Phát biểu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, trong cuộc Gặp gỡ Các Đại diện Hội đồng Đại kết và Một số Cộng đồng Do thái
tại tại Bảo tàng Mỹ thuật (Budapest) Chúa nhật ngày 12 tháng 9 năm 2021



Anh em thân mến!

Tôi rất vui được gặp anh em. Lời nói của anh em, những lời mà vì đó tôi xin cảm ơn anh em, cũng như sự hiện diện của anh em bên cạnh nhau, thể hiện khát vọng hợp nhất lớn lao. Chúng nói lên một cuộc hành trình, đôi khi phải đi lên, nặng nề bởi quá khứ, nhưng anh em đối diện với nó một cách can đảm và đầy thiện chí, nâng đỡ nhau dưới tầm nhìn của Đấng Tối Cao, Đấng chúc phúc cho anh em chung sống (x. Tv 133, 1).



Tôi xem qúy vị như anh em trong đức tin nơi Chúa Kitô, và tôi chúc lành cho cuộc hành trình hiệp thông mà qúy vị đang theo đuổi. Những lời của người anh em giáo hội Calvin làm tôi cảm động, xin cảm ơn. Tôi nghĩ đến Tu viện Pannonhalma, trung tâm linh đạo sống động của đất nước này, nơi qúy vị đã gặp nhau, ba tháng trước để cùng nhau suy gẫm và cầu nguyện với nhau. Cầu nguyện với nhau, cho nhau, và cùng nhau làm việc bác ái, với nhau, vì thế giới mà Thiên Chúa yêu thương vô cùng này (x. Ga 3,16): đây là cách cụ thể nhất để hướng tới sự hợp nhất trọn vẹn.

Tôi xem qúy vị như anh em trong đức tin của Ápraham, tổ phụ của chúng ta, và cảm ơn qúy vị vì những lời lẽ rất sâu sắc đã chạm đến trái tim tôi. Tôi đánh giá rất cao cam kết của qúy vị trong việc phá bỏ những bức tường ngăn cách trong quá khứ. Người Do Thái và Kitô hữu, qúy vị muốn nhìn thấy ở người khác không phải một người xa lạ, mà là một người bạn; không phải một kẻ thù, mà là một người anh em. Đó là sự thay đổi cách nhìn được Thiên Chúa chúc phúc, sự hoán cải mở ra những khởi đầu mới, sự thanh luyện đổi mới cuộc sống. Các lễ trọng Rosh Hashanah và Yom Kippur, rơi đúng vào thời điểm này, và nhân dịp này tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến qúy vị, là những dịp ân sủng để làm mới mẻ sự gắn bó với những lời mời gọi thiêng liêng này. Thiên Chúa của tổ phụ chúng ta luôn luôn mở ra những con đường mới: như Người đã biến sa mạc thành con đường dẫn đến Đất Hứa thế nào, Người cũng mong muốn dẫn dắt chúng ta từ những sa mạc khô cằn của hận thù và dửng dưng đến quê hương hằng mong ước là sự hiệp thông như vậy.

Không phải ngẫu nhiên mà trong Kinh thánh, những người được mời gọi theo Chúa cách đặc biệt phải luôn đi ra ngoài, tiến bước, đến những vùng đất chưa được khám phá và những không gian chưa ai nói tới. Chúng ta hãy nghĩ tới Ápraham, người đã rời bỏ quê hương, họ hàng và đất nước. Ai theo Chúa đều được kêu gọi ra đi. Người yêu cầu chúng ta gạt bỏ những hiểu lầm trong quá khứ, những cao ngạo cho rằng mình có lý và gán sai lầm cho người khác, để đặt mình lên con đường hướng tới lời hứa hòa bình của Người, vì Thiên Chúa luôn có kế hoạch hòa bình, không bao giờ bất hạnh cả (xem Grm 29:11).

Tôi muốn lặp lại với qúy vị hình ảnh rất khêu gợi của Cây cầu Chaînes, kết nối hai phần của thành phố này: nó không hòa lẫn hai phần này mà giữ cho chúng hợp nhất. Các mối dây nối kết chúng ta cũng phải như vậy. Bất cứ khi nào có cơn cám dỗ muốn đồng hóa người khác, chúng ta không xây dựng mà là phá hủy. Tương tự như vậy, khi chúng ta muốn đặt nó trong một khu khép kín, thay vì tích hợp nó. Biết bao lần trong lịch sử, điều này đã xảy ra! Chúng ta phải coi chừng, chúng ta phải cầu nguyện để điều đó sẽ không xảy ra nữa. Và cam kết cùng nhau cổ vũ một nền giáo dục cho có tình huynh đệ, để những luồng hận thù muốn tiêu diệt nó không chiếm ưu thế. Tôi nghĩ đến mối đe dọa của chủ nghĩa bài Do Thái vẫn còn thịnh hành ở châu Âu và các nơi khác. Đó là một ngòi nổ phải được dập tắt. Nhưng cách tốt nhất để tháo ngòi nổ là làm việc với nhau một cách tích cực, nghĩa là cổ vũ tình anh em. Cây Cầu còn dạy chúng ta: nó được nâng đỡ bởi những sợi xích lớn, hình thành từ nhiều vòng. Chúng ta là những chiếc vòng này và mỗi chiếc vòng đều có tính nền tảng: đây là lý do tại sao chúng ta không thể sống trong nghi ngờ và thiếu hiểu biết, xa cách và bất hòa nữa.

Một cây cầu đặt hai phía lại với nhau. Theo nghĩa này, nó kêu gọi khái niệm giao ước, vốn có tính nền tảng trong Kinh thánh. Thiên Chúa của giao ước yêu cầu chúng ta không nhượng bộ thứ luận lý cô lập và lợi ích đảng phái. Người không muốn liên minh với người này mà gây thiệt hại cho người kia, nhưng với những con người và cộng đồng làm cầu nối hiệp thông với tất cả mọi người. Ở đất nước này, qúy vị đại diện cho các tôn giáo đa số, qúy vị có nhiệm vụ tạo thuận lợi cho các điều kiện để tự do tôn giáo được tôn trọng và được mọi người cổ vũ. Và qúy vị có một vai trò làm gương cho mỗi người: ước chi không ai nói rằng các lời gây chia rẽ là phát xuất phát ra từ miệng lưỡi của những người của Thiên Chúa, mà chỉ là những thông điệp cởi mở và hòa bình. Trong một thế giới bị xâu xé bởi nhiều cuộc xung đột, những người đã nhận được ân sủng nhận biết Thiên Chúa của giao ước và hòa bình có nhiệm vụ phải cung cấp một chứng từ tốt hơn.

Cầu Chaînes, ngoài việc nổi tiếng nhất, cũng là cây cầu lâu đời nhất ở thành phố này. Nhiều thế hệ đã đi qua nó. Do đó, nó mời gọi chúng ta nhớ lại quá khứ. Ở đó, chúng ta tìm thấy nhiều đau khổ và bóng tối, hiểu lầm và bách hại, nhưng xét tới cội nguồn, chúng ta sẽ khám phá ra một di sản tinh thần chung lớn hơn. Đây là kho báu cho phép chúng ta cùng nhau xây dựng một tương lai khác. Tôi cũng xúc động nghĩ về nhiều hình bóng của những người bạn Thiên Chúa, những người đã rõi ánh sáng của Người trong đêm tối của thế giới. Tôi xin trích dẫn, trong số những người khác, một nhà thơ lớn của đất nước này, Miklós Radnóti, người mà sự nghiệp sáng chói của ông đã bị tan tành bởi lòng căm thù mù quáng của những kẻ, chỉ vì ông là người gốc Do Thái, trước nhất đã cấm ông dạy học và sau đó đã bắt ông đi khỏi gia đình.

Bị nhốt trong một trại tập trung, vực thẳm tối tăm và bị tước đoạt cả nhân tính, ông vẫn tiếp tục làm thơ cho đến khi qua đời. Cuốn Carnet de Bor của ông là tập thơ duy nhất còn sống sót cuộc diệt chủng: nó minh chứng cho sức mạnh của lòng tin vào hơi ấm của tình yêu trong cái lạnh giá của bằng lăng [lager] và soi sáng bóng tối của hận thù bằng ánh sáng của đức tin. Tác giả, bị nghẹt thở bởi xiềng xích áp bức linh hồn mình, đã tìm thấy trong một tự do cao hơn lòng can đảm để viết: "Bị bắt, với tất cả hy vọng tôi đã học được biện pháp" (Carnet de Bor, Thư gửi vợ). Và ông đã hỏi một câu hỏi vẫn còn vang vọng với chúng ta ngày nay: “Và bạn, bạn đang sống như thế nào? Tiếng nói của bạn, nó có tìm thấy tiếng vang trong thời đại này không? »( Carnet de Bor, Câu chuyện đầu tiên). Anh em thân mến, tiếng nói của chúng ta chỉ có thể làm vang vọng Lời này mà Thiên đàng đã ban cho chúng ta, tiếng vang của hy vọng và hòa bình. Và ngay cả khi chúng ta không được lắng nghe, hoặc nếu chúng ta bị hiểu lầm, đừng bao giờ phủ nhận Mặc khải mà chúng ta là các chứng nhân.

Cuối cùng, trong sự đơn độc hoang vắng của trại tập trung, khi nhận ra rằng mình sắp ra đi, Radnóti đã viết: “Bản thân tôi bây giờ là gốc rễ… Tôi là một bông hoa, tôi đã trở thành gốc rễ” (Carnet de Bor, Gốc rễ). Chúng ta cũng được kêu gọi để trở thành gốc rễ. Chúng ta thường tìm kiếm những hoa trái, những kết quả, những khẳng định. Nhưng Đấng làm cho Lời Người sinh hoa kết trái trên trái đất, với sự dịu dàng y như mưa làm cho đồng ruộng nảy mầm (x. Is 55:10), nhắc nhở chúng ta rằng con đường đức tin của chúng ta là những hạt giống: hạt sẽ biến thành rễ dưới đất, rễ nuôi dưỡng ký ức và ươm mầm tương lai. Đây là điều mà Thiên Chúa của tổ phụ chúng ta yêu cầu nơi chúng ta, bởi vì – giống như một nhà thơ khác từng viết - “Thiên Chúa chăm sóc nơi khác, Người chăm sóc điều núp sâu tận cùng mọi sự. Ở bên dưới. Chôn rất sâu. Cội rễ ở đấy ”(R.M. Rilke, Wladmir, le peintre des nuages). Chúng ta chỉ đạt đến độ cao nếu chúng ta có gốc rễ sâu. Bén rễ vào việc lắng nghe Đấng Tối Cao và những người khác, chúng ta sẽ giúp những người đồng thời của chúng ta chào đón và yêu thương nhau. Chỉ khi chúng ta là cội rễ của hòa bình và là mầm mống của hợp nhất, chúng ta mới trở nên đáng tin cậy trong con mắt thế giới đang dõi theo chúng ta, với nỗi hoài nhớ nở hoa hy vọng. Cảm ơn qúy vị và chúc qúy vị cùng nhau lên đường tốt đẹp, xin cảm ơn qúy vị! Xin lỗi vì tôi đã ngồi để nói chuyện với qúy vị, nhưng tôi không phải là người 15 tuổi. Cảm ơn qúy vị.