CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH VÀO THẬP GIÁ

VÀ CHỊU CHẾT TRÊN NÚI SỌ



Núi Sọ chứng kiến Chúa chịu đóng đinh và chịu chết không phải là một ngọn núi, thực ra chỉ là một ngọn đồi nhỏ có hình dáng Sọ Người, nằm phía tây bắc thành Giêrusalem. Theo tục lễ xưa và nay còn giữ lại nơi nhiều xứ, nhất là các xứ thuộc miền Cận đông, nghĩa trang ở sát ngoài cửa thành và thường khi án tử hình được thi hành giữ mồ mả. Luật Do-thái lại dạy : án tử hình phải thi hành công khai để làm gương cho người khác (Đệ nhị luật 13,11). Vì thế, người ta đóng đinh Chúa Giêsu trên Núi Sọ.

Trước khi đóng đinh, người ta đưa cho Chúa uống một chút rượu nho pha lẫn mộc dược của các bà đạo đức thành Giêrusalem quyên tặng tội nhân, nó có tác dụng làm tê mê ít nhiều để giảm bớt đau khổ, nhưng Chúa không uống. Rồi lý hình lột áo Ngài ra, thứ áo đã dính chặt vào các vết thương, bây giờ bị giật ra chẳng khác gì lột da.

Họ bắt Chúa nằm ngửa, tay giang thẳng trên khúc gỗ ngang. Lý hình dùng đinh có đầu tán 8 ly, cạnh vuông, mũi nhọn đóng vào nơi gần cổ tay qua khe “Destot” xuống sâu vào gỗ. Đóng tay kia cần có người giúp kéo thẳng rồi đóng như trên. Đóng vào lòng bàn tay, thân thể nặng có thể kéo rách bàn tay khi dựng lên, còn đóng vào cổ tay qua khe Destot tức là qua cơ thịt rắn chắc, không bị rách nhưng như thế mũi đinh xuyên qua đập mạnh vào hệ thống thần kinh, đau đớn hết sức.

Tiếp đến, lý hình nắm chắc hai đầu khúc gỗ ngang, dựng lên sát cây cột (khúc gỗ đứng) cột dây kéo lên chạm tới đỉnh đóng bảng “Vua Do-thái”. Lúc ấy, thân thể Chúa chỉ được hai cái đinh giữ chặt !!! Lý hình nắm bàn chân trái Chúa, nâng lên cho chân co lại, đặt bàn chân sát với cột, đóng một đinh xuyên qua thớ thịt ở giữa xương thứ hai và thứ ba bàn chân, nhưng chưa thâu vào gỗ vội, rồi đặt chân trái lên bàn chân phải đóng cho đinh thâu qua như trên rồi đóng sâu vào cột. Thế là hoàn tất việc đóng đinh. Thân thể Chúa được ba chiếc đinh giữ chặt, nhưng đầu phải cúi xuống, không ngước lên được vì chiếc mão gai !!

Tình trạng “nghẹt thở” xảy ra. Các bắp thịt hai tay co rút cứng lại, nổi lên rõ ràng. Bắp thịt hai vai, ở các đầu xương căng và lồi ra. Các ngón tay co quắp lại. Bắp thịt đùi chân cũng co lại nổi lên lạ thường, ngón chân co cụp xuống. Các bắp thịt bụng cũng thế, rồi tới các bắp thịt cổ và các bắp thịt hô hấp. Hơi thở ngắn dần. Xương đón gánh như lồi lên cao. Hai sườn cũng nhô cao, còn bụng thì thọp xuống sâu. Lúc thở, không khí vào được, nhưng không thể thở (đẩy) không khí ra. Mặt mày xanh nhợt, chuyển qua đỏ, qua tím điều và xanh. Trán ướt đẫm mồ hôi, mắt hõm vào. Bị nghẹt thở !!!

Để tránh nghẹt thở, chân Chúa phải tì vào đinh đóng, gắng rướn mình lên làm nhẹ sức căng của đôi tay để thở ra. Được chút xíu, đầu gối lại co lại, tình trạng nghẹt thở trở lại. Khi muốn nói, Chúa cũng phải cố gắng rướn chân lên như thế… Đau đớn vô cùng !!! Suốt ba giờ đau khổ, hấp hối, rồi tắt thở (lúc 3 giờ chiều). Tắt thở rồi, Chúa còn bị “người lính cầm đòng” (longinô) đâm thủng cạnh sườn Chúa xuyên tới tim. Tấm khăn liệm thành Turin cho biết vết đòng xuyên qua cạnh sườn bên phải, và vì thế nước và máu mới chảy ra (Khoa giải phẫu cho biết sau khi người ta chết máu tụ trong tâm nhĩ hữu, còn tâm nhĩ tả và các tâm thất trống không. Chết rồi, máu và nước chảy ra như thế, nếu còn sống thì phổi đã co lại giữ máu không chảy trào ra).

SỐNG và CHẾT là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Trong con người ta có khả năng sinh tồn (instintivital) khả năng bảo vệ mạng sống. Bạch huyết cầu là đoàn quân chống vi trùng xâm lăng. Tính miễn dịch tự nhiên hay nhân tạo (nhờ thuốc chủng) giúp tôi an toàn, không mắc bệnh tật. Trời nắng mồ hôi thoát ra, trời lạnh, da săn lại để giữ thân nhiệt 37 độ. Cơ thể tự nhiên có khả năng bảo vệ mạng sống, tâm lý con người cũng thế : ai cũng muốn sống, không muốn chết, ai cũng lẫn tránh cái chết.

Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ… Phúc âm kể truyện “ông phú hộ” thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình thật bảo đảm, tha hồ sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông ta thật là hạng khờ dại vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm mạng sống ông không, ông còn nắm giữ của cải không ? (Luca 12, 16-21).

Ông phú hộ bị vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có hơn ba trăm ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là “hạng khờ dại”, vì lúc chết, tay buông xuôi, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả. Nếu nghèo là không có hoặc có rồi mà mất đi (không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, v.v…) thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khỏe mạnh chưa cảm thấy rõ điều nầy, nhưng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của Y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời nầy.

Tự vệ như thế nào đây ? – Với bản năng sinh tồn, với trí tuệ tìm hiểu, chế ngự, điều khiển thiên nhiên, con người tự cho mình có tất cả, không muốn lệ thuộc vào Đấng Sáng Tạo. Ađam-Evà đã nghĩ như thế nên cắt đứt lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng tạo ra ông bà, muôn loài, muôn vật. Và ông bà đã thấy mình mất tất cả khi bỏ Chúa (thấy mình trần truồng). Số đông con cháu ông bà vẫn bắt chước như thế, bám vào thụ tạo kém hơn mình. Cái chết có còn giúp ta hiểu rõ giá trị của mình và của vũ trụ không ?

Chúng ta là gì ? – Không phải tự chúng ta làm ra thân xác linh hồn chúng ta. Trước khi chào đời, rõ ràng tôi là con số không hoàn toàn ! Thế mà tôi hiện hữu ở đời này, hình như thâu tóm cả vũ trụ trong mình (con người là tiểu vũ trụ). Dầu tôi do cha mẹ sinh ra, dầu loài người xuất hiện là do quá trình tiến hóa như giả thuyết tiến hóa trình bày, cứ suy nghĩ từ bước khởi đầu có vũ trụ, chúng ta thấy chúng ta vẫn hoàn toàn là một quà tặng, hoàn toàn lãnh nhận, hoàn toàn là thụ tạo nghĩa là nhận lấy nơi Thiên Chúa Sáng Tạo. Như vậy, mọi sự trong con người ta, từ hơi thở đến sức sống, đến tự do, đến tình yêu đều là hồng ân Thiên Chúa ban cho. Ngài ban cho ta và ta có thực sự. Con người của ta là của ta thực sự đến nỗi không gì thay thế cho ta được : sức khỏe của ta không ai thay thế được, không ai đi lễ Chúa nhật thay cho ta khỏi đi, phần rỗi của ta không ai thay thế được v.v… Chúa ban cho ta có tự do để ta tạo nên ta, nhưng ta phải biết mình hoàn toàn thuộc Chúa.

Ta có tự do nhưng cũng phải biết ta phải lệ thuộc vào ai. Trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu muốn giữ lại mạng sống của Ngài, nhưng Ngài biết rõ Thánh Ý Chúa Cha nên Ngài đã để mình lệ thuộc Chúa Cha, hoàn toàn chấp nhận Thánh Ý Chúa Cha, và Ngài đã chết nhục trên thập giá. Ngài đã thực hiện đúng Ngôi Vị Con. Cha là Đấng Sinh Thành, Con là Người Lãnh Nhận. Ngài chấp nhận cái chết, tức là chấp nhận sự khốn cùng, sự nghèo khó. Trần truồng trước mặt mọi người, và trước mặt Đức Chúa Cha, Ngài còn kêu lớn tiếng : “Lạy Chúa, lạy Cha, sao Cha bỏ con” (Mathêu 27,46) để mô tả Ngài không có gì hết cả, chỉ có Chúa Cha thôi, chỉ lãnh nhận mọi sự nơi Chúa Cha, vì thế Ngài nói tiếp : “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Luca 23,46).

Qua cái chết, Chúa Giêsu cắt đứt tất cả mọi thứ ràng buộc, mọi thứ Ngài tựa vào để sinh sống, không chút bịn rịn một thứ gì nên Ngài hoàn toàn vâng theo Thánh ý Chúa Cha. Vâng theo Thánh ý Chúa Cha cách tuyệt đối, Ngài đã lãnh nhận hoàn toàn Chúa Cha, nên Ngài trở nên giàu có vô cùng. Chỉ có Ngài mới biết từ bỏ hoàn toàn, và lãnh nhận hoàn toàn nên Ngài trở thành Đấng giàu có vô cùng (ngự bên hữu Chúa Cha) ban phát ơn cứu độ cho nhân loại.

Suy nghĩ về cái chết của Chúa Giêsu, cái chết từ bỏ hoàn toàn để vâng phục trọn vẹn và lãnh nhận tất cả, ta thấy rõ đời sống của ta – ở bậc tu trì hay giáo dân – là từ bỏ, là hy sinh, là để Thánh ý Chúa thành ước vọng của mình, hành động của mình (Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trởi vậy). Trở ngại lớn nhất là kiêu ngạo, cho mình có, cho mình đầy đủ, hoặc chỉ dựa vào thụ tạo khác để tự mãn về chính mình (tự mãn về những thành công ở đời) mà không chịu lệ thuộc Thiên Chúa.

Nếu mỗi người trở nên chính mình theo từng giây phút thì lúc chết là giây phút định đoạt cả cuộc đời, vì nó là “trận chiến cuối cùng” định đoạt hết mọi trận chiến trước. Một người quá khứ đạo đức, nhưng bây giờ tội lỗi, và chết trong tội lỗi thì người đó là kẻ tội lỗi; trái lại, một người có quá khứ xấu nhưng bây giờ tốt, phải xem họ là người tốt, và nếu họ chết thì họ là kẻ tốt đời đời. Đúng như triết gia Kierkegaar nói : Ta định đoạt đời sống vĩnh cửu của ta trong thời gian hiện tại (nous décidons dans le temps de notre éternité).

Cả cuộc đời Chúa Giêsu làm theo Ý Chúa Cha, nhưng trong giây phút cuối cùng trong vườn Cây Dầu, nếu Ngài “không uống chén đắng” theo ý Chúa Cha thì chẳng có gì để nói về Ngài nữa ! Trong trận chiến cuối cùng, Ngài đã thắng mình hoàn toàn để trọn đời thi hành Ý Chúa Cha, và Ngài trở nên “Đấng vâng lời Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập giá” vì thế “Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài đến cực điểm” (Philip 2, 8-9), ngự bên hữu Chúa Cha (nghĩa là nhân tính Ngài lãnh nhận Thiên Chúa Cha trọn vẹn).