Đệ Nhị Luật 6: 2-6;; Tvịnh 17; Do Thái 7: 23-28; Máccô 12: 28b-34

Trong bài phúc âm hôm nay có một nét nhấn hoàn toàn thuyết phục đáng nói ở đây là: Khi một vị kinh sư hỏi Chúa Giêsu; "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu? "Chúa Giêsu trả lời, và vị kinh sư đó hoàn toàn đồng ý "Thưa Thầy, hay lắm..." Lúc đó là dịp trao đổi giữa hai người, một người Do thái sống nghiệm nhặt theo truyền thống và một Kitô hữu chính thống có cùng một ý niệm là hoàn toàn đồng ý đặt tình yêu mến Thiên Chúa đứng trên hết tất cả các lề luật tôn giáo và các việc trung thành và tuân giữ. Tình yêu mến Thiên Chúa đòi hỏi của lễ hy tế nơi chúng ta và khi nào hoạt động vì tình thương người thân cận phải chứng tỏ xuất phát từ tình yêu mên của chúng ta với Thiên Chúa. Tình yêu mến Thiên Chúa sẽ hiện thật khi tình yêu thương người thân cận của chúng ta được thể hiện. Vì Thiên Chúa thật sự đến với chúng ta qua các người anh em của chúng ta. Bài đọc thứ nhất hôm nay và bài phúc âm có những điểm tương đồng với nhau.

Trong sách Đệ Nhị Luật, ông Môsê tập họp dân Israen bên bờ sông Giôđan. Dân Israel sửa soạn chiếm giữ vùng Đất Chúa Hứa. Nhưng, ông Môsê sẽ qua đời trước khi họ băng qua sông Giôđan. Đây là mảnh đất hứa cuối cùng mà Ngài hứa cho dân Ngài. Thế nên ông Môsê nhắc cho dân Israel, là họ phải nhớ là họ chỉ có một Đức Chúa duy nhất, và họ phải yêu mến Ngài hết lòng, hết sức và hết trí khôn. Sự việc đó ghi rõ trong bài đọc thứ nhất. Nhưng, sách Đệ Nhị Luật đã được viết ra rất lâu sau khi xãy ra sự kiện này, khi đất nước Israel được thịnh vượng trên Đất Chúa Hứa. Vì thế nên ghi chép lại sự nhắc nhở này để nên như một quy định được áp dụng cho hôm nay.

Dân Israel đã định cư an toàn và trong tình huống này, một dân tộc và một tôn giáo có thể trở nên tự mản và bị tha hóa dựa trên ý nghĩ là họ đang hùng mạnh. Bởi thế, lúc nhắc đến lời khuyên bảo của ông Môsê, sách Đệ Nhị Luật kêu gọi dân Israel giảm bớt sự tự cao và hảy trở về với Đức Chúa. Họ được nhắc đến quyền thế và uy tín của ông Môsê để họ nhớ lại lòng trung thành của họ trước kia, nhờ đó mà Đức Chúa là Đấng đã cứu họ ra khỏi kiếp lưu đày. Khi đất nước Israel bị suy bại và bị bắt đi lưu đày, thì những người bị lưu đày nhớ lại sự xuẩn động của họ khi họ dựa vào quyền lực chính trị và quân sự, và họ quên rằng, Đức Chúa là Đấng Tạo Dựng và nâng đở cho sự hùng mạnh đó. Những người bị đi lưu đày bấy giờ khiêm cung nhớ lại lời ông Môsê khuyên bảo trước khi họ được tái sinh khi vào Đất Chúa Hứa, và một lần nữa họ sẽ quay về với Đức Chúa và yêu mên Ngài "hêt lòng, hết sức và hết trí khôn họ ".

Lời của ông Môsê đối với chúng ta bây giờ có thể tìm thấy ở nơi khác trong cuộc sống chúng ta. Đối với những người trung thành sống đức tin, hôm nay là dịp để tuyên xưng quyết định chúng ta theo Chúa và phụng thờ Ngài, và được nuôi dưởng bởi bí tích Thánh Thể này để được tiếp tục làm tôi tớ trung kiên. Những người khác nhận thấy họ tự sống được với “tinh thần độc lập” của họ do vậy họ được nhắc nhở là việc trung thành đầu tiên của họ là dựa vào Thiên Chúa, do vậy những điều gì khác phải xem là đứng hàng thứ yếu và có thể dễ dàng bị lấy đi. Cuối cùng, có thể có một số trong cộng đoàn giáo hội, họ sống như những người bị lưu đày và thế giới của họ bị chao đảo và sụp đổ. Thế nên họ cần đổi mới niềm hy vọng. Họ nên nghe lời của ông Môsê nhắc là chúng ta được kêu gọi để được yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, vì đó là điều thứ nhất Thiên Chúa làm cho chúng ta. Ngài đã thương yêu chúng ta vô vàn "hết lòng, hết sức, hết trí khôn". Một Thiên Chúa như thế sẽ đến giúp những người đang bị lưu đày trong sự chao đảo và tan vỡ của vật chất vì Thiên Chúa là tình thương.

Hôm nay chúng ta nên thận trọng chỉ nói về một điều răn: thương yêu Thiên Chúa và người thân cận. Điều răn phải yêu mến Thiên Chúa hoàn toàn không phải là lời của Thiên Chúa dùng quyền uy của Ngài để đàn áp người nô lệ phải hoàn toàn vâng phục. Chúng ta không thể nào đòi hỏi lòng yêu mến theo cung cách áp đặt từ Thiên Chúa tối cao. Ông Môsê kêu gọi dân Israel hãy yêu mến như thế vì họ đã được Thiên Chúa chọn trong ý thức tự nguyện. Trong 40 năm trời đi trong sa mạc, họ được biết Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình yêu. Ông Môsê khuyên họ nên đáp lại "hết lòng, hết dạ và hết sức họ" trong sự cảm nhận tình thương yêu của Thiên Chúa đã làm biến đổi tâm hồn họ.

Sự thay đổi đó nhờ được tình yêu thương của Thiên Chúa tác động tận trong thâm tâm chúng ta đến Thiên Chúa được diễn tả trong sự tuôn trào tình yêu thương tứ chúng ta đến người thân cận. Cũng như ông Môsê, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta yêu mến Thiên Chúa với hết sức sống của chúng ta vi sự sống và sự chết là hình ảnh của tình yêu thương của Thiên Chúa cho mỗi người trong chúng ta. Chúa Giêsu nhắc chúng ta là Thiên Chúa phải là trọng tâm của đời sống chúng ta bằng cách nêu lên lời trong sách "Shema" nói về dân Israel tuyên xưng đức tin và tình yêu mến của Thiên Chúa. Chúng ta có thể tưởng tượng Chúa Giêsu nhớ ngay lời trong sách Đệ Nhị Luật, vì Ngài là người Do thái sùng đạo, và Ngài đã cầu nguyện sớm chiều "nghe đây, hởi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất!". Chúa Giêsu nói lên ý nghĩ trong sách Torah, và Ngài trả lời vị kinh sư với lời trong sách Đệ Nhị Luật, và tuyên xưng là tình yêu mến Thiên Chúa là điều thứ nhất trong những điều chúng ta chú trọng và mong muốn.

Các vị kinh sư có thể kể 613 giới răn trong sách Torah. Trong các giới răn đó, 248 điều là "tuyệt đối", và và 365 điều "tương đối". Các kinh sư bàn cãi điều răn nào "nặng" và điều răn nào "nhẹ". Bởi thé trong phạm vi tôn giáo điểm cần bàn cãi là điều răn nào là điều răn "thứ nhất" hay quan trọng nhất. Bởi thế vị kinh sư mới hỏi Chúa Giêsu. Trong lời Chúa Giêsu đáp lại, Chúa Giêsu chú giải hai điều răn trích bởi Kinh Thánh Do thái, và làm như thế, Ngái chứng tỏ không có điều răn nào có thể trả lời đầy đủ cho câu hỏi của vị kinh sư. Khi Chúa Giêsu đặt hai điều răn liên kết lại với nhau, Ngài muốn diễn tả là hai điều răn đó gom lại sẽ trở nên là một điều răn lớn. Do vậy, các người Do thái sùng đạo không thế nào nói là Chúa Giêsu đã bỏ qua những điều răn còn lại trong sách Torah. Điều họ đã nghe là Chúa Giêsu làm lề luật trở nên đơn giản hơn để tiện việc tuân giữ.

Điều răn thứ hai là bởi sách Lêvi (19: 18) giả định là mọi người thương yêu bản thân mình, che chở và săn sóc, và lo lắng cho những điều bản thân họ cần đến. Chúa Giêsu thách thức là chúng ta có tỏ tình thương yêu đối với người thân cận hay không? Trong quan điểm của Cựu Ước, có khái niệm hẹp về người "thân cận" là ai?: Có thể là người trong gia đình, hay người cùng quốc gia, Trong lời dạy của Chúa Giêsu, nhất là dụ ngôn người Samaritanô tốt lành, Ngài nới rộng ý nghĩa "người thân cận" ra khỏi bối cảnh cùng chủng tộc hay cùng tôn giáo. Đối với Ngài, yêu mến Thiên Chúa và người thân cận không phải là điểm "thứ nhất" và "thứ nhì", nhưng cả hai là điều răn lớn hơn tất cả các điều răn khác.

Vị kinh sư hiểu và đồng ý với Chúa Giêsu. Vị kinh sư nói là luật yêu mến Thiên Chúa và người thân cận lớn hơn tất cả các điều răn và luật lệ về việc tế lễ. Phụng vụ trong Đền Thờ và tế lễ phải đứng hàng nhì và việc yêu mến Thiên Chúa và người thân cận là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ. Chúa Giêsu nói là vị kinh sư trả lời một cách khôn ngoan, và Ngài bảo "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!" Nhưng vị kinh sư đã có trí khôn ngoan và đồng ý với Chúa Giêsu thì ông ta không còn thiếu gì nữa phải không?

Theo lời Chúa Giêsu dạy, vị kinh sư còn phải lãnh nhận Nước Thiên Chúa trong lúc còn nhỏ. Ông ta còn cần phải chấp nhận ông ta không thể nào vào Nước Thiên Chúa qua việc làm nào khác và ông ta phải hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa để được lãnh ơn sũng vào Nước Thiên Chúa. Rồi khi ông ta là thành phần của Nước Thiên Chúa, ông ta phải tuân giữ điều răn Chúa Giêsu dạy về yêu mến Thiên Chúa và người thân cận. Hãy nhớ là phúc âm thánh Máccô mở đầu vơi lời hứa của ông Gioan Tẩy Giả là có Đấng quyền thế hơn ông ta đang đến sau ông ta, và Người sẽ làm phép rửa cho mọi người trong Thánh Thần (Mc1: 7-8) Đời sống mới mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là do từ ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta thực hiện lề luật của tình thương mà Chúa Giêsu đã nói với vị kinh sư. Chúa Giêsu nói vị kinh sư "không còn xa Nước Thiên Chúa đâu". Nhưng ông ta chỉ có thể vào Nước Thiên Chúa với ơn sũng do Thiên Chúa ban.

Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP

31st SUNDAY (B)
Deuteronomy 6: 2-6; Psalm 18; Hebrews 7: 23-28; Mark 12: 28b-34

There is a wonderful moment of mutual accord in today’s gospel. A scribe asks Jesus, "Which is the first of all the commandments?" Jesus gives his reply and the scribe gives his approval, "Well said, teacher...." At that moment there is a great meeting and agreement between the best of the Jewish and Christian traditions: that love of God has precedence over all other religious requirements, observances and loyalties. This love of God requires the giving of our entire self and when it is given, love of neighbor will be the necessary and visible manifestation of our love for God. Love of God is shown to be authentic when it is made visible in love of neighbor, for God comes to us concretely in the presence of our sisters and brothers. The first lectionary reading and today’s gospel show these close parallels.

In the Deuteronomy reading, Moses has gathered the Israelites on the banks of the Jordan. The people are about to take possession of the Promise Land, but Moses will die before they cross the river. He gives his final address to the people and reminds them that they have only one God and that they are to love God with all their being. That’s our first reading of the text – the clear narrative piece. But the Book of Deuteronomy was written long after the narrated event, when the nation was prosperous and well ensconced in the land. So, there is another setting for today’s reading and another application.

The people were settled and secure and, in such situations, a nation and a religion can become complacent and rely on their own strengths and notions. Thus, in presenting Moses’ guiding words, Deuteronomy is calling the people to turn from self reliance back to God. The authority and prestige of Moses is used to remind them that their first loyalty is to the God who liberated them from slavery. When the nation collapses and is taken off to captivity, the exiles will look back on their foolishness in relying on political and military power while ignoring God their Creator and Sustainer. Perhaps the defeated and humbled exiles will hear the echo of Moses’ ancient advice to the incipient nation and realize a moment of rebirth, by once again turning to God and loving God with all their, "...heart...soul and...strength."

Moses’ words may find us worshipers in different places in our lives. For those who are constant in their piety, today is a chance to affirm their decision to serve God and be nourished at this Eucharist so they can continue to be faithful servants. Others, aware of their self reliance and "independent spirits," may be reminded that their primary loyalty and dependence is on God, all else is secondary and can easily be taken away. Finally, there may be some in the congregation who, like the exiles, have seen their world shaken and collapse and need to be renewed in hope. They hear Moses’ reminder that we are called to love God totally because that is what God has first done for us – loved us with full "heart, soul and strength." Such a God will come to the help of the broken and displaced because that’s just God’s nature.

We want to be careful today not to preach a message that is solely a command to love God and neighbor. The command to love God so completely doesn’t come as an offer from a dictator God who wishes slave-like docility and complete dedication. You can’t demand such love by issuing a decree from on-high. Moses calls the people to such love because they have been freely chosen by God. For forty years they have wandered the desert and come to know their God as a God of love. Moses is asking them to respond from their "heart, soul and strength," already touched and transformed by God’s love.

The transformation caused by God’s love is so profound that it flows from us towards God and is expressed in love of neighbor. Like Moses, Jesus calls us to love God with our entire being because his life and death are a manifestation of God’s love for each of us. He reminds us that God is the center and abiding presence in our lives by quoting the "Shema," Israel’s great affirmation of faith and love of God. One imagines that the words taken from Deuteronomy come quickly to Jesus’ consciousness and lips because, as a devout Jew, he would have prayed the prayer each morning and evening, "Hear, O Israel! The Lord is our God, the Lord alone!" Jesus speaks the spirit of the Torah, his response to the scribe draws on Deuteronomy and confesses that love of God is our primary desire and goal.

The rabbis could count 613 commandments of the Torah. Of these, 248 were positive in form and 365 negative. The religious teachers debated which were "heavy" commandments and which were "light." So, in religious circles a point of discussion would be: which of these commandments was "first," or most important. Hence the setting for the question the scribe asks Jesus. In his response Jesus quotes two commands from the Hebrew scriptures and, in doing that, suggests that no one commandment can adequately answer the scribe’s question. By putting the two together Jesus also suggests that the two constitute one great commandment. Jesus wouldn’t have been perceived by devout Jews as abrogating the rest of the Torah. What they would have heard was Jesus’ way of simplifying the Law to help in its observance.

The second commandment, from Leviticus (19:18), assumes that people love themselves; that they protect, care for and tend to their own concerns. Jesus’ challenge is that we show this love to others. In the Old Testament context there is a narrow sense of who the "neighbor" is; it would be family members or those belonging to the nation. In Jesus’ teachings, especially in the parable of the Good Samaritan, he extends the sense of "neighbor" beyond any ethnic or religious confines. For him, love of God and neighbor are not "first" and "second" – they constitute one commandment greater than all the others.

The scribe understands and agrees with Jesus. He states that the law of love of God and neighbor is greater than any of the religious observances and laws concerning sacrifices. Revered Temple worship and sacrifice must take second place to the observance and sacrifice that comes with loving God and neighbor. Jesus says that the scribe has answered wisely about the superiority of love over any sacrifice and then says to him, "You are not far from the kingdom of God." But the scribe has shown wisdom and is in agreement with Jesus, what more could he lack?

He will need to receive the kingdom as a child, as Jesus has taught. He will have to acknowledge he cannot earn entrance into the kingdom by any deed or observance; that he is totally dependent on God for the gift of membership in the kingdom. Then, as a member of the kingdom, he must live the commandment Jesus has taught about loving God and neighbor. Remember that Mark’s gospel began with a promise by John the Baptist that the one who was coming after him was mightier and would baptize with the Holy Spirit (1:7-8). The new life Jesus gives is the gift of the Spirit which enables recipients to fulfill the law of love he has articulated for the scribe. The scribe is, "not far from the kingdom of God." But he can only enter it through the gift God gives.