Kenneth Whitehead đánh giá về những xung khắc và đề nghị ra các giải pháp.
WASHINGTON, DC, 24-6- 2004 -Có lẽ đã đến lúc những người Kitô hữu chân chính nên suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn về việc thành lập những trường học riêng hay gia nhập vào phong trào giáo dục tại nhà hiện ngày càng gia tăng. Đó là lời nhận xét của Ông Kenneth Whitehead, cựu trợ lý Bộ Trưởng Giáo Dục Hoa Kỳ và cũng là tác giả của cuốn sách có nhan đề “Một Giáo Hội Công Giáo Thánh Thiện và Tông Truyền.”. Ông chia sẽ với hãng thông tấn Zenit lý do tại sao người Công Giáo nên tìm ra các hình thức giáo dục khác trong việc diện đối với những xung khắc ngày càng gia tăng giữa các tòa án, các người Kitô hữu, giữa những trường học công lập được tài trợ bởi chính phủ liên bang, và với hiện trạng mục nát về luân lý ngày càng gia tăng trong thời đại của chúng ta ngày nay.
Hỏi (H): Mới đây nhất tại khu vực học quận của Quận Cam, ba ủy viên của trường Công Giáo đã bỏ phiếu chống lại việc sửa đổi chính sách chống kỳ thị trong khu vực của quận nhằm tuân theo luật lệ của tiểu bang California, qua đó, đòi hỏi rằng tất cả các trường công lập trong quận phải bảo vệ một số nhóm để khỏi bị kỳ thị, bao gồm cả những người chuyển giới tính và tất cả những người khác không thuộc vào những nhóm giới tính theo truyền thống. Cuối cùng thì, chính sách cũng đã được sửa đổi lại để làm hài lòng tiểu bang và chọc giận các thành viên của ủy ban. Trong trường hợp này, thưa Ông, những người Kitô hữu có một nhiệm vụ chính nào không để hành động dựa trên đức tin hơn là theo luật lệ vô thần?
Ông Whitehead (T): Thưa, về những vấn đề có liên quan tới lương tâm, những người Kitô hữu có một nhiệm vụ quan trọng để hành động theo đức tin của họ hơn là theo luật lệ vô thần. Trong sách Công Vụ, đoạn 5 câu 29 có nêu ra rằng: “Chúng ta phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục con người.”
Trong trường hợp mộ tả trên, thì có vẽ như là nó buộc phải công nhận một điều kiện bất ổn, rối loạn như việc chuyển đổi giới tính, để liệt kê nó vào nhóm cần phải có được sự bảo vệ đặc biệt của những luật lệ về chống kỳ thị, thì một đòi hỏi như vậy, quả là, xúc phạm mạnh mẽ đến lương tâm của người Kitô giáo, và do thế, việc bỏ phiếu chống lại nó là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp.
Còn trong trường hợp hiện tại, sẽ tốt đẹp nếu như các ủy viên người Kitô giáo có thể tiến đến một thỏa hiệp với khu vực học quận. Nhưng nếu họ bị bắt buộc phải tuân thủ đúng theo luật lệ để tán thành với luật lệ của tiểu bang California về việc chống bị kỳ thị, và nếu họ không tuân thủ theo điều ràng buộc này trên cơ sở của lương tâm, thì họ sẽ phải chuẩn bị để gánh chịu bất kỳ hình phạt nào theo đúng luật lệ vì họ đã không chu toàn những nghĩa vụ về pháp lý của mình, cũng giống như những người phản đổi chống lại sự kỳ thị bất công về chủng tộc, thì họ cũng phải chuẩn bị để thanh toán tiền phạt theo luật hiện hành vì đã bất tuân về mặt dân sự miễn là những luật lệ này vẫn còn hiệu lực.
Những người Kitô hữu không có quyền để phá vỡ hay vi phạm các luật lệ chỉ vì những luật lệ này là suy đồi hay bất công. Họ chỉ có thể và có bổn phận cùng làm việc với nhau để thay đổi những thứ luật lệ đó theo đường hướng dân chủ.
Trong trường hợp mô tả nêu trên, nếu những ủy viên này thực chất bị đòi hỏi theo mặt pháp lý để công nhận những người chuyển đổi giới tính thuộc vào nhóm đặc biệt và cần được bảo vệ theo mặt pháp lý, thì tôi tin rằng, có lẽ đã đến lúc họ cần nghĩ đến việc từ chức khỏi ủy ban của khu vực học quận. Vì lẽ, họ chẳng còn nợ điều gì cả cho khu vực học quận vốn đòi hỏi đến sự vi phạm về lương tâm của họ.
Ngày hôm nay, mọi người vẫn thường hay nói rằng nếu các trường học công lập chính là phần tự nhiên của nhiều thành phần khác, và nếu thế thì chúng chỉ đơn giản cần phải có được sự hổ trợ thế thôi, cho dẫu vấn nạn hay chi phí có đến đâu đi chăng nữa. Thế nhưng, điều này là không đúng.
Vào thế kỷ thứ 19, khi những người Công Giáo nhận ra rằng những trường học công lập đang trong tiến trình được thành lập, mà thực chất ra, không có trung lập về mặt tôn giáo, nhưng thật ra là phần cải trang thành những trường học của “Tin Lành”, những người Công Giáo đã từ bỏ những loại trường học này để đứng ra thành lập hệ thống giáo dục trường học của riêng họ.
Trong tình hình ngày càng có sự suy đoái và mục nát về mặt luân lý một cách trầm trọng tất cả các lãnh vực của xã hội ngày nay tại các trường công lập, có lẽ là đã đến lúc những người Kitô giáo chân chính nên suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn về việc thành lập những trường học riêng họ hay gia nhập vào phong trào giáo dục tại nhà hiện ngày càng gia tăng.
(H): Một sinh viên y khoa người Kitô giáo tại Canada đã thua qua ba lần kháng cáo liên tiếp về việc anh ta bị mất điểm qua việc anh ta chối từ lại việc thực hiện hay biện dẫn bất kỳ các thủ tục phá thai nào. Gần đây nhất, thì anh ta cuối cùng cũng đã được phục hồi lại trong danh sách những sinh viên ưu tú trước ngày tốt nghiệp của mình. Thế, thưa Ông, làm sao mà hành động của một trường học như thế đã gây nguy hiểm cho những quyền về bày tỏ, thực thi và tín ngưỡng về tôn giáo của những người Kitô giáo?
(T): Thưa, trường hợp này đã minh họa một cách rất chính xác cho thấy được sự mục nát về luân lý càng ngày càng thấm sâu vào mọi thể chế của xã hội chúng ta ngày nay đến cở nào.
Tại Hoa Kỳ, các chính sách của trường học sẽ phạt một sinh viên y khoa vì sự phản đối về mặt lương tâm đối với vấn đề phá thai, nếu xét theo bề mặt, thì trông có vẽ là nó đối chọi lại với Tu Chánh Án Thứ Nhất của Hiến Pháp, vốn nhằm bảo đảm quyền tự do thực thi về tôn giáo, bao gồm cả những quyết định có liên quan đến những vấn đề của luân lý của lương tâm.
Tuy nhiên, những phán quyết liên tiếp của tòa án, đặc biệt là những biện pháp nới rộng việc chống bị kỳ thị nhằm bao gồm luôn cả những người có cách sống buôn thả và bất luân lý, đã ngày càng làm yếu đi ảnh hưởng của Tu Chánh Án Thứ Nhất đến độ mà ngày nay, nó chẳng còn có hiệu lực gì cả trong việc bảo vệ lương tâm của những người Kitô giáo. Vì vậy, người Kitô giáo càng ngày càng bị đe dọa với sự ép buộc thật sự khiến cho họ không thể tuân theo những chối từ trắng trợn về những luật lệ luân lý theo truyền thống của xã hội ngày nay được nữa.
(H): Xét về việc mới đây nhất là ngăn cấm các học bổng của chính phủ cho những sinh viên chuyên về thần học, thì chính phủ dường như đã rút lại việc tài trợ cho chương trình giáo dục hớng về tôn giáo. Thì theo Ông, Ông nhận thấy thế nào về việc cắt bớt tài trợ như vậy?
(T): Thưa, việc từ chối đối với những sinh viên chuyên về thần học trong việc nhận được học bổng của chính phủ không thôi, thì theo quan điểm của một số người, rõ ràng là bất công và nó thể hiện một khía cạnh khác của chính phủ trong việc tiếp cận với sự tự do về tôn giáo.
Tuy nhiên, nếu xét theo quan điểm của một người Kitô giáo thì chẳng có lý do đáng thuyết phục nào để mong rằng chính phủ phải nên tài trợ cho tôn giáo, bao gồm cả những học bổng để học về thần học, và tôi cũng không nghĩ rằng chúng ta thậm chí nên muốn là chính phủ phải có liên hệ vào việc phải quyết định cái gì nên, và cái gì không phải là một vấn đề “chính đáng” về tôn giáo.
(H): Thế Ông nghĩ việc giáo dục về tôn giáo đang hướng theo một chiều hướng nào? Có phải nó đang hướng theo cách phân chia nhỏ đều và đối lập với nhau chăng? Hay là nó đang tự tách mình ra khỏi dòng chảy chính của Hoa Kỳ?
(T): Như tôi đã ám chỉ đến trong câu trả lời về câu hỏi trước đó, thì việc giáo dục về tôn giáo không nên là một vấn đề rơi vào tầm ảnh hưởng của chính phủ cả. Những người có tôn giáo nên được phép tin và hành động theo đúng nhận thức và lương tâm của riêng họ mà không cần phải có sự can dự của chính phủ hay tòa án, vì chưng, đó chính là ý nghĩa của việc tự do về tôn giáo. Thì điều này rõ ràng là tuân theo đúng những giảng dạy của Công Đồng Chung Vaticăn Hai qua việc tuyên bố về sự tự do tôn giáo, “Dignitatis Humanae.” Nhân phẩm của một con người đòi hỏi rằng anh ta phải được tự do không bị ép buộc gì cả trong các vấn đề có liên quan tới tín ngưỡng về tôn giáo và luân lý lương tâm.
Theo xuất xứ thì đây rõ ràng là trường hợp trong Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng như là trong hệ thống pháp lý. Thế nhưng, ngày nay nó đang dần dần bị coi nhẹ bởi vì các khuynh hướng về luân lý mà xã hội chúng ta đang hướng đến. Những hành động của chính phủ và tòa án càng ngày càng đòi hỏi sự nhìn nhận một cách đặc biệt, và dành cho sự bảo vệ đặc biệt đối với những cá nhân và những nhóm tán thành và ủng hộ những điều mà theo những giảng dạy của Kitô giáo xem là vô luân. Thì những sáng kiến như vậy đúng lý ra là cần phải được chống lại hay bác bỏ trong mọi khía cạnh của thể chế dân chủ.
Nếu như và sẽ đến lúc những sự chống cự như vạy sẽ không còn có thể tồn tại được nữa, thì hẳn nhiên, nền dân chủ của xã hội này, cũng đã đến thời suy vong, bất tận, và kết liễu.
WASHINGTON, DC, 24-6- 2004 -Có lẽ đã đến lúc những người Kitô hữu chân chính nên suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn về việc thành lập những trường học riêng hay gia nhập vào phong trào giáo dục tại nhà hiện ngày càng gia tăng. Đó là lời nhận xét của Ông Kenneth Whitehead, cựu trợ lý Bộ Trưởng Giáo Dục Hoa Kỳ và cũng là tác giả của cuốn sách có nhan đề “Một Giáo Hội Công Giáo Thánh Thiện và Tông Truyền.”. Ông chia sẽ với hãng thông tấn Zenit lý do tại sao người Công Giáo nên tìm ra các hình thức giáo dục khác trong việc diện đối với những xung khắc ngày càng gia tăng giữa các tòa án, các người Kitô hữu, giữa những trường học công lập được tài trợ bởi chính phủ liên bang, và với hiện trạng mục nát về luân lý ngày càng gia tăng trong thời đại của chúng ta ngày nay.
Hỏi (H): Mới đây nhất tại khu vực học quận của Quận Cam, ba ủy viên của trường Công Giáo đã bỏ phiếu chống lại việc sửa đổi chính sách chống kỳ thị trong khu vực của quận nhằm tuân theo luật lệ của tiểu bang California, qua đó, đòi hỏi rằng tất cả các trường công lập trong quận phải bảo vệ một số nhóm để khỏi bị kỳ thị, bao gồm cả những người chuyển giới tính và tất cả những người khác không thuộc vào những nhóm giới tính theo truyền thống. Cuối cùng thì, chính sách cũng đã được sửa đổi lại để làm hài lòng tiểu bang và chọc giận các thành viên của ủy ban. Trong trường hợp này, thưa Ông, những người Kitô hữu có một nhiệm vụ chính nào không để hành động dựa trên đức tin hơn là theo luật lệ vô thần?
Ông Whitehead (T): Thưa, về những vấn đề có liên quan tới lương tâm, những người Kitô hữu có một nhiệm vụ quan trọng để hành động theo đức tin của họ hơn là theo luật lệ vô thần. Trong sách Công Vụ, đoạn 5 câu 29 có nêu ra rằng: “Chúng ta phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục con người.”
Trong trường hợp mộ tả trên, thì có vẽ như là nó buộc phải công nhận một điều kiện bất ổn, rối loạn như việc chuyển đổi giới tính, để liệt kê nó vào nhóm cần phải có được sự bảo vệ đặc biệt của những luật lệ về chống kỳ thị, thì một đòi hỏi như vậy, quả là, xúc phạm mạnh mẽ đến lương tâm của người Kitô giáo, và do thế, việc bỏ phiếu chống lại nó là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp.
Còn trong trường hợp hiện tại, sẽ tốt đẹp nếu như các ủy viên người Kitô giáo có thể tiến đến một thỏa hiệp với khu vực học quận. Nhưng nếu họ bị bắt buộc phải tuân thủ đúng theo luật lệ để tán thành với luật lệ của tiểu bang California về việc chống bị kỳ thị, và nếu họ không tuân thủ theo điều ràng buộc này trên cơ sở của lương tâm, thì họ sẽ phải chuẩn bị để gánh chịu bất kỳ hình phạt nào theo đúng luật lệ vì họ đã không chu toàn những nghĩa vụ về pháp lý của mình, cũng giống như những người phản đổi chống lại sự kỳ thị bất công về chủng tộc, thì họ cũng phải chuẩn bị để thanh toán tiền phạt theo luật hiện hành vì đã bất tuân về mặt dân sự miễn là những luật lệ này vẫn còn hiệu lực.
Những người Kitô hữu không có quyền để phá vỡ hay vi phạm các luật lệ chỉ vì những luật lệ này là suy đồi hay bất công. Họ chỉ có thể và có bổn phận cùng làm việc với nhau để thay đổi những thứ luật lệ đó theo đường hướng dân chủ.
Trong trường hợp mô tả nêu trên, nếu những ủy viên này thực chất bị đòi hỏi theo mặt pháp lý để công nhận những người chuyển đổi giới tính thuộc vào nhóm đặc biệt và cần được bảo vệ theo mặt pháp lý, thì tôi tin rằng, có lẽ đã đến lúc họ cần nghĩ đến việc từ chức khỏi ủy ban của khu vực học quận. Vì lẽ, họ chẳng còn nợ điều gì cả cho khu vực học quận vốn đòi hỏi đến sự vi phạm về lương tâm của họ.
Ngày hôm nay, mọi người vẫn thường hay nói rằng nếu các trường học công lập chính là phần tự nhiên của nhiều thành phần khác, và nếu thế thì chúng chỉ đơn giản cần phải có được sự hổ trợ thế thôi, cho dẫu vấn nạn hay chi phí có đến đâu đi chăng nữa. Thế nhưng, điều này là không đúng.
Vào thế kỷ thứ 19, khi những người Công Giáo nhận ra rằng những trường học công lập đang trong tiến trình được thành lập, mà thực chất ra, không có trung lập về mặt tôn giáo, nhưng thật ra là phần cải trang thành những trường học của “Tin Lành”, những người Công Giáo đã từ bỏ những loại trường học này để đứng ra thành lập hệ thống giáo dục trường học của riêng họ.
Trong tình hình ngày càng có sự suy đoái và mục nát về mặt luân lý một cách trầm trọng tất cả các lãnh vực của xã hội ngày nay tại các trường công lập, có lẽ là đã đến lúc những người Kitô giáo chân chính nên suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn về việc thành lập những trường học riêng họ hay gia nhập vào phong trào giáo dục tại nhà hiện ngày càng gia tăng.
(H): Một sinh viên y khoa người Kitô giáo tại Canada đã thua qua ba lần kháng cáo liên tiếp về việc anh ta bị mất điểm qua việc anh ta chối từ lại việc thực hiện hay biện dẫn bất kỳ các thủ tục phá thai nào. Gần đây nhất, thì anh ta cuối cùng cũng đã được phục hồi lại trong danh sách những sinh viên ưu tú trước ngày tốt nghiệp của mình. Thế, thưa Ông, làm sao mà hành động của một trường học như thế đã gây nguy hiểm cho những quyền về bày tỏ, thực thi và tín ngưỡng về tôn giáo của những người Kitô giáo?
(T): Thưa, trường hợp này đã minh họa một cách rất chính xác cho thấy được sự mục nát về luân lý càng ngày càng thấm sâu vào mọi thể chế của xã hội chúng ta ngày nay đến cở nào.
Tại Hoa Kỳ, các chính sách của trường học sẽ phạt một sinh viên y khoa vì sự phản đối về mặt lương tâm đối với vấn đề phá thai, nếu xét theo bề mặt, thì trông có vẽ là nó đối chọi lại với Tu Chánh Án Thứ Nhất của Hiến Pháp, vốn nhằm bảo đảm quyền tự do thực thi về tôn giáo, bao gồm cả những quyết định có liên quan đến những vấn đề của luân lý của lương tâm.
Tuy nhiên, những phán quyết liên tiếp của tòa án, đặc biệt là những biện pháp nới rộng việc chống bị kỳ thị nhằm bao gồm luôn cả những người có cách sống buôn thả và bất luân lý, đã ngày càng làm yếu đi ảnh hưởng của Tu Chánh Án Thứ Nhất đến độ mà ngày nay, nó chẳng còn có hiệu lực gì cả trong việc bảo vệ lương tâm của những người Kitô giáo. Vì vậy, người Kitô giáo càng ngày càng bị đe dọa với sự ép buộc thật sự khiến cho họ không thể tuân theo những chối từ trắng trợn về những luật lệ luân lý theo truyền thống của xã hội ngày nay được nữa.
(H): Xét về việc mới đây nhất là ngăn cấm các học bổng của chính phủ cho những sinh viên chuyên về thần học, thì chính phủ dường như đã rút lại việc tài trợ cho chương trình giáo dục hớng về tôn giáo. Thì theo Ông, Ông nhận thấy thế nào về việc cắt bớt tài trợ như vậy?
(T): Thưa, việc từ chối đối với những sinh viên chuyên về thần học trong việc nhận được học bổng của chính phủ không thôi, thì theo quan điểm của một số người, rõ ràng là bất công và nó thể hiện một khía cạnh khác của chính phủ trong việc tiếp cận với sự tự do về tôn giáo.
Tuy nhiên, nếu xét theo quan điểm của một người Kitô giáo thì chẳng có lý do đáng thuyết phục nào để mong rằng chính phủ phải nên tài trợ cho tôn giáo, bao gồm cả những học bổng để học về thần học, và tôi cũng không nghĩ rằng chúng ta thậm chí nên muốn là chính phủ phải có liên hệ vào việc phải quyết định cái gì nên, và cái gì không phải là một vấn đề “chính đáng” về tôn giáo.
(H): Thế Ông nghĩ việc giáo dục về tôn giáo đang hướng theo một chiều hướng nào? Có phải nó đang hướng theo cách phân chia nhỏ đều và đối lập với nhau chăng? Hay là nó đang tự tách mình ra khỏi dòng chảy chính của Hoa Kỳ?
(T): Như tôi đã ám chỉ đến trong câu trả lời về câu hỏi trước đó, thì việc giáo dục về tôn giáo không nên là một vấn đề rơi vào tầm ảnh hưởng của chính phủ cả. Những người có tôn giáo nên được phép tin và hành động theo đúng nhận thức và lương tâm của riêng họ mà không cần phải có sự can dự của chính phủ hay tòa án, vì chưng, đó chính là ý nghĩa của việc tự do về tôn giáo. Thì điều này rõ ràng là tuân theo đúng những giảng dạy của Công Đồng Chung Vaticăn Hai qua việc tuyên bố về sự tự do tôn giáo, “Dignitatis Humanae.” Nhân phẩm của một con người đòi hỏi rằng anh ta phải được tự do không bị ép buộc gì cả trong các vấn đề có liên quan tới tín ngưỡng về tôn giáo và luân lý lương tâm.
Theo xuất xứ thì đây rõ ràng là trường hợp trong Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng như là trong hệ thống pháp lý. Thế nhưng, ngày nay nó đang dần dần bị coi nhẹ bởi vì các khuynh hướng về luân lý mà xã hội chúng ta đang hướng đến. Những hành động của chính phủ và tòa án càng ngày càng đòi hỏi sự nhìn nhận một cách đặc biệt, và dành cho sự bảo vệ đặc biệt đối với những cá nhân và những nhóm tán thành và ủng hộ những điều mà theo những giảng dạy của Kitô giáo xem là vô luân. Thì những sáng kiến như vậy đúng lý ra là cần phải được chống lại hay bác bỏ trong mọi khía cạnh của thể chế dân chủ.
Nếu như và sẽ đến lúc những sự chống cự như vạy sẽ không còn có thể tồn tại được nữa, thì hẳn nhiên, nền dân chủ của xã hội này, cũng đã đến thời suy vong, bất tận, và kết liễu.