LÒNG TỰ TIN - HÀNH TRANG CHO NGÀN NĂM THỨ BA (Tiếp theo)

Chương bốn : Hướng về Tương-lai

Một nền giáo dục hà khắc dùng roi vọt và lời chửi mắng, hay là một học đường với đường hướng duy lý quá khích, chỉ thai sinh những thế hệ bạc nhược, luồn cúi, bịa đặt, mua bằng cấp hay là những người trẻ phản loạn, đạp phá, hút xách, nghiện ngập, bỏ nhà đi lang thang, lập băng đảng cướp giật...

Ngàn năm thứ hai sắp kết thúc để lại một gia tài với bao nhiêu vấn đề liên hệ chặt chẽ đến những con người thiếu tự tin. Không lớn lên với một hành trang giàu lòng tự tin, một số thành phần trẻ đang bơ vơ, lạc lõng. Không mục đích, không lý tưởng. Không có ý nghĩa. Không có nơi nương tựa trong cuộc đời. Chỉ còn lại một phương cách khẳng định là phá phách, bạo động, đốt cháy xe cộ và bôi bẩn những thành quách, vách tường...

Gốc rễ sâu xa

Gốc rễ của tác phong diễn tả những cảm trạng chao đảo, thiếu tự tin trong nhiều thành phần giới trẻ hiện nay, đã có mặt trong năm sáu năm đầu tiên, kể từ khi họ sinh ra, chào đời. Mùa màng tang thương mà họ đang gặt hái trong cuộc đời đã được gieo vãi, do những người làm cha, làm mẹ thiếu an lạc.

Sống thường xuyên trong xung đột, chạy đua theo những đòi hỏi tiện nghi của xã hội, các bậc cha mẹ đã đánh mất bản thân mình. Và hệ quả là con cái đã trở thành nạn nhân của các bậc cha mẹ. Một cách đặc biệt, tôi muốn nói đến những câu nói, những lời phát biểu, những mệnh lệnh bề ngoài xem ra có vẽ vô thưởng vô phạt, tự nhiên và thường tình. Nhưng theo ý kiến của các nhà tâm lý, những sứ điệp phá hoại, chỉ trích, phê phán được gieo vào lòng của trẻ em, nhất là khi chúng nó chưa có khả năng ngôn ngữ, để hóa giải, chuyển biến và diễn tả ra ngoài...

Đó là những hạt mầm, những chủng tử đã trở thành xương da, máu thịt, hơi thở của chúng nó. Chính những hạt mầm ấy ngày nay lớn lên, đâm chồi nẩy lộc một cách man rợ và giết chết lòng tự tin.

Cha mẹ độc tài, bao che

Nói tóm lại, thay vì làm cha mẹ có khả năng soi sáng, nâng đỡ hướng dẫn, còn được gọi theo lối nói của E. Berne, là Cha mẹ Từ tâm và Kỹ cương, chúng ta đã làm Cha mẹ Độc tài, bao che (24). Cho nên con cái đã dần dần trở nên những trẻ em lệ thuộc, bị động hay là phản loạn, đập phá, bạo hành và phạm pháp...

***


Những "Cấp" phát triển

Nhằm giúp người làm cha mẹ ý thức về vai trò của mình, tác giả P. Levin đã trình bày những cấp phát triển của một con người từ lúc mới sinh ra đến ngày thành người, chung quanh 20 tuổi (25).

Ở mỗi cấp phát triển, trẻ em hay là người thanh thiếu niên có một nhu cầu, một khát vọng đặc biệt. Nếu nhu cầu ấy được vun tưới, chăm sóc, trẻ em sẽ lớn khôn, tràn đầy sinh lực cũng như lòng tự tin. Nhờ đó chúng nó có thể hiên ngang và vững chãi đi tới. Ngược lại, như một cây không được vun bón, tưới tẩm, trẻ em sẽ hao hụt, mòn mõi, phôi pha về mặt tâm linh, nhất là trong địa hạt tự tin, ý thức về ý nghĩa và giá trị làm người.

Những từ tôi sử dụng như "vun tưới, chăm bón", chỉ là hình tượng diễn tả quan hệ qua lại, hai chiều giữa cha mẹ và con cái. Quan hệ có thể đi theo hệ hàng dọc, khi cha mẹ soi sáng, nâng đỡ, giải thích, trình bày, động viên. Quan hệ cũng có thể đi theo chiều hàng ngang, khi cha mẹ đồng hành, chia sẽ lắng nghe, phản ảnh.

Quan hệ đi đôi với tác phong và ngôn ngữ. Khi cha mẹ phát biểu, hãy tìm cách ăn nói làm sao, để con cái có thể nhận lãnh ba loại sinh tố làm người, bắt đầu bằng chữ P trong tiếng Pháp:

P. 1 là Puissance có nghĩa là khả lực, năng động

- "Tôi có thể làm, tôi có khả năng...",

- "Tôi biết cách làm..."

P. 2 là Protection có nghĩa là nâng đỡ. Khi cảm thấy mình được bao bọc, trẻ em không lo sợ, hiên ngang, mạo hiểm và can trường bước tới.

- "Tôi có động lực từ bên trong thúc đẩy tôi...

- "Tôi có đầy đủ ánh sáng để bước tới"

- "Tôi có sức mạnh, nghị lực".

P. 3 là Permission, cho phép.

- "Tôi có phép..."

- "Tôi được quyền..."

- "Tôi biết rõ cái gì phải, cái gì trái"

- "Nguyên tắc hành động có mặt trong nội tâm".

Ba yếu tố cơ bản ấy tạo nên lòng tự tin.

Đó là kiềng ba chân trong câu ca dao:

« Mặc ai nói ngã nói nghiêng

« Tôi đây đứng vững như kiềng ba chân!".

Trái lại ba triệu chứng sau đây diễn tả những quan hệ có vấn đề trầm trọng, trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái:

- Một: Cha mẹ bao thầu tất cả,

- Hai: Cha mẹ bắt bớ, xua đuổi, đánh đập,

- Ba: Cha mẹ phàn nàn rên rĩ, trách móc, chửi, rủa.

Ba yếu tố ấy tạo nên một tam giác xung đột, xói mòn lòng tự tin.

Khi cha mẹ phát biểu trong chiều hướng "Kiềng ba chân", đó là những sứ điệp xây dựng lòng tự tin.

Trái lại, khi cha mẹ vòng vo, luẫn quẫn trong tam giác bi kịch, khủng hoảng xung đột, cha mẹ chỉ tuôn trào, nói ra những sứ điệp làm ô nhiễm lòng tự tin của con cái.

Sau đây là những cấp được khảo sát, ở hai bình diện nhu cầu và sứ điệp xây dựng.

Cấp 1 - Nhu cầu "có mặt trong cuộc đời"

Nhu cầu nầy được diễn tả từ 0 đến sáu tháng. Những con số về ngày tháng chỉ có giá trị tương đối.

Khi đứa con sinh ra dù ngôn ngữ chưa xuất hiện, toàn thể con người nó đã diễn tả thể thức khẳng định và yêu cầu của nó đối với môi trường:

- Tôi muốn sống!

- Hãy yêu thương đùm bọc tôi!

- Hãy coi tôi là người quan trọng trong cuộc đời của quí vị.

- Hãy nhìn ngắm tôi.

- Hãy trao cho tôi hơi ấm của làn da thịt.

- Hãy vuốt ve, bồng ẵm, thoa bóp tôi.

- Cho tôi ăn, cho tôi bú.

- Hãy lại gần khi tôi khóc.

Và chúng ta, người lớn trong gia đình có thể đáp trả thế nào?

- Con là hạnh phúc của đời Mẹ.

- Mẹ hiểu con cần gì.

- Mẹ đây sống cho con.

- Trai hay gái, con cũng là con người.

- Con mang đến cho mẹ niềm vui!

- Mẹ vui thích, sung sướng ôm ẵm con vào lòng.

- Mẹ "xi" cho con đi đại và tiểu tiện. Nhưng mẹ không thúc hối con. Con thư thả theo tốc độ của con.

Người lớn cần tránh tối đa những sứ điệp lệch lạc:

- Lớn nhanh đi để nuôi mẹ!

- Con cứ mãi mãi làm con búp bê của mẹ.

Cấp 2 - Nhu cầu múa máy lay động, đụng chạm, di chuyển, nghe ngóng

Thời gian: từ 6 đến 18 tháng.

Nhu cầu trẻ em:

- Bồng con đi chơi đó đây.

- Cho con nhìn cái nầy cái khác, những đồ vật di động càng tốt.

- Cho con nghe bất kể âm thanh nào.

- Con cần tiếp xúc, đụng cạm phân biệt nóng lạnh...

Sứ điệp:

- Con nhìn phía nào tùy con.

- Nhìn mẹ cũng được- Ngoảnh qua nơi khác cũng không sao!

- Cúc cù, mẹ đây. Nghe mẹ gọi cúc cù. Nhìn mẹ đi!

Cấp 3 - Nhu cầu suy nghĩ

Thời gian: 18 tháng đến 3 tuổi

- Con cần biết con khác cha mẹ thế nào!

- Con học nói "không",

- Con muốn học cho biết con làm được gì?

- Sao cha mẹ nhìn đâu vậy? Hãy nhìn con. Con chơi với lửa đây nầy. Sao không nói rõ cho con biết con có được phép không? Nguy hiểm thế nào?

- Con ra đường, con chạy thoát khỏi tay cha mẹ, để xem cha mẹ có thương con, lo cho con, chạy theo không...

Sứ điệp:

- Cha mẹ sung sướng thấy con ngày càng lớn khôn.

- Con có quyền bực bội, tức giận. Nhưng tuyệt đối cấm không được đánh em, đánh mẹ...

- Con nói ra cho mẹ biết con muốn gì? bực bội về chuyện gì?

- Con cần gì? Hãy tập nói ra ý kiến của mình!

- Con muốn cái khác. Con có phép chọn lựa.

- Con có phép...

- Con có sức...

- Con biết...

- Mẹ thấy con làm không được. Con cần mẹ giúp con không?

- Nếu con muốn qua chơi bên cạnh, con tới xin phép Ba con.

- Con có thể vào bếp tìm cho mẹ cái muỗng...

Cấp 4 - Nhu cầu khẳng quyết và xác định mình

Thời gian: từ 4 đến 6 tuổi.

Nhu cầu:

-Xác định tôi là ai ?

-Trắc nghiệm, kiểm chứng "Tôi với ý kiến ấy có được chấp nhận không".

-Tôi có khả năng gì?

Sứ điệp nâng đõ, cũng cố:

- Con có quyền nói ra ý kiến chấp thuận hay là không!

- Con không cần giả bộ...Con chỉ cần nói rõ con muốn gì và cha mẹ sẽ cho biết ý kiến,

- Trong trường hợp ăn mặc, con đã biết chọn lựa. Vậy con mặc gì, khi đi về thăm ngoại ?

- Ba đồng ý cho con quyết định tùy con.

- Con thử tưởng tượng em con cảm thế nào khi con đánh em!

- Con làm như vậy, cái gì sẽ xảy ra, hậu quả thế nào?

Cấp 5 - Nhu cầu thành đạt, thu lượm kết quả khả quan, cụ thể

Nhu cầu:

- Biết làm theo cách riêng của mình,

- Biết rõ nguyên tắc hành động.

- Biết rõ phương pháp và các giai đoạn đi lên...

Thời gian: từ 6 đến 12 tuổi

Sứ điệp soi sáng, nâng đỡ :

- Trước khi làm, con cần suy nghĩ...

- Trong trường hợp nầy, con cảm thấy phải chọn gì?

- Con hiểu làm sao, thì cố làm như điều con hiểu.

- Con có quyền không đồng ý, nếu con đã cân nhắc...

- Vì con đã quyết định như vậy, cho nên bây giờ hậu quả là...

- Con thử tìm cho ra 3 cách khác nhau... Bây giờ theo con, cách nào hợp ý con?

Cấp 6 - Nhu cầu có tiếng nói, có lập trường, có quan điểm

Thời gian: từ 13 - 18 tuổi

Nhu cầu:

- Có tiếng nói riêng biệt,

- Có vị trí,

- Có lập trường.

Sứ điệp: Con có thể có những nhu cầu riêng biệt.

- Con có trách nhiệm về tình cảm và hành động...

- Con có quyền tự lập, nhưng con luôn luôn là con được yêu thương và tôn trọng trong tâm hồn và cuộc đời của cha mẹ.

- Con có tôn trọng người khác, qui luật...hay không?

Cấp 7 - Nhu cầu tự lập, tự túc

Thời gian: từ 19, 20 tuổi trở lên

Nhu cầu :

* Biết từ chối, nói không.

* Vẫy cánh bay xa để nhìn, để nghe, để cảm với những hạng người khác nhau trên mặt địa cầu.

* Tìm ra ý nghĩa cho cuộc đời, thậm chí trong những hoàn cảnh ngõ cụt và bế tắc.

* Nhu cầu đổi mới, sáng tạo thường xuyên.

* Nhận để cho, cho để nhận, cũng như học và dạy quyện vào nhau.

* Nhu cầu được cũng cố.

* Nhu cầu được rút tỉa những bài học từ thất bại, sai lầm.

* Nhu cầu đảm nhiệm một vai trò để phục vụ.

Sứ điệp :

* Bạn được lắng nghe và tôn trọng.

* Bạn hãy cho biết ý kiến?

* Bạn muốn làm gì?

* Bạn có thể làm gì?

* Bạn giải quyết, thay đổi thế nào?

* Bạn thấy tôi thế nào?

Mẫu đối thoại giữa Đức Bụt và Đại đức Punna (26)

Để có một ý niệm khá rõ rệt về sứ điệp của một người trưởng thành đối với một người trưởng thành khác, tôi xin trích dẫn ra đây những lời trao đổi giữa Đức Bụt và thầy Punna (thường được gọi là Phú Lâu Na trong tiếng Việt) :

Hôm ấy, sau mùa an cư, Đại đức Punna có ý trở về quê hương mình để hành đạo.

Bụt hỏi:

- Dân cư vùng đó còn rất hung dữ. Bao động thường xảy ra. Về đó có tiện không?

- Bạch Thế Tôn, Đại đức Punna trả lời, chính vì họ còn hung ác nên con muốn về đó, để khai hóa lòng người.

- Nếu họ đến chửi mắng thầy?

- Dạ cũng chưa can chi! Ném đồ dơ bẩn lên đầu còn khó chịu hơn!

- Nếu họ đến ném đồ dơ bẩn lên đầu Thầy?

- Dạ cũng chưa hề gì, nếu họ chưa hành hung con.

- Một ngày nào đó, họ đến hành hung, thì sao?

- Nếu họ chưa giết, thì con còn chịu được!

- Họ giết thì sao?

- Lúc gần tắt thở, con cám ơn họ đã cho phép con chết một cách hiên ngang, chính lúc con "làm người".

Bụt kết thúc:

- Thực ra tôi tin vào Thầy, từ ngày chúng ta gặp nhau. Nhưng sỡ dĩ tôi hỏi thầy cách cặn kẽ như vậy, để Thầy cũng cố cho những Thầy khác thuộc đàn em của Thầy và các cháu chắt sau nầy...để họ cũng "làm người".

Thật tuyệt diệu, khi cõi lòng mình là Đại Dương chấp nhận mọi dòng sông chảy về từ muôn nẽo. Xin cám ơn Thầy, hỡi Đại dức Punna! Thầy bất diệt!

***


Trong tư tưởng Đông Phương, chưa có một tác giả nói đến những cấp phát triển với đầy đủ chi tiết cụ thể như trên đây, nhất là từ 15 tuổi trở xuống cho đến ngày sanh ra khỏi lòng Mẹ.

Tuy nhiên trong vấn đề học đạo, và thấm nhuần đạo làm người, chúng ta có thể ghi nhận những điểm mốc như sau (27) :

- Mười lăm tuổi :

"Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học": Chuyên chăm vào việc học.

- Ba mươi tuổi

"Tam thập nhị lập": Tự lập vững vàng.

- Bốn mươi tuổi:

"Tứ thập nhi bất hoặc": Không lầm lẫn.

- Năm mươi tuổi:

"Ngũ thập nhi tri thiên mệnh": Hiểu biết ý của Trời.

- Sáu muơi tuổi:

"Lục thập nhi nhĩ thuận": Lắng nghe thực sự.

- Bảy mươi tuổi :

"Thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du cũ": Đi theo con đường của Tình Thương :

Bài thơ sau đây diễn tả khả năng « Tùng Tâm » ấy :

« Hãy lắng nghe Thinh Lặng và Mênh Mông,

« Như người mẹ hân hoan mở rộng lòng,

« Sẵn sàng cho suốt cuộc đời hiện diện

« Sồng vì con trọn Lời Kinh Dâng Hiến.

« Hãy lắng nghe Bao La và Vô Tận

« Suốt ngày đêm giăng hai tay đón nhận,

« Những khuôn mặt quen thân và xa lạ,

« Nối kết lại thành Chân Trời Cao Cả » (28).

***


KẾT LUẬN : CON ĐƯỜNG NÀO?

Trước ngưỡng của Thời đại Nghìn Năm Thứ Ba, ở Âu châu và Mỹ châu, nhất là ở Hoa Kỳ, những ai theo dõi các trào lưu tư tưởng mới, đang xôn xao nhiều về các ý kiến « động trời » của F. FUKUYAMA (29). Tác giả nầy là người Mỹ gốc Nhật, thuộc thế hệ thứ hai của một lớp người qua định cư ở Hoa Kỳ, từ đầu thế kỷ 20.

***


Thể theo lối nhìn của F. FUKUYAMA, những ngày cuối cùng của Thế kỷ 20 đang báo hiệu « ngày tàn » của Nhân Loại, với bao nhiêu vấn đề sôi bỏng: thất nghiệp, bệnh sida, đồng tiền mất giá, bạo động trong các đô thị khổng lồ...Hơn bao giờ hết, toàn địa cầu đang bị giao động, bàng hoàng trăn trở về ngày mai. Nhìn trở lại thế kỷ đang « hoàng hôn », tác giả đã ghi nhận ba biến cố làm đảo lộn lịch sử, gây chấn động về lâu về dài trên chính bản sắc và căn cước của con người, trên mọi lục địa từ Đông sang Tây.

Biến cố thứ nhất là viên thuốc ngừa thai đã ra đời vào những năm 1960. Các nhà chính trị đã hy vọng rắng : nạn nhân mãn sẽ từ đây được giải quyết một cách êm đẹp. Người phụ nữ sẽ thực sự được giải phóng.

Không ngờ, với viên thuốc nầy, những "Rạn Nứt" đã bắt đầu xảy ra và trở nên càng ngày càng trầm trọng trong địa hạt gia đình và học đường. Giới trẻ từ 15, 18 đến 30 đang lạc lõng bơ vơ, vì càng ngày càng trơ nên tự do quá đáng, « phóng túng » một cách bừa bãi. Bạo động đã tràn xuống đường, nhất là trong các đô thị...Phải chăng đó là cái "ung nhọt lở lói », do viên thuốc ngừa thai đang cưu mang và phát triển, trong xã hội ngày hôm nay ?

Biến cố thứ hai là bức tường ô nhục ở Berlin đã bị sụp đổ vào năm 1989. Biến cố nầy cũng đã được đón chào như một ngày giải thoát của Nhân Loại, khỏi những gông cùm của một ý thức hệ chính trị vô tưởng. Nhưng rồi, chiến tranh vẫn tiếp tục có mặt, khi không còn tình trạng hai đối thủ đe dọa, thách thức nhau, bằng mạng lưới phòng vệ chống nguyên tử. Hơn bao giờ, chiến tranh nguyên tử vẫn còn có thể xảy ra một cách dễ dàng, khi có nhiều vị lãnh tụ « trẻ con » muốn chơi với lửa, không chấp nhận mình là « nhược tiểu », ăn chưa no, lo chưa tới, theo nghĩa đen của từ ngữ.

Hẵn thực, không còn những trại tập trung chính trị kiểu « Goulag », nhằm đày ải những tù nhân khác lập trường và khác chính kiến. Nhưng trong thế giới tư bản cực đoan, con người vẫn còn đàn áp con người một cách rất tinh vi, văn minh và khoa học. Nạn mãi dâm trẻ con bành trướng khắp mọi nơi, với nhu cầu du lịch đang càng ngày càng đi lên! Người phụ nữ, nhờ viên thuốc ngừa thai, có khả năng thi thố tài năng ngang bằng người đàn ông trong mọi ngành nghề và địa hạt.

Tuy nhiên, khi lăn xã vào một xã hội quá duy lý, người phụ nữ còn là mình với bản chất cho và nuôi dưỡng mầm sống hay là đã từ từ đánh mất bản sắc của mình? Ý thức hệ chính trị đã sụp đỗ. Thế nhưng, hơn bao giờ hết, con người vẫn còn có xu thế "đồng phục và đồng dạng hóa con người". Lý luận làm nền tảng cho những đòi hỏi đồng dạng ấy là: "Tôi không chịu thua. Tôi muốn hoàn toàn giống các ông nam nhi".

Tuy nhiên, phải chăng "khác" có nghĩa là « thua »? Và khi chấp nhận mình "thua", có gì là xấu xa, phản con người và phản tiến bộ?

Thêm vào đó, vị trí "hơn" sẽ mang lại chất lượng làm người nào cho tôi?

Biến cố thứ ba là con người có thể chế tạo con người trong ống nghiệm. Một mai rất gần kề, con người có khả năng tác động trên "mầm sinh" trên "gên". Con người lúc bấy giờ còn "làm người" nữa không hay là chơi trò "làm Thượng Đế" ?

Pascal đã nói: ai chơi trò làm thiên thần, người ấy sẽ biến thân thành ngạ quỉ. Một mai với khả lực "tạo mầm sinh hay tạo gên", nếu con người muốn chơi trò "hơn thua" với Thượng Đế, con người sẽ biến thân thành cái gì?

***


F. Fukuyama rất bi quan, ít nhất trong lời lẽ, ngôn từ có vẽ thách đố của ông. Đối với ông, "ngày tàn của nhân loại" đã bắt đầu.

Lý luận của ông được tóm lược như sau:

- Ngày tàn của người phụ nữ đã bắt đầu từ năm 1960, khi họ không còn muốn chấp nhận làm người, với những hạn chế cũng như với những đặc quyền riêng tư và độc đáo.

- Ngày tàn của lịch sử đã bắt đầu từ năm 1989, khi lịch sử không còn là một cuộc đấu tranh liên lĩ. Hẳn thực, đấu tranh đã gieo vãi chết chóc và hoang tàn ở khắp mọi nơi. Nhưng đấu tranh cũng là lò luyện kim sản xuất những bài học cho con người. Bây giờ không còn đấu tranh giữa hai khối, chúng ta sẽ lấy gì viết Lịch Sử!

- Cuối thế kỷ 20, ngày tàn của Nhân loại đã điểm, khi con người không muốn làm người. Khi con người đánh mất bản chất hoặc căn cước của mình. Họ sẽ lạm dụng khả năng chế tạo và thay đổi mầm sống để chơi trò " làm Thượng Đế toàn năng". Với cách điều trị thay đổi gên, Y khoa sẽ cho phép con người trở thành "đại thọ", "siêu nhân" hay là "thần đồng". Nhưng mấy người có những phương tiện ấy ? Và đoàn lũ đông đúc phải chăng sẽ trở thành một "bầy trâu bò, chó ngựa", không còn có giá trị làm người?

Theo quan điểm của tôi, luận cứ của Fukuyama đã bị lệch lạc, khi ông không phân biệt số chung và số riêng. Ông đã quá "vơ đũa cả nắm".

Người phụ nữ là ai?

Đâu phải là mọi người phụ nữ đều dùng thuốc ngừa thai. Thậm chí vì lý do nào đó, khi họ dùng thuốc ấy, họ dâu phải luôn luôn muốn đấu tranh đòi tự do và bình đẳng. Còn rất nhiều người phụ nữ tự tin, hãnh diện về căn cước làm phụ nữ của mình. Và nếu còn một người phụ nữ như vậy, thì ngày tàn sẽ không bao giờ đến cho giới phụ nữ.

Con cháu bà ấy sẽ sanh ra, đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển. Người phụ nữ vẫn làm mẹ. Người phụ nữ vẫn sanh con. Bản chất của người phụ nữ vẫn là "cho", không đòi lại, không đợi trả ơn.

***


Đấu tranh là gì?

Sau khi bức tường ô nhục Berlin bị bình địa, khả năng đấu tranh của con người không bị mai một, cùn mòn!

Tôi vẫn còn phải đấu tranh, bao lâu còn một người chưa có phần cơm ăn hằng ngày!

Có triệu triệu cách đấu tranh, ngoài cách la ó, chĩa súng và ném bom...

Thêm vao đó, cuộc sống làm người đâu cần có hai phe thù địch nhau, mới có đấu tranh thực sự và chân chính. Khi nắm tay nhau, trở nên "một", để sát cánh nhau đấu tranh, công cuộc đấu tranh ấy mới hữu hiệu, cao cả!

Giặc nghèo, giặc ngu dốt... bao nhiêu mặt trận đang chờ những ai có tinh thần đấu tranh thực sự.

Khi tranh đấu như vậy, chúng ta mới viết được nhưng trang sử hoàn toàn mới, dành cho con người mới, có liên hệ mật thiết với trời mới, đất mới!

***


Nhân loại là ai?

Là Anh, là tôi, là bạn. Là mọi người...

Trong số đó, có những người muốn chơi trò phù thủy, biến người nầy thành siêu nhân. Biến người kia thành hạ nhân. Biến người nầy thành người yêu nước chân chính. Và biến người kia thành Ngụy, thành Việt gian, theo Tây, theo Mỹ...

Bên cạnh những người muốn làm phù thủy, còn rất nhiều người muốn làm người. Họ can trường và sáng suốt chấp nhận chết, trở thành tro bụi...để nuôi sống và nhưởng chỗ cho mầm non! Ngọn lá nào thực sự muốn làm lá, chấp nhận rơi rụng vào cuối mùa thu...để cho các chồi non xuất hiện vào mùa xuân, thay thế chỗ của mình!

Nếu trong lòng nhân loại còn có người không muốn chơi trò hơn thua. Họ chấp nhận thua, bị truất phế khỏi mọi khả năng. Bị còng tay nhốt vào tù...mà vẫn làm người biết tha thứ... Nhân Loại ấy sẽ không có ngày tàn...

Sau 1975, khi đã bị mất khả năng dạy học, mất khả năng khám nghiệm tâm lý cho những bệnh nhân…tôi cũng như nhiều người đã đi về vùng quê, học trồng rau và làm rẫy... Tuy nhiên, nhờ thất nghiệp đói khổ, tôi đã học được khả năng "nhịn đói", giống như nhân vật Tất Đạt trong tác phẩm « Câu chuyện dòng sông" của văn hào H.Hess » (30) :

- « Tôi có thể suy tư, chờ đợi, nhịn đói.

(...)

- « Nhưng những thứ ấy dùng để làm gì? Ví dụ nhịn ăn, để làm gì?

- « Nó có giá trị lớn lắm, thưa ông. Khi một người không có gì để ăn, nhịn đói là điều khôn ngoan nhất... »

Bao lâu trong lòng nhân loại, còn có người biết nhịn đói, nhịn khát, để có khả năng hiến tặng cho Người anh chị em mình một Tình Yêu... Làm sao nhân loại ấy có thể có ngày tàn?

***


Hỡi Người Em Việt Nam!

Nếu em tin vào Tình Yêu, Tình Yêu sẽ làm cho em trở thành bất diệt và cao cả.

Tình Yêu ấy không đến từ trên và từ ngoài. Nhưng Tình Yêu ấy ở ngay trong tấm lòng của Em.

Tin vào Tình Yêu là tin vào chính mình. Đó là ý nghĩa căn cơ của Lòng Tự Tin (31).

Bản sắc và căn cước của Em là Tình Yêu. Đó là điểm xuất phát. Và đó cũng là điểm tận cùng mà Em hướng đến mỗi ngày. Cho nên, bao lâu Em còn sống, con đường của Em là Tình Yêu. Chỉ với Tình Yêu « bàn tay Em mới có thể làm nên tất cả ». Chỉ với Tình Yêu, « sỏi đá mới có thể trở thành cơm! » cho Em và bao nhiêu người khác, đang có mặt với em trong lòng cuộc đời.

Bí Chú :

1) Senge P. - The 5th Discipline - Century, London 1992.

2) Nguyễn Văn Thành - Phát huy Nhân lực - Tình Người, Lausanne 1998.

3) Ricoeur P - De l 'Interprétation - Seuil, Paris 1965.

4) Gordon. T - Etre Parent, ca s'apprend - Marabout, Belgique 1995.

5) Ricoeur P. - De l'interprétation - Seuil, Paris 1965.

6) Freire P - Pedagogy of the oppressed - CP, N.Y 1994.

7) Kipling - IF - mille-et-une-nuits, Paris 1998.

8) Goleman D - Emotional Inelligence - Bantam, N.Y 1998 I và II.

9) Cameron-B. L - The Emotional Hostage - FP, CA 1986.

10) Sommer B. - Psycho - cybernetics 2000 - PH, U.S.A 1993 P. 333.

11) Nguyễn Văn Thành - Đối Thoại, quê hương Tình người - TN, Lausanne, 1999 tr. 67.

12) Berne E. - A.T. et psychothérapie - P. BP, Paris 1971.

13) Nguyễn Văn Thành - Phát Huy Nhân Lực - TN 1998.

- Đường Vào Nội Tâm - TN 1997.

14) Triết, Tập san Triết học và tư tưởng số 1+ 2 San Jose, CA 95173 - 0363 tháng 6.1996 và 9.1997.

15) Nguyễn Văn Thành - Đối Thoại, quê hương tình người - TN 1999. - Em là quê Hương - TN 1997.

16) Berne E - Sđd.

17) Vygotsky L.S - Pensée et langage. ESF, Paris 1985.

18) Winnicott - Processus de Maturation chez l'enfent - P.BP, Paris 1972.

19) Portelance C. - Relation d'aide - Cram, Québéc 1992 tr. 31.

20) Goleman D. - L'intelligence Émotionnelle - R. Laffont, Paris 1997. Tome I tr. 29.

21) Maltz M. - Psycho - cybernetics - PH, NY 1960

22) Steiner C. - L'A.B.C des Emotions - Inler Ed. Paris 1998 tr. 122.

23) Nguyễn Văn Thành - Lắng Nghe - TN 1999.

24) Jaoni G. - Le Triple Moi - R. Laffont Paris 1997.

25) Levin P. - Les cycles de l'identite - Tnter Ed., Paris 1986.

26) Thích Nhất Hạnh - Đường xưa mây trắng - Lá Bối, SJ-U.S.A. 1992, tr. 453.

27) Phan Bội Châu - Khổng Học Đăng - Anh Minh, Huế 1957, I tr. 15.

28) Nguyễn Văn Thành - Lắng Nghe - TN - Lausanne 1999

29) Báo Coustruire số 38, ngày 21.9.1999

Fukuyama F. - La fin de l'histoire et le dernier homme - Chanps - Flammarion Paris 1994

30) Hess H. - Câu chuyện dòng sông -Chùa Khánh Anh, Paris, tr.57-64.

31) LaPorte D. - Pour Favoriser l 'estime de Soi - C.H.U, Montréal 1997

Sách tham khảo

1.-André C. - L'estime de Soi - Ed.O. Jacob, Paris 1999.

2.-Branden N. - Les six clés de la Confiance en-Soi - Ed. J'ai lu, Paris 1995.

3.-De Saint Paul J. - Estime de Soi, Confiance en Soi - InterEd. Paris 1999.

4.- Dubois V. - Les Emotions - ESF, Paris 1993.

5.- Grinda G. - Pour l'enfant - Fayard, Monaco 1996.

6.- Die P. - Comaitre ses blessures - Ed. Emmanuel, Paris 1993.

7.- McKay M. - Self - Esteem - NH Pubbl, CA 1987.

8.- Monbourquette J. - Je suis aimable, Je suis capable - Novalis, Canada 1996

9.- Nguyễn Văn Thành - Comment gérer les émotions - S.C.E.S Lausanne 1991.

10.- Poletti R. - L' estime de Soi - Ed Jouvance, Genève 1998.

11.- Sommer B. - Psycho - cybernetics 2000 - PH, NJ 1993

12.- La Porte D. - Pour Favoriser l'estime de soi - C.H.U, Montréal 1997

Lausanne, Thụy Sĩ