1. Phép lạ chữa lành tiếp tục xảy ra tại đền thờ Đức Mẹ ở Wisconsin

Vào ngày 8 tháng 10 năm 1871, tại Peshtigo, một vùng hẻo lánh của bang Wisconsin, các nhân viên làm đường hỏa xa đã đốt rừng để mở đường. Do không có phương tiện dự báo thời tiết, ngọn lửa đã vượt quá khả năng khống chế của họ khi một trận cuồng phong ập đến.

Trận cháy rừng Peshtigo Firestorm đã xảy ra. Đến nay, nó vẫn là trận “cháy rừng khủng khiếp nhất” trong lịch sử Hoa Kỳ. Cho đến tận ngày nay, chưa có trận cháy rừng nào ở Mỹ đã từng gây ra con số tử vong lớn như thế. Người ta ước tính gần 2,500 người thiệt mạng trong địa ngục kinh hoàng cả ngàn độ đó.

Bên cạnh những câu chuyện bi thảm được lưu truyền từ đời này sang đời khác, có một chuyện thật đáng kinh ngạc. Một cách lạ lùng, một ngôi nhà thờ ở ngay giữa đám cháy và những người trốn trong ngôi nhà thờ đó đã không hề hấn gì dù rằng nhiệt độ bên ngoài lên đến cả ngàn độ.

Đây là lần hiện ra Đức Mẹ chính thức được công nhận duy nhất tại Hoa Kỳ.

Phép lạ này chỉ là sự khởi đầu, và kể từ đó, nhiều người khác đã cảm động trước thông điệp của Đức Mẹ Trợ Giúp Ơn Lành và đã được chữa lành cả về thể chất lẫn tâm linh.

Phóng viên Megyn Kelly của NBC đã phỏng vấn một phụ nữ đã được chữa khỏi bệnh ung thư một cách thần kỳ.

Nancy Foytik ở Reedsville, Wiscosin, được chẩn đoán mắc bệnh ung thư ruột kết giai đoạn 4, và nó đã di căn vào cả hai lá phổi. Các bác sĩ đã đưa ra một tiên đoán nghiệt ngã cho cô. Sau một đợt hóa trị, Foytik và gia đình quyết định đến thăm Đền thánh Đức Mẹ Trợ Giúp Ơn Lành Quốc gia ở thị trấn Champion, không xa Green Bay, vào năm 2012.

“Chúng tôi không có bất kỳ hy vọng nào. Chúng tôi đến đó để được hướng dẫn”, cô vừa khóc vừa kể câu chuyện của mình trên NBC’s Today. Tuy nhiên, sau khi cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria ở đó, “Chúng tôi chỉ biết khi tôi bước ra khỏi nhà nguyện vào ngày hôm đó tôi đã được chữa khỏi… Tôi không thể giải thích điều đó. Tôi không nghe thấy gì, nhưng tôi cảm nhận được là tôi đã được chữa khỏi, tôi nghe như ai đó nói rằng ‘con sẽ ổn thôi’”

Các bác sĩ phẫu thuật đã loại bỏ một khối u có kích thước bằng quả bóng tennis từ ruột kết của cô và các khối u nhỏ hơn từ phổi phải của cô. Khi họ thực hiện cuộc phẫu thuật thứ ba, họ phát hiện các khối u trong phổi trái của cô đã biến mất. Foytik đã không còn ung thư kể từ đó.

“Tôi là một người Công Giáo tích cực,” cô nói. “Tôi đã cầu nguyện, nhưng tôi chưa bao giờ cầu nguyện với Mẹ Maria nhiều như tôi đã cầu nguyện với Chúa. Đức Maria chính là người tôi cần đến vào thời điểm đó”.

Trong chuyến thăm Đền thánh Đức Mẹ Trợ Giúp Ơn Lành vào năm 2013, một gia đình ở thành phố Kansas, tiểu bang Missouri đã hết sức lo lắng khi ống dẫn thức ăn cho đứa con gái 18 tháng tuổi của họ đột nhiên bị tuột ra. Cháu bé đang trong tình trạng phải dùng ống dẫn thức ăn trực tiếp để sống còn. Cuối cùng, ngày hôm đó, các bác sĩ phòng cấp cứu thông báo rằng họ không thể lắp lại ống vì lỗ thủng đã lành, và bệnh của cháu đã chấm dứt mà không thể giải thích về phương diện Y khoa.
Source:Aleteia

2. Bốn cây sồi, một định mệnh thiêng liêng: Tái tạo ngọn tháp của Nhà thờ Đức Bà

Bốn cây sồi Pháp đứng sừng sững hàng trăm năm trong khu rừng hoàng gia, nay đã mang thiên mệnh thiêng liêng. Bị đốn ngã hôm thứ Ba tại Rừng Berce của vùng Loire, chúng đã được chọn để tái tạo lại ngọn tháp bị đổ của Vương Cung Thánh Đường Notre Dame de Paris.

Ngọn tháp cao 93 mét, làm bằng gỗ và phủ chì, đã trở thành biểu tượng mạnh mẽ nhất của ngọn lửa tháng 4 năm 2019 khi nó được nhìn thấy chìm trong biển lửa, sụp đổ nghiêm trọng xuống đất.

Tháng 7 năm ngoái trong bối cảnh dư luận phản đối kịch liệt, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã chấm dứt suy đoán rằng ngọn tháp thế kỷ 19 do Eugène Viollet-le-Duc thiết kế có thể được xây dựng lại theo phong cách hiện đại. Cuối cùng, ông tuyên bố nó sẽ được xây dựng lại y như cũ. Và điều đó đã bắt đầu một cuộc săn tìm cây trên toàn quốc, lên đến đỉnh điểm là cuộc tuyển chọn kỹ lưỡng vào tháng Giêng và tháng Hai năm nay.

Khoảng 1,000 cây sồi trong hơn 200 khu rừng của Pháp, cả tư nhân và công cộng, đã được chọn để làm khung cho ngọn tháp của nhà thờ dự định sẽ được chiêm ngưỡng trên đường chân trời Paris trong hàng trăm năm.

“Với vị trí của thánh đường này trong lòng người Pháp, trong lịch sử nước Pháp và thế giới chúng tôi rất vui là toàn bộ ngành công nghiệp - từ những người làm rừng đến những người thợ xẻ - đã được huy động để đáp ứng thách thức này”, Michel Druilhe, Chủ tịch của France Bois Foret, một mạng lưới lâm nghiệp quốc gia nói.

Việc xây dựng lại một nhà thờ thế kỷ 12 như Nhà thờ Đức Bà bằng gỗ là một viễn cảnh khó khăn. Bên trong là một mạng lưới các xà ngang và những thanh cây hỗ trợ chằng chịt đến nỗi nó được gọi một cách trìu mến là “khu rừng”. Các lời kêu gọi gia cố nó bằng bê tông chống cháy đã bị bác bỏ, ngay cả sau khi những vật liệu như vậy đã giúp hạn chế bụi phóng xạ từ một đám cháy ở Nhà thờ Chính Tòa Nantes, theo kiểu Gothic, vào năm ngoái.

Kích thước yêu cầu đối với các loại gỗ dùng trong kết cấu của Nhà thờ Đức Bà có thể tóm lược như sau: Nhiều thân cây phải đo rộng hơn 1 mét và dài ít nhất 18 mét. Tám trong số những cái cây - dành cho phần hoành tráng nhất của ngọn tháp - đã được tìm thấy trong Rừng Berce từng thuộc về các vị Vua của Pháp.

Trên thực tế, còn có một yêu cầu khác đòi hỏi tính kiên nhẫn. Các thân cây phải được phơi khô trong tối đa 18 tháng. Chỉ riêng thực tế đó đã cho thấy lý do tại sao lời cam kết xây dựng lại nhà thờ của tổng thống Macron trong vòng 5 năm – tức là phải hoàn thành vào năm 2024 - đã bị nhiều người bác bỏ là viển vông.
Source:AP

3. Những người tị nạn Iraq hài lòng với chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng, nhưng nói rằng họ vẫn sẽ không quay trở lại

Nữ ký giả Inés San Martín của tờ Crux, là người đã tháp tùng Đức Thánh Cha trong chuyến tông du Iraq có bài nhận định sau về phản ứng của những người tị nạn Iraq đối với chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô từ 5 đến 8 tháng Ba vừa qua.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh

Hãy tưởng tượng bạn chạy trốn khỏi nhà vào lúc nửa đêm để thoát khỏi bạo lực chống lại các tín hữu Kitô, phải trải qua nhiều năm sống tị nạn ở một quốc gia láng giềng và xem Đức Giáo Hoàng đến thăm thành phố quê hương của bạn.

“Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha đến Iraq là một thông điệp của tình yêu và hòa bình”, Karmen, một người tị nạn Iraq nói.

“Những kẻ khủng bố viết trên tường: Chúng ta sẽ mở cửa thành Rôma bằng gươm, nhưng Đức Giáo Hoàng đã đến vùng đất của chúng mang theo một con chim bồ câu hòa bình. Cảm giác của tôi là sự đan xen giữa niềm vui và nỗi buồn, niềm vui khi ngài đến thăm thị trấn thân yêu của tôi”, cô nói. Karmen đến từ Qaraqosh, nơi mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm vào ngày 7 tháng Ba.

Thông qua sự giúp đỡ của Della Shenton, người được ủy thác sáng lập tổ chức bác ái có tên là Phúc Âm Thứ 5 có trụ sở tại Vương quốc Anh, Crux đã nói chuyện với một số người tị nạn Iraq hiện đang ở Jordan. Tất cả đều là những người tị nạn quá cảnh, có nghĩa là họ không thể làm việc hợp pháp và đang chờ tái định cư.

Ước tính có khoảng 30% người tị nạn đến vào năm 2014, sau khi nhóm Nhà nước Hồi giáo, hay còn gọi là ISIS, nắm quyền kiểm soát phần lớn Đồng bằng Ninivê, nơi có nhiều dân tộc thiểu số Iraq, bao gồm cả các Kitô hữu và người Yazidis, sinh sống.

Vì lo lắng cho sự an toàn của họ và không để tình trạng tị nạn của họ gặp rủi ro, họ chỉ cung cấp tên họ và tiểu sử tóm tắt, nhưng tất cả đều đến từ Qaraqosh, thị trấn Kitô Giáo lớn nhất ở Iraq, với hơn 50,000 người, trước khi có sự xuất hiện của ISIS.

Khi Đức Thánh Cha Phanxicô ở Qaraqosh ngày 7 tháng 3, ngài đã đến thăm một nhà thờ mà các chiến binh thánh chiến sử dụng làm trường tập bắn.

“Cuộc gặp gỡ của chúng ta ở đây hôm nay cho thấy rằng khủng bố và chết chóc không bao giờ có tiếng nói cuối cùng. Lời cuối cùng thuộc về Thiên Chúa và Con Ngài, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngay cả giữa sự tàn phá của khủng bố và chiến tranh, chúng ta có thể nhìn thấy, với con mắt của đức tin, chiến thắng của sự sống trên cái chết,” ngài nói.

Ước tính khoảng 45% những người chạy trốn khỏi thị trấn đã quay trở lại, nhưng nhiều người hướng tới Li Băng, Jordan và Thổ Nhĩ Kỳ, với Úc, Canada, Âu Châu và Hoa Kỳ là điểm đến cuối cùng trong dự định của họ.

Đối với nhiều người trong số những người chạy trốn, sự ngờ vực khó có thể lay chuyển, và mặc dù họ cảm thấy vui mừng khi nhìn thấy Đức Giáo Hoàng đến thăm thị trấn của họ, nỗi sợ hãi vẫn khắc sâu trong tim họ.

“Tôi cảm thấy phấn khởi khi nghe những người phụ nữ trong thị trấn của tôi, Qaraqosh, cổ vũ”, Karmen nói với Crux. “Tôi ước được ở đó và hạnh phúc với người dân thị trấn của tôi và những người tôi yêu quý”.

Cô nói, chuyến thăm của Đức Phanxicô là một may mắn cho một đất nước đã phải chịu đựng quá nhiều năm. Cô ấy nói hy vọng về hòa bình, an toàn và sự an tâm.

“Nhưng đối với chúng tôi, đối với gia đình tôi, chúng tôi sẽ không quay trở lại vì chúng tôi đã mất mát rất nhiều, tổn thương và mất mát quá nhiều mạng sống. Nếu một ngày nào đó chúng tôi trở lại Iraq, xin hãy biết rằng chúng tôi sẽ trở về trái với ý muốn của mình”, cô nói.

Inaam, 43 tuổi; Fada 19; Bassam, 40 tuổi; và Rivin, 24 tuổi, tất cả đều đồng ý: Nhìn thấy Đức Giáo Hoàng đến thăm thị trấn của họ, ở bên những người thân yêu của họ, là một khoảnh khắc buồn vui lẫn lộn. Họ ước mình có thể quay trở lại nhưng quá sợ hãi nên không thể làm được điều đó.

“Tôi rất hạnh phúc khi xem Đức Thánh Cha của chúng tôi đến thăm đất nước của tôi và đặc biệt là thị trấn đáng yêu của tôi”, Inaam nói. “Tôi ước tôi đã ở đó để ăn mừng và chào đón ngài cùng với người dân của tôi. Đó là một giấc mơ của tất cả các tín hữu Kitô và cuối cùng đã trở thành sự thật. Chúng tôi hy vọng rằng chuyến thăm của ngài sẽ mang lại hòa bình và phước lành cho đất nước của chúng tôi”.

Anh cho biết anh muốn khóc vì sung sướng khi nhìn thấy Đức Thánh Cha bước vào Nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, trong khi vẫn lo sợ cho sự an toàn của Đức Phanxicô.

Anh cho biết tính mạng của anh và gia đình đang gặp rủi ro nên anh không thể quay trở lại. Nhưng Inaam cũng tin rằng ngay cả những người chưa bị khủng bố tiêu diệt nhưng đã tìm cách chạy trốn khỏi Iraq cũng sẽ không quay trở lại: “tình hình rất khó khăn, và mọi người không tin tưởng các chính trị gia, chính phủ và nền kinh tế rất là nghèo”.

Ngoài ra, anh ấy nói, “chúng tôi không thể tin tưởng người Hồi giáo nữa”. Trong chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng, anh đã theo dõi các bình luận trên Facebook, và những bình luận từ người Hồi giáo, theo anh, là rất tiêu cực. “Họ không thích chúng tôi, và họ nghĩ rằng Iraq không phải là đất nước của chúng tôi”.

Fada rời Qaraqosh với cha mẹ và anh chị em của mình khi cô ấy còn ở tuổi thiếu niên, và trong bảy năm qua đã sống một cuộc sống không ổn định, không có gì chắc chắn về nơi cô ấy sẽ ở trong năm tới, vẫn ở Jordan, hoặc trong trận chung kết của cô ấy là điểm đến ước mơ.

Cô lấy làm tiếc vì cùng với gia đình mình, họ không thể chia sẻ niềm vui trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng, vì họ đang ở xa nhà, và “chúng tôi không bao giờ có thể trở về”.

“Chuyến thăm tuyệt vời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã khiến tôi buồn hơn bao giờ hết về những gì đã xảy ra”, bạo lực mà họ chứng kiến và những thách thức mà họ phải đối mặt kể từ khi ISIS tiếp quản Qaraqosh.

“Tôi vui mừng vì niềm vui của họ”, qua chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng, nhưng đồng thời, “thất vọng, buồn và đau lòng” về tất cả những gì đã mất.

Bassam, người đã chạy trốn khỏi Iraq vào năm 2016, gọi chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng là một thông điệp của tình yêu và hòa bình.

“Thông điệp của Đức Giáo Hoàng rất rõ ràng: Iraq vẫn là một đất nước không an toàn và các tín hữu Kitô vẫn bị đàn áp. Nhà thờ và nhà cửa của chúng tôi đã bị đốt cháy và phá hủy, đó là điều ngăn cản chúng tôi quay trở lại, và điều này khiến tôi rất buồn”, anh nói.

Anh nói thêm: “Chúng tôi không thể quay trở lại vì luật pháp của Iraq là luật Hồi giáo, và một người Hồi giáo không thể sống chung với người của các tôn giáo khác”, và anh hy vọng “các quốc gia an toàn” sẽ sớm mở cửa cho những người đã phải chạy trốn cuộc đàn áp.

Rivin định nghĩa chuyến thăm là “tuyệt vời không thể nào quên, một sự kiện lịch sử”. Anh chia sẻ niềm vui khi thấy Qaraqosh sống lại “sau một thời gian dài đen tối”, nhưng với những người còn lại, anh cho biết anh ước có thể cảm thấy đủ an toàn để trở về.

“Xem họ trên TV khiến tôi cảm thấy buồn, vì họ xứng đáng được sống một cuộc sống yên bình, hạnh phúc nhưng họ không thể, vì tình hình an ninh vẫn còn rất tồi tệ, người ta quay lại Iraq nhưng họ không thể ở lại”, Rivin nói và tuyên bố rằng cuối cùng hầu hết những người quay trở lại đều cố gắng đi di cư.

Về việc Đức Giáo Hoàng kêu gọi các Kitô hữu quay trở lại, người tị nạn này cho biết đơn giản là anh ta không thể, bởi vì không có cơ hội có công ăn việc làm, không có sự an toàn và nền kinh tế quá bất ổn.

Rivin nói: “Không có tương lai cho các Kitô hữu ở Iraq”.

“Ở Qaraqosh, chúng tôi là những người tin tưởng vào Chúa; chúng tôi đã có những bữa tiệc lớn liên quan đến cả thị trấn vào Giáng sinh, Lễ Phục sinh và vào Chúa Nhật Lễ Lá, tất cả đều mặc trang phục truyền thống đẹp nhất của chúng tôi”, anh nhớ lại.

“Chúng tôi đã nhảy múa, ca hát và rất hạnh phúc. Chúng tôi nhịn ăn suốt Mùa Chay, chỉ ăn cơm và rau và uống nước, trừ ra các ngày thứ Tư và thứ Sáu khi chúng tôi có cá. Chúng tôi mặc đồ đen, đặc biệt là vào các ngày thứ Sáu. Ở đây ở Jordan này, những người thuộc thế hệ của tôi đều nhớ như in hình ảnh này”.

“Khi tôi nhìn thấy Đức Giáo Hoàng, và nhìn thấy thị trấn đáng yêu của mình, tôi đã tự hỏi mình, tại sao chúng ta lại ở đây? Tại sao chúng tôi ở Jordan với tư cách là những người tị nạn? Nếu có cơ hội, tôi có quay lại không? Và tôi biết mình sẽ không làm thế, vì đất nước của tôi không an toàn”, anh nói. “Có rất nhiều lời bàn tán, nhưng không có gì thực sự thay đổi. Chính phủ không giúp chúng tôi”.

Trong chuyến thăm của Giáo hoàng, Rivin cũng theo dõi các phương tiện truyền thông xã hội, đặc biệt là YouTube. Tóm lại, những bình luận mà anh ấy tìm thấy ở đó, là lý do tại sao anh ấy tin rằng anh ấy sẽ không bao giờ quay trở lại Iraq.

“Có những bài viết chỉ trích các cô gái Công Giáo vì không đội khăn trùm đầu, đưa ra những bình luận không hay về các tín hữu Kitô, Chúa Giêsu và Đức Thánh Cha Phanxicô. Các tín hữu Kitô ở Iraq phải chịu sự đối xử phân biệt như vậy. Chúng tôi không muốn”.


Source:Crux

4. Trách nhiệm của hàng Giám Mục thế giới trước sự bội giáo của người Đức

Cuộc nghiên cứu được công bố ngày 11 tháng 3, được thực hiện bởi Viện nghiên cứu ý kiến INSA Consulere có trụ sở tại Erfurt cộng tác với tuần báo Công Giáo Die Tagespost cho thấy 33% người Công Giáo đang tính đến việc rời khỏi Giáo Hội. Một trong những lý do được đưa ra là vì những tai tiếng liên tục liên quan đến các vụ lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ. Tuy nhiên, tờ Die Tagespost cảnh báo rằng tình trạng lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ cùng lắm thì cũng như ở các quốc gia khác, không phải là vấn đề nổi cộm. Vấn đề trở thành nghiêm trọng không phải con số các vụ lạm dụng tính dục mà là chính sách “lạm dụng tội lỗi lạm dụng”. Nói cho dễ hiểu hơn là chính một số Giám Mục đã và đang lợi dụng các tội lỗi lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ để cổ vũ cho các ý thức hệ xa lìa đức tin dưới chiêu bài đối phó với tội lỗi lạm dụng tình dục. Cho người Tin lành rước lễ hay chúc lành cho các kết hiệp đồng tính thì có liên quan đến việc đối phó với tội lỗi lạm dụng tình dục?

Một số Giám Mục Đức cho rằng Giáo Hội Công Giáo tụt hậu ít nhất là 200 năm so với xã hội đương đại. Các vị này chủ trương hiện đại hóa Giáo Hội bằng cách thay đổi các chuẩn mực và giáo lý phổ quát của Giáo Hội về đồng tính luyến ái, và đạo đức tình dục nói chung, cũng như các bí tích truyền chức thánh và hôn nhân, cho phù hợp với những cái họ gọi là “nhận thức mới của khoa học ngày nay”. Theo Đức Cha Voderholzer, Giám Mục Regensburg, động tác này thay vì đem đức tin làm muối men cho đời như lời dạy của Công Đồng Vatican II, lại làm ngược lại là tục hóa đức tin và Giáo Hội của chúng ta.

Đức Cha Voderholzer cũng cảnh cáo tâm lý mị dân của một số giám mục Đức khi nhấn mạnh đến triển vọng phong chức linh mục cho phụ nữ và các cải cách khác mâu thuẫn với giáo huấn và kỷ luật của Giáo hội đã được thiết định. Ngài nói rằng “càng gia tăng các trông đợi và hy vọng như thế chỉ gây thêm nhiều thất vọng.” Đường hướng mị dân của một số giám mục Đức cuối cùng sẽ dẫn đến ly giáo và càng gia tăng dòng người kìa xa Giáo Hội.

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có bài nhận định nhan đề “The World Episcopate and the German Apostasy” nghĩa là “Hàng Giám Mục thế giới và sự bội giáo của người Đức”.

Như những cái tên Ambrosiô, Augustinô, Athanasiô và Gioan Kim Khẩu gợi ý, những thế kỷ ở giữa ngàn năm thứ nhất, tức kỷ nguyên của các Giáo phụ, là thời kỳ hoàng kim của hàng giám mục Công Giáo. Giáo Hội Công Giáo công nhận 35 vị nam, nữ là các thày dạy gương mẫu; 14 người trong số họ - tức là 40% trong toàn bộ danh sách các “Tiến sĩ Hội Thánh” - là các giám mục sống trong thời kỳ đó. Đó không phải là khoảng thời gian thanh bình. Nhưng ngay cả khi những vị mục tử dũng cảm này chiến đấu với những kẻ dị giáo trong Giáo hội và những kẻ thống trị hống hách, những người mưu toan bắt Giáo hội phục tùng quyền lực của họ, các ngài đã tạo nên một gia sản tinh thần mà chúng ta vẫn được hưởng lợi cho đến ngày nay, khi Giáo hội thường xuyên suy gẫm về các bài giảng, thư từ và bình luận Kinh thánh của họ trong Các Giờ Kinh Phụng Vụ.

Một đặc điểm của thời kỳ hoàng kim của các giám mục này là tập tục thách thức và sửa chữa huynh đệ trong hàng giám mục. Các giám mục địa phương ở giữa ngàn năm thứ nhất tin rằng các ngài thuộc về, và chia sẻ trách nhiệm đối với một sự hiệp thông toàn thế giới. Xác tín rằng những gì xảy ra ở một phần của cơ thể có ảnh hưởng đến toàn bộ, các giám mục như Cyprianô, Basilô thành Xêxarê, Ambrosiô, và Augustinô đã không ngần ngại sửa chữa các giám mục anh em mà họ cho là đã sai lầm trong tín lý hoặc trong các thực hành kỷ luật của họ - và đôi khi đã làm như vậy, bằng một ngôn ngữ rất mạnh mẽ.

Khái niệm trách nhiệm chung này của các giám mục đối với Giáo hội thế giới đã được đúc kết trong giáo huấn của Công đồng Vatican II về tính hợp đoàn giám mục. Tuy nhiên, tập tục thách thức và sửa chữa huynh đệ của các Giáo phụ vẫn còn cần được phục hồi. Sự phục hồi này bây giờ là điều chủ yếu khi Giáo hội ở Đức rơi vào tình trạng bội giáo - một sự phủ nhận các chân lý của đức tin Công Giáo đang đe dọa sẽ có ly giáo.

Cơ chế của việc này là cái gọi là “Tiến Trình Công Nghị Đức”, một tiến trình kéo dài nhiều năm nhằm mục đích thay đổi căn bản Kho tàng Đức tin về các vấn đề tín lý, phẩm trật Giáo hội và đời sống luân lý, do đó phản bội ý định của Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đối với Công đồng Vatican II. Theo “Tài liệu căn bản” được phát hành gần đây, Tiến Trình Công Nghị Đức sẽ chỉnh sửa cả những đạo lý về Chúa Giêsu, về hiến pháp của Giáo hội và quyền quản trị giám mục. Bản văn tiếng Đức tuyên bố rằng “Thời gian đã vượt qua các mô hình này”. Nó cũng sẽ chỉnh sửa và thay đổi giáo huấn của Giáo hội về “công bằng giới tính…. đánh giá các khuynh hướng tình dục của người đồng tính, và tung ra đường lối giải quyết các thất bại trong hôn nhân và tạo ra những khởi đầu mới, nghĩa là hôn nhân sau khi ly dị.

Sao có thể như thế được? Theo Tài liệu căn bản thì có thể vì “không có một chân lý nào của thế giới tôn giáo, đạo đức và chính trị, cũng như không có một hình thức tư tưởng nào có thể cho rằng mình có thẩm quyền tối cao”. Do đó, “trong Giáo hội… những quan điểm và cách sống hợp pháp có thể cạnh tranh nhau ngay trong những xác tín cốt lõi… những tuyên bố chính đáng về mặt thần học đối với sự thật, sự đúng đắn, dễ hiểu và trung thực… có thể mâu thuẫn với nhau….”

Đây không chỉ là một thuật ngữ “rau trộn” được các học giả ham chơi về mặt ý thức hệ và các quan chức Giáo Hội say mê quyền lực sáng chế. Nó chỉ là một sự bội giáo và bội giáo để phục vụ tín ngưỡng hậu hiện đại, một tín ngưỡng có thể là “sự thật của bạn” và “sự thật của tôi” nhưng không có gì có thể mô tả một cách đúng đắn như sự thật. Và để các bạn đừng nghĩ rằng cách tiếp cận này sẽ dẫn đến một sự khoan dung mới của đa dạng, Tài liệu căn bản cảnh báo những người tuyên xưng Kinh Tin Kính Nicê, chứ không phải kinh tin kính hậu hiện đại, rằng họ sẽ bị buộc phải “hỗ trợ” và “cổ vũ” những gì họ vốn bác bỏ như xa rời đức tin Kitô giáo. Xem ra bản năng cưỡng chế toàn trị đã cố thủ trong một số nền văn hóa rồi vậy.

Giám mục Georg Bätzing của Limburg, chủ tịch hội đồng giám mục Đức, tuyên bố rằng “Tiến Trình Công Nghị” của Đức đang được theo dõi nhiệt tình ở những nơi khác trong Giáo hội thế giới. Nếu vậy, điều đó chỉ xảy ra trong số những cán bộ đang thu hẹp dần của Catholic Lite, những người đã không học được từ điển hình Đức rằng Catholic Lite sẽ dẫn đến Catholic Zero như được đơn cử bởi Tài liệu căn bản này. Do đó, điều bắt buộc là các giám mục anh em phải làm Giám mục Bätzing tỉnh ngộ khỏi ảo tưởng rằng ngài, cùng với tuyệt đại đa số giám mục Đức, và bộ máy hành chính của Giáo hội Đức là những người tiên phong can đảm của một Đạo Công Giáo mới dũng cảm.

Trách nhiệm đầu tiên ở đây thuộc về Giám mục Rôma, là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người nên làm những gì Thánh Giáo hoàng Clêmentê I đã làm với những người Côrintô ồn ào trong thời kỳ hậu tông đồ và những gì Thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả đã làm với các giám mục anh em trong thời đại các Giáo phụ: kêu gọi các giám mục Đức trở lại với “đức tin đã được chuyển giao cho các thánh một lần mãi mãi” (Gđ 1: 3). Tuy nhiên, trách nhiệm này không phải của riêng Đức Giáo Hoàng. Các giám mục khác trên khắp Giáo hội thế giới nên cho Giám mục Bätzing biết mối quan tâm nghiêm trọng của họ về tính chất xói mòn của Tài liệu căn bản của Con đường đồng nghị.

Đó là điều mà những người tầm cỡ như Ambrosiô, Augustinô, Athanasiô và Gioan Kim Khẩu - là những người sẽ nghẹn lời trước việc ca tụng “tính mơ hồ” của Tài liệu căn bản - sẽ làm.
Source:First Things