SAIGÒN - Đúng 14g30 chiều ngày 24 – 7 -2009, tọa đàm khoa học Biển Đông và Hải Đảo Việt Nam đã khai mạc tại trung tâm Phao-lô Nguyễn Văn Bình, 43 – Nguyễn Thông – P.7 – Q.3 – TP.HCM. Tuy diễn ra tại một phòng họp không rộng, nhưng số người tham dự khá đông, phòng họp chật ních, hai chiếc máy lạnh chạy hết công suất, nhưng sức nóng vẫn tăng lên đúng như không khí vốn có của vấn đề.

Đến phút chót, đã có ba sự vắng mặt đáng chú ý. Trước tiên là tiến sĩ Chu Hảo, Giám đốc NXB Tri Thức. Theo thông báo của Ban tổ chức, do tiến sĩ Chu Hảo mới từ Paris về Hà Nội trưa nay, nên không có mặt kịp thời. Đức Hồng Y J.B Phạm Minh Mẫn cũng không thể hiện diện vì có “mục vụ đột xuất”. Sự vắng mặt của nhà sử học Dương Trung Quốc không được đề cập, không thấy Ban tổ chức nhắc tới.

Mở đầu buổi Tọa đàm, Linh mục Nguyễn Thái Hợp, Dòng Đa Minh Việt Nam (hiện là Giáo sư – Tiến sĩ, đang hợp tác với ĐH KHXH – NV TP.HCM để thành lập khoa Tôn Giáo học) trình bày sơ qua về mục đích của buổi tọa đàm. Ngài nói rằng: "Buổi tọa đàm chỉ mong cung cấp thông tin cho thính giả để hiểu hơn về tình trạng Biển Đông và Hải đảo Việt Nam, đặc biệt là Trường Sa và Hoàng Sa, cũng như để chúng ta tin tưởng rằng, Việt Nam có cơ sở vững chắc về chủ quyền đối với hai quần đảo này".

Cử tọa chăm chú lắng nghe phần khai mạc. Trên 4 bức tường của phòng họp, treo hầu hết các bản đồ dự định sẽ được trưng bày tại Tòa Tổng giám mục TP.HCM trong ngày 25-7-2009. Tuy nhiên, đến giờ phút chót, địa điểm này đã không được lựa chọn như dự kiến, cùng với sự vắng mặt như là tất yếu của Đức Hồng Y J.B Phạm Minh Mẫn.

Mở đầu phiên thảo luận thứ nhất, Linh mục, Tiến sĩ Triết học Trần Minh Cẩm (tức linh mục Thiện Cẩm, Dòng Đa Minh Việt Nam), với cương vị là thành viên Mặt trận tổ quốc TP.HCM, là đại diện tôn giáo duy nhất tham gia cuộc thăm viếng quần đảo Trường Sa mới đây được TP.HCM tổ chức, đã đọc tham luận nói về chuyến viếng thăm này. Ngài cũng không quên nói về những khó khăn do việc Ngài tham gia tọa đàm lần này. Chẳng hạn như, Ngài đã nhận được nhiều cuộc điện thoại, thậm chí là giữa đêm 23-7, để hỏi xem Ngài sẽ nói gì vào buổi tọa đàm ngày mai.

Sau đó, nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc đã đọc tham luận, nêu lên những bằng cứ lịch sử cho thấy sự vô lý của Trung Quốc, Philippine, Malaysia trong vấn đề tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa và Hoàng Sa. Trước khi đọc tham luận, ông Phúc nói rằng: Ông không mong được thính giả hỏi, và cũng không sẵn lòng trả lời. Bởi như ông công nhận, trong giờ nghỉ giải lao, ai cũng biết vấn đề này là nhạy cảm, và ông cũng được cảnh báo rằng: đừng nói gì thêm ngoài nội dung tham luận.

Thạc sĩ Luật Hoàng Việt đã làm phòng họp nóng lên, hướng cả về màn hình, ngay phần mở đầu của tham luận về “lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông bằng những hình ảnh về việc tàu quân sự của Trung Quốc gây hấn với tàu thăm dò của Mỹ tại Biển Đông, và hình ảnh tàu Ngư Chính của Trung Quốc chặn bắt tàu đánh cá của Việt Nam. Thạc sĩ Việt đã chỉ ra những vô lý của “lưỡi bò” cũng như sự biến đổi của nó theo thời gian, và sự “linh hoạt” của Trung Quốc trong vấn đề này.

Kết thúc phiên thảo luận thứ nhất, một số câu hỏi đã được nêu ra… và dù đã khẳng định không mong được hỏi, và không sẵn lòng trả lời, nhưng nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc vẫn phải đăng đàn trả lời những câu hỏi của thính giả bên dưới. Nhưng, người gây ấn tượng nhất trong phần giao lưu với thính giả, có lẽ là Tiến sĩ Nguyễn Nhã.

Rất nhiều lần, tiến sĩ Nguyễn Nhã đã phải uất nghẹn, không nói thành lời, và những giọt nước mắt đã lăn dài trên má người đã dành cả đời nghiên cứu, đấu tranh cho Hoàng Sa, Trường Sa. Những luận điểm của tiến sĩ đưa ra, đều nhận được những tràng pháo tay nồng nhiệt của thính giả, trong đó, đáng chú ý, tiến sĩ đã nói: nếu chúng ta không đồng thuận, thì Tân Cương sẽ không phải là hình ảnh xa vời đối với dân tộc Việt Nam.

Kết thúc phần trả lời của Tiến sĩ Nguyễn Nhã, diễn giả và thính giả nghỉ giải lao. Lúc này, tôi mới quan sát xung quanh và nhận thấy sự hiện diện của nhiều bạn trẻ, trong đó có cả các thành viên của diễn đàn Hoàng Sa.org. Ngoài ra, có rất nhiều người cầm máy chụp hình, quay phim, mà tôi đoán là phóng viên của các báo lớn tại TP.HCM. Hỏi thăm vài phóng viên thì được biết, các báo đã nhận được chỉ thị không được đưa tin về sự kiện này, nên hầu hết các phóng viên đến tọa đàm theo tư cách cá nhân, và ghi nhận sự kiện, chứ không đi theo sự phân công của tòa soạn.

Sau khi giải lao, phiên thảo luận thứ 2 bắt đầu với tham luận của nhà nghiên cứu Nguyễn Quyết Thắng, rồi tiến sĩ Nguyễn Nhã … Những tham luận này đã từng được đưa lên mạng Internet nên tôi không tường thuật ở đây. Nhưng phải nói thật rằng: Chưa bao giờ tôi cảm thấy xúc động như hôm nay, khi chứng kiến những tấm lòng đối với Hoàng Sa, Trường Sa của người con đất Việt. Và tôi tin rằng, những anh em Công an, dù ở trong phòng họp, hay phải vì nhiệm vụ mà đứng bên ngoài lề đường Nguyễn Thông, dù ít dù nhiều, cũng được lay động bởi những gì đất mẹ đang phải trải qua.

Trong buổi tọa đàm, người ta còn nhận thấy có sự hiện diện của LM Nguyễn Thể Hiện (x), Dòng Chúa Cứu Thế, người được công luận biết đến nhiều trong vụ Thái Hà.

Giáo sư Trần Khuê, hiện là Tổng thư ký Đảng DC XXI cũng tới dự. Trong giờ giải lao, GS có gặp gỡ, trao đổi với LM Thiện Cẩm, PGS - TS Hoàng Dũng.

GS cũng gặp gỡ và trao đổi với TS Nguyễn Nhã, Nhà nghiên cứu Nguyễn Quyết Thắng... những người dành cả đời nghiên cứu tìm ra những chứng cứ lịch sử và khoa học, để đấu tranh giành lại Hoàng Sa, Trường Sa.

Một số vị thức giả trong buổi tọa đàm, họ là những người luôn quan tâm đến vận nước, đến tương lai của dân tộc. Trong giờ giải lao, tôi nhận thấy nhiều người trẻ đến vây quanh họ, ôm chầm lấy họ, rồi rưng rưng nước mắt, nghẹn ngào. Cá nhân tôi không dám đến ôm họ, bởi có thể tôi sẽ giống như trẻ con, khi đụng phải tâm huyết của họ!

Dù đứng xa họ, nhưng lòng tôi vẫn thổn thức. Nỗi đau ùa về! Như cảm nhận được nỗi xót xa của đất mẹ khi bị chia cắt, khi tâm huyết và những nỗ lực của con dân đất Việt đang bị ly tán!

15g- 16g30 Phiên I, từ trái sang: ThS. Hoàng Việt, NNC Đinh Kim Phúc, Chủ tọa - LS. Nguyễn Ngọc Bích, Lm. Thiện Cẩm.

ThS. Hoàng Việt đang đọc tham luận: “Đường lưỡi bò” trên biển Đông và luật quốc tế


(Phóng sự: Nguyễn Thường Dân)

Tham luận: "Đường lưỡi bò" trên biển Đông và luật quốc tế

ThS. Hoàng Việt (Đại học Luật TP. HCM)

Năm 1935, để đối phó với yêu sách của Pháp đối với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, Cộng hòa Trung hoa đã cho xuất bản một bản đồ chính thức đầu tiên là Zhongguo Nanhai gedao yu tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), bản đồ này chưa thể hiện “đường lưỡi bò”.

Tháng 2 năm 1947, Bộ nội vụ đã tiếp tục cho xuất bản Bảng tài liệu tra cứu tên cũ của các đảo biển ở biển Đông, trong đó liệt kê 159 đảo, đá. Sau đó, tháng 1 năm 1948, Bộ Nội Vụ nước Cộng Hòa Trung Hoa chính thức công bố một bản đồ có tên Nanhai zhudao weizhi tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), tháng 2 năm 1948 bản đồ này được xuất bản chính thức, trên bản đồ này có xuất hiện một đường mà Trung Hoa gọi là đường hình chữ “U”, một số học giả gọi nó là “đường lưỡi bò” bởi nó nhìn giống một cái lưỡi bò liếm xuống biển Đông, đường này được thể hiện trên bản đồ lúc này là một đường đứt khúc bao gồm 11 đoạn.

“Đường lưỡi bò” này xuất phát từ biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ, chạy xuống phía Nam tương tự như hình dáng của bờ biển Đông và Đông Nam Việt Nam tới cực Nam của bãi đá san hô Scaborough Shoal (Tăng Mẫu) và sau đó quay ngược lên phía Bắc theo hướng đi song song với đường bờ biển phía Tây Sabah của Malaysia và Palawan của Philippines và quần đảo Luzon, kết thúc tại khoảng giữa eo Bashi nằm giữa Đài Loan và Philippines. Đường này được vẽ tùy tiện và không có tọa độ xác định chính xác.

Cao Chí Quốc (Gao Zhiguo), Viện trưởng Viện chiến lược phát triển biển, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc cho rằng đường này yêu sách sở hữu các đảo nằm bên trong hơn là một đường biên giới biển. Ông ta nhận xét:. Mặc dù “Trung Quốc chưa bao giờ yêu sách toàn bộ các cột nước của vùng biển Đông”, nhưng “tất cả các đảo và vùng nước kế cận trong đường biên giới này phải thuộc quyền tài phán và kiểm soát của Trung Quốc”.

Zou Keyuan cho rằng yêu sách của Trung Quốc không nên xem như yêu sách vùng nước lịch sử theo nghĩa truyền thống mà giống như một dạng yêu sách các quyền chủ quyền và quyền tài phán lịch sử chứ không phải là yêu sách chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối. Nói cách khác, đây là sự nguỵ biện liên hệ đường lưỡi bò với các khái niệm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của luật biển hiện đại.

Phan Thạch Anh (Pan Shi Ying):

1. Khu vực nằm trong đường biên giới này là các đảo, đá và các vùng nước kế cận của chúng đã thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong lịch sử.

2. Phù hợp với các công ước quốc tế, vị trí và hướng đi của con đường đứt khúc 11 đoạn này (sau thay bằng 9 đoạn) đã được vạch ra theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa ngoài của bốn quần đảo trong biển Nam Trung Hoa và đường bờ biển của các quốc gia kế cận. Điều này đã và đang là hợp pháp vào thời gian đó của chiếm cứ, chiếm hữu và quản lý.

3. Thực tiễn sử dụng các đường đứt khúc hơn là một đường liên tục để đánh dấu một số các khu vực chủ chốt đã chỉ ra thực chất của việc “chưa dứt điểm” để lại những khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai.
Nói cách khác vùng nước do con đường này bao bọc là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của Trung Quốc. Con đường này chỉ là hình thức, còn danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc trên vùng biển này mới là nội dung.

Một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc tế và các phán quyết của tòa án phải thỏa mãn ít nhất ba điều kiện sau:
1) Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách;
2) Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian;
3) Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này.

Theo các tiêu chí để thỏa mãn một vùng nước được coi là vùng nước lịch sử, thì Trung Quốc cũng phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng nước trong đường lưỡi bò này một cách thật sự và liên tục trong một thời gian dài. Điều này thật không đơn giản, bởi vì: Các văn kiện chính thức của nhà nước phong kiến Trung Quốc, như Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh Nhất thống chí (1461), Đại Thanh Nhất thống chí (1842), trước năm 1909 đều khẳng định “cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”. Các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người nước ngoài cùng thời cũng vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người Trung Quốc.

Bản đồ Trung Quốc thế kỷ XVII của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc công ty Đông ấn - Hà Lan cũng có lời giải thích rất rõ: “nơi xa nhất của Trung Quốc bắt đầu từ phía Nam đảo Hải Nam ở 18 độ vĩ Bắc, rồi từ đó ngược lên phía Bắc đến vĩ độ 42 độ. Trung Quốc chỉ thực sự bước chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1909 khi quần đảo này đã thuộc Việt Nam, không còn là đất vô chủ.
Trung Quốc đã không đưa ra được các bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hòa bình từ thời xa xưa. Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của dân đánh cá và dân buôn ả Rập, ấn Độ, Malay, Việt, và vùng Vịnh trong vùng biển này, không có một bằng chứng nào cho thấy Biển Đông hoàn toàn là “ao hồ Trung Quốc”

Các chính quyền phong kiến Trung Quốc cũng không thiết lập hoặc duy trì có lợi cho họ một sự độc tôn nào trong vùng biển này, khả dĩ có thể loại bỏ hoạt động khai thác của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải của triều Nguyễn. Ngược lại còn có những hành động thừa nhận tính hợp pháp của các hoạt động đó như trường hợp năm 1774: quan huyện Văn Xương giúp đội viên đội Hoàng Sa khi đi làm nhiệm vụ bị bão dạt vào đất Trung Quốc.

Đường lưỡi bò không phải là con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn, năm 1953, Trung Quốc đã phải bỏ đi hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất không liên tục của con đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích là để cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát.

“Đường lưỡi bò” không thể hiện được đặc tính đó, thêm nữa, vị trí của nó lại không được xác định tọa độ rõ ràng, vì thế khó mà biểu thị là một đường biên giới được.
kể cả Cộng Hòa Trung Hoa lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đều chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò” đó.

Theo luật pháp quốc tế, các hành vi mà quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử, ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội được biết những gì đang diễn ra.

Con đường đứt khúc 9 đoạn này mâu thuẫn ngay với quan điểm chính thức của Trung Quốc đã nêu trong Tuyên bố ngày 4/9/1958 về các vùng biển Trung Quốc:

“Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
Bề rộng lãnh hải của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho tất cả lãnh thổ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm lục địa và các đảo ven bờ, cũng như Đài Loan và các đảo phụ cận, Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa quần đảo và tất cả các đảo thuộc Trung Quốc được tách rời khỏi lục địa và các đảo ven bờ bởi biển cả”.

Như vậy, Tuyên bố 1958 của Trung Quốc xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt với lục địa bởi biển cả, chứ không phải là vùng nước lịch sử. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm trong nội thủy của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó. Do vậy, Tuyên bố và các đạo luật của các nhà chức trách Trung Quốc, đặc biệt Tuyên bố năm 1958 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là không phù hợp với yêu sách lịch sử được phân định bởi “đường lưỡi bò”.

Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không đưa ra những yêu sách lịch sử của mình với các tọa độ rõ ràng, và giữ im lặng về bản chất của đường lưỡi bò và chế độ pháp lý của vùng biển được bao bọc bởi đường đó”. Ngay cả các học giả Trung Quốc cũng không nhất trí được với nhau về chế độ pháp lý của vùng biển bị bao bọc bởi đường lưỡi bò này.

Quan điểm của Bắc Kinh và Đài Loan, bên đầu tiên đưa ra yêu sách đường chữ U cũng khác nhau. Ngày 30/12/1992, Viện Lập pháp Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đã thông qua "Luật vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Trung Hoa Dân Quốc". Luật này được ban hành trên cơ sở nguyên tắc "chủ quyền thực tế” bỏ đi điều khoản về "vùng nước lịch sử” (vùng nước trong đường chữ U). Ngày 2/1/1993, Viện Lập pháp Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) thông qua "Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp Trung Hoa Dân Quốc". Luật này quy định Lãnh hải Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) rộng 12 hải lý đồng thời quy định các điểm cơ sở để vạch đường cơ sở và ranh giới.

Trong các đạo luật này, khác với Trung Quốc, Đài Loan đã không đề cập "tính chất lịch sử" của đường lưỡi bò mà họ đã từng yêu sách năm 1947. Họ chỉ yêu sách các đảo đá, bãi cạn nằm trong giới hạn đường chũ U nhưng không yêu sách vùng nước trong giới hạn đó. Có lẽ họ thấy được phần nào tính chất phi lý của yêu sách này chăng?

Chủ quyền không thể suy diễn, không thể dựa trên những dẫn chứng bâng quơ. Không một quốc gia (văn minh và tiến bộ) nào lại công nhận đường ranh giới 9 đoạn đứt khúc này, con đường không được xác định rõ cả về cơ sở pháp lý lẫn tọa độ địa lý, vì đây là sự vi phạm thô bạo chủ quyền lãnh thổ không chỉ của các nước liên quan mà còn là sự thách thức đối với quyền lợi hàng hải, hàng không…của cộng đồng quốc tế. Từ bao đời nay, các quốc gia trong khu vực vẫn tiến hành các hoạt động sử dụng biển một cách bình thường trong Biển Đông không có sự ngăn cản nào của Trung Quốc.

Nhóm Mark J Valencia cho rằng: “một yêu sách của Trung Quốc coi biển Nam Trung Hoa là một vùng nước lịch sử không thể đứng vững được dưới góc độ pháp luật quốc tế hiện đại”.

“Yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền lịch sử và quyền đối với hầu hết biển Đông và/hoặc đối với đáy biển và lòng đất của nó là trái với sự phát triển toàn diện của luật biển quốc tế hiện đại và không thể coi là một vấn đề pháp luật nghiêm chỉnh”.