I. Từ ngữ và nội dung
Chữ Ngũ Kinh, Pentateuch, là do nguyên ngữ Hy Lạp pentateuchos, “năm chỗ chứa”, tức các cuốn sách bằng da hay bằng sậy chứa trong những thùng đựng. Trong trường hợp của chúng ta ở đây, chính là 5 cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh, tức Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số và Đệ Nhị Luật. Năm cuốn này tạo thành Sách Luật (tôrâ, nguyên nghĩa là lời dạy).Truyền thống phân chia Sách Thánh Do Thái thành Lề Luật, Tiên Tri, và Trước Tác (Tenak) cho thấy họ hiểu 5 cuốn trên như một đơn vị thống nhất.
Vì một số học giả làm việc với ít hay nhiều hơn bộ Ngũ Kinh, nên đã phát sinh ra một số từ ngữ như tứ thư (tetrateuch) gồm 4 cuốn từ Sáng Thế tới Dân Số, hay lục thư (hexateuch) gồm 6 cuốn từ Sáng Thế tới Giosuê. Những từ ngữ này nói lên quan điểm về cách lập thành và mối tương quan giữa các sách liên hệ.
Một tổng lược lịch sử đã được trình bày trong bộ Ngũ Kinh này, từ lúc sáng tạo ra thế giới và nhân loại tới những bài diễn văn của Mô-sê trong cánh đồng Môáp (cái chết và việc chôn cất ông được ghi tại Đnl 34). Nội dung trên có thể tóm tắt như sau: lịch sử khởi nguyên (St 1-11); thời các tổ phụ (St 12-36); truyện Giuse (St 37-50); giải phóng khỏi Ai Cập và hành trình tới Xi-nai (Xh 1-18); ban hành lề luật tại Xi-nai (Xh19-Ds10); hành trình từ Xi-nai tới Môáp (Ds 10-36); ba bài diễn văn của Mô-sê tại cánh đồng Môáp, và phụ lục (Đnl 1-34). Đáng để ý là phần rất lớn ở giữa từ Xh 19 tới Ds 10, ghi lại phần lớn luật lệ ban hành tại Xi-nai.
Dĩ nhiên, người ta có thể tóm tắt nội dung của Ngũ Thư nhiều cách khác nhau. Năm chủ đề chính được M. Noth nhấn mạnh (ông vốn làm việc với tứ thư) cũng khá hữu ích: các lời hứa cho các tổ phụ, hướng dẫn ra khỏi Ai Cập, hướng dẫn trong sa mạc, Mạc Khải Xi-nai, và hướng dẫn tại vùng đất canh tác được. Hay người ta cũng có thể theo cách phân chia dựa trên việc sử dụng chữ tôlědôt (đời), một kiểu đã được dùng để cấu trúc sách Sáng Thế (truyền thống P). Nếu “lời hứa” được coi như một ý niệm nổi bật (nó nổi bật thật trong các trình thuật tổ phụ), thì người ta rất có khuynh hướng bao gồm cả Sách Giosuê là sách đề cập tới việc nên trọn việc hứa ban đất đai, do đó có lục thư. Tuy nhiên, truyền thống Do Thái vốn tách Luật ra khỏi các Tiên Tri (Ban Đầu). Giải thích hay nhất cho điều này là của J. Sanders trong cuốn Torah and Canon [Phil, 1972] 44-53. Việc đặt Đnl vào Ngũ Kinh là hành động cố ý đi theo chiều kể truyện về lời hứa và nên trọn, một câu truyện lấy Mô-sê làm người ban hành Tôrâ, nhà lãnh đạo thật sự của cộng đồng hậu lưu đày (Ml 3:23; Er 8:1).
II. Tác giả
Gần hai ngàn năm qua, cả hai truyền thống Do Thái và Kitô Giáo đều coi Mô-sê là tác giả của Ngũ Kinh. Mặc dù, trong thời kỳ dài đằng đẵng ấy, thỉnh thoảng vẫn có những nghi vấn được nêu ra về vấn đề tác giả, nhưng phải đợi tới thế kỷ 18, vấn đề ấy mới được nghiêm chỉnh đề cập tới. Ngày nay phần lớn đều cho ông không phải là tác giả. Tuy thế, việc hình thành ra bộ này vẫn còn rất mù mờ.
Một vài sự kiện hiển nhiên cho thấy việc gán quyền tác giả cho Mô-sê là điều không thích hợp. Cái chết của Mô-sê được ghi trong Đnl 34. Tuy nhiên, một số công thức lại cho thấy thời điểm sau Mô-sê, như “cho đến ngày hôm nay” (Đnl 34:6); “thời bấy giờ, người Ca-na-an đang ở trong miền ấy” (St 13:6); chỉ lãnh thổ phía đông sông Giođan là “phía bên kia” theo quan điểm của cư dân Palestine, là miền Mô-sê chưa bao giờ đặt chân tới (St 50:10); và còn nhiều các từ sai niên đại khác như việc nhắc đến người Philitinh (St 26:14-18). Một trong những điều nổi bật nhất khiến người ta phải điều tra về bộ Ngũ Kinh là việc thay đổi thánh danh Gia-vê bằng một danh từ tổng quát chỉ thần tính tức Êlôhim. Điều này không thể giải thích cách hời hợt mà phải được giải thích bằng những yếu tố nhất quán hơn. Người ta cho rằng khi liên hệ thánh danh thần thánh với một ngữ vựng, một lối kể truyện và một nội dung đặc thù, thì các dòng văn Gia-vê (J) và dòng văn Êlôhim (E) đã xuất hiện như là các nguồn khác nhau cho bản văn (và do đó, do nhiều tác giả đóng góp). Một luận chứng khác nữa là việc có những chỗ trùng lắp (doublets), tức một biến cố được nhắc tới hai lần như lời gọi Mô-sê (Xh 3, 6) hay nguy cơ xẩy tới cho tổ mẫu (St 12:9-13:1; 20:1-18; 26:1-17). Sự phức tạp của Ngũ Kinh vì thế đòi phải có nhiều dòng văn trong nó.
Đây không phải là chỗ để ôn lại lịch sử phức tạp của ngành phê bình Thánh Kinh hiện đại, tuy ngành này đã nên sắc cạnh nhờ phân tích Ngũ Kinh. Các dị biệt về tên và ngữ vựng, về văn phong và nội dung đã được ghi nhận trong Ngũ Kinh và chúng cần được giải thích thỏa đáng. Phải chăng các dị biệt ấy là do các tài liệu khác nhau hay là tại do nhiều “mảnh” khác nhau sau cùng đã được gom lại một mối? Hay một khả thể khác: phải chăng trước đó có một trình thuật căn bản rồi sau đó trình thuật này đã được bổ túc (giả thuyết bổ túc)? Cuối cùng, Julius Wellhausen (1844-1918) đã đưa ra một tổng hợp cho các cố gắng trên đây và tổng hợp của ông vẫn nổi bật trong lãnh vực này từ đó, dù có nhiều thay đổi. Giả thuyết ông đưa ra được gọi là “giả thuyết tài liệu” cho hay có tất cả bốn tài liệu theo thứ tự sau đây: J (Giavê, thế kỷ thứ 9), E (Êlôhim, thế kỷ thứ 8), D (Đệ Nhị Luật, thế kỷ thứ 7) và P (tư tế, sau lưu đày). Bốn nguồn văn viết chính này sau cùng đã được kết hợp trong thời hậu lưu đày dưới sự điều khiển của truyền thống P và có lẽ do một ban soạn thảo R (R, tắt cho redactor). Đàng sau mỗi dòng văn hay tài liệu JEDP này, có lẽ là một cá nhân, nhưng phần chắc là một trường phái soạn thảo. Giả thuyết này sau đó đã chịu nhiều thay đổi nhỏ. Trước nhất, hiện đang có khuynh hướng định niên biểu J và E sớm hơn, tức vào thế kỷ thứ 10 hay thứ 9. Thứ hai, có sự thừa nhận rằng nên coi các “tài liệu” này như các “truyền thống” nhằm tổng hợp các truyền thống truyền khẩu cũng như thành văn trước đây. Dù một số học giả sau này có khuynh hướng muốn chẻ J thành nhiều nguồn khác nhau (J1, J2 v.v…), nhưng khuynh hướng chung hiện nay vẫn duy trì 4 dòng văn nói trên và nhìn nhận có sự hiện hữu của những truyền thống trước đó du nhập vào 4 dòng này.
Dường như muốn nhắc mọi người nhớ cho rằng đấy chỉ là một giả thuyết, dù rất sáng giá, nên các học giả gần đây đã nêu ra nhiều nghi vấn chống đối. Các nghi vấn của họ được tóm tắt trong The Hebrew Bible and Its Modern Interpreters [HBMI] 263-96 của D. Knight and G. Tucker, và Journal for the Study of the Old Testament [JSOT] 3(1977) 2-60. Rolf Rendtorff chẳng hạn cho rằng J không phải là một trình thuật trọn vẹn được dệt vào suốt Ngũ Kinh mà ta có thể gán cho một hay nhiều “thần học gia”. Đúng hơn nó là công trình biên tập lại nhiều đoạn văn cá thể (như P chẳng hạn). Việc soạn thảo thực sự của Ngũ Kinh là do một biên tập viên thời viết ra Đệ Nhị Luật. Trước hết, có những câu truyện riêng rẽ (như từng tổ phụ riêng rẽ một) được phối hợp thành một tổng hợp phức tạp dựa trên các chủ đề thống nhất (như các lời hứa chẳng hạn). Việc tích nhập tất cả các tổng hợp phức tạp trên vào hình thức sau cùng là công trình soạn thảo có tính thần học dưới ảnh hưởng của thời kỳ viết Đệ Nhị Luật (xem Rolf Rendtorff, The Old Testament [Phl, 1986] 157-74).
Tuy sự nhất trí liên quan đến việc hình thành ra Ngũ Kinh đã bị thương tổn, nhưng không bị thay thế. Nhiều người vẫn coi nó là một giả thuyết có thể chấp nhận được. Phần đông vẫn nhất trí rằng Xh25 – Ds10 thuộc truyền thống P hậu lưu đày, dù có những chi tiết xưa hơn trong đó. Sách Đnl có đặc tính độc đáo, do đó rất thích hợp được gọi là D, và có lẽ đã được thành hình trong các thế kỷ từ 8 tới 6. Nhưng việc phân biệt giữa J và E luôn luôn bị tranh cãi, ngay từ lâu trước. Khuynh hướng hiện nay nhìn nhận có sự mở rộng J, do một nhà soạn thảo R.
Điều hữu ích là chú ý tới việc lên đặc điểm cho 4 dòng văn trên, tuy nhiên, không được coi việc lên đặc điểm này là tuyệt đối. J nổi tiếng có những phỏng nhân hình (anthropomorphisms) sống động, nghệ thuật kể truyện linh động, và tầm nhìn thần học đầy sáng tạo (năng động tính của lời hứa và việc nên trọn). J rất lưu loát về các truyền thống xưa, có lẽ nhờ thừa hưởng thời kỳ văn hóa sáng chói của Salômôn. Truyền thống Êlôhim không rõ ràng lắm. Người ta vẫn coi nó chỉ là những truyền thống độc lập được chêm vào hay là một biên tập J chưa bao giờ tự mình hiện hữu. Nó được liên kết với các truyền thống của vương quốc phía bắc và được cho là nhấn mạnh tới luân lý và phản ảnh đáp ứng thích hợp của Israel, tức đức tin và lòng kính sợ Thiên Chúa. D trái lại là một truyền thống rất rõ ràng, nhưng sự hiện diện của nó trong Ngũ Kinh bên ngoài chính Đệ Nhị Luật thì không rõ ràng lắm. Nó nhấn mạnh tới lòng kính sợ/yêu mến Thiên Chúa theo nghĩa vâng theo các lệnh truyền của Người vì sợ bị phạt. Lối văn khuyên dạy và ngôn từ của nó mang lại cho nó một đặc điểm khá độc đáo, đến nỗi người ta nhận ra nó dù nó xuất hiện cả ở bên ngoài Ngũ Kinh như trong các câu Gs 1:1-9; 23:3-16. P cũng là một dòng văn rõ ràng độc đáo. Nó quan tâm tới các vấn đề phụng tự và lễ nghi (Lêvi), tới gia phả (Sáng Thế) và tương phản với thần học về “Tên” trong Đệ Nhị Luật (Đnl 12:5, 11, 21), nói về sự hiện diện của Thiên Chúa theo nghĩa vinh quang và dựng lều (Xh 16:10; 40:34-38). Theo F.M Cross (Canaanite Myth and Hebrew Epic, Cambridge MA 1973), truyền thống P chưa bao giờ hiện hữu như một tài liệu kể truyện độc lập. Đúng hơn, nó rút tỉa các nguồn của chính mình để lên khuôn và hệ thống hóa hai truyền thống JE và tạo ra tứ thư (St-Ds) vào thời lưu đày. Các đặc điểm của nó là: dùng các ngôn từ làm cho ra cổ, như dùng chữ El Shaddai để chỉ Gia-vê, một từ có nguồn gốc Lưỡng Hà; hệ thống hóa Sách Sáng Thế bằng việc sử dụng công thức tôlĕdôt (gia phả), và phân thời kỳ lịch sử bằng các mốc giao ước: giao ước với Nôe (St 9:7), giao ước với Áp-ra-ham (St 17:6) và giao ước với Mô-sê (Lv 26:9). Chủ đề xóa tội cũng như lòng thống hối và việc tái lập thời đại Mô-sê cùng với việc phụng tự và lề luật của nó cũng là đặc trưng của truyền thống P.
Việc phân tích sự hình thành của Ngũ Kinh mang lại nhiều hệ lụy cho các phần còn lại của Cựu Ước. Đa số đều tin rằng trước thời lưu đày, St-Đnl chưa bao giờ được coi là một tôrâ hoàn tất cả. Trước thời đó, nhiều truyền thống, cả truyền khẩu lẫn thành văn, có lẽ đã cung cấp cho dân nhiều hướng dẫn. Quê hương của truyền thống J thường được coi là Giuđa, trong khi truyền thống E được gán cho Ít-ra-en. Cao điểm của phong trào Đệ Nhị Luật trong cuộc canh cải của Giô-si-gia (641-609) đại biểu cho truyền thống D, vốn phát nguyên trước nhất ở phía bắc và sau đó trở thành quan trọng ở Giuđa. Một số bộ luật (luật Giao Ước trong Xh 20:22-23:19; luật Thánh Thiện trong Lv 17-26; Đệ Nhị Luật trong Đnl 12-26) có khá nhiều thực hành chung nhưng cũng cho thấy các phát triển và các đặc điểm đặc thù từng xẩy ra trong nhiều thế kỷ. Về việc tập trung hóa sự thờ phượng, vốn được Đnl và truyền thống Đệ Nhị Luật nhấn mạnh, ta nên nhớ rằng đây là một khai triển chậm chạp; nếu hiểu nó đã thành hình ngay từ thời Êlia (thế kỷ thứ 9) là điều sai lầm về thời gian.
Kỳ sau: III. Hình thức văn chương của Ngũ Kinh
Chữ Ngũ Kinh, Pentateuch, là do nguyên ngữ Hy Lạp pentateuchos, “năm chỗ chứa”, tức các cuốn sách bằng da hay bằng sậy chứa trong những thùng đựng. Trong trường hợp của chúng ta ở đây, chính là 5 cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh, tức Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số và Đệ Nhị Luật. Năm cuốn này tạo thành Sách Luật (tôrâ, nguyên nghĩa là lời dạy).Truyền thống phân chia Sách Thánh Do Thái thành Lề Luật, Tiên Tri, và Trước Tác (Tenak) cho thấy họ hiểu 5 cuốn trên như một đơn vị thống nhất.
Vì một số học giả làm việc với ít hay nhiều hơn bộ Ngũ Kinh, nên đã phát sinh ra một số từ ngữ như tứ thư (tetrateuch) gồm 4 cuốn từ Sáng Thế tới Dân Số, hay lục thư (hexateuch) gồm 6 cuốn từ Sáng Thế tới Giosuê. Những từ ngữ này nói lên quan điểm về cách lập thành và mối tương quan giữa các sách liên hệ.
Một tổng lược lịch sử đã được trình bày trong bộ Ngũ Kinh này, từ lúc sáng tạo ra thế giới và nhân loại tới những bài diễn văn của Mô-sê trong cánh đồng Môáp (cái chết và việc chôn cất ông được ghi tại Đnl 34). Nội dung trên có thể tóm tắt như sau: lịch sử khởi nguyên (St 1-11); thời các tổ phụ (St 12-36); truyện Giuse (St 37-50); giải phóng khỏi Ai Cập và hành trình tới Xi-nai (Xh 1-18); ban hành lề luật tại Xi-nai (Xh19-Ds10); hành trình từ Xi-nai tới Môáp (Ds 10-36); ba bài diễn văn của Mô-sê tại cánh đồng Môáp, và phụ lục (Đnl 1-34). Đáng để ý là phần rất lớn ở giữa từ Xh 19 tới Ds 10, ghi lại phần lớn luật lệ ban hành tại Xi-nai.
Dĩ nhiên, người ta có thể tóm tắt nội dung của Ngũ Thư nhiều cách khác nhau. Năm chủ đề chính được M. Noth nhấn mạnh (ông vốn làm việc với tứ thư) cũng khá hữu ích: các lời hứa cho các tổ phụ, hướng dẫn ra khỏi Ai Cập, hướng dẫn trong sa mạc, Mạc Khải Xi-nai, và hướng dẫn tại vùng đất canh tác được. Hay người ta cũng có thể theo cách phân chia dựa trên việc sử dụng chữ tôlědôt (đời), một kiểu đã được dùng để cấu trúc sách Sáng Thế (truyền thống P). Nếu “lời hứa” được coi như một ý niệm nổi bật (nó nổi bật thật trong các trình thuật tổ phụ), thì người ta rất có khuynh hướng bao gồm cả Sách Giosuê là sách đề cập tới việc nên trọn việc hứa ban đất đai, do đó có lục thư. Tuy nhiên, truyền thống Do Thái vốn tách Luật ra khỏi các Tiên Tri (Ban Đầu). Giải thích hay nhất cho điều này là của J. Sanders trong cuốn Torah and Canon [Phil, 1972] 44-53. Việc đặt Đnl vào Ngũ Kinh là hành động cố ý đi theo chiều kể truyện về lời hứa và nên trọn, một câu truyện lấy Mô-sê làm người ban hành Tôrâ, nhà lãnh đạo thật sự của cộng đồng hậu lưu đày (Ml 3:23; Er 8:1).
II. Tác giả
Gần hai ngàn năm qua, cả hai truyền thống Do Thái và Kitô Giáo đều coi Mô-sê là tác giả của Ngũ Kinh. Mặc dù, trong thời kỳ dài đằng đẵng ấy, thỉnh thoảng vẫn có những nghi vấn được nêu ra về vấn đề tác giả, nhưng phải đợi tới thế kỷ 18, vấn đề ấy mới được nghiêm chỉnh đề cập tới. Ngày nay phần lớn đều cho ông không phải là tác giả. Tuy thế, việc hình thành ra bộ này vẫn còn rất mù mờ.
Một vài sự kiện hiển nhiên cho thấy việc gán quyền tác giả cho Mô-sê là điều không thích hợp. Cái chết của Mô-sê được ghi trong Đnl 34. Tuy nhiên, một số công thức lại cho thấy thời điểm sau Mô-sê, như “cho đến ngày hôm nay” (Đnl 34:6); “thời bấy giờ, người Ca-na-an đang ở trong miền ấy” (St 13:6); chỉ lãnh thổ phía đông sông Giođan là “phía bên kia” theo quan điểm của cư dân Palestine, là miền Mô-sê chưa bao giờ đặt chân tới (St 50:10); và còn nhiều các từ sai niên đại khác như việc nhắc đến người Philitinh (St 26:14-18). Một trong những điều nổi bật nhất khiến người ta phải điều tra về bộ Ngũ Kinh là việc thay đổi thánh danh Gia-vê bằng một danh từ tổng quát chỉ thần tính tức Êlôhim. Điều này không thể giải thích cách hời hợt mà phải được giải thích bằng những yếu tố nhất quán hơn. Người ta cho rằng khi liên hệ thánh danh thần thánh với một ngữ vựng, một lối kể truyện và một nội dung đặc thù, thì các dòng văn Gia-vê (J) và dòng văn Êlôhim (E) đã xuất hiện như là các nguồn khác nhau cho bản văn (và do đó, do nhiều tác giả đóng góp). Một luận chứng khác nữa là việc có những chỗ trùng lắp (doublets), tức một biến cố được nhắc tới hai lần như lời gọi Mô-sê (Xh 3, 6) hay nguy cơ xẩy tới cho tổ mẫu (St 12:9-13:1; 20:1-18; 26:1-17). Sự phức tạp của Ngũ Kinh vì thế đòi phải có nhiều dòng văn trong nó.
Đây không phải là chỗ để ôn lại lịch sử phức tạp của ngành phê bình Thánh Kinh hiện đại, tuy ngành này đã nên sắc cạnh nhờ phân tích Ngũ Kinh. Các dị biệt về tên và ngữ vựng, về văn phong và nội dung đã được ghi nhận trong Ngũ Kinh và chúng cần được giải thích thỏa đáng. Phải chăng các dị biệt ấy là do các tài liệu khác nhau hay là tại do nhiều “mảnh” khác nhau sau cùng đã được gom lại một mối? Hay một khả thể khác: phải chăng trước đó có một trình thuật căn bản rồi sau đó trình thuật này đã được bổ túc (giả thuyết bổ túc)? Cuối cùng, Julius Wellhausen (1844-1918) đã đưa ra một tổng hợp cho các cố gắng trên đây và tổng hợp của ông vẫn nổi bật trong lãnh vực này từ đó, dù có nhiều thay đổi. Giả thuyết ông đưa ra được gọi là “giả thuyết tài liệu” cho hay có tất cả bốn tài liệu theo thứ tự sau đây: J (Giavê, thế kỷ thứ 9), E (Êlôhim, thế kỷ thứ 8), D (Đệ Nhị Luật, thế kỷ thứ 7) và P (tư tế, sau lưu đày). Bốn nguồn văn viết chính này sau cùng đã được kết hợp trong thời hậu lưu đày dưới sự điều khiển của truyền thống P và có lẽ do một ban soạn thảo R (R, tắt cho redactor). Đàng sau mỗi dòng văn hay tài liệu JEDP này, có lẽ là một cá nhân, nhưng phần chắc là một trường phái soạn thảo. Giả thuyết này sau đó đã chịu nhiều thay đổi nhỏ. Trước nhất, hiện đang có khuynh hướng định niên biểu J và E sớm hơn, tức vào thế kỷ thứ 10 hay thứ 9. Thứ hai, có sự thừa nhận rằng nên coi các “tài liệu” này như các “truyền thống” nhằm tổng hợp các truyền thống truyền khẩu cũng như thành văn trước đây. Dù một số học giả sau này có khuynh hướng muốn chẻ J thành nhiều nguồn khác nhau (J1, J2 v.v…), nhưng khuynh hướng chung hiện nay vẫn duy trì 4 dòng văn nói trên và nhìn nhận có sự hiện hữu của những truyền thống trước đó du nhập vào 4 dòng này.
Dường như muốn nhắc mọi người nhớ cho rằng đấy chỉ là một giả thuyết, dù rất sáng giá, nên các học giả gần đây đã nêu ra nhiều nghi vấn chống đối. Các nghi vấn của họ được tóm tắt trong The Hebrew Bible and Its Modern Interpreters [HBMI] 263-96 của D. Knight and G. Tucker, và Journal for the Study of the Old Testament [JSOT] 3(1977) 2-60. Rolf Rendtorff chẳng hạn cho rằng J không phải là một trình thuật trọn vẹn được dệt vào suốt Ngũ Kinh mà ta có thể gán cho một hay nhiều “thần học gia”. Đúng hơn nó là công trình biên tập lại nhiều đoạn văn cá thể (như P chẳng hạn). Việc soạn thảo thực sự của Ngũ Kinh là do một biên tập viên thời viết ra Đệ Nhị Luật. Trước hết, có những câu truyện riêng rẽ (như từng tổ phụ riêng rẽ một) được phối hợp thành một tổng hợp phức tạp dựa trên các chủ đề thống nhất (như các lời hứa chẳng hạn). Việc tích nhập tất cả các tổng hợp phức tạp trên vào hình thức sau cùng là công trình soạn thảo có tính thần học dưới ảnh hưởng của thời kỳ viết Đệ Nhị Luật (xem Rolf Rendtorff, The Old Testament [Phl, 1986] 157-74).
Tuy sự nhất trí liên quan đến việc hình thành ra Ngũ Kinh đã bị thương tổn, nhưng không bị thay thế. Nhiều người vẫn coi nó là một giả thuyết có thể chấp nhận được. Phần đông vẫn nhất trí rằng Xh25 – Ds10 thuộc truyền thống P hậu lưu đày, dù có những chi tiết xưa hơn trong đó. Sách Đnl có đặc tính độc đáo, do đó rất thích hợp được gọi là D, và có lẽ đã được thành hình trong các thế kỷ từ 8 tới 6. Nhưng việc phân biệt giữa J và E luôn luôn bị tranh cãi, ngay từ lâu trước. Khuynh hướng hiện nay nhìn nhận có sự mở rộng J, do một nhà soạn thảo R.
Điều hữu ích là chú ý tới việc lên đặc điểm cho 4 dòng văn trên, tuy nhiên, không được coi việc lên đặc điểm này là tuyệt đối. J nổi tiếng có những phỏng nhân hình (anthropomorphisms) sống động, nghệ thuật kể truyện linh động, và tầm nhìn thần học đầy sáng tạo (năng động tính của lời hứa và việc nên trọn). J rất lưu loát về các truyền thống xưa, có lẽ nhờ thừa hưởng thời kỳ văn hóa sáng chói của Salômôn. Truyền thống Êlôhim không rõ ràng lắm. Người ta vẫn coi nó chỉ là những truyền thống độc lập được chêm vào hay là một biên tập J chưa bao giờ tự mình hiện hữu. Nó được liên kết với các truyền thống của vương quốc phía bắc và được cho là nhấn mạnh tới luân lý và phản ảnh đáp ứng thích hợp của Israel, tức đức tin và lòng kính sợ Thiên Chúa. D trái lại là một truyền thống rất rõ ràng, nhưng sự hiện diện của nó trong Ngũ Kinh bên ngoài chính Đệ Nhị Luật thì không rõ ràng lắm. Nó nhấn mạnh tới lòng kính sợ/yêu mến Thiên Chúa theo nghĩa vâng theo các lệnh truyền của Người vì sợ bị phạt. Lối văn khuyên dạy và ngôn từ của nó mang lại cho nó một đặc điểm khá độc đáo, đến nỗi người ta nhận ra nó dù nó xuất hiện cả ở bên ngoài Ngũ Kinh như trong các câu Gs 1:1-9; 23:3-16. P cũng là một dòng văn rõ ràng độc đáo. Nó quan tâm tới các vấn đề phụng tự và lễ nghi (Lêvi), tới gia phả (Sáng Thế) và tương phản với thần học về “Tên” trong Đệ Nhị Luật (Đnl 12:5, 11, 21), nói về sự hiện diện của Thiên Chúa theo nghĩa vinh quang và dựng lều (Xh 16:10; 40:34-38). Theo F.M Cross (Canaanite Myth and Hebrew Epic, Cambridge MA 1973), truyền thống P chưa bao giờ hiện hữu như một tài liệu kể truyện độc lập. Đúng hơn, nó rút tỉa các nguồn của chính mình để lên khuôn và hệ thống hóa hai truyền thống JE và tạo ra tứ thư (St-Ds) vào thời lưu đày. Các đặc điểm của nó là: dùng các ngôn từ làm cho ra cổ, như dùng chữ El Shaddai để chỉ Gia-vê, một từ có nguồn gốc Lưỡng Hà; hệ thống hóa Sách Sáng Thế bằng việc sử dụng công thức tôlĕdôt (gia phả), và phân thời kỳ lịch sử bằng các mốc giao ước: giao ước với Nôe (St 9:7), giao ước với Áp-ra-ham (St 17:6) và giao ước với Mô-sê (Lv 26:9). Chủ đề xóa tội cũng như lòng thống hối và việc tái lập thời đại Mô-sê cùng với việc phụng tự và lề luật của nó cũng là đặc trưng của truyền thống P.
Việc phân tích sự hình thành của Ngũ Kinh mang lại nhiều hệ lụy cho các phần còn lại của Cựu Ước. Đa số đều tin rằng trước thời lưu đày, St-Đnl chưa bao giờ được coi là một tôrâ hoàn tất cả. Trước thời đó, nhiều truyền thống, cả truyền khẩu lẫn thành văn, có lẽ đã cung cấp cho dân nhiều hướng dẫn. Quê hương của truyền thống J thường được coi là Giuđa, trong khi truyền thống E được gán cho Ít-ra-en. Cao điểm của phong trào Đệ Nhị Luật trong cuộc canh cải của Giô-si-gia (641-609) đại biểu cho truyền thống D, vốn phát nguyên trước nhất ở phía bắc và sau đó trở thành quan trọng ở Giuđa. Một số bộ luật (luật Giao Ước trong Xh 20:22-23:19; luật Thánh Thiện trong Lv 17-26; Đệ Nhị Luật trong Đnl 12-26) có khá nhiều thực hành chung nhưng cũng cho thấy các phát triển và các đặc điểm đặc thù từng xẩy ra trong nhiều thế kỷ. Về việc tập trung hóa sự thờ phượng, vốn được Đnl và truyền thống Đệ Nhị Luật nhấn mạnh, ta nên nhớ rằng đây là một khai triển chậm chạp; nếu hiểu nó đã thành hình ngay từ thời Êlia (thế kỷ thứ 9) là điều sai lầm về thời gian.
Kỳ sau: III. Hình thức văn chương của Ngũ Kinh