DÂN SỐ VÀ SỰ SỐNG CON NGƯỜI

Nội dung

  • Dẫn nhập
  • 1. Dân số và những hệ lụy
  • 1.1. Dân số tăng
  • 1.2. Dân số giảm
  • 1.3. Chính sách dân số
  • 1.4. Những nguy cơ của chính sách dân số khắc nghiệt
  • 2. Sự sống con người
  • 2.1. Thiên Chúa là chủ sự sống
  • 2.2. Con người là cộng tác viên của sự sống
  • 2.3. Quà tặng sự sống
  • 2.4. Khởi đầu sự sống
  • 3. Những nguy cơ ảnh hưởng đến sự sống
  • 3.1. Cơ chế
  • 3.2. Ý thức
  • 3.3. Khoa học kỹ thuật
  • 4. Giáo Hội với vấn đề dân số và sự sống con người
  • 4.1. Cổ võ phát triển
  • 4.2. Kêu gọi xây dựng nền văn minh tình thương
  • 4.3. Bênh vực sự sống
  • 4.4. Lên án những bất công
  • Kết luận
  • Thư mục

Dẫn nhập

Con người ngày nay đang đối diện với nhiều vấn đề nan giải, một trong những vấn đề đó là dân số. Vấn đề tăng giảm dân số của thế giới đang đặt con người trước những lo lắng. Họ đang cố gắng tìm những biện pháp mạnh để hạn chế sinh sản ngõ hầu giúp nhân loại phát triển cũng như có đủ những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống sung túc hơn. Những thay đổi về cơ cấu dân số tự nhiện trong những thập niên vừa qua cho chúng ta thấy rõ những mặt yếu kém do những chính sách kế hoạch hóa gia đình không phù hợp với luân lý và trật tự tự nhiên. Điều này sẽ ảnh hưởng lên nhiều lãnh vực của cuộc sống con người. Rồi đây, con người sẽ khó lường hết những tác động xấu do những chính sách dân số không phù hợp đó gây ra. Thực tế cho chúng ta biết dân số không phải là nguyên nhân chính gây ra đói nghèo hay thiếu thốn lương thực cho nhân loại mà là những vấn đề khác.

Con người là một thụ tạo thượng đẳng được Thiên Chúa dựng nên vì chính mình. Tuy nhiên, do những quan niệm lệch lạc, cái hình ảnh Thiên Chúa đang bị tổn thương nghiêm trọng. Trong thời hiện đại, với những tiến bộ của khoa học, đời sống con người đã được cải thiện về nhiều mặt; nhưng bên cạnh đó, con người cũng phải chịu những tác hại do chính ý thức và lòng ích kỷ của con người gây nên. Con người đang cố gắng đi tìm những phương thức thay đổi cuộc sống, nhưng lắm lúc con người lại sử dụng những phương thức đó để chống lại sự sống và phẩm giá của mình. Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt phân tích đề tài “Dân số và sự sống con người” qua các mục: Dân số và những hệ lụy (1), sự sống con người (2), những nguy cơ ảnh hưởng đến sự sống con người (3), và Giáo Hội Công Giáo với vấn đề dân số và sự sống của con người (4). Các mục này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn rõ ràng về dân số và những nguy cơ của việc áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình không phù hợp làm ảnh hưởng lên nhân vị sự sống; đồng thời, chúng ta cũng nắm bắt được một số quan điểm của Giáo hội về vấn đề dân số và phẩm giá của sự sống nơi con người.

1. Dân số và những hệ lụy

1.1. Dân số tăng

Dân số thế giới đã và đang không ngừng gia tăng. Việc gia tăng dân số đặt ra cho các tổ chức, các nhà hữu trách và các quốc gia nhiều vấn đề xã hội nan giải, không dễ gì giải quyết một cách nhanh chóng và ổn thỏa trong một sớm một chiều. Người ta cho rằng yếu tố dân số ảnh hưởng rất lớn đến sự hưng thịnh và tồn vong của một nền kinh tế. Điều này thì ai ai cũng có thể nhận ra. Dân số gia tăng đã từng là nỗi ám ảnh của rất nhiều quốc gia trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX. Từ thập niên năm mươi cho đến thập niên chín mươi của thế kỷ XX, người ta lo tìm mọi cách để hạn chế sinh sản, hầu giúp con người thoát khỏi cái cảnh nghèo nàn và lạc hậu. Tỷ suất sinh sản của một đất nước có ảnh hưởng đến mức sống của người dân nước đó. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thì với đà tăng như hiện nay thì đến năm 2050, dân số thế giới sẽ đạt tới 9,1 tỷ người, tăng lên 40% so với số dân hiện tại là 6,5 tỷ người. Dân số tại các nước đang phát triển sẽ tiếp tục bùng nổ, còn tại các nước đã phát triển sẽ giữ mức 1,2 tỷ người.[2] Với tốc độ gia tăng như hiện nay thì đến năm 2030, Ấn Độ sẽ vượt lên trên Trung Quốc để trở thành nước có số dân đông nhất thế giới. Trong vòng năm mươi năm qua, thế giới đã nỗ lực để kìm hãm sự gia tăng dân số, nhưng dân số vẫn không ngừng tăng lên.[3] Việc gia tăng dân số sẽ kéo theo một số hậu quả có ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người.

1.1.1. Tình trạng đói nghèo

Một thực tế mà ai cũng thấy được là nước nào có tỷ lệ tăng dân số nhanh thì nước đó không tránh khỏi cái đói nghèo. Cái đói nghèo hình như là tỷ lệ thuận với việc tăng dân số, nước nào càng nghèo thì dân số tăng càng nhanh và mạnh; và nước nào càng có tỷ lệ tăng dân số cao thì lại càng thêm đói nghèo. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, đến năm 2050, dân số của năm mươi nước nghèo nhất thế giới sẽ tăng lên gấp đôi, trong đó Afganistan, Chad và Đông Timor sẽ tăng lên gấp ba.[4] Cho đến đầu thế kỷ XXI, Châu Phi vẫn là châu lục có tỷ lệ tăng dân số cao nhất và cũng là nơi đói nghèo nhất, tuổi thọ của người dân giảm xuống rất nhanh từ 62 tuổi vào năm 1995 xuống thấp còn 48 tuổi trong giai đoạn 2000-2005;[5] là châu lục có số người bị nhiễm HIV/AIDS cao nhất thế giới với đà lây lan rất nhanh.[6]

Theo báo cáo của FAO, tình trạng nghèo đói trên thế giới đang có khuynh hướng gia tăng. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 842 triệu người bị đói, trong đó chủ yếu là tại các nước đang phát triển và nhất là ở Trung và Tây Phi.[7] Cũng theo tổ chức này, tình trạng thiếu lương thực sẽ ngày càng trầm trọng hơn. [8]

1.1.2. Tình trạng bất công

Cái đói nghèo thường kéo theo nhiều vấn đề xã hội khác, nhất là vấn đề bất công. Đúng là “bần cùng” thường “sinh đạo tặc”. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì chúng ta thấy được rất rõ rằng nơi nào đói nghèo thì nơi đó thường có nhiều bất công, nước nào càng nghèo thì nước đó càng có nhiều tham nhũng, bạo lực và trộm cướp.[9] Những nước nghèo thì chính quyền không đáp ứng những nhu cầu bức thiết và công cộng của người dân. Các quyền căn bản của con người khó được đảm bảo: học hành, đi lại, tiền công, y tế… do đó sẽ nảy sinh nhiều vấn đề bất ổn trong xã hội.

1.1.3. Mù chữ

Hậu quả của đói nghèo thường là nạn mù chữ. Đã nghèo thì lấy tiền đâu ra mà học hành. Và không biết chữ thì khó mà thoát khỏi cái cảnh đói nghèo. Do đó, cái nghèo với nạn mù chữ sẽ làm cho đời sống con người ngày càng bi thảm, không có lối thoát. Mặc dù trong những năm gần đây, người ta đã cố gắng hết sức để phổ cập giáo dục, nhưng con số người mù chữ đang ở mức rất cao với 600 triệu phụ nữ và 320 triệu đàn ông. [10] Những người không biết chữ nghĩa và nghèo đói thường là những người thiệt thòi nhất, họ không được tiếp xúc với những thành quả của khoa học kỹ thuật, không được hưởng dùng những tiện nghi của thời đại, không được tiếp xúc với tri thức và văn minh của nhân loại; từ đó, họ bị gạt ra bên lề xã hội.

1.2. Dân số giảm

Châu Á và Châu Phi có tỷ lệ tăng dân số nhanh, thì ngược lại dân số các nước Châu Âu lại giảm xuống đáng báo động. Cái điều mà các nước Tây Âu lo lắng không phải là sự gia tăng dân số, sự nghèo đói và nạn mù chữ, nhưng là vấn đề giảm dân số. Việc tăng dân số là nguyên nhân của nhiều vấn đề, ngược lại, việc giảm dân số cũng là nguyên nhân của nhiều vấn đề xã hội khác. Với cái đà giảm dân số như hiện nay tại các nước Châu Âu, thì không biết 20, 30 năm nữa lục địa này sẽ như thế nào. Đây đang là bài toán nan giải đối với các nước Châu Âu và các nước phát triển khác.

Việc dân số giảm chắc chắn có liên quan đến tình trạng lão hóa, lao động và các vấn đề an sinh khác: "Những thay đổi về mức tăng trưởng dân số đã đặt ra nhiều câu hỏi trong giới các chuyên gia. Ví dụ, làm cách nào các nước công nghiệp hóa có thể đáp ứng nhu cầu của các thành phần dân số đang già nua tại các nước này, đặc biệt trong điều kiện số người trong độ tuổi làm việc lại giảm bớt?”[11] Ở đời, thường vẫn có những nghịch lý mà chúng ta khó lý giải được.

“Điều ngạc nhiên là các nước ít phát triển hơn cũng đi theo xu hướng này. Với tỷ lệ sinh là 1,3 đứa trẻ mỗi phụ nữ, Nhật Bản sẽ mất 1/4 trong số 127 triệu dân trong 4 thập kỷ tới. Và khi tỷ lệ sinh ở Trung Quốc đã giảm từ 5,8 năm 1970 xuống còn 1,8 hiện nay, một thế hệ dân số Trung Quốc sẽ già đi. Dự kiến đến năm 2015, dân số Trung Quốc sẽ già hơn nước Mỹ (tính từ tuổi 44). Vào năm 2019 hoặc sau đó, dân số Trung Quốc sẽ lên đến đỉnh là 1,5 tỷ và sau đó sẽ giảm mạnh. Đến giữa thế kỷ này, Trung Quốc có thể mất 20-30% dân số mỗi thế hệ.”[12]

Điều đáng nói là càng nghèo thì người ta đẻ càng nhiều, nhưng ngược lại, càng giàu thì người ta lại ngại sinh đẻ và có đẻ nữa thì cũng rất ít.[13]

1.2.1. Tuổi già

Trong vài thập niên gần đây, ở các nước Châu Âu, người ta chỉ thấy có nhiều người tuổi cao bóng cả và nhiều người về hưu. Những người già này về hưu thì trách nhiệm xã hội cũng không phải là nhỏ: phải lo nơi ăn chốn ở, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác cho họ. Và có lẽ cái đáng sợ nhất đối với thế hệ tuổi già ở các nước Châu Âu là thiếu những người trẻ nối nghiệp, thiếu con cháu chăm sóc.[14] Từ chỗ đó, rất nhiều người già cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Cái cô đơn đó đã làm cho đất nước già nua và trì trệ. Chán nản, có người tìm đến với rượu bia hay quậy phá, thậm chí đi lang thang ngoài đường ngoài phố. Hậu quả là mấy mùa hè gần đây, như ở Pháp có rất nhiều người già chết cô đơn trong cảnh bị bỏ quên ngoài đường phố. Tình trạng lão hóa dân số không chỉ xảy ra ở Châu Âu, rồi đây, Châu Á cũng sẽ phải đối diện với thực tế mà Châu Âu đang phải đối phó.[16]

Theo tiến sĩ Lucy Boyd, Viện Nghiên cứu Ung thư của Anh, việc dân số ngày càng già nua sẽ làm nảy sinh ra nhiều căn bệnh như ung thư phổi, vú, dạ dày, gan, ruột, tiền liệt tuyến, cổ tử cung và thực quản. Trong vòng 30 năm gần đây tỷ lệ người mắc ung thư vú và phổi đã tăng gấp đôi. Sự thay đổi dân số thế giới là nguyên nhân chính khiến nhiều người mắc những căn bệnh vừa nêu.[17]

1.2.2. Thiếu lao động

Ở những đất nước có tỷ lệ sinh đẻ thấp thì người già ngày càng nhiều, trong khi đó người trẻ lại thiếu vắng. Khi những người làm về hưu mà không có người trẻ để nối nghiệp thì công ty xí nghiệp dần dần phải đóng cửa vì thiếu nhân công, hoặc là phải thuê lao động đắt tiền. Các nước Châu Âu và các nước công nghiệp phát triển đang đối diện với một thực tế mà họ không muốn, đó là nạn thiếu nhân công lao động.[18] Việc thiếu lao động trong nước đang làm cho đất nước chậm phát. Hầu như không có quốc gia nào hài lòng về một nền kinh tế chậm phát triển. Vì thế, các nước Châu Âu phải nhập khẩu lao động từ nước ngoài để duy trì phát triển kinh tế ít ra là ở mức ổn định.[19] Để giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến việc giảm dân số, các nước Châu Âu đã ý thức được việc phải khẩn trương thực hiện chính sách dân số cho phù hợp.[20]

“Nền dân chủ xã hội sẽ không bền vững được nếu không có những người lao động là nguồn kinh phí cho nó. Lý do sâu xa của cái nhìn bi quan về Âu Châu là ở đây. Sinh suất giảm sút có nghĩa là tỉ suất người lao động trên người hưu trí (người trên 60 tuổi) sẽ còn tệ hơn con số 5:1 hiện nay để tụt xuống dưới 2:1 vào năm 2050. Nói như Mark Leonard của Open Society Initiative for Europe: ‘Viễn tượng kinh sợ nhất là một nền kinh tế Châu Âu ngày càng rỗng tuếch với một con số khổng lồ người hưu trí sống bám vào một lực lượng lao động ngày càng ít đi’.”[21]

Lực lượng lao động trên thế giới được phân bổ không đồng đều: nơi thì thừa nơi lại thiếu. Các nước Á Phi thì thừa, trong khi đó, các nước phát triển như Mỹ và Tây Âu lại phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động, lao động già nua.[22]

Khi lực lượng lao động thiếu thì người ta buộc phải tăng tuổi nghỉ hưu lên, đó là điều đối nghịch với sự tiến bộ của thời đại. Trả lời phỏng vấn, giáo sư Gary Becker, người đã từng được giải Nobel, nói: “Một điều không thể chối cãi là sự giảm sút về dân số là một gánh nặng đối với hệ thống xã hội. Vì thế người ta buộc phải tăng tuổi nghỉ hưu. Nhật bản đã thực hiện điều đó, ở Nhật tuổi nghỉ hưu bình quân ở đàn ông là 68.”[23]

1.2.3. Nguy cơ tuyệt chủng

Mối bận tâm lớn nhất đối với người dân Châu Âu là vấn đề dân số. Người ta đang lo sợ rằng những người da trắng có nguy cơ sẽ trở thành thiểu số tại lục địa này khi ngày càng có nhiều người da màu, nhất là từ Châu Phi nhập cư vào vùng đất khan khiếm lực lượng lao động. Những người nhập cư là cơ hội cho các nước Tây Âu giữ vững tốc độ phát triển kinh tế, nhưng lại làm cho người da trắng lo sợ. Số người da trắng đang dần dần già nua, ít sinh con và thậm chí không muốn sinh con nữa thì nguy cơ giống nòi da trắng sẽ trở thành là nhóm thiểu số tại lục địa này. Giáo sư Gary Becker đã phát biểu khi trả lời phỏng vấn rằng: “Nếu tỷ lệ sinh đẻ giữ nguyên như hiện nay thì một dân tộc như dân tộc Italia sau năm đến sáu thế hệ sẽ bị tiêu biến.”[24] Nỗi lo tuyệt chủng đang thôi thúc các chính phủ tại các nước giàu có này khuyến khích dân chúng sinh con, ai sinh nhiều con sẽ được chính phủ đài thọ mọi mặt. Dù chính phủ khuyến khích và dành nhiều ưu đãi cho những người sinh con và có nhiều con nhưng người ta vẫn không muốn có con. Trong khi đó, ở các nước Châu Âu, người dân có dòng máu từ Á và Phi đang sinh con ngày càng nhiều. Những năm gần đây, tại Pháp và một số nước Tây Âu đang có khuynh hướng trục xuất người nhập cư, một mặt là sợ người da màu rồi đây sẽ đứng lên thống trị người da trắng; mặt khác là sợ những người da màu rồi đây sẽ trở nên đông đúc và nắm trong tay mọi nguồn lực kinh tế.[25]

(còn tiếp...)

Chú thích:
[1] Kinh Luân, Năm 2050: Dân số thế giới sẽ tăng 40%, truy cập ngày 22/11/2007; http://quanlymt.blogspot.com/2005/03/nm-2050-dn-s-th-gii-s-tng-40.html.
[2] Ibidem.
[3] Ibidem.
[4] Ibidem.
[5] Ibidem.
[6] Ngày dân số thế giới, truy cập ngày 20/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-07/2006-07-11-voa33.cfm.
[7] H. Diệu, FAO: Nạn nghèo đói vẫn đang trầm trọng, truy cập ngày 22/11/2007; http://vietnamnet.vn/kinhte/thegioi/2003/11/38453/.
[8] Ibidem.
[9] Xc. Ngân hàng Thế giới, Bước vào Thế kỷ 21, Báo cáo về tình hình phát triển 1999/2000 (Hà Nội: Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 1999); xin coi thêm: Liên Châu, Dân số thế giới đã lên đến 6,5 tỷ người, truy cập ngày 23/11/2007; http://thanhnien.com.vn.
[10] Liên Châu, Dân số thế giới đã lên đến 6,5 tỷ người, truy cập ngày 23/11/2007; http://thanhnien.com.vn.

[11] Các vấn đề liên quan đến người nhập cư và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.
[12] La Giang, Sinh con ở Châu Âu, những ưu đãi, truy cập ngày 21/11/2007; http://nhipsong.timnhanh.com/tinh_yeu/gia_dinh/20071010/35A59188/.
[13] Ibidem.
[14] Các vấn đề liên quan đến người nhập cư và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.
[15] Ibidem.
[16] T. Huyền, Châu Á với quả bom nổ chậm – Tuổi già, truy cập ngày 12/11/2207; http://mobi.vietbao.vn/The-gioi/Chau-A-voi-qua-bom-no-cham-tuoi-gia/10804394/168/
[17] Mỹ Linh, Dân số già, bệnh ung thư gia tăng, truy cập ngày 18/11/2007; http://www.vnexpress.net/Vietnam/Suc-khoe/2005/04/3B9DDB8D/.
[18] Các vấn đề liên quan đến người nhập cư và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.
[19] Global Issues, 5/2004, Tình trạng di cư gia tăng – một xu hướng tất yếu trong tiến trình toàn cầu hóa, truy cập ngày 24/11/2007; http://vst.vista.gov.vn/home/database/an_pham_dien_tu/MagazineName.2004-04-22.2018/2004/2004_00038/MItem.2004-10-06.2002/MArticle.2004-10-06.2010/marticle_view.
[20] Nguyễn Thu Phương, Công việc và trách nhiệm trong chính sách gia đình ở Châu Âu, truy cập ngày 02/11/2007; http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=6&news_ID=51134382.
[21] Andrew Moravcsik, Châu Âu tuổi 50: Chúc mừng sinh nhật, truy cập ngày 20/11/2007; http://www.diendan.org/the-gioi/sinh-nhat-chau-au/.
[22] Nhật Vy, Hình dung về việc làm trong tương lai, truy cập ngày 16/11/2007; http://vietnamnet.vn/kinhte/vieclam/2006/01/537466/.
[23] Lợi thế dân số, truy cập ngày 11/11/2007; http://www.tiasang.com.vn/news?id=1709.
[24] Ibidem.
[25] Các vấn đề liên quan đến người nhập cư và dân số gia tăng, truy cập ngày 14/11/2007; http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2006-04/2006-04-21-voa27.cfm.