Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh

Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước

Tiết Hai: Dẫn nhập vào các sách lịch sử


(7) Chương Hai: Sách Gio-suê



Michael David Coogan
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr.110-112


Tài liệu Tham khảo

Bình luận:

Boling, R. G. và G. E. Wright, Joshua (AB 6; GC, 1982).
Cooke, G. A., The Book of Joshua [Sách Gio-suê] (CBSC; Cambridge, 1918).
Gray,J., Joshua, Judges and Ruth [Gio-suê, Thẩm phán và Rút] (CentB; London, 1967).
Miller, J. M. và G. M. Tucker, The Book of Joshua [Sách Gio-suê] (CBC; Cambridge, 1974).
Noth, M., Das BuchJosua (HAT; ấn bản lần thứ 2; Tubingen, 1953).
Soggin, J. A., Joshua (OTL; Phi, 1972).

Nghiên cứu:

Auld, A. G., Joshua, Moses and the Land [Gio-suê, Mô-sê và lãnh thổ] (Edinburgh, 1980).
Polzin, R., Moses and the Deuteronomist [Mô-sê và Nhà Đệ nhị luật] (NY, 1980).
Weipert, M., The Settlement of the Israelite Tribes in Palestine [Việc định cư các Chi tộc Israel ở Palestine] (SBT 21; London, 1980).

Để biết thêm tài liệu tham khảo, hãy xem J. M. Miller, “Joshua, Book of, [Gio-suê, Sách]” IDBSup 496; CIOTS 239-41.

Dẫn nhập

(I). Bản văn

Tình trạng văn bản của sách khá phức tạp; như trong hai sách Samuen 1-2, có hai truyền thống chính, đại biểu bởi Bản Masoretic (MT) và Bản Bẩy Mươi (LXX). Sự ăn ý giữa LXX và Giô-suê của Qumran 4 (4QJos) cho thấy LXX dựa vào một bản văn Híp-ri khác với bản văn được MT đại biểu; tại nhiều chỗ, bản văn này ngắn hơn và tốt hơn. Tuy nhiên, việc phát triển văn bản vẫn tiếp diễn sau việc dịch bản văn Híp-ri nguyên thủy này sang tiếng Hy Lạp; nhiều thay đổi cố ý, tức bình luận, nới rộng và sửa đổi, tiếp tục được đưa vào cả hai truyền thống Hípri và Hy Lạp, và nhiều lỗi sao chép vô tình cũng đã xẩy ra. Do đó, mỗi trường hợp cần được lượng giá riêng rẽ, bằng cách quan tâm tới các bản Phổ Thông (Vg) và Syriac (Syr) cũng như nhiều dịch bản xưa nữa.

(II). Lịch sử văn chương

Các nhà phê bình thuở đầu thấy trong Giô-suê một sự liên tục của nhiều truyền thống ngũ kinh, và họ gọi toàn tập từ Sáng Thế tới Giô-suê là Lục Kinh (Hexateuch). Từ thời có công trình đầy khai phá của M. Noth, người ta thấy rõ điều này: nói tới tứ kinh (tetrateuch) gồm bốn sách từ Sáng Thế tới Dân Số sẽ thích đáng hơn. Đệ Nhị Luật được dùng như một thứ lời nói đầu có tính thần học cho các sách có tính đệ nhị luật (Dtr) tức phần lịch sử theo truyền thống đệ nhị luật, sách Giô-suê và 2Vua. Truyền thống đệ nhị luật (Dtr) có lịch sử riêng của nó, được các nghiên cứu gần đây cho là phức tạp. Phần lớn các học giả nhất trí rằng trong hình thức hiện nay, công trình này phần lớn là sản phẩm của thế kỷ thứ 7 (triều đại Giô-si-gia) rồi được duyệt lại trong thời lưu đày dưới ánh sáng các biến cố của các năm 587/586. Công trình thời Giô-si-gia có thể đã rút tỉa từ những tài liệu có trước, có lẽ từ thời Khít-ki-gia. Trong ngữ cảnh rộng rãi này, Giô-suê có nhiều chủ đề rất khác biệt.

(III). Các chủ đề của Giô-suê

Một trong các chủ đề này được nói lên tại 1:5: “Ta sẽ ở với ngươi như ta đã ở với Mô-sê”. Chủ đề này được lặp lại tại 3:7 và 4:14. Nó được khai triển qua việc Giô-suê lặp lại nhiều hành động của Mô-sê; theo thứ tự các biến cố trong Giô-suê, ta nên ghi nhận các song đối sau đây

(a) Từ sa mạc, Mô-sê sai người đi thám thính Ca-na-an (Ds 13; Đnl 1:19-46); từ bên kia sông Gio-đan, Giô-suê sai người đi thám thính vùng đất gần Giê-ri-khô (Gs 2).

(b) Dưới sự lãnh đạo của Mô-sê, dân Do Thái băng qua Biển Sậy như băng qua đất khô (Xh 14); dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, dân Do Thái vượt qua sông Gio-đan như đi qua đất khô (Gs 3).

(c) Trước khi xuất hành ra khỏi Ai Cập, Mô-sê và dân Do Thái cử hành Lễ Vượt Qua (Xh 12), sau khi vào Ca-na-an, Giô-suê và dân Do Thái cử hành Lễ Vượt Qua (Gs 5:10-12).

(d) Trong hoang địa nơi Mô-sê có nhiệm vụ lãnh đạo người Do Thái, ông được thị kiến bụi gai bốc lửa và được chỉ thị “hãy cởi giầy ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh” (Xh 3:5); tại lãnh thổ nơi Giô-suê dẫn dân Do Thái vào, ông được thị kiến thấy một tư lệnh của đạo quân Giavê ra lệnh cho ông “cởi giầy ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh” (Gs 5:15).

(e) Sau khi vào Đất Hứa, Giô-suê sai người đi do thám vùng bên kia sông Gio-đan giống như Mô-sê sai người đi do thám Gia-de (Ds 21:32).

(f) Tay cầm “cây gậy của Thiên Chúa”, Mô-sê giơ tay lên thì quân Do Thái thắng quân A-ma-lếch (Xh 17:8-13); tay cầm ngọn lao”, Giô-suê giơ tay lên, thì quân Do Thái thắng dân Ai (8:18-26).

(g) Trước khi qua đời, cả Mô-sê (Đnl) lẫn Giô-suê (Gs 23-24) đều có diễn văn từ biệt gửi dân Do Thái.

(h) Các song đối khác bao gồm việc dạy dân tự thánh hóa để chuẩn bị cho Thiên Chúa tỏ mình ra (Xh 19:10; Gs 3:5); chuyển cầu cho người Do Thái xúc phạm đến Thiên Chúa (Xh 32:11-14; Ds 11:2; 14:13-19; Đnl 9:25-29; Gs 7:6-9); và các vai trò của Mô-sê và của Giô-suê trong tư cách người trung gian giao ước (Xh 24; Gs 24).

Ngoài các song đối trên, còn nhiều đoạn trong đó nói tới việc Giô-suê minh nhiên chu toàn các lệnh truyền của Mô-sê. Những đoạn này bao gồm chỉ thị của Giô-suê cho các chi tộc Rưu-vên, Gát và Đông Mơ-na-xe phải tham gia với các chi tộc khác trong việc chiếm đất Ca-na-an (Gs 1:12-18; xem Ds 32; Đnl 3:12-20); việc dựng bàn thờ trên núi Ê-van (Gs 8:30-35; xem Đnl 27:1-26); việc tận diệt dân trên đất vừa chiếm (Gs 11:15; xem Đnl 20:16) và tận diệt người A-nác (Gs 11:21; xem Đnl 9:2); sự chia đất bằng cách bốc thăm (Gs 14:2; xem Ds 34:13); và việc thiết lập các thành ẩn náu (Gs 20; xem Ds 35:9-15; Đnl 19:1-10) và các thành cho các thầy Lê-vi (Gs 21:1-42; xem Ds 35:1-8).

Một hậu quả của những song đối và chu toàn trên là: Giô-suê được trình bày chỉ hơn một bản sao chép Mô-sê một chút và do đó khó mà tới được phía sau các truyền thống văn chương để tìm cho ra một Giô-suê lịch sử. Không như Mô-sê, Giô-suê là một nhà lãnh đạo không có khuyết điểm cũng như do dự; thực cậy, ông được mô tả như một nhà lãnh đạo lý tưởng của Israel, một nhà lãnh đạo biết tuân giữ các giáo huấn của Mô-sê trong toàn diện tính của nó (Gs 1:7-8; 11:15) và trong tư cách ấy, theo truyền thống đệ nhị luật, ông là nguyên mẫu cho vị vua lý tưởng của Israel, đặc biệt là Đa-vít, Khít-ki-gia và nhất là Giô-si-gia (xem R.D. Nelson, “Josiah in the book of Joshua”Journal of Biblical Litterature 100 [1981]531-540). Giống vị vua lý tưởng trong Đnl 17:18, Giô-suê sao chép một bản các lời giáo huấn của Mô-sê (Gs 8:12; đây là lần thứ hai có thuật ngữ “sao chép giáo huấn”, mà tiếng Hípri là tôrâ. Giô-suê cũng được coi là mẫu người tương phản với Sa-un, ông vua thứ nhất nhưng thất bại: trái với Sa-un (1Sm 13-15), Giô-suê cho thi hành các qui luật của thánh chiến (Gs 7) và giữ lời đoan thệ với người Ghíp-ôn (Gs 9; xem 2Sm 21:1-14).

Sự hiện hữu của các song đối trên, nhất là các song đối có trích dẫn các đoạn khác, cũng cho thấy sách Giô-suê là một sáng tạo văn chương lấy nguồn từ những truyền thống Israel trước đó về Mô-sê, giống như Cựu Ước vốn là nguồn cho các tin mừng mô tả về cuộc đời và nhất là cái chết của Chúa Giêsu. Căn cứ vào việc khai triển công phu này, ta có thể nói rằng Giô-suê là người thuộc chi tộc Ép-ra-im (xem Gs 19:50; 24:30), có lẽ nguyên thủy là một anh hùng địa phương, rồi sau đó đã trở nên tiêu điểm cho việc tái dựng Israel đầy lý tưởng hóa trong truyền thống đệ nhị luật.

Trong việc soạn tác trình thuật, một trong các nguồn mà các sử gia theo truyền thống đệ nhị luật dựa vào, chính là truyền thống P có trước đó, một truyền thống khác với nguồn P trong Ngũ Kinh sau này. Trong suốt sách Giô-suê, ta thấy lối dùng từ cũng như lối nhấn mạnh mang đặc tính P rất rõ nét, và những điều này đi vào sách theo các giai đoạn khác nhau trong lịch sử sách.

Chủ đề cuối cùng cần xem sét là việc dùng tầm nguyên luận (etiology), tức nhờ các truyện tích liên quan tới Giô-suê để giải thích các yếu tố khác nhau, nhất là các nét địa dư, vốn quen thuộc với các thính giả của Giô-suê. Các trình thuật có tính tầm nguyên này thường được đánh dấu bằng kiểu nói “cho đến ngày nay” (xem Gs 4:9; 5:9; 6:25; 7:26; 8:28, 29; 9:27; 10:27; 13:13; 14:14; 15:63; 16:10). Việc sử dụng thuật ngữ này ngầm cho hiểu khoảng cách về thời gian, theo cái nhìn trở lui. Hiểu như thế, thì việc sử dụng thuật ngữ này đã củng cố sự phân tích của chúng tôi trước đây coi Giô-suê như một trình thuật được khai triển khá lâu sau các biến cố được mô tả trong sách. Tương tự như các trình thuật có tính tầm nguyên luận, ta cũng thấy các giải thích có tính từ nguyên học (etymological) cũng được khai triển trong các tình tiết của truyện như 5:3; 22:34.

(IV) Giô-suê trong các truyền thống khác

Trong Ngũ Kinh, Giô-suê chỉ là một nhân vật thứ yếu. Trong dòng văn J, ông xuất hiện đầu tiên tại Xh 17:8 như một phụ tá quân sự của Mô-sê đang chỉ huy trận đánh với người A-ma-lếch, mà không có giới thiệu, như thể ai cũng đã biết ông rồi. Sau đó, ông tháp tùng Mô-sê lúc Mô-sê chuẩn bị lên núi (Xh 24:13; 32:17), chia sẻ với Mô-sê sự gần gũi với Thiên Chúa (Xh 33:11), và hành xử như một cố vấn khá nhanh nhẩu kiểu thanh niên cho Mô-sê (Ds 11:28). Trong cả hai dòng văn J và P, Giô-suê đều có mặt trong tình tiết phái người đi do thám (Ds 13-14) nhưng rõ ràng ông là bề dưới của Ca-lếp (xem Ds 14:24, 30). Trong dòng văn P, ông lại càng là nhân vật phụ hơn nữa; tên của ông hai lần bị gọi là Hô-sê-a (Ds 13:8; Đnl 32:44) và tư tế E-la-da được kể trước Giô-suê trong hàng chỉ huy liên quan tới các chi tộc ở bên kia sông Gio-đan (Ds 32:28) cũng như việc phân phối đất đai (Ds 34:17; xem thêm Gs 14:1; 17:4; 19:51; 21:1). Ngay trong Đệ Nhị Luật, vai trò của ông cũng nhỏ; ông chỉ được nhắc đến ở những phần sau cùng của sách, dự ứng trước việc ông được Mô-sê trao việc kế nhiệm (Đnl 3:28; 31:14, 23) và thỉnh thoảng xem ra như được chêm vào những đoạn văn đã có sẵn sau khi truyền thống đệ nhị luật đã hoàn tất để hoà hợp Đệ Nhị Luật với Giô-suê (Đnl 1:38).

Trái với tên tuổi các nhân vật chính khác của Kinh thánh, tên của Giô-suê, lấy từ gốc có nghĩa “cứu vớt” cũng không phải chỉ dành riêng cho con trai ông Nun, nhưng cũng được dùng cho hai cá nhân khác trong Kinh thánh, đó là chủ nhân của cánh đồng nơi hòm bia dừng lại sau khi được quân Phi-li-tinh trao trả (1Sm 6:14, Nhóm CGKPV dịch là Giơ-hô-su-a) và thống đốc Giêrusalem thời Giô-si-gia (2V 23:8). Điều này cho thấy trong truyền thống Do Thái, nhân vật Giô-suê không phải là nhân vật chính cho tới khi được truyền thống đệ nhị luật khai triển. Kết luận này xem ra được củng cố căn cứ vào sự kiện thiếu nhắc đến tên Giô-suê trong các lời giảng cũng như thánh ca trong lịch sử buổi đầu của Israel: Giô-suê không được nhắc đến trong 1Sm 12; Nkm 9:6-31; các thánh vịnh 78, 105, 106, 136. Điều này cũng đúng đối với nhiều biến cố xẩy ra trong Giô-suê: Giê-ri-khô thất thủ, chiếm Ai, chia đất, và giao ước tại Si-khem tất cả chỉ được nhắc tới trong Giô-suê chứ không được nhắc tới ở nơi khác trong Kinh thánh. Ngay trong truyền thống đệ nhị luật, Giô-suê cũng chỉ được nhắc đến trong Tl 1:1; 2:6-9 và 1V 16:34. Thời hậu lưu đày, Giô-suê cũng ít được chú ý, chỉ được nhắc đến tên mà không được bình luận thêm gì trong gia phả chi tộc Ép-ra-im (1Sb 7:27) và được nhắc vắn vỏi trong Nkm 8:17. Chỉ vào cuối thời Kinh thánh, Giô-suê và các biến cố của sách Giô-suê mới được nhắc tới cách thường xuyên (xem 2 Er 7:107; 1Mcb 2:55; Hc 46:1-8; Cv 7:45; Dt 4:8). Trong những đoạn này, ta thấy có sự khai triển liên tục của truyền thống về Giô-suê: ông là phán quan (1Mcb 2:55) và là một tiên tri (Hc 46:1).

Trong truyền thống Do Thái về sau, Giô-suê là sợi giây nối kết chủ yếu trong dây chuyền chuyển giao Tôra từ Mô-sê. Trong truyền thống Kitô Giáo, Giô-suê trở thành nguyên mẫu của người chiến binh Kitô Giáo, và ở nhiều giai đoạn lịch sử, người ta đặc biệt nhắc tới Giô-suê để biện minh cho các hành động quân sự cực đoan, như trong các Thập Tự Chinh chẳng hạn. Đặc biệt trong ý thức hệ hành hương, Giô-suê được coi như một mẫu mực và là đảm bảo từ Chúa: ví như một lớp người thoát áp bức vượt qua sông nước tới bến bờ quan phòng. Xác tín này tiếp tục gợi hứng cho lịch sử Hoa Kỳ thể hiện qua chủ trương về một “định mệnh hiển nhiên” và nhiều địa danh khắp vùng New England và cả nước.

(V). Giô-suê và chứng cớ khảo cổ

Việc miêu tả một cuộc chinh phục toàn diện của Israel chỉ là một cái nhìn trở lui thời kỳ đầu tiền quân chủ của sự kiện quân chủ chính trị thực sự. Chứng cớ nội tại của Kinh thánh thường mâu thuẫn với bức tranh vẽ cảnh tận diệt toàn bộ dân chúng tại lãnh thổ chiếm đóng (đặc biệt nên xem Tl 1-2 cũng như một số chi tiết trong chính sách Giô-suê). Các chứng cớ khảo cổ học đã củng cố việc phân tích sách về phương diện văn chương: rất ít các tình tiết chính tỏ ra có tính lịch sử. Do đó, cả Giê-ri-khô, Ai lẫn Ghíp-on đều không bị chiếm vào thời các học giả định niên biểu cho hiện tượng người Do Thái xuất hiện tại Ca-na-an (khoảng năm 1200). Dù một số thành được nói là do Giô-suê hủy diệt có chứng cớ bị hủy diệt vào thời đó, nhưng niên biểu rất khác nhau; Kha-do chẳng hạn bị hủy diệt một thế kỷ trước La-khít. Bởi thế phần lớn chứng cớ khảo cổ học đi ngược lại trình thuật của sách. Điều này cũng đúng đối với cả các chi tiết nhỏ: không có các phong tục đặc thù, các yếu tố địa dư chính trị, hay nghệ phẩm nào nhắc tới trong Giô-suê có thể định niên biểu là chỉ thuộc duy nhất vào cuối thiên niên kỷ thứ hai, trái lại phần đông thuộc thiên niên kỷ thứ nhất. Mặt khác, Giô-suê có cho thấy thời gian soạn thảo ra nó. Như danh sách các thành thuộc chi tộc Lê-vi ở chương 21 không thể thu thập trước thế kỷ thứ 8 vì đó là lúc chúng hiện hữu.

(VI). Ý định

Có thể coi sách là một hư cấu vừa có tính lịch sử vừa có tính thần học, mà nguồn đệ nhất đẳng chính là nền văn chương có trước đó của Israel. Các tư liệu khác, đặc biệt là các danh sách phân ranh ở các chương 13-21, đã được gộp vào sách này để trình bày một bức tranh về Israel lý tưởng dưới quyền lãnh lý tưởng. Một số tình tiết được trình bày như những truyện tích nhằm khuyên răn (cautionary tales), bằng cách mô tả các hậu quả của việc không tuân hành các giới răn của Mô-sê, và nhận định về các hoàn cảnh của thời tác giả. Nhưng bên dưới tác phẩm văn chương này là một xác tín sâu sắc: Giavê đã ban lãnh thổ cho Israel, và để duy trì được việc chiếm lãnh thổ ấy, Israel phải tuân giữ luật lệ của Người.

(8) Chương ba: Sách Thủ Lãnh



M. O’Connor,
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr. 132-135


Tài liệu Tham khảo

Boling, R. G. Judges (AB 6A; GC, 1975).
Burney,C. F,, The Book of Judges (ấn bản lần thứ 2; London, 1918).
Gaster, T. H., Myth, Legend, and Custom in the Old Testament [Huyền thoại, Dã sử và Phong tục trong Cựu Ước] (NY, 1969).
Gottwald, N. K., The Tribes of Yahweh [Các chi tộc của Gia-vê] (Maryknoll, 1979).
Gray, J., Joshua, Judges, Ruth [Giô-suê, Thủ lãnh, Rút] (NCB; 1986).
Martin, J. D., Judges (CBC; Cambridge, 1975).
Mayes, A. D. H., Judges (Sheffield, 1985).
Mendenhall, G. E., The Tenth Generation [Thế hệ Thứ Mười] (Baltimore, 1973).
Moore, G. F. Judges (ICC; Edinburgh, 1895).
O’Connor, M., “The Women in the Book of Judges [Những người phụ nữ trong Sách Thủ lãnh,” HAR 10 (1987) 277-93.
Polzin, R., Moses and the Deuteronomist [Mô-sê và Nhà Đệ nhị luật] (NY, 1980).
Revell, E. J., “The Battle with Benjamin (Judges xx 29-48) and Hebrew Narrative Techniques [Trận chiến với Benjamin (Thủ lãnh xx 29-48) và Kỹ thuật tường thuật tiếng Do Thái],” VT 35 (1985) 417-33.
Richter, W., Die Bearbeitungen des "Retterbuches” in der deuteronomischen Epoche (BBB 21; Bonn, 1964).
Soggin, J. k. Judges (OTL; Phi, 1981).
Trible, P., Texts of Terror [Bản văn của Khủng bố] (Phi, 1984).
De Vaux, R., EHI683-94.

Dẫn Nhập

(I) Về sách

Thủ Lãnh là một trong một vài cuốn sách liên quan tới giai đoạn giữa cái chết của Giô-suê và việc xuất hiện của Sa-un. Với việc qua đời của Giô-suê, thời đại Mô-sê bắt đầu xuống dốc; với việc xuất hiện của Sa-un, thời đại Đa-vít và các vua bắt đầu thành hình. Theo cai nhìn khá quen thuộc của lịch sử Kinh thánh, sự đổi thời này là một giai đoạn khá nguy hiểm và bất ổn, và kinh nghiệm của Israel trong giai đọan này khá bấp bênh, như còn chân trong chân ngoài, ở ngưỡng cửa (liminal). Trong đời người, mô hình của giai đoạn ngưỡng cửa chính là tuổi dậy thì, và các nghi thức dành cho tuổi dậy thì này nhằm chuẩn bị để các thiếu niên sẵn sàng giáp mặt với cuộc đời trong tư cách người trưởng thành sau này, giúp chúng vượt qua ngưỡng cửa vào đời. Các nghi thức chuyển tiếp chính là việc xã hội nhìn nhận tính ngưỡng cửa của tuổi ấy.

Sách Thủ Lãnh là cái nhìn có tính văn chương và nghiên cứu lịch sử (historiographic) về tính ngưỡng cửa. Nó muốn đặt câu hỏi: Làm thế nào Israel có thể sống sót mà không có vị lãnh tụ vĩ đại? Để rồi tự đưa ra câu trả lời: nó đã sống thoát, dù không luôn luôn tốt đẹp. Các ngưỡng cửa hay biên giới được quan tâm hơn cả dĩ nhiên có tính chính trị và xã hội. Israel đã sống thoát ra sao với các lân bang luôn cướp phá mình: phía tây thì người Phi-li-tinh, phía nam thì người Ma-đi-an (xem các chương 2-3, 6-16)? Những người sống theo lối cũ, tức những người Ca-na-an chuyên sống tại thị thành, phản ứng ra sao đối với người Do Thái và các đổi mới của họ (các chương 1, 4-5)? Và chính các nhóm Do Thái đã hành xử qua lại với nhau như thế nào, giữa chi tộc này với chi tộc nọ, giữa chi họ này với chi họ kia, giữa làng này với làng nọ, giữa vùng này với vùng kia (các chương 17-21)? Đó là các câu hỏi lớn lên khuôn cho cho trình thuật Thủ lãnh này.

Các câu hỏi trên đã không được trả lời một cách trực tiếp nhưng qua hàng loạt những chú giải bóng bẩy đầy óc tưởng tượng cho thấy hình ảnh biên giới hay ngưỡng cửa. Một số chú giải này khá đơn giản. Cửa lều nơi Gia-ên đứng (4:20) và chiếc cửa sổ mà mẹ Xi-xơ-ra nhìn qua (5:28) là để phân cách lãnh vực nội trợ và tư riêng với lãnh vực công. Biểu tượng rõ nhất cho tính ngưỡng cửa này và sự nguy hiểm của nó tìm thấy trong trình thuật về người tì thiếp của thầy Lê-vi (chương 19). Tính hiếu khách cần thiết cho cuộc sống an bình đã bị bẻ gẫy (19:23; xem thêm 4:21 và 5:26). Sau một đêm bị cưỡng hiếp và hành hạ, người thiếu phụ vô danh bò về nơi chồng nàng đang cư ngụ. Nàng ngất xỉu bên cửa nhà “hai tay vắt trên ngưỡng cửa” (19:27). Câu truyện có tính chủ yếu này chính là lời phi lộ dẫn ta vào cuộc nội chiến thảm hại từng dùng làm kết luận cho cuốn sách. Trong câu tryện này, ta còn thấy nhiều khuôn mặt có tính ngưỡng cửa khác: người Lê-vi, chi tộc duy nhất của Israel không có sản nghiệp đất đai; người Ép-ra-him chủ nhà sống như một khách trú (19:16) giữa người thuộc chi tộc Ben-gia-min; và người tì thiếp. Không sách nào trong Kinh thánh đã xử trí vai trò của người đàn bà một cách vô tình như Thủ Lãnh, ngoại trừ sách Rút là sách cũng có cùng một niên hiệu như Thủ Lãnh (R 1:1). Trong câu truyện người tì thiếp của thầy Lê-vi, ta cũng thấy biên giới giữa sống và chết, được nhiều chỗ khác trong sách gợi lại như câu truyện cơn khát cùng cực của Xi-xơ-ra và Sam-sôn (4:19; 15:18) hay trường hợp Sam-sôn lấy mật ong trong xác chết con sư tử mà ăn (14:8-9).

Ngưỡng cửa quan trọng nhất là ngưỡng cửa phân cách con người với Thiên Chúa, phân cách Israel với Gia-vê. Mô-sê là khuôn mặt điển hình của ngưỡng cửa này; nhấn mạnh thích ứng đã tìm thấy trong các câu truyện vĩ đại của Xh 33-34, đề cập tới biên giới trại như là địa điểm gặp gỡ Thiên Chúa (Xh 33:7), tới ngưỡng cửa lều (33:8), tới khăn che mặt của Mô-sê không để Israel trông thấy (34:35). Ở một bên ngưỡng cửa ấy, gần với Thiên Chúa hơn, ta thấy nhiều đại diện giữ nhiệm vụ thông đạt, chủ yếu là các thần sứ hay thiên thần: các thiên thần tại Bô-khim (2:1), thiên thần hiện ra với Ghít-ôn (6:11-24), với Ma-nô-ác và vợ ông (13:2-23), thần sứ nguyền rủa Mê-rốt (5:23) tất cả đều là những trình thuật có tính thăm dò phương cách để Gia-vê nói với Israel. Dấu chỉ Thiên Chúa chấp nhận hay chứng thực cho mình đã được ban cho trong trường hợp Ghít-ôn (chính ông xin: xem 6:35) và Ma-nô-ác (không xin: xem 13:19). Một đại diện khác chính là vị tiên tri ẩn danh (6:7-10). Có liên hệ tới các thiên thần là những lần thần trí Gia-vê tỏ mình ra. Thần trí này đã hiện xuống (3:10; 11:19), đã tràn ngập (6:34), tác động (13:25) hay ập xuống (14:6,19; 15:14) trên nhiều người. Lời sấm trong giấc mộng (7:13) cũng là một phương tiện để thông đạt; một phương tiện nữa, tuy không được rõ, là số phần (lot, lottery) dùng ở các chương mở đầu và kết thúc (1:2; 20:18, cả hai của Giu-đa).

Phía bên kia ngưỡng cửa phân cách con người với Thiên Chúa, phía gần Israel hơn, là các lãnh tụ được gọi là šōpĕtîm, một từ ngữ mà đại đa số các bản dịch thường dịch là thẩm phán, phán quan hay quan xét (judicum, judges). Ở đây, chúng tôi theo cách dịch “thủ lãnh” của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, chỉ vì tính tiện dụng của Bản Dịch này mà thôi (1). Mười hai vị cứu tinh của chi tộc này hay chi tộc nọ hay của một nhóm chi tộc nào đó đều là các giao diện chủ yếu giữa Gia-vê và dân; họ thi hành ý định của Thiên Chúa cũng như mọi kế sách của Người. Đơ-vô-ra là một nhân vật ngưỡng cửa xét theo ba phương diện: là đàn bà, là tiên tri và là thẩm phán và lịch sử đời bà là một tình tiết chính yếu. Phần giữa cuốn sách là câu truyện về A-vi-me-léc, một phán quan giả hiệu từng cố gắng một cách bất hợp pháp để cưỡng chế việc chuyển qua quân chủ. Theo cái nhìn chặt chẽ có tính lịch sử, thì hai thủ lãnh sau cùng đã không được kể vào sách. Thực vậy, Ê-li và Sa-mu-en đã được kể tại 1Sm 1-12, vốn được coi như lời phi lộ dẫn ta vào nền quân chủ. Giống Sách Rút, lời mở đầu của 1Sm cũng đề cập tới cùng một thời gian như Thủ Lãnh nhưng với một tập chú được chuyên môn hóa nhiều hơn về chủ đề. Phán quan đã thất bại trong tư cách một loại lãnh tụ đối với Israel (thiếu đặc tính toàn Do Thái [pan-Israelite]), và nền quân chủ mà Sa-mu-en chần chừ lúc ban đầu không chịu dẫn khởi đã đưa lại một loại lãnh tụ khác, tức vị vua, tương tự như các lân bang lúc ấy. Điệp khúc kết thúc: “Không có vua tại Israel” chính là nỗi mong chờ nền quân chủ (17:6; 18:1; 19:1; 21:25).

Ngưỡng cửa gây chú ý nhất cho các nhà văn và những người sưu tầm Sách Thủ Lãnh về phương diện lịch sử là ngưỡng cửa Mô-sê và nền quân chủ. Không phải tất cả các sử gia Kinh thánh đều nhìn thấy tầm quan trọng của ngưỡng cửa này. Tác giả Sử Biên, viết vào khoảng thế kỷ thứ 5 TCN, đã bắt đầu lịch sử Israel bằng cách nhìn qua tới Sa-un (1Sb 10) và sau đó xét tới Đa-vít, chứ không tỏ ra quan tâm chi tới các thủ lãnh. Các sử gia Kinh thánh từng thừa nhận tầm quan trọng của các thủ lãnh và hoàn tất sách nói về họ này trong hình thức sau cùng quả đã làm việc ở một thời kỳ trước đó, có thể là thế kỷ thứ 6, lúc đang bị lưu đày tại Ba-by-lon. Cuộc cải cách của Giô-si-gia, vốn thất bại không tránh được quốc nạn năm 587, là một ký ức quan trọng và sống động (2V 23:22). Tuy nhiên, các nhà hiệu đính thời lưu đày không phải là những người đầu tiên cũng như người cuối cùng tham dự vào việc lên khuôn cho cuốn sách dưới dạng qui điển; các quan tâm có tính ngưỡng cửa của khá nhiều người thuật truyện và học giả đã tạo nên trình thuật khá phức tạp và đầy cảm hứng này.

(II) Các tư liệu của Sách

Giống như Sáng Thế, Xuất Hành, Dân Số, Đệ Nhị Luật, 1 và 2 Sa-mu-en, Thủ Lãnh có một số lượng nhỏ các câu viết dưới ngữ cảnh tản văn. Loại tản văn này khá phong phú và được lặp đi lặp lại cho nên dễ bị hư hại trong diễn trình chuyển giao. Nhiều bản dịch bằng tiếng Hy Lạp cổ (ở đây được trưng dẫn tổng hợp như là Bản Bẩy Mươi mặc dù chúng có nhiều dị biệt đáng kể) cung cấp cho ta nhiều dữ kiện căn bản để hiểu việc tái tạo và sửa lại bản văn; các phiên bản cổ xưa khác và cả các sách cuộn Biển Chết nữa cũng góp phần vào công trình này (xem R.G. Boling, Judges 38-42).

Một số tản văn này cùng hội cùng thuyền với Đệ Nhị Luật và truyền thống đệ nhị luật (tức Giôsuê-2Vua), nhưng phần lớn thì không như thế, mà có tính kể truyện lôi cuốn và ít dạy đời hơn. Câu truyện về Éc-lon (chương 3) khá sống động trong lối biếm họa của nó đối với ông vua béo phị bị người Do Thái tinh khôn đánh lừa đến bỏ mạng. Việc nhắc đi nhắc lại ba lần hay thấy trong các truyện thần tiên đã được sử dụng trong ngụ ngôn về Giô-tham (9:8, 10, 12), trong lời nài nỉ của Đa-li-la (16:6, 10, 13) và trong lời khẩn khoản của ông già người Bê-lem (19: 5, 8, 9). Giống như trong 1Sm, cuộc đàm thoại đôi khi cho thấy những nét ngữ học làm phát sinh ra cuộc đàm thoại ấy từ trình thuật tản văn có ngay trong nó, mặc dù các nét đó họa hiếm lắm mới được các bản dịch lưu tâm tới.

Một số đoạn là những trình thuật có tính tầm nguyên, dành để giải thích nguyên lai các địa danh (1:17; xem thêm Ds 21:1-3; Tl 2:5; 6:24; 15:17, 19; 18:12) hoặc, các ngày lễ như trong các câu 11:39-40. Hai trong các giải thích về địa danh này còn cho rằng “cho đến nay” nơi ấy vẫn được gọi như vậy (6:24; 18:12). Thế hệ học giả có tuổi hơn có khuynh hướng nghĩ rằng những trình thuật này được duy trì chỉ là vì chức năng giải thích này mà thôi, nhưng quan điểm này ngày nay không còn được ủng hộ nữa.

Các trình thuật tản văn không phải chỉ là những quan tâm có tính văn chương hay giải thích lịch sử (historiographic) như đã nhắc; chúng còn có chung một chú tâm tới hành động của Thiên Chúa trong thế giới nhân bản. Các phán quan hay thủ lãnh khi được kể là do Gia-vê lập nên, đều vì thế có liên hệ với hành động của Người, dù chỉ theo nghĩa chính trị xã hội. Câu truyện về Ghít-ôn chẳng hạn, khi phối hợp mặc khải Thiên Chúa với chức thủ lãnh của mình, là một trong những trình thuật phong phú nhất của sách.

Chỉ có hai nhóm thơ: trong chương 5 và trong các chương 14-15. Bài ca ngoạn mục và khó hiểu của Đơ-vô-ra (106 dòng) thường được coi là bản văn lâu đời nhất của Kinh thánh, và người ta cũng có ly khi coi tám dòng thơ trong truyện Sam-sôn cũng là một bản văn rất xưa (14:14, 18; 15:16). Một số đoạn khác đôi lúc được coi là thơ nhưng thực ra chỉ là tản văn có nhịp điệu; ngụ ngôn Giô-tham được coi là quan trọng nhất (9:8-15) khá xưa về phương diện ý thức hệ, nhưng về phương diện ngữ học, thì lại cùng hội cùng thuyền với các bản văn chung quanh. Các bản văn này bao gồm: 1:14-15; 6:3, 8-9 và 16:23-24 (Boling coi cả 5 đoạn này là thơ; O. Loretz (Uragit-Forschungen 7, 1975, 594-595) coi tất cả, trừ đoạn sau cùng, là tản văn.

Việc kết hợp cả văn xuôi lẫn văn vần trong các chương 4 và 5 (giống như Xh 14-15 và St 34; 49:5-7) giúp ta có cái nhìn rất nổi đối với các biến cố, giống như hình ảnh ba chiều (stereoscopic). Kiểu nhìn như thế đã lên khuôn cho nhiều nét khác của sách. Sự xen kẽ giữa các trình thuật ngắn dài khác nhau về các thủ lãnh cũng cho thấy một khuôn mẫu về tương phản. Cách các con trai con gái của thủ lãnh Íp-san kết hôn (12:9) đã xác định và khuyến khích các cuộc hôn nhân lầm lẫn của Sam-sôn (14-16). Một cặp trình thuật bằng hình ảnh (stereopticons) đã được cung cấp nhờ dùng hai dẫn nhập (1:1-2:5 và 2:6-3:6) và hai kết thúc (các chương 17-18 và các chương 19-21).

Có hai trình thuật mà nếu mang so sánh với Sáng Thế ta sẽ thấy nổi hẳn lên. Đó là những tội dâm bôn thái quá của dân Xơ-đôm (St 19) và của dân Ghíp-a (Tl 19). Hai trình thuật này trích dẫn lẫn nhau hầu như ở mọi bình diện, và rõ ràng lệ thuộc lẫn nhau, tuy kết thúc có hơi khác: Xơ-đôm gặp thiên tai khủng khiếp còn Ghíp-a thì bị Israel tiêu diệt. Câu truyện hiến tế Ixaác và việc Gíp-tác hy sinh con gái duy nhất tuy tương tự nhau, nhưng không trực tiếp liên hệ với nhau, dù nhiều nhà bình luận hậu Kinh thánh từng nối kết chúng lại với nhau.

Các tên riêng về người đáng ta chú ý một cách đặc biệt. Nhiều tên bằng tiếng Híp-ri khá rõ ràng về phương diện ngữ học, nghĩa là có thể hiểu như một chữ, một nhóm chữ hay một câu. Những tên như thế đã được dùng để làm sống động bản văn, mặc dù việc sử dụng như thế thường buộc người ta phải hiểu những tên đó bên ngoài ngữ cảnh tôn giáo của chúng; khá nhiều tên như thế đã được dùng trong Thủ Lãnh. Các tên có gốc bārāq trên căn bản thường chỉ về thần minh, nhưng chính tên Ba-rắc (chương 4) thì được dùng để chỉ về ông như “tia chớp” hoặc chỉ vai trò của ông trong trận đánh có mưa như thác đổ. Tên Ghíp-tắc, một tên viết tắt của tên Ghíp-tắc Ên (Jiptahel) trong Giô-suê 19:14, có nghĩa là “[Chúa] mở [dạ mẹ]”, nhưng trong truyện này có nghĩa “[chính Ghíp-tắc] mở [đường dẫn tới tự do]”. Tên Giô-tham có thể là một lối chơi chữ, nó vốn có nghĩa “Gia-vê [yô] là Đấng Hoàn Hảo (tām) nhưng ở đây nó có nghĩa là yātôm “đứa trẻ không có cha, mồ côi”.

(III) Việc soạn thảo sách

Các học giả thường phân biệt ra 3 giai đoạn: (A) Cốt lõi là sưu tập cứu tinh mà trước nhất chỉ gồm các truyện về Ê-hút, Đơ-vô-ra và Ghít-ôn; giống như các phiên bản sau này của sách, đây quả là một sưu tập điển hình (xem chủ đề thử thách tại 3:1-2). Một cái nhìn tổng thể về các thủ lãnh chưa có vào lúc này; ta chỉ nên ghi nhận vị thủ lãnh “mất tích” là Bơ-đan, chỉ được nhắc qua tại 1Sm 12:11. Phần nói về Ót-ni-ên được viết dưới dạng một tóm lược. Các tư liệu nói về A-vi-me-léc đã được thêm vào. Năm thủ lãnh được nhắc đến một cách vắn tắt (10:1-5; 12:8-15) cũng được thêm vào sau đó, cùng với các tư liệu về Ghíp-tắc; và có lẽ cuối cùng, trọn bộ hay hầu hết các trình thuật về Sam-sôn đã được lồng vào sau. Địa dư có tính cách giản đồ khá rõ ràng trong công trình tiền đệ nhị luật vào thời cuối cùng này. Mỗi chi tộc không có hơn một thủ lãnh. Kẻ thù thì tính từ phía bắc (A-ram 3:8) qua đông nam (Mô-áp 3:12), trở lại phía bắc một lần nữa (Kha-do 4:2), rồi qua phía nam (Ma-đi-an 6:1), và phía đông (Am-mon 10:7) và sau cùng phía tây (Phi-li-tinh 13:1).

(B) Thế kỷ thứ 7, các nhà san định thuộc truyền thống đệ nhị luật (Gs-2V) đã thêm phần phi lộ (2:6-3:6; nhất là 2:11-19) và đã soạn ra hay lên khuôn lại các phần bắc cầu (3:7-10; 10:6-16; 13:1; 15:20; 16:31) để giới thiệu, kết luận, và đem các thủ lãnh lại với nhau. Việc ấn định niên đại có tính giản lược và phần đông có tính thổi phồng (có lẽ được cột chặt vào 1Vua 6 và từ đó tính ngược trở lại) cũng thuộc truyền thống đệ nhị luật (xem Richter, Retterbuches 132-141). Bốn thế kỷ rưỡi các hành động được giả thiết trong sách thực ra chỉ tương hợp với non hai thế kỷ lịch sử thực sự. Các nhà san định đệ nhị luật của thời lưu đày, nhờ làm việc trong một tình thế đã ra khác so với tình thế các bậc đàn anh, nên đã lên khuôn lại nhiều đoạn trong lịch sử như một toàn bộ, nhưng lại chỉ làm rất ít như thế đối với sách Thủ Lãnh (xem 18:30).

(C) Các học giả thời hậu truyền thống đệ nhị luật đã đưa vào lời dẫn nhập đầu tiên cho sách (1:1-2:5), một dẫn nhập đã làm đứt đoạn dòng văn liên tục từ Gs 24:28 tới Tl 2:6 và các lời bạt tức các chương 17-21. Các chương này đã làm đứt đoạn sự liên tục từ Tl 16:31 (Sam-sôn) tới 1Sm 1:1 (Ê-li, vị thủ lãnh sau đó). Bản văn mới thêm vào đó có thể thuộc nguồn tiền lưu đày và thực sự rất cổ xưa. Chính vì chúng rơi ra ngoài khoảng thời gian trong niên đại đệ nhị luật, nên các học giả mới coi các chương 17-21 (và đôi khi cả chương 16 nữa) là “phụ lục”. Những phần thêm vào sau đó, nói chung, đem lại cho sách một hình thù rất “phi niên đại” (unchronolonized). Thí dụ, địa điểm của họ Đan chẳng hạn, thoạt đầu thì ở phía nam (1:34), rồi phía bắc (5:17), rồi lại phía nam một lần nữa (13:25; 18:2), sau đó lại phía bắc (18:28); phần đông nghĩ rằng trên thực tế, họ Đan thoạt đầu ở tại phía nam, sau di chuyển lên phía bắc. Về truyền thống đệ nhị luật, xem M. Noth, The Deuteronomistic History, Journal for the Study of the New Testament-Supplement Series 15, Sheffield, 1981, Gotwald, Tribes 142-175.

(IV) Khung cảnh lịch sử và xã hội

Giô-suê và Thủ Lãnh là nguồn chính để ta dựng lại thời kỳ giữa năm 1200 và năm 1050. Các nguồn khác bao gồm nghiên cứu địa dư, các di tích khảo cổ của nửa đầu thời kỳ Đồ Sắt I và những xem sét lại các dữ kiện địa dư căn bản căn cứ vào khảo cổ (xem C.L. Meyers, Bulletin of the American Schools of Oriental Research 252, 1983, 47-59).

Các biến cố chính của Palestine và vùng Bên Kia Sông Gioa-đan vào thời này đều là các phản ứng đối với các tai họa cuối thời Đồ Đồng; theo cái nhìn Kinh thánh, các biến cố chính gồm việc thiết lập Israel thành một dân ( ‘am, 2:6,7; 5:11; 14:3; 20:2) hay một quốc gia (gôy, 2:20). Giô-suê trình bày việc này như một biến cố quân sự, trong khi Thủ Lãnh coi nó như một diễn trình chậm chạp và phức tạp hơn; quan điểm chiết trung, giữa hai quan điểm trên, thường có tính thậm xưng, nói quá; như đã nói trên đây, lời dẫn nhập thứ nhất đã rơi ra ngoài cái khung niên đại của các ấn bản trước đó, nên khó có thể xác định được yêu sách lịch sử của nó. Phần còn lại của Thủ Lãnh trình bày Israel như một liên bang, một liên minh gồm nhiều chi tộc nhưng thiếu một thẩm quyền trung ương liên tục; quyền lãnh đạo tạm thời nằm trong tay các thủ lãnh hay phán quan (người ta đã bác bỏ các cố gắng nhằm nhằm liên tưởng hình thức liên bang này với hình thức liên minh thị xã xưa của Hy Lạp [amphictionis] (xem A.D.H. Mayes, trong Israelite and Judean History, Phl 1977, 297-308). Các trình thuật trong sách cho hay cac thả lãnh lãnh đạo một chi tộc hay một nhóm chi tộc; nhóm lớn nhất được nhắc tới trong Bài Ca Đơ-vô-ra và dường như bao gồm mọi chi tộc ở phía bắc, trừ Giu-đa hay Si-mê-ôn. Khuôn khổ san định đã mở rộng phạm vị hoạt động của các thủ lãnh ra toàn cõi Israel.

Hệ thống xã hội tiềm ẩn trong Thủ Lãnh đã được nghiên cứu một cách có hiệu quả trong ngữ cảnh các cơ cấu xã hội đã được kỹ nghệ hóa; Israel buổi sơ khai là một nhóm phần đông theo nghề nông, không sống ở đô thị, họ là nông dân. Các cơ cấu chi tộc và tương tự phản ảnh nhiều hòan cảnh khác nhau, trong đó có cả nơi chốn, ý thức hệ và thân tộc. Các lãnh tụ xuất hiện trong các hoàn cảnh này có tính tạm thời, và việc phục vụ của họ không dựa trên việc kế nghiệp (như trường hợp các vua) cũng không dựa vào các cơ cấu thường trực (như việc bầu cử trong các chế độ dân chủ), dù có khuynh hướng coi “các thủ lãnh nhỏ” là các viên chức giữ các chức vụ chính thức (officeholders). Max Weber (1864-1920), nhà khoa học xã hội Đức, gọi căn bản tạo ra hình thức lãnh đạo ấy là “thần ân” (charisma), vốn là một từ ngữ lấy của Tân Ước với nghĩa là hồng ân Thiên Chúa. Mấy thập niên qua, ý niệm lãnh đạo thần ân đã được phổ thông hoá và trở thành ý niệm lôi cuốn hay được lòng dân. Phải nhận rằng, coi các thủ lãnh như các nhà lãnh đạo thần ân quả có nói lên một điều gì đó nơi các nhà soạn thảo ra Sách Thánh. Việc Israel chuyển dịch ra khỏi một xã hội phân mảnh đã được nhiều yếu tố thúc đẩy, dù các sử gia Kinh thánh thường cho rằng việc đó do áp lực bên ngoài của người Phi-li-tinh gây ra. Tiếp theo là các giai đoạn lãnh chúa (thời Sa-un và cả thời Đa-vít), quốc gia trung ương tập quyền (thời Đavít) và đế chế (thời Sa-lô-môn).

Hai điểm có tầm văn học quan trọng đôi khi làm lu mờ cả việc nghiên cứu lịch sử: (1) Chu kỳ có tính đệ nhị luật gồm tội lỗi - khủng hoảng - cứu rỗi đôi khi bị bác bỏ vì hoàn toàn giả tạo. Dù việc nhấn mạnh đến tội lỗi có phản ảnh một cái nhìn bị thần học hóa về lịch sử, nhưng quan điểm chu kỳ không vì thế mà cần bị bác bỏ: “Ngữ cảnh của quan điểm này không nhất thiết nói lên một ý niệm có tính ý thức hệ sau này… Có thể và chắc hẳn nó có chứa đựng các suy tư chân chính và duy trì được nhiều yếu tố thuộc thực tại lịch sử xưa” (Malamat, “Charismatic” 155”. (2) Một số nhân vật được nói đến với nhiều chi tiết trong khi có những người chỉ được đề cập một cách vắn vỏi. Từ tính đa dạng này, các học giả đã cố gắng suy ra ý niệm về hai loại thủ lãnh: loại lớn (các thủ lãnh có thần ân; các thủ lãnh quân sự) và loại nhỏ (các thủ lãnh phán xử; các viên chức được bầu lên). Môt học gỉa đã viết như thế này: “Xét một cách chủ yếu, có hai hình thức ghi chép khác nhau và hai kiểu cá nhân khác nhau” (Mayes, Judges 17). Thực ra, việc suy từ 2 nguồn ghi chép khác nhau qua hai kiểu người khác nhau là điều không chính đáng (xem Boling, Judges 7-9; E.T. Mullen, Catholic Biblical Quaterly 44, 1982, 185-201), vì hiện có rất nhiều bất đồng về việc nên coi ai là thủ lãnh nhỏ. Tất cả các học giả đều coi 5 thủ lãnh trong các đoạn 10:1-5 và 12:8-15 là các thủ lãnh ấy, nhưng nhiều người còn thêm cả Gíp-tác, Ót-ni-ên, Sam-ga hay Sam-sôn vì nhiều lý do khác nhau. Dù sao, thì sự phân chia lớn/nhỏ chả có chi hữu ích về phương diện lịch sử.

(V) Các quan điểm sau này về Thủ Lãnh

Trong các truyền thống Kinh thánh Do Thái, bên ngoài các Tiên Tri Tiền (Former Prophets), các thủ lãnh không quan trọng bao nhiêu. Khi suy tư về quan tâm của qui điển đối với các thủ lãnh, cả Huấn Ca 46:11-12 lẫn thư Do Thái 11:32-34 tuy có ca tụng họ, nhưng không chú ý nhiều tới các chi tiết. Trong truyền thống sau này, các thủ lãnh nổi tiếng hơn cả là Sam-sôn, người được đồng hóa với Hercules cũng như Đavít được đồng hóa với Orpheus; Gíp-tác, vì lời thề hứa của ông; và Đơ-vô-ra. Sở dĩ Sam-sôn nổi hơn các thủ lãnh khác là nhờ hình bóng Kitô học; Các hình ảnh về Đức Maria được tìm thấy trong sương mai của Ghít-ôn và trong mật ong của Sam-sôn.

George Buchanan (1506-1582), nhà nhân văn học Thệ Phản người Tô Cách Lan và là một học giả Tân Latinh đã sáng tác ra Iephthes, một trong các bi kịch sớm nhất của thời Phục Hưng, bằng cách lên khuôn lại câu truyện Gíp-tác. Shakespeare trích dẫn một ca khúc về con gái Gíp-tác trong Hamlet (2.2.422-39). Tác phẩm của Buchanan đã gợi hứng cho trường ca Jephthah (1743) của George Frederick Handels. Handel cũng sáng tác một trường ca khác về Deborah (1739), Samson (1743) và Gideon (1769). Sáng tác vĩ đại nhất của thời kỳ hậu Kinh thánh chắc chắn là của John Milton về vị thủ lãnh “Mù Mắt tại Ga-da” Samson Agonistes (1671)

___________________________________________________

(1) Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ giải thích cách dịch của mình như sau: “Gọi theo danh từ chung chỉ các vị anh hùng trong cuốn sách, họ là những người được Thiên Chúa sai đến cầm đầu cuộc giải phóng rồi làm người xét xử mọi việc trong dân, vì thế cũng dịch là 'quan án', 'phán quan' – 'xét xử' ở nền văn hóa này đồng nghĩa với cai trị” (Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Và Tân Ước, Thành Phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 23). Về điểm này, M. O’Connor nhận định như sau: Các từ ngữ chủ yếu là các từ ngữ lấy từ gốc šāpaṭ vốn không có nghĩa là xử án theo nghĩa hẹp của việc thi hành quyền tài phán, nhưng thực ra là cai trị. Từ šāpiṭum tại Mari và suffete tại Carthage giống từ šōpēṭ của Do Thái vốn nghĩa là các nhà cai trị, có quyền thi hành hàng loạt nhiều bổn phận công cộng kể cả việc ngồi xét xử. Bởi thế dịch là quan án có phần không được chỉnh lắm.