Trong buổi yết kiến chung dưới hình thức ảo từ Thư viện Tông tòa, ngày 3 tháng 2, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp tục loạt bài giáo lý của ngài về việc cầu nguyện, một loạt bài giáo lý ngài đã phát động từ tháng 5 năm 2020 và tái tục hồi tháng 10, sau 9 bài giáo lý về việc chữa lành thế giới sau đại dịch Covid-19.
Ngài dành bài giáo lý ngày 3 tháng 2, tức bài 25 trong loạt bài này, để nói về việc cầu nguyện và Thiên Chúa Ba Ngôi. Sau đây là nguyên văn Bài Giáo Lý dựa vào bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp.
Giáo lý về cầu nguyện – Bài 25. Cầu nguyện và Thiên Chúa Ba Ngôi
Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!
Trong hành trình giáo lý về cầu nguyện của chúng ta, hôm nay và tuần sau, nhờ Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ thấy lời cầu nguyện mở cửa cho chúng ta đến với Chúa Ba Ngôi - Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần - đến đại dương bao la của Thiên Chúa, Đấng vốn là Tình Yêu. Chính Chúa Giêsu đã mở rộng cửa Thiên đàng cho chúng ta và phóng chiếu chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Chính Người đã làm điều này: Người đã mở ra cho chúng ta mối liên hệ này với Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đây là điều mà Thánh Tông đồ Gioan đã khẳng định ở phần kết lời mở đầu Tin Mừng của ngài: “Chưa ai từng thấy Thiên Chúa bao giờ: Con Một, ngự trong lòng Chúa Cha, đã làm cho Người được biết đến” (Ga 1:18). Chúa Giêsu đã mạc khải danh tính này cho chúng ta, tức danh tính Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng ta thực sự không biết phải cầu nguyện như thế nào: lời nào, cảm xúc nào và ngôn ngữ nào thích hợp với Thiên Chúa. Trong lời thỉnh cầu đó được các môn đệ thưa với Thầy, điều mà chúng ta vẫn thường nhắc lại trong các bài giáo lý này, có mọi dọ dẫm, cố gắng lặp đi lặp lại của nhân loại, thường không thành công, trong việc ngỏ lời với Đấng Tạo Hóa: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11: 1).
Không phải mọi lời cầu nguyện đều ngang nhau, và không phải mọi lời cầu nguyện đều thuận lợi: chính Kinh thánh cũng chứng thực kết quả tiêu cực của nhiều lời cầu nguyện bị bác bỏ. Có lẽ đôi khi, Thiên Chúa không bằng lòng với những lời cầu nguyện của chúng ta và chúng ta thậm chí không nhận thức được điều đó. Thiên Chúa nhìn vào bàn tay của những người cầu nguyện: để làm cho chúng nên sạch sẽ, không cần phải rửa chúng; họa chăng, đó là việc người ta phải kiềm chế các hành vi xấu xa. Thánh Phanxicô đã cầu nguyện như sau: «Nullu homo ène dignu te mentovare», nghĩa là, “không người nào xứng đáng để kêu danh Ngài” (Ca khúc Mặt trời).
Nhưng có lẽ sự thừa nhận cảm động nhất về sự nghèo nàn trong lời cầu nguyện của chúng ta xuất phát từ môi miệng của viên bách quản Rôma, người một hôm kia van xin Chúa Giêsu chữa lành cho người đầy tớ bị bệnh của ông (x. Mt 8: 5-13). Ông cảm thấy hoàn toàn bất cập: ông không phải là một người Do Thái, ông là một sĩ quan trong đội quân chiếm đóng đáng ghét. Nhưng mối quan tâm của ông đối với đầy tớ của mình càng khiến ông trở nên bạo dạn, và ông thưa: “Lạy Ngài, tôi không xứng đáng để Ngài đến dưới mái nhà của tôi; nhưng chỉ xin Ngài nói một lời, tôi tớ tôi sẽ được chữa lành ”(c. 8). Đó là câu chúng ta cũng thường lặp lại trong mọi phụng vụ Thánh Thể. Đối thoại với Thiên Chúa là một ơn thánh: chúng ta không xứng đáng với nó, chúng ta không có quyền đòi hỏi, chúng ta “khập khiễng” với mọi lời nói và mọi ý nghĩ… Nhưng Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra cho chúng ta cuộc đối thoại này với Thiên Chúa.
Tại sao loài người phải được Chúa yêu thương? Không có lý do hiển nhiên nào, không có tỷ lệ nào cả… Đến nỗi hầu hết các thần thoại không nghĩ đến khả thể có một vị thần biết quan tâm đến các vụ việc của con người; ngược lại, chúng bị coi là phiền phức và nhàm chán, hoàn toàn không đáng kể. Hãy nhớ lại câu Thiên Chúa nói với dân Người, được lặp lại trong Đệ nhị luật: “Vì dân tộc vĩ đại nào có được một vị thần gần gũi với họ như Chúa, là Thiên Chúa của chúng ta, đối với chúng ta?” Sự gần gũi này của Thiên Chúa chính là sự mạc khải! Một số triết gia nói rằng Thiên Chúa chỉ có thể nghĩ đến chính mình. Họa chăng, chính con người chúng ta đang cố gắng thuyết phục thần minh và làm hài lòng Ngài. Từ đó, có bổn phận “tôn giáo”, với việc tiến hành các hy lễ và lòng sùng kính được dâng tới dâng lui để chúng ta được lòng một vị Thiên Chúa câm, một vị Thiên Chúa dửng dưng. Không hề có đối thoại. Chỉ có Chúa Giêsu, chỉ có sự mặc khải của Thiên Chúa với Môsê trước Chúa Giêsu, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra; chỉ có Kinh thánh mới mở ra cho chúng ta cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Hãy nhớ: “Có quốc gia vĩ đại nào mà lại có một vị thần rất gần gũi với nó như Thiên Chúa của chúng ta?”. Chính sự gần gũi của Thiên Chúa này giúp chúng ta mở ra cuộc đối thoại với Người.
Một Thiên Chúa yêu thương nhân loại: chúng ta sẽ không bao giờ có đủ can đảm để tin vào Người, nếu chúng ta không biết Chúa Giêsu. Sự hiểu biết về Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta hiểu điều này, nó để điều này được mạc khải cho chúng ta. Qủa là một tai tiếng - đó quả là một một tai tiếng! - điều mà chúng ta thấy được ghi khắc trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, hay về người mục tử đi tìm con chiên lạc (x. Lc 15). Chúng ta sẽ không thể quan niệm hoặc thậm chí hiểu được những câu chuyện như vậy nếu chúng ta không gặp Chúa Giêsu. Loại Thiên Chúa nào đã sẵn sàng chịu chết cho con người? Loại nào? Loại Thiên Chúa nào luôn luôn và kiên nhẫn yêu thương, không đòi hỏi được yêu thương đáp trả? Loại Thiên Chúa nào chấp nhận việc thiếu lòng biết ơn quá tệ của đứa con trai đòi trước quyền thừa kế và bỏ nhà ra đi, phung phí mọi thứ? (x. Lc 15:12-13).
Chính Chúa Giêsu, Đấng đã mạc khải tấm lòng của Thiên Chúa. Do đó, bằng cuộc đời của Người, Chúa Giêsu cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha đến mức nào. Tam Pater nemo: Không ai là Cha như Người cả. Tình cha là sự gần gũi, lòng cảm thương và sự dịu dàng. Đừng quên ba hạn từ đó, đó là phong cách của Thiên Chúa: gần gũi, cảm thương và dịu dàng. Đó là cách Người phát biểu tương quan cha con của Người đối với chúng ta. Từ xa, chúng ta khó có thể hình dung được tình yêu đầy tràn Thiên Chúa Ba Ngôi, và chiều sâu của lòng nhân từ hỗ tương hiện hữu giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Các ảnh tượng phương Đông cung cấp cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về mầu nhiệm này, vốn là nguồn gốc và niềm vui của toàn thể vũ trụ.
Trên hết, chúng ta khó mà tin rằng tình yêu thần thiêng này sẽ mở rộng, đổ bộ lên cả bờ bến con người của chúng ta: chúng ta là những người tiếp nhận một tình yêu không có tương đương trên trái đất. Sách Giáo lý giải thích: “Vì thế, nhân tính thánh thiêng của Chúa Giêsu là phương thế Chúa Thánh Thần dùng dạy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha chúng ta” (số 2664). Và đó là ơn đức tin của chúng ta. Chúng ta thực sự không thể hy vọng một ơn gọi nào cao cả hơn: nhân tính của Chúa Giêsu - Thiên Chúa đến gần chúng ta trong Chúa Giêsu - đã dọn sẵn cho chúng ta chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, và mở rộng cánh cửa mầu nhiệm tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Sau bài giáo lý, Đức Thánh Cha đã đưa ra 2 lời kêu gọi sau:
Đức Thánh Cha nói:
Tin buồn vẫn đến từ Miến Điện về những cuộc đụng độ đẫm máu, làm nhiều người thiệt mạng. Tôi muốn thu hút sự chú ý của các nhà chức trách liên quan để cuộc đối thoại chiếm ưu thế hơn là sự đàn áp; và sự hòa hợp được đề cao hơn là bất hòa. Tôi cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế bảo đảm sao cho nguyện vọng của người dân Miến Điện không bị bóp nghẹt bởi bạo lực. Những người trẻ của vùng đất thân yêu đó có thể được ban cho hy vọng về một tương lai, nơi mà hận thù và bất công nhường chỗ cho sự gặp gỡ và hòa giải. Cuối cùng, tôi nhắc lại hy vọng được bày tỏ cách đây một tháng: rằng con đường hướng tới dân chủ, được thực hiện trong những năm gần đây của Miến Điện, có thể tiếp tục thông qua một cử chỉ cụ thể là thả các nhà lãnh đạo chính trị đang bị bỏ tù (x. Bài phát biểu trước Ngoại giao đoàn, ngày 8 tháng 2 Năm 2021).
Hướng đến chuyến tông du Iraq đầy hiểm nguy, Đức Thánh Cha nói:
Trong các diễn biến đáng âu lo, Đức Tổng Giám Mục Slovenia Mitja Leskovar, Sứ Thần Tòa Thánh tại Iraq, người được tường trình là sẽ tháp tùng Đức Phanxicô trong suốt chuyến tông du từ ngày 5 đến 8 tháng 3, đã xét nghiệm dương tính với COVID-19 vào hôm thứ Bảy 27 tháng Hai và hiện đang bị cách ly.
Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Baghdad, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô dự kiến sẽ cư trú trong ba ngày ở Iraq, đã cho biết như trên.
Trong một diễn biến cũng rất đáng âu lo, hôm thứ Tư 3 tháng Ba, Liên minh do Mỹ dẫn đầu tại Iraq cho biết một cuộc tấn công bằng hoả tiễn đã đánh vào một căn cứ quân sự của liên quân trên đất Iraq. Người phát ngôn Liên quân là Đại tá Wayne Marotto cho biết vào lúc 7:20 sáng thứ Tư 3 tháng Ba giờ địa phương đã có ít nhất 10 quả hỏa tiễn được bắn vào căn cứ không quân Al Asad ở tỉnh Anbar miền Tây Iraq cách thủ đô Iraq 243km. Không có báo cáo ngay lập tức về bất kỳ thương vong nào ngoại trừ trường hợp qua đời của một nhà thầu người Hoa Kỳ chết vì nhồi máu cơ tim khi tìm chỗ ẩn nấp.
Cuộc tấn công diễn ra chỉ hai tuần sau khi hỏa tiễn tấn công một căn cứ ở miền bắc Iraq, giết chết một nhà thầu dân sự và làm bị thương một thành viên dịch vụ Hoa Kỳ.