấy bị bẽ mặt và chỉ biết kêu than vì “đã chối Chúa” (xem Lc 22:61-62), và các hiền huynh phải nâng đỡ, trong tình hiệp thông với Chúa Kitô, khi một người trong họ, vì ngã lòng, đã cùng Giuđa đi vào “đêm tối” (xem Ga 13:30). Là các giám mục trong các tình huống này, sự chăm sóc của các hiền huynh như một người cha đối với các linh mục của các hiền huynh không bao giờ được thiếu. Các hiền huynh hãy khuyến khích việc hiệp thông giữa họ với nhau; các hiền huynh hãy tìm sự hoàn hảo cho các tài năng của họ; hãy để họ can dự vào các dự án vĩ đại, vì tâm hồn của một tông đồ không được tạo ra cho những chuyện nhỏ nhặt.

Nhu cầu thân mật nằm ngay trong trái tim Thiên Chúa. Bởi thế, Đức Mẹ Guadalupe của chúng ta vốn xin một casita sagrada, một “căn nhà thánh nho nhỏ”. Dân chúng Châu Mỹ Latinh của chúng ta biết rất rõ các hình thức phát biểu giảm nhẹ (diminutive) và sẵn sàng sử dụng chúng. Họ cần các hình thức giảm nhẹ này có lẽ vì làm khác đi họ thấy chới với. Họ đã thích ứng với việc cảm thấy nhỏ bé và đã quen với lối sống khiêm tốn.

Khi tụ họp nhau trong các nhà thờ chính tòa tráng lệ, Giáo Hội không nên quên coi mình như một “căn nhà nho nhỏ” trong đó, con cái cảm thấy thoải mái. Chúng ta chỉ có thể tiếp tục hiện diện trước nhan thánh Chúa khi còn là những đứa trẻ bé nhỏ, mồ côi và ăn xin.

Một “căn nhà nho nhỏ”, một casita, vừa thân mật mà đồng thời lại “thánh thiêng”, sagrada, vì nó tràn đầy sự cao cả toàn năng của Thiên Chúa. Chúng ta là những người trông nom mầu nhiệm này. Có lẽ chúng ta đã không còn cảm thức được các cung cách khiêm nhường của thể thần linh và cảm thấy mệt mỏi trong việc cung ứng cho những người đàn ông và đàn bà thời nay “căn nhà nho nhỏ” nơi đó, họ cảm thấy gần gũi với Thiên Chúa. Có khi, việc không còn cảm nhận được sự cao cả toàn năng đã dẫn chúng ta tới việc mất đi một phần sự kính sợ đối với tình yêu cao cả này. Nơi Thiên Chúa ở, nếu không được mời, con người không thể bước vào được và họ chỉ được bước vào sau khi “đã cởi giầy” (Xem Xh 3:5), để thú nhận sự bất xứng của mình.

Việc chúng ta quên không “cởi giầy” để bước vào, có lẽ chẳng phải là nguyên nhân cội rễ của việc mất hết cảm thức thánh thiêng đối với sự sống con người, đối với nhân vị, đối với các giá trị nền tảng, đối với sự khôn ngoan tích lũy trong bao nhiêu thế kỷ, và đối với việc kính trọng môi sinh đó sao? Nếu không cứu các cội rễ sâu xa này trong lương tâm các người nam nữ và lương tâm xã hội cũng như nếu không có các cố gắng đại lượng để cổ vũ các nhân quyền hợp pháp, thì nhựa sống sẽ không còn; và nhựa sống này chỉ phát xuất từ một nguồn mà chính nhân loại không thể nào cung ứng.

Một viễn kiến toàn diện và hợp nhất

Chỉ nhìn lên Đức Mẹ Nâu, người ta mới hiểu được Mễ Tây Cơ trong tính toàn diện của nó. Và do đó, tôi mời gọi các hiền huynh lượng định điều này: sứ mệnh mà Giáo Hội ủy thác cho các hiền huynh đòi phải có một viễn kiến bảo bọc mọi sự. Việc này không thể hiện thực hóa một cách riêng rẽ mà chỉ có thể trong hiệp thông mà thôi.

Đức Mẹ Guadalupe có một dải băng hẹp quanh thắt lưng của ngài có ý tuyên xưng khả năng sinh sản của ngài. Ngài là Nữ Trinh Diễm Phúc mang trong dạ mình Người Con được mọi người nam nữ mong đợi. Ngài là Người Mẹ đã cưu mang nhân tính của thế giới mới. Ngài là Nàng Dâu tiên báo tính sinh hoa trái mẫu thân của Giáo Hội Chúa Kitô. Các hiền huynh đã được ủy thác sứ mệnh mặc cho quốc gia Mễ Tây Cơ tính sinh hoa trái của Thiên Chúa. Không phần nào của dải băng hẹp này có thể bị khinh thường.

Trong những năm tháng kể từ thời Công Đồng, hàng giám mục Mễ Tây Cơ đã thực hiện được những bước dài có ý nghĩa; nó đã gia tăng số thành viên; nó đã cổ vũ việc đào tạo thường xuyên rất nhất quán và chuyên nghiệp; nó đã tạo được bầu khí huynh đệ; tinh thần hợp đoàn đã chín mùi; các cố gắng mục vụ đã gây một ảnh hưởng lên các Giáo Hội địa phương và lên lương tâm quốc gia; các sáng kiến mục vụ chung đã đem lại thành quả trong nhiều phạm vi trọng yếu của sứ mệnh Giáo Hội, như gia đình, ơn gọi và sự hiện diện của Giáo Hội trong xã hội.

Dù chúng ta được khuyến khích bởi con đường đã chọn trong những năm qua, tôi muốn yêu cầu các hiền huynh đừng ngã lòng trước các khó khăn và đừng giữ lại bất cứ cố gắng nào trong việc cổ vũ, giữa các hiền huynh và trong các giáo phận của các hiền huynh, một lòng nhiệt thành truyền giáo, nhất là đối với các khu vực thiếu thốn nhất trong cơ thể duy nhất của Giáo Hội Mễ Tây Cơ. Tái khám phá ra rằng Giáo Hội là sai đi là một điều nền tảng đối với tương lai Giáo Hội, vì chỉ duy có “lòng phấn khởi và tin tưởng ngưỡng mộ” của các nhà truyền giảng Tin Mừng mới có sức thu hút mà thôi. Do đó, tôi yêu cầu các hiền huynh lưu ý rất nhiều đến việc đào tạo và chuẩn bị các tín hữu giáo dân, khắc phục mọi hình thức duy giáo sĩ và mời họ can dự tích cực vào sứ mệnh của Giáo Hội, trên hết làm cho Tin Mừng Chúa Kitô hiện diện trong thế giới bằng chứng tá bản thân.

Có lợi lớn cho nhân dân Mễ Tây Cơ sẽ là chứng tá hợp nhất của tổng hợp Kitô Giáo và viễn kiến chung về bản sắc và tương lai nhân dân nước này. Trong chiều hướng này, điều quan trọng đối với Giáo Hoàng Đại Học Mễ Tây Cơ là càng ngày càng can dự nhiều hơn vào các cố gắng của Giáo Hội nhằm bảo đảm có được một viễn ảnh phổ quát; vì nếu không có viễn ảnh này, lý trí, vốn có khuynh hướng chia ngăn (compartmentalize), sẽ từ khước lý tưởng cao cả nhất là đi tìm chân lý.

Sứ mệnh quả lớn lao, và để nó tiến về phía trước, đòi phải có nhiều nẻo đường. Tôi mạnh mẽ nhắc lại lời kêu gọi của tôi để các hiền huynh duy trì sự hiệp thông và hợp nhất hiện đang có giữa các hiền huynh. Hiệp thông là hình thức chủ yếu của Giáo Hội, và sự hợp nhất của các Mục Tử Giáo Hội làm chứng cho chân lý của nó. Mễ Tây Cơ và Giáo Hội rộng lớn, đa diện của nó, đang cần có những giám mục làm đầy tớ và người trông nom sự hợp nhất vốn được xây dựng trên lời Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng ThánhThể Người và được Thần khí Người hướng dẫn, Đấng vốn là hơi thở cung cấp sự sống cho Giáo Hội.

Chúng ta không cần “các ông hoàng”, nhưng đúng hơn một cộng đồng các chứng tá của Chúa. Chúa Kitô là ánh sáng duy nhất; Người là giếng nước hằng sống; từ hơi thở của Người phát sinh ra Thần Khí, Đấng làm căng buồm con thuyền Giáo Hội. Trong Chúa Kitô hiển vinh, Đấng mà nhân dân nước này yêu mến tôn làm Vua, ước chi các hiền huynh cùng nhau đốt ánh sáng lên và được tràn đầy thánh nhan Người, một thánh nhan không bao giờ tắt ngúm; các hiền huynh hãy hít sâu trọn bầu khí của Thần Khí Người. Các hiền huynh được trao nghĩa vụ gieo vãi Chúa Kitô trên lãnh thổ này, duy trì sống động ánh sáng khiêm nhường này, một ánh sáng soi sáng mà không gây bất cứ hỗn độn nào, bảo đảm rằng trong giếng nước hằng sống của Người, cơn khát của người ta sẽ được giải thoát; giăng buồm lên để làn gió Chúa Thánh Thần làm chúng căng phồng, không bao giờ để con thuyền Giáo Hội ở Mễ Tây Cơ mắc cạn.

Các hiền huynh hãy nhớ: Nàng Dâu biết rằng Mục Tử yêu qúy (xem Dc 1:7) chỉ sẽ được tìm thấy ở nơi có đồng cỏ xanh rì và suối nước mát trong. Nàng không tin tưởng các đồng bạn nào của Chú Rể đôi khi vì lười hay ù lì, dẫn đoàn chiên qua những mảnh đất khô cằn và những khu vực sỏi đá. Khốn thay cho các mục tử chúng ta, các đồng bạn của Mục Tử Tối Cao, nếu ta để Nàng Dâu lang thang vì chúng ta đã dựng lều ở những nơi Chú Rể không thể được tìm thấy!

Các hiền huynh hãy cho phép tôi nói lời cuối cùng để chuyển tải lời đánh giá cao của Đức Giáo Hoàng đối với mọi điều các hiền huynh đang thực hiện để đương đầu với thách đố của thời đại: vấn đề di dân. Hiện có hàng triệu con cái nam nữ của Giáo Hội ngày nay phải sống nơi đất khách quê người (diaspora) hoặc trong các nơi quá cảnh, lặn lội lên miền bắc để tìm các cơ hội mới. Nhiều người trong số họ để lại mọi gốc gác sau lưng ngõ hầu đương đầu với tương lai, ngay trong các điều kiện lén lút, hàm ẩn vô vàn nguy hiểm; họ làm thế để tìm “đèn xanh” mà họ coi là hy vọng. Do đó, nhiều gia đình đã ly tán; và việc hội nhập vào điều gọi là “đất hứa” không luôn dễ dàng như một số người tin tưởng.

Anh em thân mến, ước mong sao trái tim anh em có khả năng theo gót những người nam nữ này và vươn tới họ ở bên kia biên giới. Anh em hãy tăng cường sự hiệp thông với các anh em của anh em thuộc hàng giám mục Bắc Mỹ, để sự hiện diện đầy tình mẫu thân của Giáo Hội có khả năng duy trì sống động các gốc rễ đức tin của những người nam nữ này cũng như cổ động cho niềm hy vọng của họ và sức mạnh của tình bác ái nơi họ. Ước chi đừng xẩy ra việc này: treo đàn lên, các niềm vui của họ trở thành cụt hứng, họ quên cả Giêrusalem và tự đầy ải chính mình (xem Tv 136). Tôi xin anh em cùng nhau làm chứng rằng Giáo Hội là người gìn giữ một viễn kiến hợp nhất hóa của nhân loại và Giáo Hội không thể bằng lòng để mình bị giản lược chỉ còn là một “tài nguyên” hoàn toàn có tính nhân bản.

Các cố gắng của các hiền huynh sẽ không vô ích khi các giáo phận của các hiền huynh biểu lộ sự quan tâm bằng cách xức dầu các bàn chân bị thương của những người đi qua lãnh thổ của các hiền huynh, chia sẻ với họ các tài nguyên quyên góp được từ hy sinh của nhiều người; Đấng Samaritano thần thánh cuối cùng sẽ làm giầu cho người không dửng dưng với Người khi Người nằm bên vệ đường (xem Lc 10:25-37).

Anh em thân mến, Đức Giáo Hoàng biết chắc rằng Mễ Tây Cơ và Giáo Hội nước này sẽ thực hiện kịp thời cuộc gặp gỡ với chính mình, với lịch sử và với Thiên Chúa. Có lẽ một vài cục đá giữa đường sẽ làm chậm bước chân của họ và cuộc chiến đấu có thể cần sự nghỉ ngơi, nhưng sẽ không có gì làm họ mất đích nhắm. Vì làm thế nào người ta có thể về trễ khi mẹ họ đang mong đợi? Ai có thể không nghe thấy tiếng nói này trong nội tâm họ ‘Mẹ há không đang ở đây đó sao, Mẹ người là Mẹ con’?