Xuống núi
(Mc 9, 2-10)Bài chia sẻ ncủa Đức cha Khảm nhân kỷ niệm 10 năm giám mục của Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, giám mục giáo phận Mỹ Tho
GM Bùi Văn Đọc |
Trong khung cảnh của những chuyến đi, khi nhìn lại 10 năm giám mục của Đức Cha Phaolô, tôi cũng hình dung cuộc đời giám mục của ngài như một cuộc di chuyển.
Di chuyển từ núi đồi Đà Lạt đến đồng bằng Cửu Long. Là chủng sinh của Sài Gòn nhưng khi làm linh mục, lại là linh mục của giáo phận Đà Lạt vì Đà Lạt đã được tách ra thành một giáo phận mới từ năm 1960. Và đời linh mục của ngài gắn với giáo phận Đà Lạt, với vẻ đẹp thơ mộng, với không khí vùng núi, với văn hoá cao nguyên. Rồi đến năm 1999, Toà Thánh quyết định bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Mỹ Tho. Thế là ngài phải thực hiện một cuộc di chuyển từ núi đồi Đà Lạt xuống đồng bằng Cửu Long, từ văn hoá cao nguyên đến văn hoá sông nước, từ không khí miền núi đến khí hậu đồng bằng. Một cuộc di chuyển không dễ dàng, đòi hỏi khả năng thích nghi và sáng tạo để có thể chu toàn sứ vụ.
Hàm trong cuộc di chuyển về mặt không gian là một cuộc di chuyển khác, khó thấy hơn nhưng lại sâu sắc hơn, đó là di chuyển từ núi đồi thần học đến đồng bằng mục vụ. Hầu như gần trọn cuộc đời linh mục của Đức cha Phaolô gắn liền với công việc suy tư, nghiên cứu và giảng dạy triết học, thần học. Ngài làm công việc đó không chỉ như một nhiệm vụ được trao phó mà thực sự như một đam mê. Không lạ gì trước khi được gọi làm giám mục, ngài đã được chọn làm chuyên viên thần học của HĐGMVN, và khi làm giám mục, đã được HĐGM tin tưởng trao cho nhiệm vụ Chủ tịch Uỷ ban Giáo lý Đức tin. Vì thấy ngài say mê nghiên cứu thần học như thế nên khi nghe tin Toà Thánh bổ nhiệm ngài làm giám mục, đã có người thắc mắc: không biết ngài làm mục vụ có tốt không vì suốt ngày toàn suy nghĩ những chuyện trên trời, còn mục vụ thì lại quan tâm chuyện dưới đất, kể cả chuyện kiếm tiền cho các dự án của giáo phận nữa! Thực tế cho thấy nhà thần học đã làm mục vụ rất tốt. Không chỉ là xây dựng thêm nhiều cơ sở cho giáo phận, cũng không chỉ là lên kế hoạch cho việc đào tạo nhân sự, mà điều chính yếu là lấy suy tư thần học để soi sáng, dẫn đường cho những hoạt động mục vụ của mình.
Xin lấy một ví dụ cụ thể. Trong bài phát biểu tại Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới năm 2005, Đức cha Phaolô đã chia sẻ: “Từ lúc bắt đầu học thần học, tôi luôn nghĩ rằng Thiên Chúa của chúng ta là Đấng Thiên Chúa cởi mở. Sự nhiệm sinh vĩnh hằng chính là sự cởi mở vĩnh hằng của Thiên Chúa… Vậy nếu Thiên Chúa là Đấng Cởi Mở, thì con người, hình ảnh của Thiên Chúa, tự bản chất là cởi mở.” Những khẳng định thần học chắc nịch! Rồi từ đó, ngài nói thêm: “Giống như Thiên Chúa, giám mục phải là con người cởi mở. Giám mục phải có trái tim cởi mở giống trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu, từ đó có nước và máu chảy ra. Giám mục phải có đầu óc cởi mở, lắng nghe mọi tiếng nói, nhất là tiếng nói của những người nghèo khổ và những người không cùng quan điểm... Giống như Chúa Giêsu, giám mục là thầy dạy đối thoại. Muốn dạy cho các linh mục đối thoại, giám mục phải biết đối thoại. Muốn biết đối thoại, giám mục phải học đối thoại, học với mọi người, với những người nghèo, với những người trẻ, với các tôn giáo bạn, với các nền văn hoá.” Và ngài chia sẻ kinh nghiệm bản thân: “Tôi đã cố gắng học đối thoại với các linh mục trong giáo phận. Bài học này đòi hỏi nhiều thời giờ và sức lực, nhưng trên hết là sự khiêm tốn và kiềm chế. Tôi cũng đã học với các nữ tu nhiều điều bổ ích. Giáo dân dạy cho tôi bài học về sự đa dạng và phức tạp của đời sống con người.”
Thiết nghĩ những suy tư và tâm tình trên đã minh hoạ cụ thể điều muốn nói ở đây, tức là lấy suy tư thần học soi sáng, định hướng cho hoạt động mục vụ của mình. Hiểu như thế, mục vụ không chỉ là làm chuyện này hay chuyện kia, nhưng là thể hiện ra bên ngoài chiều sâu của suy tư đức tin tức là thần học (intellectus fidei) và có thế, hoạt động mục vụ mới mang lại kết quả bền lâu.
Như thế đã rõ, Đức cha Phaolô đã di chuyển từ núi đồi Đà Lạt đến đồng bằng Cửu Long, từ núi đồi thần học đến đồng bằng mục vụ. Câu hỏi đặt ra là đằng sau cuộc di chuyển cả trong không gian thể lý lẫn không gian tư tưởng ấy là gì? Nói cách khác, động lực nào thúc đẩy cuộc di chuyển đó? Người môn đệ Chúa Giêsu tìm kiếm câu trả lời bằng cách chiêm ngắm chính Chúa Giêsu, Thầy chí thánh.
Trong câu chuyện về việc Chúa Giêsu biến hình trên núi cao, thánh Marcô ghi nhận rằng khi chứng kiến vẻ đẹp uy nghi và sự thánh thiện chói ngời của Thầy, các môn đệ đã chỉ mong được ở lại mãi trên núi cao: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là tốt! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, một cho ông Êlia” (Mc 9,5). Thế nhưng Chúa Giêsu đã không ở lại trên đỉnh núi vinh quang mà lại dẫn các môn đệ xuống núi, và xuống núi cũng có nghĩa là bắt đầu hành trình bước vào cuộc khổ nạn đang đợi Người ở cuối đường.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc xuống núi liên lỉ. Những bước đi từ núi Tabor xuống chỉ là hình ảnh cụ thể của một cuộc xuống núi vĩ đại, kéo dài từ Nhập Thể đến Thăng Thiên. Mầu nhiệm nhập thể là gì nếu không phải là hành trình từ núi hạnh phúc của Thiên Chúa vĩnh hằng đến vực sâu khổ đau của con người (x. Phil 2,5-11). Mà phải có nhập thể thì mới có thăng thiên, phải có hành trình xuống núi của Chúa Giêsu thì nhân loại mới tìm thấy đường đi lên thế giới của Thiên Chúa. Ẩn sau hành trình xuống núi ấy chính là tình yêu, không chỉ là tình yêu của Chúa Giêsu mà là tình yêu của Ba Ngôi, tình yêu sáng tạo, tình yêu cứu độ, tình yêu thánh hoá. Thế nên khi chiêm ngắm thập giá Chúa Giêsu, thượng phụ Filaret đã có thể thốt lên, “Chúa Cha là Tình Yêu đóng đinh (crucifiant), Chúa Con là Tình Yêu chịu đóng đinh (crucifié), Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô địch của thập giá.” Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu không ngừng sáng tạo những nẻo đường hết sức bất ngờ, vượt ngoài mọi tính toán và tưởng tượng của con người. Tình yêu Thiên Chúa là tình yêu cứu độ, không chịu lùi bước trước tội lỗi của con người nhưng tìm mọi cách để cứu thoát, kể cả bằng sự hi sinh lớn lao nhất. Tình yêu Thiên Chúa còn là tình yêu thánh hoá, ước mong con người thuộc trọn về Ngài, cũng là đạt tới hạnh phúc viên mãn.
Tình yêu ấy chính là động lực cho hành trình xuống núi của Chúa Giêsu. Tình yêu ấy cũng phải là ánh sáng hướng dẫn và động lực thúc đẩy mọi chọn lựa và hành động của người môn đệ Chúa Giêsu. Và tôi dám tin rằng tình yêu ấy đã là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc sống của vị giám mục đã chọn khẩu hiệu “Chúa là niềm vui của con.” Trong nhiều năm, Đức cha Phaolô phụ trách giảng khoá về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và trong lớp học, khi ngài hỏi, “Thầy có hiểu không?” là anh nào cũng sợ cả! Vì trả lời đằng nào cũng chết! Bảo rằng chưa hiểu thì sẽ nghe thầy nói, “Giảng suốt 2 tiếng đồng hồ mà không hiểu à!” Còn nói là hiểu thì sẽ nghe thầy phán, “Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, ‘tui’ còn chưa hiểu thì làm sao thầy hiểu?” Nhưng cả lớp tràn ngập tiếng cười. Và lúc nào cũng thấy cha giáo cười rất tươi, lúc nào cũng “dzui” hết. Niềm vui tràn ngập. Niềm vui của Chúa chứ không phải niềm vui của thế gian. Niềm vui của Chúa là niềm vui của tình yêu. Niềm vui của Chúa là niềm vui cho đi chứ không phải niềm vui chiếm hữu. Niềm vui của Chúa là niềm vui phục vụ chứ không phải niềm vui thống trị. Hoặc nói theo cách diễn tả mà Đức cha Phaolô từng vận dụng, đó là niềm vui của trái tim bị đâm thâu, có nước và máu chảy ra!
Niềm vui ấy đang tràn ngập ở đây, hôm nay. Xin hợp lời với giáo phận Mỹ Tho trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả tốt đẹp Chúa đã ban cho giáo phận trong 10 năm qua. Và cùng với cộng đồng Dân Chúa giáo phận Mỹ Tho, xin cảm ơn Đức cha Phaolô đã đem niềm vui cho đi và phục vụ đến cho mọi người trong giáo phận. Cầu xin cho niềm vui ấy mãi dâng cao trong giáo phận Mỹ Tho, và chúng tôi được hưởng niềm vui ấy mỗi khi đến thăm giáo phận Mỹ Tho.
Ngày 20.5.2009