Linh mục độc thân nhắc nhớ chúng ta về sự trong trắng khiết tịnh phổ quát
Đó là lời nhận xét của Cha Amedeo Cencini, Tham Vấn của Tòa Thánh
SANTIAGO DE COMPOSTELA, Spain -- Một linh mục sống trọn đời độc thân sẽ là một bằng chứng hùng hồn về một tình yêu dành cho Thiên Chúa, đó là lời nhận xét của một thần học gia, người tham vấn cho Tòa Thánh về việc đào tạo các chủng sinh.
Cha Amedeo Cencini thuộc Dòng Nam Tử Bác Ái Canos, là giáo sư tại trường Đại Học Salesian và tại Học Viện Tâm Lý thuộc trường Đại Học Gregory ở Rôma. Cha đã là tham vấn viên cho Bộ Đặc Trách Đời Sống Tu Sĩ và Các Hiệp Hội về Sự Sống Tông Đồ từ năm 1995 cho đến nay. Cha Cencini đã dành cho hãng tin Zenit một cuộc phỏng vấn nói về Hội Nghị Lần Thứ 33 của Các Giám Đốc Chủng Viện và Các Nhà Giáo Dục Đào Tạo, được tổ chức tại thành phố Santiago de Compostela. bởi Ủy Ban Đặc Trách về các Chủng Viện và các Trường Đại Học thuộc Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha. Chủ đề của Hội Nghị là “Sự Nhạy Cảm Trong Việc Giáo Dục về Độc Thân Linh Mục.”
Hỏi (H): Thưa Cha, Cha đã phát biểu tại hội nghị về một cái nhìn mới mẽ trong việc đào tạo về mặt tình cảm cho những ứng viên vào chức linh mục. Thế điều đó có ý nghĩa gì?
Cha Cencini (T): Thưa, chẳng có ngụ ý gì cả để đề nghị ra một số chi tiết tiểu thuyết viễn vông, vẽ vời. Nó chỉ đơn giản là một nổ lực để nhấn mạnh đến chiều kích nhân loại học nhằm tạo ra sự uy tín cho giới tu sĩ.
Qua việc đề cập một “cái nhìn mới” trong việc huấn luyện về sự độc thân, tôi muốn liên hệ tới khái niệm về sự độc thân linh mục, vì dẫu đó không chỉ là một đặc tính độc nhất vô nhị của linh mục theo lễ nghi Công Giáo, và ít nhiều gì đó lại là một điều kiện chính của Giáo Hội; nhưng đó cũng còn là một món quà được lãnh nhận “để hướng dẫn và sáng soi cộng đồng,” để nhắc nhở với mọi người rằng “Thiên Chúa đã có được một chổ đặc biệt trong trái tim của mỗi một người nam lẫn nữ, và chỉ có Đấng Bất Diệt mới có thể cư ngụ được trong đó mà thôi.” Đó chính là một tình yêu mà chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể đáp ứng được một cách trọn vẹn. Nó trông có vẽ là phi thường, ngoại lệ, nhưng chỉ với sự lựa chọn của mình, người linh mục độc thân đó nhắc nhớ cho chúng ta rằng, về một ý nghĩa nào đó, nó chính là “một sự thanh bạch phổ quát” mà tất cả mọi người chúng ta có thể và phải sống, trong chính ơn gọi của riêng bản thân chúng ta. Tôi biết rằng đây không phải là một sự thật rõ ràng, hiển nhiên, thế nhưng nó lại là một lời chứng rất xác thực đối với những cá nhân nào biết nghiêm túc lãnh nhận lấy sự thật này, và những ai đã mạnh mẽ và liên lũy là một chứng nhân của một đời sống độc thân.
(H):Thưa Cha, tại sao một linh mục phải độc thân?
(T): Thưa, ai nấy cũng đều biết rằng chẳng có một liên hệ cơ bản nào cả giữa chức linh mục và sự độc thân. Nhưng vì những lý do về sự tương đồng, Giáo Hội Công Giáo của chúng ta, sau một thời gian nhận thức sâu sắc trong lịch sử mà không phải trường hợp nào cũng đơn giản cả thậm chí còn chống đối, thì Giáo Hội mới quyết định việc chọn đời sống độc thân linh mục là một sự chọn lựa kiên quyết. Vì điểm này, mà tôi phải thêm vào rằng Giáo Hội không có áp đặt sự độc thân trên bất kỳ ai; mà chỉ đơn giản nhận thấy rằng, số những linh mục gây đươc uy tín, chính là những linh mục có đời sống độc thân.
Động cơ thúc đẩy “cổ điển” về đời sống độc thân linh mục chính là dựa theo thuyết mạt thế, như là một dấu chỉ tương lai của một trạng thái; xét về mặt Kitô giáo, vì Chúa Kitô đã chọn đời sống độc thân; và theo khoa nhà thờ học, thì Giáo Hội lại chính là một vị Hiền Thê của Chúa Kitô; hay nói khác đi, đó là một dấu chỉ để mời gọi tất cả mọi người hay các cặp vợ chồng hãy tận hiến cho Giáo Hội, nếu xét theo mặt tự nhiên.
Thì rõ ràng điều quan trọng nhất của sự độc thân chính là biến tất cả những lý do trên thành những lý do riêng của người linh mục để người linh mục ấy sống một đời sống độc thân như là một sự chọn lựa về tình yêu, với một trái tim hoàn toàn biết ơn và không vị kỷ và với một thái độ về đời sống tâm linh một cách sâu sắc. Nếu vị linh mục đó không phải là một người sống đức độ và thánh thiện, thì vị ấy chính là một người độc thân tồi.
(H): Thưa Cha, việc độc thân linh mục đã đóng góp được điều gì trong việc hình thành nên một cộng đoàn đức tin?
(T): Thưa, đối với cộng đoàn đức tin, một linh mục có đời sống độc thân trọn vẹn và thanh bạch chính là một lời chứng hùng hồn về thứ tình yêu siêu việt dành cho Thiên Chúa, và đó cũng còn là một lời nhắc nhớ rằng mỗi một sự âu yếm và yêu thương của con người chính là tình yêu dành cho Thiên Chúa, và vì lẽ đó, nếu ai biết sâu sắc trung thành, thì người ấy phải biết nhìn nhận và tôn trọng một chổ thiêng liêng dành cho Thiên Chúa như là chúng ta đã nói đến ở trên. Tình yêu của con người và tình yêu của Thiên Chúa không xung khắc lẫn nhau. Nói tóm lại, qua tình yêu đó, sự uy tín được tạo ra, và nó giúp cho mọi người biết nhận ra một cái gì đó vĩ đại hơn, chính là sự uy tín của tình yêu.
(H): Thỉnh thoảng, có người nói rằng độc thân, tức có một đời sống trinh bạch, không tốt cho sự phát triển của con người, và vì lẽ đó, nó gây ra những vấn nạn như đồng tính luyến ái và thói đồng dâm ở nam. Thế ý kiến của Cha về điều này như thế nào?
(T): Thưa, đây chính là một trong những điều ngu xuẩn và có chủ ý nhất khi phải nói ra như vậy. Những vụ xì-căng-đang mới đây tại một số Giáo Hội không phải là cớ để dẫn đến một sự mánh khóe, lừa gạt, bởi vì không có một bằng chứng khoa học cụ thể nào cho thấy rằng phạm vi của sự độc thân trong giới tu sĩ đã gây ra những vấn nạn như: đồng tính luyến ái, hay thói đồng dâm ở nam, chẳng hạn. Điều đó không có nghĩa là những trường hợp đáng tiếc như trên không phải là không trầm trọng, để dành sự chú ý tối đa của chúng ta. Vấn nạn cơ bản chính là việc giáo dục và đào tạo. Trong việc đào tạo bước đầu, phải cần có một sự chú ý đặc biệt vào những khía cạnh như tình cảm và bản năng giới tính; và sự quan tâm vào việc đào tạo không phải chỉ giới hạn trong việc lúc nào cũng luôn cảnh thức, mà còn là một sự phát triển tích cực về một tình yêu trưởng thành, chững chạc, qua cảm nghiệm liên lũy về mối quan hệ với Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể ắp đầy con tim và biến nó có khả năng biết yêu thương, và yêu theo cách của Thiên Chúa. Vì lẽ, không nên quên rằng, tình yêu của người độc thân dành cho Thiên Chúa phải là một thứ tình yêu vượt hẳn tất cả mọi thứ tình yêu dành cho các tạo vật khác để “yêu mỗi tạo vật bằng bằng trái tim và sự tự do đến từ Thiên Chúa,” Đấng Chủ Tể của Tình Yêu.
(H): Thưa Cha, có phải bản năng tính dục non nớt thì rõ ràng hơn trong thời đại ngày nay so với những thời đại trong lịch sử?
(T): Thưa, vấn nạn về dục tính với tất cả mọi hậu quả của nó, trọng tội và gây khó chịu, thì đó chính là những vấn nạn chung tấn công vào xã hội thời nay. Có một cái gì đó gọi là “sự rối loạn trong tình yêu” hay “yêu bất ổn” vốn rất khó để mà có thể hiểu được. Nhưng tôi không nghĩ là có một sự khác biệt đáng kể và thật sự nào nếu đem so sánh vào trong quá khứ, có lẽ là vì ngày hôm nay, mọi thứ thì quá lộ liễu và trân trân ra đó, và bầu khí quyển thời nay hết sức tạp hơn bao giờ hết về tính dị thường trong đạo đức và sự sa sút về não trạng. Đó là lý do tại sao một linh mục sống độc thân lại là một lời chứng hết sức hùng hồn và đầy thuyết phục, đặc biệt rất cần đến trong thời đại ngày nay.
Hơn nữa, ngày nay rõ ràng là vẫn còn có một linh mục không thể cho rằng mình đã thỏa mãn bằng một lương tâm trong sáng lành mạnh về sự độc thân của mình, chỉ đơn giản là vì “vị ấy chẳng biết gì về đàn bà,” mà là vị ấy phải tự liên lũy tự hỏi chính bản thân mình là liệu đời sống độc thân của tôi có thành công trong việc đưa ra một lời chứng thực về tình yêu thương của tôi dành cho Thiên Chúa hay không; và nếu vị ấy hiểu rằng việc yêu mến Thiên Chúa không phải là một điều luật, một nổ lực, một sự từ bỏ hay một thứ bạo lực đối với bản tính tự nhiên, nhưng đó lại là một tình yêu tốt đẹp vì nó giúp mình biết mở rộng chính lòng mình ra, và mở rộng lòng mình ra cho tất cả mọi người.
(H): Thưa Cha, đời sống thánh hiến và tu trì đáp ứng tới mức độ nào về nhu cầu này của xã hội?
(T): Thưa, mẫu gương của một linh mục sống độc thân ngày nay không phải và chẳng thể là một người linh mục trông có vẽ ủ rũ, buồn bả, quá nghiêm túc, hay hầu như không thân thiện mấy, nhưng lại giống như Thánh Phanxicô chẳng hạn, người mà đến một giai đoạn của đời mình đã ôm hôn lấy một người cùi hũi. Thì đó chính là một mẫu gương độc thân mà tôi muốn nói đến, vì sự độc thân đó đã hoán chuyển con tim, khiến cho cho nó có thể cảm nhận được một sự thu hút mà đơn giản con người trần tục đã biết xa tránh rồi. Thì sự độc thân kiểu đó là để muốn nói cho xã hội này biết rằng, đó chính là một thứ “tình yêu ngược đời.”
(H): Thưa Cha, Cha dùng cụm từ “độc thân cho tình yêu.” Thế nó có ý nghĩa gì khi hội nhập tính dục vào trong đời sống của linh mục hay đời sống tu trì tận hiến?
(T): Thưa, nó có nghĩa là dù có thể nào đi chăng nữa, vẫn không từ bỏ một điều răn quan trọng nhất đối với người Kitô giáo, đó là điều răn về tình yêu. Có lúc nó xảy ra, và có lẽ, nó xảy ra nhiều trong quá khứ hơn là trong hiện tại rằng việc gìn giữ sự trong trắng, thanh bạch, chính là việc ám chỉ đến những chiều kích về cách sống của linh mục; và bằng cách liên hệ như thế, một người có thể là trong trắng, thanh bạch nhưng không nhất thiết phải là đồng trinh hay độc thân cho Nước Trời.
Để hội nhập tính dục vào chương trình của đời sống độc thân có nghĩa là, trên tất cả, phải nhìn thấy được quan niệm tích cực của tính dục như là một nguồn năng lực vô giá nhất được Thiên Chúa ban và được Chúa Thánh Thần ngự đến. Một thứ năng lực xuất phát ra để giúp chúng ta biết sống hài hòa với người khác, biết trao bạn sự sống dồi dào đến mỗi mối quan hệ khắn khít gần gũi.
Để hội nhập năng lực này vào một đời sống độc thân của ai đó, có nghĩa là để học biết cách sống đúng theo bản tính của tính dục theo tự nhiên, trong trường hợp này, chính là để thành công trong việc giải phóng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong đó. Vì lẽ, chúng ta cần phải nhớ rằng tính dục xuyên xuốt qua mầu nhiệm của sự chết và sự phục sinh.
(H): Liên quan đến chủ đề về đồng tính luyến ái, và với một số vụ xì-căng-đang tại một số chủng viện mà dư luận công khai đều biết đến gần đây, thì thưa Cha vai trò nào của sự hướng dẫn về tâm linh hay người đào tạo đóng vai trò gì nếu vấn nạn này được khám phá ra nơi một chủng sinh?
(T): Thưa, câu hỏi này rất phức tạp và được đối xử một cách rất thận trọng, cũng là bởi vì khi nó có liên hệ tới sự đồng tính luyến ái, thì xét về mặt tự nhiên lẫn nguồn gốc, và triển vọng cho những giải pháp cũng như những giới hạn của nó, vẫn chưa có sự đồng ý, nhất quán nào về phía các học giả cả.
Thông thường, việc trước tiên là cần phải làm rõ xem đây là loại đồng tính luyến ái theo kiểu nào. Việc chú ý rằng có một sự thu hút nào đó không phải luôn luôn lúc nào cũng là một dấu chỉ của việc đồng tính luyến ái thật sự. Sự đồng tính luyến ái phải có một cơ cấu rõ ràng, liên quan đến sự thiếu nhìn nhận của cha mẹ đồng phái trong những năm tháng đầu chung sống với nhau, cũng như với khuynh hướng rõ ràng mà thường khi nó cứ dai dẵng mãi suốt trong cuộc sống bởi vì nó có khuynh hướng chiếm trọn cả cá tính.
Cũng có thể đó là một sự đồng tính luyến ái không có cấu trúc rõ ràng với những nguồn gốc mới đâu; thường đó là trước tuổi thành niên. Thì kiểu này có thể dễ dàng giáo dục được. Nếu tận đáy thâm sâu, thì đây không phải là một sự đồng tính luyến ái thật sự vì nó không có khuynh hướng chiếm trọn cả cá tính.
Rõ ràng là, cứ một trong hai trường hợp đồng tính luyến ái kể trên thì phải có một tiến trình nhận thức rõ ràng khác nhau. Chính vì vậy, đó là điều cần thiết để có một chuẩn đoán chính xác trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào. Trường hợp này rất khác với trường hợp của ai đó có khuynh hướng lạm dụng tính dục trẻ em. Trường hợp lạm dụng tính dục trẻ em là một trường hợp có tính tuần hoàn và vì lý do này, những ai có tính lạm dụng tính dục trẻ em thì không được gia nhập vào chủng viện.
(H): Trong một vài trường hợp, có người nói rằng một người thanh niên nào chọn đời sống linh mục hay tận hiến tu trì phải cần biết rõ rằng khuynh hướng đồng tình luyến ái, vì tận cùng, họ sẽ phải đấu tranh chống lại những bản năng của họ, và thật là vô ích khi họ làm như vậy chỉ trong một phái hay phái khác. Thế đâu là sự đáp trả của Cha về điều này?
(T): Thưa, một người chỉ làm được điều tốt cho người khác khi người đó giúp cho người khác biết sống trong sự thật, trong chính bản thân của người đó và biết đưa ra những quyết định đúng với sự thật đó. Chính vì thế, không những là quá thiển cận mà còn quá nguy hiểm để cứ khăng khăng vào một nguyên tắc [tự nhận thức về khuynh hướng tính dục đồng giới] không thôi cũng đủ được nhận vào để đào tạo. Phải cần nhận thức rõ rằng, không những người đó ý thức được sự đồng tính luyến ái của mình, và mình thuộc kiểu đồng tính luyến ái nào; mà mối quan hệ mà người đó tạo ra theo những chiều hướng đó nếu như người đó thấy được có một sự sa sút về luân lý; hoặc nếu người đó cảm thấy rằng có cái gì đó không đáp ứng được với lý tưởng của mình, để khiến mình phải vật lộn liên lũy, cũng như là việc người đó biết ý thức được về mình như thế nào trước mặt Thiên Chúa, cho dẫu có hay không có một sự xám hối về lương tâm.
Do đó, việc hiểu biết rõ về quá khứ của người đó là rất cần thiết nếu như người đó trước kia là một trong hai dạng kể trên, và nếu người đó biết tự kiềm chế mình để không còn phải bị lệ thuộc nữa, không những qua hành vi cử chỉ mà còn cả trong tư tưởng và những ham muốn. Như bạn thấy đó, việc tìm hiểu sâu sắc về ơn gọi rất ư là phức tạp.
(H): Thưa Cha, Cha có thể giải thích cụm từ: “Nếu chúng ta thật sự tin tưởng vào những lý tưởng của chúng ta, thì chẳng có gì phải ngần ngại khi phải dựa theo bản năng của mình; mà trái lại, chúng ta cần phải biết tận dụng nó để biết yêu thương và để sống với những ý tưởng đó một cách tốt đẹp và trọn hảo hơn, với lòng anh dũng và trí tưởng tượng?”
(T): Thưa, là nó có liên quan đến những điều mà tôi đã đề cập ở trên về việc hội nhập giới tính vào kế hoạch của một đời sống độc thân cho Nước Trời. Giới tính giống như là một chất liệu gì đó rất quan trọng để cho ai đó biết sống đúng với sự thanh bạch của mình. Nếu độc thân chỉ được xem như là một sự từ bỏ tất cả những gì là tốt đẹp và hoàn hảo, thì những linh mục độc thân trông có vẽ như là những con người khốn khổ nhất trên thế giới, và khi đó chúng ta không thể nào là một bằng chứng sống động và hùng hồn cho cộng đồng cả.
(H): Thưa Cha, việc “thanh bạch hay độc thân cho Nước Trời” có nghĩa là gì?
(T): Thưa, chính để biết yêu Thiên Chúa trên tất cả mọi tạo vật, với trọn con tim, với trọn linh hồn và với hết trọn sức mình; là để yêu thương tất cả mọi tạo vật với con tim và sự tự do mà Thiên Chúa đã trao ban, không bị trói buộc hay thiên vị bất kỳ ai, cũng như không phải loại bỏ bất kỳ ai, và giống như trên, nghĩa là yêu những ai có cảm giác là mình đã bị xã hội xa tránh, hay oán ghét.
Đó là lời nhận xét của Cha Amedeo Cencini, Tham Vấn của Tòa Thánh
SANTIAGO DE COMPOSTELA, Spain -- Một linh mục sống trọn đời độc thân sẽ là một bằng chứng hùng hồn về một tình yêu dành cho Thiên Chúa, đó là lời nhận xét của một thần học gia, người tham vấn cho Tòa Thánh về việc đào tạo các chủng sinh.
Cha Amedeo Cencini thuộc Dòng Nam Tử Bác Ái Canos, là giáo sư tại trường Đại Học Salesian và tại Học Viện Tâm Lý thuộc trường Đại Học Gregory ở Rôma. Cha đã là tham vấn viên cho Bộ Đặc Trách Đời Sống Tu Sĩ và Các Hiệp Hội về Sự Sống Tông Đồ từ năm 1995 cho đến nay. Cha Cencini đã dành cho hãng tin Zenit một cuộc phỏng vấn nói về Hội Nghị Lần Thứ 33 của Các Giám Đốc Chủng Viện và Các Nhà Giáo Dục Đào Tạo, được tổ chức tại thành phố Santiago de Compostela. bởi Ủy Ban Đặc Trách về các Chủng Viện và các Trường Đại Học thuộc Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha. Chủ đề của Hội Nghị là “Sự Nhạy Cảm Trong Việc Giáo Dục về Độc Thân Linh Mục.”
Hỏi (H): Thưa Cha, Cha đã phát biểu tại hội nghị về một cái nhìn mới mẽ trong việc đào tạo về mặt tình cảm cho những ứng viên vào chức linh mục. Thế điều đó có ý nghĩa gì?
Cha Cencini (T): Thưa, chẳng có ngụ ý gì cả để đề nghị ra một số chi tiết tiểu thuyết viễn vông, vẽ vời. Nó chỉ đơn giản là một nổ lực để nhấn mạnh đến chiều kích nhân loại học nhằm tạo ra sự uy tín cho giới tu sĩ.
Qua việc đề cập một “cái nhìn mới” trong việc huấn luyện về sự độc thân, tôi muốn liên hệ tới khái niệm về sự độc thân linh mục, vì dẫu đó không chỉ là một đặc tính độc nhất vô nhị của linh mục theo lễ nghi Công Giáo, và ít nhiều gì đó lại là một điều kiện chính của Giáo Hội; nhưng đó cũng còn là một món quà được lãnh nhận “để hướng dẫn và sáng soi cộng đồng,” để nhắc nhở với mọi người rằng “Thiên Chúa đã có được một chổ đặc biệt trong trái tim của mỗi một người nam lẫn nữ, và chỉ có Đấng Bất Diệt mới có thể cư ngụ được trong đó mà thôi.” Đó chính là một tình yêu mà chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể đáp ứng được một cách trọn vẹn. Nó trông có vẽ là phi thường, ngoại lệ, nhưng chỉ với sự lựa chọn của mình, người linh mục độc thân đó nhắc nhớ cho chúng ta rằng, về một ý nghĩa nào đó, nó chính là “một sự thanh bạch phổ quát” mà tất cả mọi người chúng ta có thể và phải sống, trong chính ơn gọi của riêng bản thân chúng ta. Tôi biết rằng đây không phải là một sự thật rõ ràng, hiển nhiên, thế nhưng nó lại là một lời chứng rất xác thực đối với những cá nhân nào biết nghiêm túc lãnh nhận lấy sự thật này, và những ai đã mạnh mẽ và liên lũy là một chứng nhân của một đời sống độc thân.
(H):Thưa Cha, tại sao một linh mục phải độc thân?
(T): Thưa, ai nấy cũng đều biết rằng chẳng có một liên hệ cơ bản nào cả giữa chức linh mục và sự độc thân. Nhưng vì những lý do về sự tương đồng, Giáo Hội Công Giáo của chúng ta, sau một thời gian nhận thức sâu sắc trong lịch sử mà không phải trường hợp nào cũng đơn giản cả thậm chí còn chống đối, thì Giáo Hội mới quyết định việc chọn đời sống độc thân linh mục là một sự chọn lựa kiên quyết. Vì điểm này, mà tôi phải thêm vào rằng Giáo Hội không có áp đặt sự độc thân trên bất kỳ ai; mà chỉ đơn giản nhận thấy rằng, số những linh mục gây đươc uy tín, chính là những linh mục có đời sống độc thân.
Động cơ thúc đẩy “cổ điển” về đời sống độc thân linh mục chính là dựa theo thuyết mạt thế, như là một dấu chỉ tương lai của một trạng thái; xét về mặt Kitô giáo, vì Chúa Kitô đã chọn đời sống độc thân; và theo khoa nhà thờ học, thì Giáo Hội lại chính là một vị Hiền Thê của Chúa Kitô; hay nói khác đi, đó là một dấu chỉ để mời gọi tất cả mọi người hay các cặp vợ chồng hãy tận hiến cho Giáo Hội, nếu xét theo mặt tự nhiên.
Thì rõ ràng điều quan trọng nhất của sự độc thân chính là biến tất cả những lý do trên thành những lý do riêng của người linh mục để người linh mục ấy sống một đời sống độc thân như là một sự chọn lựa về tình yêu, với một trái tim hoàn toàn biết ơn và không vị kỷ và với một thái độ về đời sống tâm linh một cách sâu sắc. Nếu vị linh mục đó không phải là một người sống đức độ và thánh thiện, thì vị ấy chính là một người độc thân tồi.
(H): Thưa Cha, việc độc thân linh mục đã đóng góp được điều gì trong việc hình thành nên một cộng đoàn đức tin?
(T): Thưa, đối với cộng đoàn đức tin, một linh mục có đời sống độc thân trọn vẹn và thanh bạch chính là một lời chứng hùng hồn về thứ tình yêu siêu việt dành cho Thiên Chúa, và đó cũng còn là một lời nhắc nhớ rằng mỗi một sự âu yếm và yêu thương của con người chính là tình yêu dành cho Thiên Chúa, và vì lẽ đó, nếu ai biết sâu sắc trung thành, thì người ấy phải biết nhìn nhận và tôn trọng một chổ thiêng liêng dành cho Thiên Chúa như là chúng ta đã nói đến ở trên. Tình yêu của con người và tình yêu của Thiên Chúa không xung khắc lẫn nhau. Nói tóm lại, qua tình yêu đó, sự uy tín được tạo ra, và nó giúp cho mọi người biết nhận ra một cái gì đó vĩ đại hơn, chính là sự uy tín của tình yêu.
(H): Thỉnh thoảng, có người nói rằng độc thân, tức có một đời sống trinh bạch, không tốt cho sự phát triển của con người, và vì lẽ đó, nó gây ra những vấn nạn như đồng tính luyến ái và thói đồng dâm ở nam. Thế ý kiến của Cha về điều này như thế nào?
(T): Thưa, đây chính là một trong những điều ngu xuẩn và có chủ ý nhất khi phải nói ra như vậy. Những vụ xì-căng-đang mới đây tại một số Giáo Hội không phải là cớ để dẫn đến một sự mánh khóe, lừa gạt, bởi vì không có một bằng chứng khoa học cụ thể nào cho thấy rằng phạm vi của sự độc thân trong giới tu sĩ đã gây ra những vấn nạn như: đồng tính luyến ái, hay thói đồng dâm ở nam, chẳng hạn. Điều đó không có nghĩa là những trường hợp đáng tiếc như trên không phải là không trầm trọng, để dành sự chú ý tối đa của chúng ta. Vấn nạn cơ bản chính là việc giáo dục và đào tạo. Trong việc đào tạo bước đầu, phải cần có một sự chú ý đặc biệt vào những khía cạnh như tình cảm và bản năng giới tính; và sự quan tâm vào việc đào tạo không phải chỉ giới hạn trong việc lúc nào cũng luôn cảnh thức, mà còn là một sự phát triển tích cực về một tình yêu trưởng thành, chững chạc, qua cảm nghiệm liên lũy về mối quan hệ với Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể ắp đầy con tim và biến nó có khả năng biết yêu thương, và yêu theo cách của Thiên Chúa. Vì lẽ, không nên quên rằng, tình yêu của người độc thân dành cho Thiên Chúa phải là một thứ tình yêu vượt hẳn tất cả mọi thứ tình yêu dành cho các tạo vật khác để “yêu mỗi tạo vật bằng bằng trái tim và sự tự do đến từ Thiên Chúa,” Đấng Chủ Tể của Tình Yêu.
(H): Thưa Cha, có phải bản năng tính dục non nớt thì rõ ràng hơn trong thời đại ngày nay so với những thời đại trong lịch sử?
(T): Thưa, vấn nạn về dục tính với tất cả mọi hậu quả của nó, trọng tội và gây khó chịu, thì đó chính là những vấn nạn chung tấn công vào xã hội thời nay. Có một cái gì đó gọi là “sự rối loạn trong tình yêu” hay “yêu bất ổn” vốn rất khó để mà có thể hiểu được. Nhưng tôi không nghĩ là có một sự khác biệt đáng kể và thật sự nào nếu đem so sánh vào trong quá khứ, có lẽ là vì ngày hôm nay, mọi thứ thì quá lộ liễu và trân trân ra đó, và bầu khí quyển thời nay hết sức tạp hơn bao giờ hết về tính dị thường trong đạo đức và sự sa sút về não trạng. Đó là lý do tại sao một linh mục sống độc thân lại là một lời chứng hết sức hùng hồn và đầy thuyết phục, đặc biệt rất cần đến trong thời đại ngày nay.
Hơn nữa, ngày nay rõ ràng là vẫn còn có một linh mục không thể cho rằng mình đã thỏa mãn bằng một lương tâm trong sáng lành mạnh về sự độc thân của mình, chỉ đơn giản là vì “vị ấy chẳng biết gì về đàn bà,” mà là vị ấy phải tự liên lũy tự hỏi chính bản thân mình là liệu đời sống độc thân của tôi có thành công trong việc đưa ra một lời chứng thực về tình yêu thương của tôi dành cho Thiên Chúa hay không; và nếu vị ấy hiểu rằng việc yêu mến Thiên Chúa không phải là một điều luật, một nổ lực, một sự từ bỏ hay một thứ bạo lực đối với bản tính tự nhiên, nhưng đó lại là một tình yêu tốt đẹp vì nó giúp mình biết mở rộng chính lòng mình ra, và mở rộng lòng mình ra cho tất cả mọi người.
(H): Thưa Cha, đời sống thánh hiến và tu trì đáp ứng tới mức độ nào về nhu cầu này của xã hội?
(T): Thưa, mẫu gương của một linh mục sống độc thân ngày nay không phải và chẳng thể là một người linh mục trông có vẽ ủ rũ, buồn bả, quá nghiêm túc, hay hầu như không thân thiện mấy, nhưng lại giống như Thánh Phanxicô chẳng hạn, người mà đến một giai đoạn của đời mình đã ôm hôn lấy một người cùi hũi. Thì đó chính là một mẫu gương độc thân mà tôi muốn nói đến, vì sự độc thân đó đã hoán chuyển con tim, khiến cho cho nó có thể cảm nhận được một sự thu hút mà đơn giản con người trần tục đã biết xa tránh rồi. Thì sự độc thân kiểu đó là để muốn nói cho xã hội này biết rằng, đó chính là một thứ “tình yêu ngược đời.”
(H): Thưa Cha, Cha dùng cụm từ “độc thân cho tình yêu.” Thế nó có ý nghĩa gì khi hội nhập tính dục vào trong đời sống của linh mục hay đời sống tu trì tận hiến?
(T): Thưa, nó có nghĩa là dù có thể nào đi chăng nữa, vẫn không từ bỏ một điều răn quan trọng nhất đối với người Kitô giáo, đó là điều răn về tình yêu. Có lúc nó xảy ra, và có lẽ, nó xảy ra nhiều trong quá khứ hơn là trong hiện tại rằng việc gìn giữ sự trong trắng, thanh bạch, chính là việc ám chỉ đến những chiều kích về cách sống của linh mục; và bằng cách liên hệ như thế, một người có thể là trong trắng, thanh bạch nhưng không nhất thiết phải là đồng trinh hay độc thân cho Nước Trời.
Để hội nhập tính dục vào chương trình của đời sống độc thân có nghĩa là, trên tất cả, phải nhìn thấy được quan niệm tích cực của tính dục như là một nguồn năng lực vô giá nhất được Thiên Chúa ban và được Chúa Thánh Thần ngự đến. Một thứ năng lực xuất phát ra để giúp chúng ta biết sống hài hòa với người khác, biết trao bạn sự sống dồi dào đến mỗi mối quan hệ khắn khít gần gũi.
Để hội nhập năng lực này vào một đời sống độc thân của ai đó, có nghĩa là để học biết cách sống đúng theo bản tính của tính dục theo tự nhiên, trong trường hợp này, chính là để thành công trong việc giải phóng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong đó. Vì lẽ, chúng ta cần phải nhớ rằng tính dục xuyên xuốt qua mầu nhiệm của sự chết và sự phục sinh.
(H): Liên quan đến chủ đề về đồng tính luyến ái, và với một số vụ xì-căng-đang tại một số chủng viện mà dư luận công khai đều biết đến gần đây, thì thưa Cha vai trò nào của sự hướng dẫn về tâm linh hay người đào tạo đóng vai trò gì nếu vấn nạn này được khám phá ra nơi một chủng sinh?
(T): Thưa, câu hỏi này rất phức tạp và được đối xử một cách rất thận trọng, cũng là bởi vì khi nó có liên hệ tới sự đồng tính luyến ái, thì xét về mặt tự nhiên lẫn nguồn gốc, và triển vọng cho những giải pháp cũng như những giới hạn của nó, vẫn chưa có sự đồng ý, nhất quán nào về phía các học giả cả.
Thông thường, việc trước tiên là cần phải làm rõ xem đây là loại đồng tính luyến ái theo kiểu nào. Việc chú ý rằng có một sự thu hút nào đó không phải luôn luôn lúc nào cũng là một dấu chỉ của việc đồng tính luyến ái thật sự. Sự đồng tính luyến ái phải có một cơ cấu rõ ràng, liên quan đến sự thiếu nhìn nhận của cha mẹ đồng phái trong những năm tháng đầu chung sống với nhau, cũng như với khuynh hướng rõ ràng mà thường khi nó cứ dai dẵng mãi suốt trong cuộc sống bởi vì nó có khuynh hướng chiếm trọn cả cá tính.
Cũng có thể đó là một sự đồng tính luyến ái không có cấu trúc rõ ràng với những nguồn gốc mới đâu; thường đó là trước tuổi thành niên. Thì kiểu này có thể dễ dàng giáo dục được. Nếu tận đáy thâm sâu, thì đây không phải là một sự đồng tính luyến ái thật sự vì nó không có khuynh hướng chiếm trọn cả cá tính.
Rõ ràng là, cứ một trong hai trường hợp đồng tính luyến ái kể trên thì phải có một tiến trình nhận thức rõ ràng khác nhau. Chính vì vậy, đó là điều cần thiết để có một chuẩn đoán chính xác trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào. Trường hợp này rất khác với trường hợp của ai đó có khuynh hướng lạm dụng tính dục trẻ em. Trường hợp lạm dụng tính dục trẻ em là một trường hợp có tính tuần hoàn và vì lý do này, những ai có tính lạm dụng tính dục trẻ em thì không được gia nhập vào chủng viện.
(H): Trong một vài trường hợp, có người nói rằng một người thanh niên nào chọn đời sống linh mục hay tận hiến tu trì phải cần biết rõ rằng khuynh hướng đồng tình luyến ái, vì tận cùng, họ sẽ phải đấu tranh chống lại những bản năng của họ, và thật là vô ích khi họ làm như vậy chỉ trong một phái hay phái khác. Thế đâu là sự đáp trả của Cha về điều này?
(T): Thưa, một người chỉ làm được điều tốt cho người khác khi người đó giúp cho người khác biết sống trong sự thật, trong chính bản thân của người đó và biết đưa ra những quyết định đúng với sự thật đó. Chính vì thế, không những là quá thiển cận mà còn quá nguy hiểm để cứ khăng khăng vào một nguyên tắc [tự nhận thức về khuynh hướng tính dục đồng giới] không thôi cũng đủ được nhận vào để đào tạo. Phải cần nhận thức rõ rằng, không những người đó ý thức được sự đồng tính luyến ái của mình, và mình thuộc kiểu đồng tính luyến ái nào; mà mối quan hệ mà người đó tạo ra theo những chiều hướng đó nếu như người đó thấy được có một sự sa sút về luân lý; hoặc nếu người đó cảm thấy rằng có cái gì đó không đáp ứng được với lý tưởng của mình, để khiến mình phải vật lộn liên lũy, cũng như là việc người đó biết ý thức được về mình như thế nào trước mặt Thiên Chúa, cho dẫu có hay không có một sự xám hối về lương tâm.
Do đó, việc hiểu biết rõ về quá khứ của người đó là rất cần thiết nếu như người đó trước kia là một trong hai dạng kể trên, và nếu người đó biết tự kiềm chế mình để không còn phải bị lệ thuộc nữa, không những qua hành vi cử chỉ mà còn cả trong tư tưởng và những ham muốn. Như bạn thấy đó, việc tìm hiểu sâu sắc về ơn gọi rất ư là phức tạp.
(H): Thưa Cha, Cha có thể giải thích cụm từ: “Nếu chúng ta thật sự tin tưởng vào những lý tưởng của chúng ta, thì chẳng có gì phải ngần ngại khi phải dựa theo bản năng của mình; mà trái lại, chúng ta cần phải biết tận dụng nó để biết yêu thương và để sống với những ý tưởng đó một cách tốt đẹp và trọn hảo hơn, với lòng anh dũng và trí tưởng tượng?”
(T): Thưa, là nó có liên quan đến những điều mà tôi đã đề cập ở trên về việc hội nhập giới tính vào kế hoạch của một đời sống độc thân cho Nước Trời. Giới tính giống như là một chất liệu gì đó rất quan trọng để cho ai đó biết sống đúng với sự thanh bạch của mình. Nếu độc thân chỉ được xem như là một sự từ bỏ tất cả những gì là tốt đẹp và hoàn hảo, thì những linh mục độc thân trông có vẽ như là những con người khốn khổ nhất trên thế giới, và khi đó chúng ta không thể nào là một bằng chứng sống động và hùng hồn cho cộng đồng cả.
(H): Thưa Cha, việc “thanh bạch hay độc thân cho Nước Trời” có nghĩa là gì?
(T): Thưa, chính để biết yêu Thiên Chúa trên tất cả mọi tạo vật, với trọn con tim, với trọn linh hồn và với hết trọn sức mình; là để yêu thương tất cả mọi tạo vật với con tim và sự tự do mà Thiên Chúa đã trao ban, không bị trói buộc hay thiên vị bất kỳ ai, cũng như không phải loại bỏ bất kỳ ai, và giống như trên, nghĩa là yêu những ai có cảm giác là mình đã bị xã hội xa tránh, hay oán ghét.