Từ khi bị bắt trong vườn Cây Dầu, ông ta im lặng, chẳng nói gì nhiều. Có lẽ ông ta nghĩ tất cả những gì người khác muốn biết thì đã biết rồi. Cho đến khi vị Thượng tế Caipha hỏi: “Có phải ông là Đức Kytô, con Thiên Chúa không?” Ông ta mới trả lời một cách chắc chắn: “Đúng như ông nói!”

Thế là bao nhiêu giận dữ, họ trút cả lên đầu lên cổ ông ta! Họ chửi rủa, nhục mạ, đánh đập không nương tay. Đối với họ, đó là một điều phạm thượng. Rồi có lẽ họ thấy cần phải dùng đến pháp luật để trừng trị nên lôi cổ ông ta đến dinh thự quan Tổng trấn Rôma.

Philatô sau khi nghe thấy sự việc liền hỏi: “Ông là vua dân Do Thái phải không?”

Ông ta trả lời: “Chính Ngài vừa nói điều đó!”

Nhìn người thanh niên khoẻ mạnh, nét mặt hiền lành khiêm tốn, không biểu hiện chút gì giả dối, Tổng trấn Philatô nói với đám đông: “Ta thấy người này đâu có làm điều gì gian ác!”

Đám đông la lớn: “Giết nó đi, đóng đinh nó đi!”

Khi nghe đám đông tố cáo ông ta đã đi giảng dạy, xách động dân chúng nổi loạn khắp vùng Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa, Philatô bèn nói: “Vậy các ngươi đem ông ta qua cho vua Hêrôđê xử trí!”

Dân chúng liền kéo nhau đưa ông ta qua dinh vua Hêrôđê. Nhà vua nghe biết về ông ta đã lâu, hôm nay mới có dịp gặp mặt, nên hỏi han nhiều điều, nhưng ông ta cứ im lặng, bình thản. Thất vọng, Hêrôđê truyền trả lại cho Tổng trấn Philatô.

Thấy đám đông reo hò, dẫn giải ông ta trở lại với thân hình thêm tiều tuỵ. Quan Tổng trấn có lẽ cũng động lòng với một người bị bắt với thái độ hiền từ, chịu đựng, nên đề nghị một giải pháp: “Ngày đại lễ sắp tới, theo lệ ta sẽ phóng thích một người tù. Các ngươi biết Baraba, nó là một thằng phiến loạn, đầu trộm đuôi cướp! Vậy trong hai người, các ngươi muốn tha ai?”

Đám đông gào thét: “Tha Baraba! Đóng đinh Giêsu! Tha Baraba! Đóng đinh Giêsu!"

Trước áp lực của đám đông, Philatô lấy nước rửa tay và nói:

“Ta vô can trong chuyện này!”

Thế là lính lôi ông ta vào trong, cởi hết áo ngoài ra, chúng choàng một tấm áo màu đỏ lên người. Một chiếc vương miện được kết sơ sài bằng vòng gai tua tủa rồi đặt lên đầu, để vào tay ông ta một chiếc gậy trúc, chúng giễu cợt: “Vạn tuế Đức vua Do Thái!” Liền đó, chúng nhẫn tâm giật lấy cây gậy trúc đánh tới tấp vào chiếc mũ gai! Chúng mặc sức đánh đập không thương tiếc! Dùng roi chán, chúng đấm đá như côn đồ, trộm cướp! Máu đỏ thấm đẫm chiếc áo dài, những mấu gai nhọn đâm vào đầu làm chảy máu nhoè nhoẹt trên khuôn mặt ông ta!

Philatô muốn thử một làn cuối xem dân chúng có nguôi cơn giận dữ mà tha cho ông ta không, nên truyền đem ra trước sân cho mọi người nhìn thấy tình trạng thảm não của ông ta, nhưng dân chúng vừa nhìn thấy lại gào lên: “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!” Philatô đành nhượng bộ: “Các ngươi muốn làm gì thì làm!”

Thế là bọn lính hung hăng được phụ họa bởi đám đông dân chúng đang cuồng nộ bắt đầu cuộc hành hình. Ông ta phải mang cây thập giá đến pháp trường. Cây thập giá vốn đã nặng đối với một người bình thường, nay được đặt lên vai một người vừa bị đánh đập liên tục vừa đói khát từ hôm trước đến giờ. Ông ta cố hết sức để mang đi, đôi mắt trĩu nặng, vẻ mặt vẫn hiền từ mặc dù in hằn nhiều vết bầm tím. chẳng kêu la than van hay một lời oán trách nào cả! Lẫn trong những giòng máu đỏ chảy nhòa từ đầu xuống cổ còn có nhiều vệt máu đã thâm khô. Nét khắc khổ hiện rõ trên khuôn mặt đầy vẻ chịu đựng!

Đám người đi theo ông ta lên đồi Gôngôtha cũng khá đông, có kẻ nhạo báng, chế giễu, có người khóc thương cảm. có người dửng dưng, hiếu kỳ. Khoảng hơn nửa đoạn đường, ông ta ngã xuống và không chỗi dậy được, có lẽ quá kiệt sức. Đám lính nhìn quanh rồi chụp lấy một người dân quê bắt vác thập giá thay thế. Chúng xốc vai ông ta đứng đậy, đánh đập quát tháo đẩy đi tiếp.

Lên được đỉnh đồi, trời đã quá trưa. Bọn lính xô ông ta ngã ngửa trên thập giá, rồi đóng đinh chân tay vào mấy cái lỗ làm sẵn. Chúng chẳng may may để ý đến cái đau đớn ông ta đang phải chịu. Hôm đó, bọn lính cũng đóng đinh hai người nữa, họ mang tội trộm cướp.

Khi bọn lính dựng cây thập giá đứng lên và chôn vào lỗ trong đất, thân hình trĩu nặng chùng xuống, cơn đau đớn tột cùng làm ông ta rên rỉ: “Xin tha cho chúng! Xin tha cho chúng!”

Thế rồi, chỉ hơn vài giờ sau, ông ta kiệt sức, lả người dần đi trong nỗi đau của cực hình, trong nỗi âm thầm đắng cay. Khi hơi thở gần như ngừng lại, đôi mắt đờ đẫn, đầu rũ xuống, miệng ông ta vẫn còn mấp máy: “Xin tha cho chúng! Xin tha cho chúng!”

Ông ta đã tắt thở và… Giêrusalem ngày tháng vẫn trôi qua…

Đoạn cuối câu chuyện của Người tử tù: Ông ta không phải là “ông ta” mà đích thực là Đức Kytô, Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh xuống thế làm người. Sau khoảng thời gian rao giảng Lời Hằng Sống, đem nguồn Yêu Thương đến với nhân loại, Ngài đã bị những người ghen ghét, ganh tỵ tìm cách hãm hại, cuối cùng đem Ngài đi giết bằng cách đóng đinh vào thập giá trên đồi Gôngôtha, ngoại ô thành phố Giêrusalem. Nhưng Ngài đã sống lại, và tất cả những gì Ngài rao giảng đã sống mãi trong lòng mọi người hơn hai ngàn năm qua. Cho đến hôm nay, chương trình cứu độ và lời rao truyền về một giáo lý mới đã được chứng minh qua cuộc sống các tín hữu, qua chính môi miệng của Ngài, Đức Kytô: “Xin tha cho chúng, xin tha thứ!

Hãy sống khoan dung, tha thứ cho nhau, để kiến tạo một thế giới đầy Tình Yêu Thương! Không ghen ghét! Không hận thù! Với Đức Kytô và trong Đức Kytô!