BÀI 3 BÍ TÍCH THÁNH THỂ : MẦU NHIỆM ĐỨC TIN

1/. Thông điệp MYSTERIUM FIDEI về Bí Tích Thánh Thể

Những thay đổi về Phụng Vụ Thánh của Vaticanô II là một thành quả vô cùng lớn lao và hữu ích cho Giáo Hội. Toàn thể Giáo Hội hân hoan vui mừng chào đón kết quả này như một ân ban để canh tân và đổi mới Giáo Hội. Thành quả đầu tiên của Công Đồng Vaticanô II : Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh. Hiến chế này được Đức Phaolô VI long trọng công bố ngày 4/12/1963, mở ra cho Giáo hội một kỷ nguyên mới về đời sống cầu nguyện của Giáo Hội. Ngày 25/1/1964, Đức Phaolô VI ban hành tự sắc Sacram Liturgiam công bố hiến chế về Phụng Vụ Thánh bắt đầu có hiệu lực. Tuy nhiên, chỉ hơn một năm sau, tức là vào ngày 3/9/1965 cũng chính Đức Phaolô VI phải ban hành thông điệp Mysterium Fidei về bí tích Thánh Thể, một mặt để xác định lại những giáo lý nền tảng về bí tích Thánh Thể; mặt khác để lưu ý những tự ý thay đổi, gây nên những xáo trộn và những lạm dụng trong việc cử hành phụng vụ. Canh tân Phụng Vụ là một điều tốt và rất nên làm; tuy nhiên, canh tân không có nghĩa là xóa bỏ hết tất cả những cái cũ để đưa ra những gì hoàn toàn mới mẻ, vừa sai lạc, vừa lố bịch, chẳng những không giúp củng cố đức tin cho các tín hữu mà còn tạo nên những nguy cơ trầm trọng đối với đức tin chân chính như Đức Phaolô VI đã lưu ý : “Ta tưởng như được thoáng nhìn thấy những kết quả ấy, và được thưởng thức trong niềm vui đầu mùa, việc con cái Hội Thánh Công giáo ân cần tiếp nhận hiến chế về canh tân Phụng Vụ, việc xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị nhằm đào sâu hơn và phổ biến cách hiệu quả hơn học thuyết về Phép Thánh Thể, đặc biệt là những liên hệ giữa mầu nhiệm này với mầu nhiệm Hội Thánh. Đó là những điều khiến ta được yên ủi và vui mừng (MF 7). Tuy nhiên, niềm vui này chưa được bao lâu thì đã thấy xuất hiện những lạm dụng, những cách trình bày sai lạc về việc canh tân, đổi mới, tạo ra những nguy cơ trầm trọng cho đức tin tinh tuyền của Giáo Hội : “Ý thức trách nhiệm của ta là báo cáo cho Chư Huynh về nguy hiểm trầm trọng của những ý kiến đó đối với đức tin chân chính (MF 14), những ý kiến được tung ra làm phương hại đến đức tin và sự sùng kính Phép Thánh Thể biết bao nhiêu ! (MF 12). Trước những sai lầm đó, Đức Phaolô VI dứt khoát cần phải lên tiếng cảnh báo để kịp thời ngăn chăn những thiệt hại có thể sẽ gây ra cách nghiêm trọng cho Giáo Hội “Chư huynh đáng kính, Ta đã quyết định nói với chư huynh về vấn đề rất quan trọng này, và nhân danh quyền bính Tông Đồ của Ta, trình bày với Chư Huynh ý nghĩ của Ta về vấn đề này” (MF 13).

Để hiểu rõ bối cảnh của thông điệp Mysterium Fidei, ta nhận thấy rằng sau ngày công bố Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, có rất nhiều tác phẩm viết về bí tích Thánh Thể được tung ra. Người ta đào sâu cũng một mầu nhiệm như trong quá khứ. Trước đó, người ta chỉ tìm hiểu những gì đang diễn ra trên bàn thờ, trước mặt giáo dân và cố gắng giải thích một cách duy lý. Các nhà thần học sau này hướng đến việc tìm hiểu mầu nhiệm Thánh Thể trong mối tương quan với Giáo Hội. Các nhà thần học hiện đại này không trình bày Thánh Thể mà không nói đến hoạt động của Thiên Chúa và sự kiện Giáo Hội đang cử hành và đang sống bí tích ThánhThể. Từ Thánh Thể, họ nhận ra ý định muôn thuở của Thiên Chúa và cùng đích của nhân loại. Họ cố gắng tìm hiểu mầu nhiệm này xem nó có giá trị như thế nào trong đời sống con người và thế giới. Tóm lại, những nhà thần học hiện đại muốn đi vào thực tiễn và hiện sinh, hơn là giải thích mầu nhiệm theo lý trí. Đó chính là cái nhìn mới và hướng đi mới của thần học về bí tích Thánh Thể. Những chân lý về biến thể, về sự hiện diện đích thực, việc thờ phượng và sùng kính Thánh Thể… như là những điều đương nhiên được chấp nhận, nên không cần phải bàn luận thêm nữa. Tuy nhiên, đối với Đức Phaolô VI, trình bày về bí tích Thánh Thể như vậy là thiếu xót, là bỏ qua những tín điều, là xem nhẹ các tín điều, là làm suy yếu mầu nhiệm Thánh Thể… Chính vì thế, Đức Phaolô VI, trong thông điệp Mysterium Fidei, đã nhấn mạnh và khẳng định lại những chân lý về bí tích Thánh Thể. Có thể coi thông điệp Mysterium Fidei này là một tài liệu quan trọng nhằm triển khai “thần học về sự hiện diện của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể và trong Giáo Hội”.Ta có thể tóm gọn lại những điểm chính yếu của thông điệp này như sau : Bí tích Thánh Thể chính là mầu nhiệm đức tin vì :

1a/. Thánh Lễ tái diễn lại Hy Tế Thập Giá: “Trong mầu nhiệm Thánh Thể có biểu lộ một cách kỳ diệu Hy Lễ Thập Giá hoàn tất một lần vĩnh viễn trên núi Calvariô. Hy Lễ này luôn luôn được thể hiện nơi Thánh Lễ để cho chúng ta tưởng niệm và hiệu lực cứu rỗi của nó được áp dụng để tha thức các tội lỗi người ta phạm hằng ngày” (MF 26-27)

“Chúa Giêsu Kitô, khi thiết lập mầu nhiệm Thánh Thể, đã lấy Máu mình mà đóng ấn Giao ước mới mà Người là Đấng Trung Gian, như Môi sen đã đóng ấn vào giao ước cũ bằng máu các con vật hy sinh… Trong khi truyền cho các Tông đồ làm việc này để tưởng nhớ đến Người, đồng thời Người muốn rằng cử chỉ đó được nhắc lại đến muôn đời” (MF 28).

“Sự dâng tiến của Giao ước mới mà ngôn sứ Malachi đã tiên báo, Giáo Hội đã được Chúa và các Tông Đồ chỉ dạy, hằng tiến dâng của lễ ấy không những để xá tội, tha hình phạt, để đền tội và giúp ích cho các nhu cầu khác của các tín hữu còn sống, nhưng cũng dâng lên, cầu cho những người đã chết trong Đức Kitô, và chưa được tinh luyện hoàn toàn” (MF 29).


1b/. Thuyết Biến Thể : “Chúa Kitô chỉ hiện diện trong bí tích này nhờ sự biến đổi tất cả chất bánh thành Mình Chúa Kitô và tất cả chất rượu thành Máu Chúa Kitô : sự biến đổi độc đáo và kỳ lạ mà Giáo Hội công giáo gọi một cách hết sức xác đáng và đúng, đó là sự BIẾN THỂ. Khi sự biến thể này đã được thực hiện, hình bánh và hình rượu dĩ nhiên có một ý nghĩa mới và một mục đích mới, bởi vì không còn là bánh thường nữa,không còn là của uống thường nữa, nhưng chỉ còn có ký hiệu chỉ một sự vật thánh và một của ăn thiêng liêng. Thế nhưng, sở dĩ những hình có ý nghĩa và mục đích mới đó là vì chúng mang một thực tại mới mà ta gọi cách chí lý là thực tại hữu thể” (MF 46).

Cho tới nay, đối với Giáo Hội công giáo, lý thuyết về sự Biến Thể vẫn được duy trì, cho dù đối với con người ngày nay, đó quả là một điều khó hiểu và khó chấp nhận. Sự Biến Thể trong bí tích Thánh Thể quả là một mầu nhiệm, một nội dung thuộc lãnh vực đức tin. Qua sự Biến Thể, Chúa Kitô hiện diện thực sự trong bánh và rượu đã được truyền phép, để ở giữa chúng ta và tiếp tục công trình cứu độ của Người cho đến tận thế.

Đương nhiên, khi bánh rượu đã thay đổi bản chất thì chúng cũng thay đổi ý nghĩa (transsignification) và thay đổi mục đích (transfinalisation). Hai điều này rất đúng và chỉ đúng khi bảo đảm được sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong Thánh Thể. Cái khó khăn, cái vấn đề, cái nguy cơ là ở chỗ, khi người ta không quan tâm đến sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong hình bánh và rượu mà chỉ coi sự hiện diện đó như là một sự biểu trưng. Sở dĩ trong thông điệp Mysterium Fidei này, Đức Phaolô VI đã phải lên tiếng nhắc lại quan điểm thần học về sự Biến Thể để lưu ý Giáo Hội và lưu ý mọi người rằng người ta, khi đứng trên bình diện khoa học mà xét, người ta không thấy được mầu nhiệm đức tin này, nên dễ cho rằng, thực tế của bánh rượu vẫn không thay đổi gì sau khi linh mục đọc lời Truyền Phép. Từ đó, người ta dễ đi đến chỗ chấp nhận rằng Tiệc Thánh chỉ là một bữa ăn, qua đó, Chúa Giêsu chỉ hiện diện cách biểu trưng và tinh thần mà thôi. Người ta dễ lợi dụng thuật ngữ “Biến nghĩa” và “biến đích” để bỏ qua việc “Biến Thể” !

1c/. Sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.

Đây quả là trọng tâm của thông điệp. Nội dung này đã được Đức giáo Hoàng triển khai từ số 34 đến hết số 45. Đức Phaolô VI lần lượt liệt kê các cách hiện diện của Chúa trong Giáo Hội và đỉnh cao là sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Tất cả các sự hiện diện khác đều quy về sự hiện diện này. Tất cả các sự hiện diện đều đòi hỏi một sự gặp gỡ đích thực, đầy hiệu năng và phải kéo dài sự gặp gỡ này “Đức Kitô hiện diện với Giáo Hội đang cầu nguyện… Người cầu nguyện với chúng ta với tư cách là thủ lãnh của chúng ta… Người hiện diện với Giáo Hội đang thực thi các việc bác ái… Người hiện diện với Giáo Hội đang lữ hành, khát mong tiến về đời sống vĩnh cửa, bởi vì Người hằng cư ngụ trong tâm hồn chúng ta nhờ đức tin và đổ tràn đức ái vào lòng chúng ta nhờ tác động của Thánh Thần mà chính Người đã ban cho chúng ta…. Người hiện diện cùng với Giáo Hội đang giảng dạy Phúc Âm là Lời của Người, được công bố nhân danh Người và nhờ quyền bính của Người…. Người hiện diện với Giáo Hội đang dẫn dắt, và cai quản dân Thiên Chúa, vì quyền bính của Giáo Hội là do Thiên Chúa mà đến… Người hiện diện với Giáo Hội, nhân danh Người dâng Hy Tế thánh lễ và cử hành các bí tích… Người hiện diện với Giáo Hội trong bí tích Thánh Thể.

Công đồng Tridentino khẳng định công khai và không úp mở rằng trong bí tích đáng kính Thánh Thể, sau khi bánh rượu được truyền phép, Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là Người thật, đã hiện diện thực sự, thực tại và thực bản tính (vere, realiter et substantialiter) dưới vẻ bề ngoài của những thực tại khả giác này. Đấng Cứu Thế vì vậy hiện diện theo nhân tính không những bên hữu Chúa Cha, nhưng đồng thời trong bí tích Thánh Thể theo một thể thức hiện hữu mà ngôn ngữ chúng ta chắc chắn khó diễn đạt, nhưng trí tuệ của chúng ta, được đức tin soi sáng, có thể nhận ra và chúng ta phải tin chắc chắn như một việc Thiên Chúa có thể làm được” (MF 45)
. Khi nhắc lại quan điểm của Công dồng Tridentino, Đức Phaolô VI cảnh báo các Kitô hữu trước những giải thích sai lạc về sự hiện diện đích thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh thể : “Vì thế, thật là sai lạc khi giải thích sự hiện diện này bằng việc gán cho thân xác vinh hiển của Chúa Kitô một bản tính thiêng liêng mà người ta gọi là linh khí (pneumatique), nên có khả năng hiện diện khắp nơi (omniprésent); hay là giản lược sự hiện diện này vào trong giới hạn của một thứ biểu trưng, bí tích đáng kính này chỉ còn là dấu chỉ hiệu năng “của một sự hiện diện thiêng liêng của Chúa Kitô và của sự kết hợp mật thiết của Người với các chi thể trong nhiệm thể” (MF 45).

Ngoài những nội dung trên, Đức Phaolô VI còn quan tâm nhắc nhở mọi tín hữu quan tâm đến việc tôn thờ Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể : “Giáo Hội công giáo chủ trương phải thờ lạy Phép Thánh Thể, không những trong thánh lễ mà cả ngoài thánh lễ nữa. –Giáo Hội phải gìn giữ hết sức cẩn thận những Bánh Lễ đã được truyền phép và trưng bày cho tín hữu kính thờ cách long trọng” (MF 56).

“Ước chi suốt ngày tín hữu đừng quên thăm viếng Thánh Thể mà người ta phải giữ nơi rất xứng đáng trong các nhà thờ, với hết lòng kính trọng có thể theo các luật phụng vụ. Bởi chưng sự thăm viếng là một dấu hiệu hiếu thảo, một cử chỉ yêu đương và một nghĩa vụ tri ân đối với Chúa Kitô ngự nơi đây” (MF 66).

2/. Bí tích Thánh Thể : Mầu nhiệm Đức Tin.

Mầu nhiệm, từ ngữ Hy lạp là mysterion có nghĩa là một “điều bí mật” là một chân lý, một hữu thể, một thực tại sâu xa mà khả năng và trí năng con người không thể vươn tới được, không thể diễn tả được. Là một thực tại(nhưng lại vượt quá khả năng con người, vượt quá tầm hiểu biết của con người. Trước khi được Thiên Chúa mạc khải, lý trí con người không thể nào nghĩ tưởng ra được (x. Dan 2.1…; Mt 11,25-27), và sau khi đã được mạc khải, lý trí hữu hạn của con người cũng không thể hiểu thấu hết nội dung của chân lý ấy. Đứng trước mầu nhiệm, chúng ta chỉ còn có một thái độ thích hợp : đón nhận và tin.

Đối với các Kitô hữu, bí tích Thánh Thể quả là một mầu nhiệm lớn lao. Mầu nhiệm của tình yêu thương vô bờ của Chúa Cha đối với nhân loại tội lỗi. Ngay từ lúc nguyên tổ phạm tội, chính Chúa Cha đã có ý định và lên ngay chương trình cứu độ nhân loại khi thời gian viên mãn. Ngài hứa sẽ cứu độ con người bằng chính cái chết và sự phục sinh của Con Ngài : Thiên Chúa Ngôi Hai. Bí tích Thánh Thể còn là mầu nhiệm của lòng thương xót vô biên của Chúa Giêsu, Đấng đảm nhận thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha, bằng chính cái chết đau thương của Ngài trên Thập Giá để trở thành Hy Tế Tạ Ơn của Giao Ước Mới. Mầu nhiệm ấy luôn được giữ kín trong Thiên Chúa từ ngàn đời (x. Col 1,26; Eph 3,9), một chương trình đã được vạch ra từ lâu để thực hiện khi thời gian viên mãn. Như vậy, trong mầu nhiệm Thánh Thể, tất cả đều phát xuất từ Cha và tất cả đều tập trung trong Đức Kitô. Chúa Cha là nguyên thủy, và Chúa Kitô là trung tâm. Toàn bộ chương trình cứu độ đã từ lòng Cha mà ra. Cần phải nhìn vào lòng Cha, ta mới có thể hiểu được ngọn nguồn của mầu nhiệm này. Tất cả vận mạng của thế giới, số phận đời đời của toàn thể nhân loại, đều do ý muốn chủ chốt của Cha khiến định. Chính Cha đã muốn nhận chúng ta làm con của Ngài, qua trung gian của Chúa Con, Đấng sẽ đến chuộc lại ta bằng chính Máu châu báu của Người và xin ơn tha thứ tội lỗi cho chúng ta (x. Ep 1,7).

Với thông điệp Ecclesia de Eucharistia, Đức Gioan Phaolô II, ngay trong chương I, đã khẳng định rằng : “Bí tích Thánh Thể không chỉ là việc khơi gợi biến cố khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, nhưng còn là sự tái hiện mang tính bí tích của biến cố ấy. Đó là hy tế Thập giá được tiếp tục trong thời gian[1]. Vì thế, ngay sau Lời Truyền Phép, linh mục long trọng công bố : “Đây là mầu nhiệm đức tin”. Toàn dân tung hô : “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết…”. Giáo Hội đã đón nhận Thánh Thể của Chúa Kitô như là một hồng ân tuyệt hảo, bởi lẽ, hồng ân đó chính là Ngài, vị Thiên Chúa cứu độ. Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể là một lần tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, là hiện tại hóa Hy Tế thập giá, hiện tại hóa Giao Ước mới, là chúng ta được tham dự vào biến cố trung tâm của ơn cứu độ, như thể chúng ta đã có mặt vào chính lúc ấy. Vì thế, mỗi lần tham dự Thánh Lễ, mọi tín hữu đều có thể tham dự vào và hưởng nhờ được những hoa quả của Hy Tế thập giá một cách vô tận. Bí tích Thánh Thể quả là mầu nhiệm của lòng thương xót vô biên. Thử hỏi, Chúa Giêsu đã có thể làm gì hơn nữa cho chúng ta ? Trong bí tích Thánh Thể, Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy rõ tình yêu của Ngài : một tình yêu “cho đến cùng” (x. Ga 13,1), một tình yêu không còn ranh giới (x. EdE số 11).

Tình yêu đó đã được biểu lộ qua chính những lời của Đấng Cứu Thế. Khi thiết lập bí tích này, Chúa Giêsu không những chỉ nói : “Nầy là Mình Thầy, nầy là Máu Thầy”, nhưng Ngài còn thêm : “bị nộp vì anh em” và “đổ ra vì nhiều người” ( Lc 22,19-20). Do đó, mỗi lần tham dự Thánh lễ, ta không chỉ tưởng niệm đến Hy Tế Thập giá, nhưng còn được hiệp thông thực sự với Thiên Chúa Ba Ngôi qua việc rước Mình và Máu Chúa (x. CCCC 1382). Trong thánh lễ, Hy Tế cứu độ không chỉ là một kỷ niệm đơn thuần, thuộc quá khứ, nhưng còn là một tiếp xúc hiện tại, vì hy tế này trở nên thực sự hiện diện, hiện diện luôn mãi cách bí tích, trong mọi cộng đoàn dâng lễ, qua tay của thừa tác viên được thánh hiến. Bằng cách đó, Thánh Thể làm lan rộng đến con người hôm nay sự giao hòa do Chúa Kitô thực hiện, duy nhất một lần cho toàn thể nhân loại của mọi thời. Thật vậy, “hy tế của Chúa Kitô và hy tế Thánh thể là một hy tế duy nhất”[2].

Thánh Lễ hiện tại hóa hy tế thập giá, không thêm bớt gì mà cũng không nhân lên được[3]. Những gì được lặp lại, chính là việc cử hành bằng tưởng niệm, là việc trình bày bằng tưởng niệm của hy tế, nhờ đó, hy tế cứu độ duy nhất và dứt khoát của Chúa Kitô được hiện diện trong thời gian. Bản chất hy tế của mầu nhiệm Thánh Thể, không được hiểu như một cái gì đó hiện hữu trong chính mình, không liên hệ gì với thập giá, hay chỉ quy chiếu một cách gián tiếp về hy tế trên đồi Canvariô mà thôi.

Nhờ liên hệ mật thiết với hy tế Golgotha, bí tích Thánh Thể là một hy tế theo nghĩa đen, chứ không chỉ theo nghĩa chủng loại, như thể đây chỉ là một hiến dâng thông thường mà Chúa Kitô đã trao ban làm lương thực thiêng liêng cho các tín hữu, nhưng trước hết, sự dâng hiến trong tình yêu và trong vâng phục của Ngài cho đến chết (x. Ga 10,17-18) chính là sự dâng hiến cho Cha của Ngài, một sự dâng hiến cho Thiên Chúa Cha, Đấng đã ưng nhận và đã ban cho Con sự sống mới và vĩnh cửu trong sự phục sinh[4]. Khi ban cho Giáo Hội hy tế của Ngài, Chúa Kitô đồng thời cũng muốn biến hy tế thiêng liêng của Giáo Hội thành hy tế của mình. Giáo Hội đã được mời gọi tự hiến chính mình, cùng với hy tế của Chúa Kitô : “Khi tham dự vào hy tế Thánh Thể, nguồn suối và đỉnh cao của tất cả đời sống Kitô hữu, họ hiến dâng lên Thiên Chúa tế phẩm và tự hiến chính mình với tế phẩm đó” [5].

Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô cũng bao gồm sự phục sinh của Ngài. Thật vậy, Hy Tế Thánh Thể hiện tại hóa chẳng những mầu nhiệm khổ nạn và cái chết của Đấng Cứu Thế, nhưng còn cả mầu nhiệm phục sinh nữa, trong đó, hy tế đạt đến sự viên mãn của nó. Chính Chúa Kitô đang sống động và phục sinh, mới có thể trở nên Bánh sự sống (Ga 6,35.48), Bánh hằng sống (Ga 6,51).

3/. Bí tích Thánh Thể : tiệc hiệp thông

Trong Thánh Lễ, mỗi khi chúng ta rước lễ, Hy Tế Thánh Thể tự nó hướng các tín hữu tới việc hiệp nhất thâm sâu với chúa Kitô. Qua việc rước lễ, chúng ta nhận lấy chính Ngài, Đấng đã tự hiến cho chúng ta, chúng ta nhận lấy thân mình Ngài, thân mình mà Ngài đã nộp vì chúng ta trên Thập Giá, máu mà Ngài đã đổ ra là để trở thành máu của Giao Ước mới, có mục đích rất rõ ràng là để cho nhiều người được tha tội (Mt 26,28). Việc hiệp nhất thâm sâu với Đức Kitô qua việc rước lễ ban cho chúng ta sự sống, sự sống đời đời (Ga 6,57). Thánh Thể đích thực còn là một bữa tiệc, tiệc hiệp thông, hiệp thông giữa người rước lễ với chính Đức Kitô và qua Đức Kitô, với Thiên Chúa Ba Ngôi và với anh chị em mình. Trong bữa tiệc hiệp thông đó, Chúa Kitô tự hiến làm của ăn. Đây không phải là của ăn tượng trưng nhưng “Thịt tôi là của ăn thật, và máu tôi là của uống thật” (Ga 6,55).

4/. Bí tích Thánh Thể ban cho ta sự sống đời đời

Bí tích Thánh Thể, theo một nghĩa nào đó, là sự nếm trước hương vị thiên đàng, là “bảo đảm cho vinh quang sẽ tới”. Ai nuôi mình bằng Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, không cần đợi chờ một thế giới bên kia để nhận lãnh sự sống đời đời, họ đã chiếm hữu nó ngay từ đời này, như hoa quả đầu mùa của sự sung mãn sẽ tới. Thực vậy, trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cũng nhận được sự bảo đảm về việc xác sống lại trong ngày sau hết : “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, người ấy sẽ sống đời đời, và tôi, tôi sẽ cho họ sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54). Bảo đảm ấy về sự phục sinh trong tương lai cốt ở chỗ thịt của Người, được trao ban làm của ăn, là chính thân xác vinh quang của Đấng Phục Sinh (x. EdE số 17-18).

Chiều hướng cánh chung trong bí tích Thánh Thể là động lực, là sự thôi thúc bước chân lữ hành của chúng ta trong lịch sử. Chiều hướng cánh chung này làm nảy sinh trong chúng ta một niềm hy vọng sống động, khi hằng ngày, cố gắng chu toàn nhiệm vụ của mình. Cái nhìn về một trời mới, đất mới, không những không làm suy yếu những hoạt động trần thế của các tín hữu, nhưng còn kích thích tâm thức của họ về trách nhiệm dấn thân chu toàn những bổn phận công dân trần thế của mình, dấn thân xây dựng một thế giới công bằng, xứng với con người và đáp ứng đầy đủ chương trình của Thiên Chúa. Cần phải cố gắng hoạt động cho hòa bình, cho công bằng và tình liên đới, bênh vực sự sống con người. Những hoạt động tích cực trên đây của các Kitô hữu và đặc biệt của các linh mục, nhằm khắc phục những mâu thuẫn trong một thế giới toàn cầu hóa, khắc phục những bất công, trong đó, những người yếu kém nhất, bé nhỏ nhất và những người nghèo khổ nhất hình như không còn gì để hy vọng. Chính trong thế giới đó, phải làm sao cho niềm hy vọng Kitô giáo bừng sáng lên trở lại. Cũng chính vì niềm hy vọng đó mà Chúa Giêsu đã muốn ở lại với chúng ta trong bí tích Thánh Thể, nhằm giúp cho nhân loại được đổi mới nhờ tình yêu của Ngài. Điều đáng cho chúng ta lưu ý khi đọc các sách Tân Ước là các sách Tin Mừng nhất lãm, chỉ tường thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể, Tin Mừng Gioan đặc biệt đưa ra trình thuật việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ. Một tấm gương, một bài học nhớ đời về tinh thần phục vụ, và phục vụ trong yêu thương (x. Ga 13,1-20). Tinh thần phục vụ trong yêu thương, phục vụ vô vị lợi mới có sức cải hóa con người và biến đổi xã hội.

Việc công bố cái chết của Chúa “cho tới khi Ngài lại đến” (1Cr 11,26) đòi buộc những ai tham dự vào tiệc Thánh Thể, phải cương quyết dấn thân biến đổi cuộc sống, biến đổi xã hội, để một cách nào đó, cuộc sống ấy hoàn toàn trở thành Thánh Thể. Chính sự biến đổi cuộc sống và sự dấn thân biến đổi thế giới theo đường lối Tin Mừng, làm rạng sáng chiều kích cánh chung của việc Cử Hành Thánh thể và của tất cả đời sống Kitô giáo (x. EdE 20).

Qua những điều vừa trình bày, Thánh Thể thực sự là mầu nhiệm đức tin, mầu nhiệm vượt xa lý trí của chúng ta và chỉ có thể được chấp nhận bằng đức tin mà thôi. Đứng trước mầu nhiệm tình yêu này, lý trí nhân loại cảm nhận được sự hữu hạn của mình (x. EdE số 15).

1 X. Cđ. Vat. II, Hiến chế Phụng vụ thánh số 47 : Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Thánh Thể bằng Mình Máu Ngài, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến…

2 x. CCCC 1367.

3 X. Cđ Tridentino, Khóa XXII, Giáo thuyết về Hy Tế Thánh của Thánh Lễ, chương II, catholiicatholique 1743; la Foi catholique, số 768 : “Đó

4 x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris hominis, 15/3/1979, số 20.

5 Cđ. Vaticano II, Hiến chế tín ly Lumen gentium số 11.