MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM
Bài 13: Đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân
Qua sắc chỉ « Super Cathedram » ngày 09/09/1659, Tòa Thánh đã trao cho các Giám mục Đại diện Tông Tòa sứ mệnh truyền giáo tại Đàng Trong và Đàng Ngoài. Để thực hiện sứ mệnh này, công việc quan trọng nhất đã được rõ rệt xác định là việc quản trị các địa phận truyền giáo và việc đào tạo giáo sỹ địa phương. Các Đại Diện Tông Tòa đã thực hiện hai công việc này một cách nhiệt tình và tích cực ngay từ buổi đầu. Song song với hai công việc ấy, các ngài còn thực hiện nhiều công việc khác, quan trọng không kém, đặc biệt là việc đào tạo các tu sĩ, phát triển Hội Thầy Giảng, lập từ thời các cha Dòng Tên và lập Dòng Mến Thánh Giá năm 1670 và việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân. Trong bài này, chúng ta đặc biệt chú trọng đến công việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, trong buổi đầu, vào thế kỷ XVII và những kết quả của nó trong hai thế kỷ XVIII và XIX.
1. Xác định những nguyên tắc nền tảng cho việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, trong Công Đồng Ayuthia 1664
Trong bản « Chỉ dẫn thừa sai », tài liệu căn bản của Công Đồng Ayuthia 1664, việc đào tạo giáo dân rõ rệt chiếm một chỗ quan trọng hơn cả, chiếm sáu trên 10 chương của Chỉ Dẫn. Ba chương III, IV và V dành cho việc rao giảng Tin Mừng cho lương dân, Hai chương VI và VII dành cho dự tòng, chương VIII dành cho tân tòng và chương IX dành cho « Những Kitô hữu tòng giáo lâu năm ».
Chương IX về « Những Kitô hữu tòng giáo lâu năm », trước nhất đã đưa ra lời xác định tổng quát. Công đồng viết: « Các vị Đại diện Tông Tòa phải có trách nhiệm không những với người dự tòng và tân tòng mà còn với những tín hữu lâu năm, trách nhiệm của người cha đối với con cái, của người chủ chăn với giáo dân, của người thầy với học trò. Vậy phải yêu mến, dẫn dắt, dậy dỗ họ và phải dành sự chăm sóc hơn mức bình thường vào việc hướng dẫn cũng như giáo dục họ. Nhưng sự trung thành làm tròn bổn phận này, phải kéo theo cả sự an ủi vỗ về, và công việc này sẽ sinh hoa kết trái: tức là càng đào tạo được những tín hữu đạo đức thánh thiện, thì càng phụ được việc các vị thừa sai, sẽphản chiếu nơi chính bản thân sự tinh tuyền của Giáo Hội, sẽ lôi kéo được những người bất trung bởi hương thơm nhân đức của mình, đặt họ tự nguyện téúng phục ách êm ái của Chúa chúng ta. Trách nhiệm của người mục tử rất phúc tạp, bởi số lượng và tính đa dạng của những bổn phận; chúng tôi nhận thấy nên thu gọn việc giải thích thành ba điểm cơ bản: hướng dẫn, gìn giữ và cai quản đoàn chiên được giao phó cho họ chăm sóc ». (François Pallu, Pierre Lambert de la Motte, Nhắn nhủ các thừa sai, trong Tòa GM Kon Tum, Khơi nguồn tiến bước, Lưu hành nội bộ, 2004, tr. 201)
Sau lời xác định tổng quát trên, lần lượt ba trách nhiệm của các mục tử đối với việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, mà các ngài gọi là trách nhiệm đối với các tín hữu đã tòng giáo lâu năm, đã được quảng diễn: trách nhiệm giáo huấn giáo dân; trách nhiệm gìn giữ giáo dân; và trách nhiệm cai quản đoàn chiên.
11. Trách nhiệm hướng dẫn các tín hữu
Nhiệm vụ đầu tiên của người mục tử là dẫn đoàn chiên được giao phó đến đồng cỏ, nghĩa là họ có trách nhiệm tìm ra đồng cỏ hoặc thức ăn phù hợp với đoàn chiên và cung cấp cho chúng. Thức ăn này là; lời giáo huấn và sự yểm trợ bước đầu về tinh thần và cả vật chất nữa. Vậy, người mục tử - thừa sai phải chăm chú toàn tâm vào việc cung cấp cho các tín hữu Sữa Thần Linh của giáo lý thánh, củng cố họ bằng ơn sủng từ các Bí tích. Trong những nỗi đau khổ sâu xa,hãy nhỏ xuống trên họnhững giọt sương êm dịu của sự an ủi. Khi tàn tật, tăng thêm cho họ sức mạnh, giúp đỡ bằng những lời khuyên khi họ đau buồn, bằng sự bố thí khi họ thiếu thốn, năng đỡ họ hết thảy bằng sự hy sinh và cầu nguyệ, vây bọc họ trong sự ân cần của lòng vị tha đầy tình phụ tử. Bởi vì, mình đã vui vẻ hiến cả cuộc đời cho giáo dân chưa, nếu không cho họ những thứ đó ? (Ibidem, tr. 202).
12. Trách nhiệm gìn giữ gìn giữ các tín hữu
Về trách nhiệm gìn giữ các tín hữu, Công Đồng nêu ra ba công việc phải làm: Xua đuổi sói xa khỏi chuồng, Dẫn những con chiên lạc về và liều mình cứu chúng.
« Vậy người mục tử sẽ là người gieo kinh hoàng cho những con sói tham mồi luôn đe dọa đoàn chiên của Chúa. Duổi cho chúng chạy bằng sức mạnh kêu gào. Vậy phải nổi dậy bằng nghị lực chống lại những hào nhoáng của ma quỷ, sự quyến rũ mà chúng dùng hằng ngày để bắt chộp được sự nhẹ dạ của con chiên. Đừng để cho quen phạm tội công khai mà không bị phạt, đây là nguyên nhân gây gương xấu cho những người yếu đuối, cũng đừng để một cơn dịch truyền nhiễm và nguy hại nào len lỏi vào các linh hồn, dặc biệt có một số tật xấu của tính xácthịt là nguy cơ sa sútcho những cộngđoàn Kitô giáo.,….
Khi cơn thịnh nộ của những tên bạo chúa nổi lên thì phải an ủi đoàn chiên, năng cho họ những lời khích lệ, cổ vũ họ, bảo vệ và bênh vực họ bằng những lời huấn giáo thành ính và bằng lời cầu nguyện của mình.
Thứ đến, phải ân cần đi tìm những tâm hồn lầm lạc; Và khi đã tìm thấy, hãy vác lên vai, không quản mệt nhọc, mồ hôi và che chở để đưa chúng về chuồng. Những con tự mìh trở về thì hãy đón nhận chúng với lòng thương yêu đầy tình phụ tử, sự kiên nhẫn của mình sẽ trị được những con bướng bỉnh nhất và để có thể cứu chúng hết thảy, phải ưng chịu sự yếu đuối của từng con.
Cuối cùng, người mục tử phải nhớ lại rằng Chúa Giêsu mục tử nhân lành đã hiến mạng vì đoàn chiên: không có công việc nào làm mình chán nản, không nghịch cảnh nào làm mình ngã gục, không nguy hiểm nào làm mình khiếp sợ; Nếu có gì liên quan đến ơn cứu độ con chiên, phải bênh vực hết thảy, ngay cả việc nguy hiểm trực tiếp đến mạng sống, ngay khi việc giải thoát bị lâm nguy, ngay khi họ cần sự nâng đỡ cho lòng tin bị lung lay, cần đến người thừa tác các Bí tích, người hướng dẫn, người bảo trợ, cố vấn hay làm chỗ dựa. …(Ibidem, tr. 202-205).
13. Trách nhiệm tuyển chọn một đội ngũ giáo dân tham gia việc quản trị mục vụ
Trách nhiệm tuyển chọn một đội ngũ giáo dân tham gia việc quản trị mục vụ có nghĩa là: Trong tầt cả các giáo đoàn, tùy thuộc vào tầm quan trọng của nó, người ta sẽ phải chọn một số giáo dân để giúp linh mục tham gia việc quản trị mục vụ.
Bốn điều kiện để tuyển chọn những người giáo dân này là:
• Họ « phải đặc biệt hơn những giáo dân khác bởi sự hiểu biết về giáo lý Kitô giáo
• bởi lòng sùng đạo nhiệt thành và đời sống gương mẫu của họ
• Những giáo dân được tuyển chọn này trước tiên phải tuyên xưng đức tin và tuyên hứa giảng dậy cho dân chúng không chút thay đổi nào với giáo lý thuần chất và toàn vẹn giống như họ đã nhận từ các thừa sai
• Tuyên thệ không bao giờ được biển thủ đồ tế lễ của các tín hữu cho việc xử dụng phàm tục của cá nhân hay kẻ khác.
Công việc của họ gồm những gì ? Đặc biệt trong những giáo xứ không có linh mục, họ phải làm những việc sau đây:
« Họ phải lo việc cầu kinh cho các tín hữu tụ họp nhau vào mỗi chủ nhật hay lễ trọng.
« Vào những dịp này, sau khi đã đọc kinh tin, kinh thờ lậy và kinh cám ơn, rồi các kinh sáng, họ giúp giáo dân hướng lòng về Tòa Thánh để rước lễ thiêng liêng. Những lời nguyện mà họ đọc phải được Thánh Bộ hay Ðức Giám Mục duyệt xét trước. Theo lời Vị Tông Ðồ Dân Ngoại dậy rằng phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng (Tim I, ch. 2, 1-2), họ phải nhắc bảo cho các tín hữu rằng trong các chủ nhật và lễ trọng, trước khi lui khỏi nhà thờ, phải đọc ba lần Kinh Chủ Nhật và Kinh Thiên Thần Truyền Tin để cầu cho việc truyền bá đức tin và mở rộng giáo hội; cho Ðức Thánh Cha La Mã; cho giám mục và các chủ chăn; cho các vua chúa và quân quan; cho những người có tội được Chúa tha thứ và quay trở về đường ngay của Chúa; cho những người rối đạo được biết tuân phục giáo hội công giáo; cho lương dân được biết rời bỏ lầm lẫn mà gắn bó tin vào Chúa Kitô; cho các linh hồn đã qua đời, đặc biệt là những linh hồn đã an nghỉ trong giáo hội, được khỏi ách luyện hình; cho các dân nước được thịnh vượng mà thoát khỏi tai ương bất hạnh.
« Thêm vào đó, như của ăn nuôi dưỡng linh hồn bổn đạo, họ đọc sách đạo do Ðức Giám Mục Ðại Diện Tông Tòa chỉ dậy, hoặc về những lý lẽ đức tin, hoặc về những điều khác cần thiết cho sự rỗi.
« Ho cũng đọc lịch báo trước cho giáo dân các ngày lễ, ngày chay, chiều trước lễ,… có thể có trong tuần và những việc mà giáo dân phải làm để giữ đúng luật đạo thánh.
« Họ công bố các lễ cưới và tìm xem những ngăn trở, nếu có.
« Họ Công bố các lệnh truyền của giám mục và đọc các lời rao theo hoàn cảnh. Tất cả những việc đó đều phải làm vào ban sáng.
« Về ban chiều, nếu có thể, họ lại tụ họp giáo dân lần nữa để đọc kinh, xét mình và đọc kinh chiều.
« Ðặc biệt họ phải lo lắng rửa tội cho con nít và người lớn, nếu họ xin, và vào lúc lâm tử.
« Họ cũng đặc biệt lo lắng cho các bệnh nhân, cứu giúp người hấp hối, chôn cất kể chết và xin giáo xứ cầu nguyện cho họ; như vậy, họ sẽ cố gắng gây lên lòng sùng kính các linh hồn nơi luyện tội mà tránh cho người ngoại đạo cái thiên kiến rằng chỉ có họ mới biết tôn kính tổ tiên.
« Họ dậy giáo lý và lòng đạo cho các trẻ em theo cách thức và thói quen đã được truyền dậy, với một lòng xác tín rằng công việc giáo dục giới trẻ là một trong những việc quan trọng nhất.
« Họ bảo trợ các trẻ mồ côi, các goá phụ công giáo và cả các góa phụ ngoại đạo.
« Chẳng bao giờ họ xen mình vào những cuộc kiện cáo giữa những giáo dân, để quyết định; nhưng họ gắng sức khôn ngoan giải hòa.
« Họ chứng kiến các cuộc cử hành hôn lễ, cùng với hai người làm chứng.
« Và để cho các việc thánh được coi là thánh, họ phải áp dụng những luật lệ rõ rệt cho lễ nghi rửa tội trẻ em và ngưới lớn, cho việc giúp đỡ kẻ hấp hối, tẩm liệm kẻ chết, việc ma chay, việc phó dâng linh hồn, việc rao hôn phối, việc cử hành hôn phối và tất cả những việc liên quan đến họ, theo như luật giáo hội đòi hỏi.
« Họ cần có một cuốn sổ ghi chép những lý do cho phép cử hành mỗi dịp lễ trong nhà thờ và những kinh nguyện đặc biệt cho những lễ này.
« Họ có một cuốn sách trình bày những điểm chính yếu về đạo kitô, về các tội trọng, về những lời khuyên phúc âm, về 4 mục đích tối hậu ( Sự chết, sự phán xét, thiên đàng, hỏa ngục)
« Họ có tại nhà họ cuốn lịch các ngày lễ do các thừa sai soạn.
« Họ coi sóc thứ tự các sổ rửa tội, thêm sức, qua đời, hôn phối và lưu trữ tại nhà họ hay nhà hàng xóm, nếu an toàn hơn.
« Nếu các trưởng giáo khu này không đủ sức làm hết những công việc đó, thì các thừa sai phải giúp họ. Như vậy, thứ nhất, để giúp giải quyết những vụ kiện tụng giữa các tín hữu, người ta có thể chỉ định vài ba người vị vọng để khởi sự nghe các người kiện trước khi trình lên quan tòa sự tranh chấp, hầu nghe theo sự phân xử phụ mẫu của họ, hầu nhân nhượng giao hòa với nhau. Nhưng để tránh bóng vía ngoại đạo, nhửng người trọng tài này phải tránh xuất hiện như là muốn tạo lập nên một loại tòa án mới.
« Thứ hai, cần phải đào tạo những thầy giáo kitô, để họ có thể cung cấp cho tuổi trẻ công giáo cũng như không công giáo những lời giảng dậy phù hợp với phong hóa của xứ sở; có thể chinh phục được thiện cảm của dân bản địa và có thể trải rộng khắp nơi hương thơm đạo thánh; như vậy họ có thể dậy bảo trẻ em kitô làm hết bổn phận đức ái.
« Cũng phải chọn những đàn bà công giáo đạo đức để làm công việc bà mụ, hầu họ không để một trẻ em nào chết mà không rửa tội, ngay cả khi chúng là những con của cha mẹ ngoại đạo.
« Sau cùng, các trưởng giáo khu này phải thường xuyên gởi các bản tường trình chi tiết về tình trạng tôn giáo trong những xứ mà họ được trao trách nhiệm coi sóc.(Trần văn Cảnh, Công Ðồng Thừa Sai Hải Ngoại đầu tiên Năm 1664 ở thủ đô AYUTHIA, nước Xiêm, http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=13&ia=644)
2. Những bước đầu đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, trong Công Đồng Phố Hiến 1670 và Công Đồng Hội An 1672
Những nguyên tắc tổng quát về việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, phác thảo trong Công Đồng Ayuthia 1664 đã được nhắc lại cho các thừa sai và giáo sỹ địa phương trong hai công đồng: Phố Hiến năm 1670 ở Đàng Ngoài và Công Đồng Hội An 1672 ở Đàng Trong.
21 Công đồng Phố Hiến 1670
Trong văn kiện Công Đồng Phố Hiến, địa phận Đàng Ngoài 1670, trên 34 khoản dự thảo, không kể các khoản đề cập đến việc đào tạo 11 khoản đã đề cập đến việc sồng đức tin của tín hữu, trong đó ba khoản 7, 8 và 21 đặc biệt lưu ý đến việc huấn luyện đội ngũ tông đồ giáo dân trong tất cả các công ciệc giúp đỡ các linh mục thực hiện công việc mục vụ trong hai sứ vụ chính: điều hành giáo xứ và truyền đạo cho lương dân.
Khoản 7: Ở mỗi nhà thờ có nhiều tín hữu, người ta sẽ đặt những tín hữu đạo đức nhất, lo việc kinh nguyện trong những ngày lễ buộc, cũng như lo cho những ngày khác.
Khoản 8: Những chức việc nêu trên sẽ báo cáo công việc của mình và của giáo dân cho các Thầy Giảng, và các Thầy cũng sẽ báo cáo như vậy về công việc mình làm, cũng như của các Chức Việc cho vị quản nhiệm (linh mục) của xứ mà họ thuộc thẩm quyền.
Khoản 21: Những (linh mục) quản nhiệm, thầy giảng chức việc, hãy thúc dục các tín hữu tuân giữ và bước theo con đường hẹp, thúc dục họ suy niệm, ít là vào những ngày lễ buộc, và trong những ngày ấy, suy gẫm đặc biệt về cuộc Tử Nạn và Thương Khó của Chúa chúng ta là Đức Kitô. (Ibidem, tr. 246, 249)
22. Công Đồng Hội An 1672
Về những quyết định của Công Đồng Hội An địa phận Đàng Trong, liên hệ đến việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, Đức Ông Mai Đức Vinh đã tóm tắt như sau; « Hai năm sau công nghị Bắc Kỳ, từ ngày 26-10 đến ngày 18-11-1672, công nghị Nam Kỳ được triệu tập tại thành phố Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng Nam khi đó trực thuộc miền truyền giáo Nam Kỳ. Công nghị này cũng do đức cha Lambert de la Motte, vị giám quản đầu tiên của giáo phận Nam Kỳ (1659-1679), chủ tọa. Công nghị đã chú trọng đến đời sống tín hữu, sự tổ chức những giáo sở và những họ đạo. Chính vì thế, bên cạnh những nghị quyết về hôn nhân, ban hành các bí tích, còn có những nghị quyết liên quan đến định chế của quí chức họ đạo, những nghị quyết về những bổn phận của quý chức. Chúng ta có thể lược tóm như sau:
* Cần thiết phải chọn lựa những quí chức cho những họ đạo tương đối đông đảo. Quí chức phải là những tín hữu đức hạnh và khôn ngoan.
* Nhiệm vụ của quí chức trong những khi vị linh mục và các thầy giảng vắng mặt là chăm lo trước tiên những buổi cầu nguyện, rao lịch những ngày kiêng thịt, dạy giáo lý, thăm viếng bệnh nhân, rửa tội cho trẻ em và người lớn, tuy nhiên chỉ rửa tội cho người lớn sau khi biết rõ tình trạng hôn phối của họ, quản lý sổ hôn phối và sổ tửù, giúp đỡ tín hữu sống Phúc Âm.
Như thế, vai trò và nhiệm vụ của quí chức đã được thừa nhận và qui định bởi giáo quyền. Họ không chỉ là những tín hữu đức hạnh, mà còn là những cộng tác viên của linh mục, những ông trùm của họ đạo. Trong thời buổi cấm cách, trong lúc thiếu vắng linh mục, họ là những người thay thế để củng cố và làm vươn tiến sinh hoạt họ đạo về mặt thiêng liêng, luân lý đạo đức cũng như về mặt vật chất ». (Mai Đức Vinh, Hội Đồng Quý Chức, Paris: GXVN Paris, 2008, tr. 73-74).
3. Những kết quả quan trọng do đội ngũ tông đồ giáo dân đã thực hiện, đặc biệt trong thời cấm đạo thế kỷ XIX
Những quyết định đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân quyết định ở hai Công Đồng địa phương đã được đem ra áp dụng, Kết quả là nhiều giáo dân có khả năng và đạo đức đã được đào tạo. Đến lượt họ, họ đi đào tạo giáo dân. Mà công việc đào tạo lớn vô giá mà họ đã thực hiện là nêu gương can đảm tuyên xưng đức tin, nhờ đó họ làm vững đức tin của các giáo dân khác.
31. Cha Deydier đã thành lập đội ngũ tông đồ giáo dân ngay từ năm 1668, 1680 ở Đàng Ngoài
Những điều mà Công Đồng Ayuthia 1664, Công Đồng Phố Hiến 1670 và Công Đồng Hội An 1672 đã nêu ra, liên hệ đến việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, mà vào thời buổi đầu nhắm nhất vào những chức việc trong Hội Đồng Quý Chức, trong thực tế đã được thực hiện trên cánh đồng truyền giáo.
Sau đây là « trích thư của cha Deydier viết cho ban giám đốc chủng viện Thừa Sai Hải Ngoại ngày 28.7.1668, và một bản tường trình khác về tình hình truyền giáo năm 1680. Cả hai bản văn xác nhận rõ ràng: hàng ngũ quí chức được tổ chức một cách thực tế từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
«Từ khi tôi làm xong công việc sắp đặt mọi sự cho được tốt đẹp nhất, tôi đã có thể thiết dựng 5 ngôi thánh đường trong thành phố vương đô này, và đặt 6 vị (quí chức) nhiệt thành và học thức nhất trong các tín hữu tại mỗi thánh đường, vì tôi muốn đi khắp các làng để rao giảng Tin Mừng…».
«…Trong mỗi thánh đường, từ hàng ngũ giáo dân người ta chọn ra một người có đời sống gương mẫu và không mấy bị câu thúc bởi công kia việc nọ để giúp việc nhà thờ, hội họp giáo dân, xướng kinh hạt những ngày chủ nhật và ngày lễ, đọc sách thiêng liêng, giảng dạy, thông báo lịch hàng tuần những ngày lễ hay chay tịnh, thăm viếng bệnh nhân, sắp xếp cho vị linh mục đến ban bí tích xức dầu nếu là bệnh nặng, thu nhận tiền bạc dâng cúng của tín hữu để mua nhang đèn và những gì cần thiết cho nhà thờ...” (Mai Đức Vinh, Ibidem).
32. Đội ngũ tông đồ giáo dân đã nêu gương can đảm tuyên xưng đức tin
Nhưng kết quả lớn nhất mà đội ngũ tông đồ giáo dân đã làm cho các bậc chủ chăn cũng như giáo hội được thỏa mãn là gương can đảm tuyên xưng đức tin của họ trong những thời kỳ khó khăn nhất của lịch sử kitô giáo việt nam, những thời kỳ cấn đạo. Nhờ gương can đảm ấy người ta nhận ra sự cộng tác quảng đại và can đảm của quí chức vào thừa tác vụ của linh mục, hay đúng hơn, vào công cuộc truyền đạo và giữ đạo, vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Đức ông Mai Đức Vinh đã nêu ra những trường hợp tiêu biểu sau đây.
1) Bắt giam toàn bộ quí chức công giáo
Năm 1859: Vào khoảng trung tuần tháng 10.1859, chiếu theo các sắc lệnh của vua, quan triều tiến hành bắt giam những quí chức các họ đạo. Trên toàn quốc, những quí chức trên năm mươi tuổi bị lùng bắt. Nhà tù chẳng mấy chốc trở nên đầy ứ. Những tù nhân bất hạnh này không được vua cho cơm ăn, nên các thừa sai phải chu cấp cho họ. Những cuộc bắt giam hàng loạt này đã làm sụp đổ cơ cấu tổ chức và gây hoảng loạn trong các họ đạo. Người ta khiếp sợ nghĩ đến những hành quyết sắp ập xuống trên những tù nhân này. Tiếng đồn về một cuộc tàn sát tận tuyệt đã loan truyền khắp các tỉnh thành.
Năm 1861: Tiếp đó, vào năm 1861, quan triều thi hành sắc lệnh phát vãng toàn diện: Những quí chức bị bắt giam cầm từ hai năm nay và tất cả giáo dân trai tráng đều vắng bóng, trong các làng chỉ còn những người già cả, tàn tật, đàn bà, con nít và một vài người bần cùng, vì bị quên sót hay được ân huệ.
Lúc này, quan triều lùng bắt khắp nơi. Rút kinh nghiệm, họ bắt giam cả những tín hữu đã bỏ đạo, bởi vì, theo nhà vua: “Chúng không thành thực bỏ đạo và vẫn mê muội với giáo thuyết sai lạc của chúng”. Vào tháng 5.1860, đức cha Lefebvre viết về tình hình ở Sài Gòn: “Những cuộc bắt bớ tại khắp nơi gia tăng gấp đôi cường độ. Chưa từng bao giờ trong vòng một năm lại có nhiều người tuyên xưng đạo và nhiều người tử vì đạo đến như vậy. Hiện tại, tôi đang có 396 tín hữu bị rên xiết dưới gông cùm và xiềng xích ngục tù! Con số này còn gia tăng trong suốt các năm 1860 và 1861 với sự bắt giam những quí chức của các họ đạo thuộc giáo phận”
2) Một vài dẫn chứng đặc biệt
Vào năm 1647, tại tỉnh Quảng Bình, sáu tín hữu bị bắt giam, hai người trong số đó bị tử hình: Một người là Alexis, quan võ trong đạo quân triều đình. Người kia là ông trùm họ đạo, tên là Augustinô.
Ngày 9.1.1665, Chúa Hiền Vương cho quân lùng bắt giáo dân họ đạo Dinh Cát, trong số đó có ông trùm Têphanô và sáu người đàn anh trong họ bị lên án chặt đầu.
Ngày 9.12.1888, tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Cái Mơn bị một toán quân xâm nhập. Sau khi cướp phá, chúng tra gông cùm các ông trùm trưởng, nữ tu bề trên Matta Lành và nữ tu Elisabeth Ngộ, rồi dẫn điệu họ về Vĩnh Long. Đồng thời, chúng bắt giam 5 người trong số những quí chức của các họ đạo vùng Cái Môn. Một trong những quí chức, ông Gioan Hoan, là trùm của họ đạo và lý trưởng của làng, ông đã tuyên chứng một đức tin bất khuất.
Vào năm 1859: Vào đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 1.1859, họ đạo Dầu Nước, vùng phía Tây miền truyền giáo, bị một toán ít ra là ba trăm quân lính xâm nhập giữa đêm khuya. Họ đạo này bị tố lên quan triều tỉnh Châu Đốc về tội chứa chấp một giáo sĩ thừa sai Âu Châu, một linh mục Việt Nam, có một tu viện và một thánh đường xinh đẹp. Vị thừa sai nói đây không ai khác là cha M. Pernot, trở về làm giám đốc chủng viện ở Paris vào cuối năm 1860. Sự tận tâm của ông trùm Lý Phụng đã đưa cha M. Pernot vượt thoát. Nhưng khi trở về, ông Lý Phụng bị quân hầu bắt trói. Ngày 13.7.1859, ông Lý Phụng và cha Quy bị kết án tử hình. Ngày 13.2.1879, cả hai vị được đức giáo hoàng Léon XIII tuyên phong bậc Đáng Kính, đức giáo hoàng Piô X suy tôn bậc Chân Phước, ngày 02.05.1909 và đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong bậc Hiển Thánh ngày 19.06.1988. (Mai Đức Vinh, Ibid., tr. 74-76)
LỜI KẾT
Công việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân đã được các Giám mục Đại Diện Tông Tòa chỉ đạo thực hiện, song song với các công việc truyền giáo, đào tạo hàng giáo sỹ địa phương và quản trị giáo phận. Việc đào tạo này đã được thể hiện ngay từ buổi đầu, trong th ế k ỷ XVII, qua ba khía cạnh: hướng dẫn, gìn giữ và tham gia quản trị. Đội ngũ tông đồ giáo dân được đào tạo, trong suốt ba thế kỷ XVII, XVIII và XIX đều chính yếu chỉ xoay quanh các thành phần ban « Hội Đồng Quý Chức ».
Trong luận án tiến sỹ thần học mục vụ về « Hội Đồng Quý Chức » bảo vệ tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinô tại Rôma năm 1977, Đức Ông Mai Đức Vinh, sau khi đã trình bày tỷ mỷ về lịch sử đại cương của Giáo Hội Việt Nam, Diễn tiến lịch sử công trình tổ chức Hội Đồng Quý Chức, khuôn mặt Họ Đạo Việt Nam, Tham gia vào Thừa tác vụ Thánh Hóa, Giảng Huấn và Quản Trị, Hội Đồng Quý Chức dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II, đã đi đến một kết luận như sau: « Vào năm 1533, Tin Mừng bắt đầu được truyền rao ở Việt Nam và « người trưởng nữ của Giáo Hội tại Viễn Đông » chào đời. Kể từ năm 1580, sự đàn áp đạo giáo nổ bùng và kéo dài cho đến năm 1580, tức là trong vòng 300 năm. Đồng thời, giặc giã và loạn lạc liên miên. Giáo Hội Việt Nam lớn lên trong những đàn áp và chiến tranh. Đó là một sự thật lịch sử ngoạn mục. Sau hồng ân của Thiên Chúa và hoạt động của Chúa Thánh Thần, một trong những nhân tố chính yếu đã củng cố và phát triển Giáo Hội Việt Nam trong những điều kiện như thế, đó là « Quý Chức Họ Đạo Tham Gia Vào Các Thừa Tác Vụ Của Linh Mục » (Mai Đức Vinh, O.c., tr. 338).
Trước Đức Ông Mai Đức Vinh, cha Cadière, một thừa sai lão luyện và một cha sở nổi tiếng của địa phận Huế, cũng đã có một kết luận tương tự: « Từ nhiều thế kỷ qua, tổ chức Hội Đồng Quý Chức đã cống hiến nhiều lợi ích to lớn. Nếu Giáo Hội Công Giáo được tồn tại giữa dân chúng Việt Nam thì một phần lớn là nhờ có tổ chức sáng suốt này trong các họ đạo. Chính nhờ vào hoạt động của các quý chức mà các tín hữu luôn trung thành gắn bó với đạo giáo của họ mặc dù phải trải qua những bách hại lâu dài và đẵm máu » (Ibidem).
Paris, ngày 15/04/2010
Ghi chú: Sau bài này, loạt bài « MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM » sẽ tạm ngưng trong mấy tháng và sẽ tiếp tục lại vào sau hè 2010.
Bài 13: Đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân
Qua sắc chỉ « Super Cathedram » ngày 09/09/1659, Tòa Thánh đã trao cho các Giám mục Đại diện Tông Tòa sứ mệnh truyền giáo tại Đàng Trong và Đàng Ngoài. Để thực hiện sứ mệnh này, công việc quan trọng nhất đã được rõ rệt xác định là việc quản trị các địa phận truyền giáo và việc đào tạo giáo sỹ địa phương. Các Đại Diện Tông Tòa đã thực hiện hai công việc này một cách nhiệt tình và tích cực ngay từ buổi đầu. Song song với hai công việc ấy, các ngài còn thực hiện nhiều công việc khác, quan trọng không kém, đặc biệt là việc đào tạo các tu sĩ, phát triển Hội Thầy Giảng, lập từ thời các cha Dòng Tên và lập Dòng Mến Thánh Giá năm 1670 và việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân. Trong bài này, chúng ta đặc biệt chú trọng đến công việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, trong buổi đầu, vào thế kỷ XVII và những kết quả của nó trong hai thế kỷ XVIII và XIX.
1. Xác định những nguyên tắc nền tảng cho việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, trong Công Đồng Ayuthia 1664
Trong bản « Chỉ dẫn thừa sai », tài liệu căn bản của Công Đồng Ayuthia 1664, việc đào tạo giáo dân rõ rệt chiếm một chỗ quan trọng hơn cả, chiếm sáu trên 10 chương của Chỉ Dẫn. Ba chương III, IV và V dành cho việc rao giảng Tin Mừng cho lương dân, Hai chương VI và VII dành cho dự tòng, chương VIII dành cho tân tòng và chương IX dành cho « Những Kitô hữu tòng giáo lâu năm ».
Chương IX về « Những Kitô hữu tòng giáo lâu năm », trước nhất đã đưa ra lời xác định tổng quát. Công đồng viết: « Các vị Đại diện Tông Tòa phải có trách nhiệm không những với người dự tòng và tân tòng mà còn với những tín hữu lâu năm, trách nhiệm của người cha đối với con cái, của người chủ chăn với giáo dân, của người thầy với học trò. Vậy phải yêu mến, dẫn dắt, dậy dỗ họ và phải dành sự chăm sóc hơn mức bình thường vào việc hướng dẫn cũng như giáo dục họ. Nhưng sự trung thành làm tròn bổn phận này, phải kéo theo cả sự an ủi vỗ về, và công việc này sẽ sinh hoa kết trái: tức là càng đào tạo được những tín hữu đạo đức thánh thiện, thì càng phụ được việc các vị thừa sai, sẽphản chiếu nơi chính bản thân sự tinh tuyền của Giáo Hội, sẽ lôi kéo được những người bất trung bởi hương thơm nhân đức của mình, đặt họ tự nguyện téúng phục ách êm ái của Chúa chúng ta. Trách nhiệm của người mục tử rất phúc tạp, bởi số lượng và tính đa dạng của những bổn phận; chúng tôi nhận thấy nên thu gọn việc giải thích thành ba điểm cơ bản: hướng dẫn, gìn giữ và cai quản đoàn chiên được giao phó cho họ chăm sóc ». (François Pallu, Pierre Lambert de la Motte, Nhắn nhủ các thừa sai, trong Tòa GM Kon Tum, Khơi nguồn tiến bước, Lưu hành nội bộ, 2004, tr. 201)
Sau lời xác định tổng quát trên, lần lượt ba trách nhiệm của các mục tử đối với việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, mà các ngài gọi là trách nhiệm đối với các tín hữu đã tòng giáo lâu năm, đã được quảng diễn: trách nhiệm giáo huấn giáo dân; trách nhiệm gìn giữ giáo dân; và trách nhiệm cai quản đoàn chiên.
11. Trách nhiệm hướng dẫn các tín hữu
Nhiệm vụ đầu tiên của người mục tử là dẫn đoàn chiên được giao phó đến đồng cỏ, nghĩa là họ có trách nhiệm tìm ra đồng cỏ hoặc thức ăn phù hợp với đoàn chiên và cung cấp cho chúng. Thức ăn này là; lời giáo huấn và sự yểm trợ bước đầu về tinh thần và cả vật chất nữa. Vậy, người mục tử - thừa sai phải chăm chú toàn tâm vào việc cung cấp cho các tín hữu Sữa Thần Linh của giáo lý thánh, củng cố họ bằng ơn sủng từ các Bí tích. Trong những nỗi đau khổ sâu xa,hãy nhỏ xuống trên họnhững giọt sương êm dịu của sự an ủi. Khi tàn tật, tăng thêm cho họ sức mạnh, giúp đỡ bằng những lời khuyên khi họ đau buồn, bằng sự bố thí khi họ thiếu thốn, năng đỡ họ hết thảy bằng sự hy sinh và cầu nguyệ, vây bọc họ trong sự ân cần của lòng vị tha đầy tình phụ tử. Bởi vì, mình đã vui vẻ hiến cả cuộc đời cho giáo dân chưa, nếu không cho họ những thứ đó ? (Ibidem, tr. 202).
12. Trách nhiệm gìn giữ gìn giữ các tín hữu
Về trách nhiệm gìn giữ các tín hữu, Công Đồng nêu ra ba công việc phải làm: Xua đuổi sói xa khỏi chuồng, Dẫn những con chiên lạc về và liều mình cứu chúng.
« Vậy người mục tử sẽ là người gieo kinh hoàng cho những con sói tham mồi luôn đe dọa đoàn chiên của Chúa. Duổi cho chúng chạy bằng sức mạnh kêu gào. Vậy phải nổi dậy bằng nghị lực chống lại những hào nhoáng của ma quỷ, sự quyến rũ mà chúng dùng hằng ngày để bắt chộp được sự nhẹ dạ của con chiên. Đừng để cho quen phạm tội công khai mà không bị phạt, đây là nguyên nhân gây gương xấu cho những người yếu đuối, cũng đừng để một cơn dịch truyền nhiễm và nguy hại nào len lỏi vào các linh hồn, dặc biệt có một số tật xấu của tính xácthịt là nguy cơ sa sútcho những cộngđoàn Kitô giáo.,….
Khi cơn thịnh nộ của những tên bạo chúa nổi lên thì phải an ủi đoàn chiên, năng cho họ những lời khích lệ, cổ vũ họ, bảo vệ và bênh vực họ bằng những lời huấn giáo thành ính và bằng lời cầu nguyện của mình.
Thứ đến, phải ân cần đi tìm những tâm hồn lầm lạc; Và khi đã tìm thấy, hãy vác lên vai, không quản mệt nhọc, mồ hôi và che chở để đưa chúng về chuồng. Những con tự mìh trở về thì hãy đón nhận chúng với lòng thương yêu đầy tình phụ tử, sự kiên nhẫn của mình sẽ trị được những con bướng bỉnh nhất và để có thể cứu chúng hết thảy, phải ưng chịu sự yếu đuối của từng con.
Cuối cùng, người mục tử phải nhớ lại rằng Chúa Giêsu mục tử nhân lành đã hiến mạng vì đoàn chiên: không có công việc nào làm mình chán nản, không nghịch cảnh nào làm mình ngã gục, không nguy hiểm nào làm mình khiếp sợ; Nếu có gì liên quan đến ơn cứu độ con chiên, phải bênh vực hết thảy, ngay cả việc nguy hiểm trực tiếp đến mạng sống, ngay khi việc giải thoát bị lâm nguy, ngay khi họ cần sự nâng đỡ cho lòng tin bị lung lay, cần đến người thừa tác các Bí tích, người hướng dẫn, người bảo trợ, cố vấn hay làm chỗ dựa. …(Ibidem, tr. 202-205).
13. Trách nhiệm tuyển chọn một đội ngũ giáo dân tham gia việc quản trị mục vụ
Trách nhiệm tuyển chọn một đội ngũ giáo dân tham gia việc quản trị mục vụ có nghĩa là: Trong tầt cả các giáo đoàn, tùy thuộc vào tầm quan trọng của nó, người ta sẽ phải chọn một số giáo dân để giúp linh mục tham gia việc quản trị mục vụ.
Bốn điều kiện để tuyển chọn những người giáo dân này là:
• Họ « phải đặc biệt hơn những giáo dân khác bởi sự hiểu biết về giáo lý Kitô giáo
• bởi lòng sùng đạo nhiệt thành và đời sống gương mẫu của họ
• Những giáo dân được tuyển chọn này trước tiên phải tuyên xưng đức tin và tuyên hứa giảng dậy cho dân chúng không chút thay đổi nào với giáo lý thuần chất và toàn vẹn giống như họ đã nhận từ các thừa sai
• Tuyên thệ không bao giờ được biển thủ đồ tế lễ của các tín hữu cho việc xử dụng phàm tục của cá nhân hay kẻ khác.
Công việc của họ gồm những gì ? Đặc biệt trong những giáo xứ không có linh mục, họ phải làm những việc sau đây:
« Họ phải lo việc cầu kinh cho các tín hữu tụ họp nhau vào mỗi chủ nhật hay lễ trọng.
« Vào những dịp này, sau khi đã đọc kinh tin, kinh thờ lậy và kinh cám ơn, rồi các kinh sáng, họ giúp giáo dân hướng lòng về Tòa Thánh để rước lễ thiêng liêng. Những lời nguyện mà họ đọc phải được Thánh Bộ hay Ðức Giám Mục duyệt xét trước. Theo lời Vị Tông Ðồ Dân Ngoại dậy rằng phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng (Tim I, ch. 2, 1-2), họ phải nhắc bảo cho các tín hữu rằng trong các chủ nhật và lễ trọng, trước khi lui khỏi nhà thờ, phải đọc ba lần Kinh Chủ Nhật và Kinh Thiên Thần Truyền Tin để cầu cho việc truyền bá đức tin và mở rộng giáo hội; cho Ðức Thánh Cha La Mã; cho giám mục và các chủ chăn; cho các vua chúa và quân quan; cho những người có tội được Chúa tha thứ và quay trở về đường ngay của Chúa; cho những người rối đạo được biết tuân phục giáo hội công giáo; cho lương dân được biết rời bỏ lầm lẫn mà gắn bó tin vào Chúa Kitô; cho các linh hồn đã qua đời, đặc biệt là những linh hồn đã an nghỉ trong giáo hội, được khỏi ách luyện hình; cho các dân nước được thịnh vượng mà thoát khỏi tai ương bất hạnh.
« Thêm vào đó, như của ăn nuôi dưỡng linh hồn bổn đạo, họ đọc sách đạo do Ðức Giám Mục Ðại Diện Tông Tòa chỉ dậy, hoặc về những lý lẽ đức tin, hoặc về những điều khác cần thiết cho sự rỗi.
« Ho cũng đọc lịch báo trước cho giáo dân các ngày lễ, ngày chay, chiều trước lễ,… có thể có trong tuần và những việc mà giáo dân phải làm để giữ đúng luật đạo thánh.
« Họ công bố các lễ cưới và tìm xem những ngăn trở, nếu có.
« Họ Công bố các lệnh truyền của giám mục và đọc các lời rao theo hoàn cảnh. Tất cả những việc đó đều phải làm vào ban sáng.
« Về ban chiều, nếu có thể, họ lại tụ họp giáo dân lần nữa để đọc kinh, xét mình và đọc kinh chiều.
« Ðặc biệt họ phải lo lắng rửa tội cho con nít và người lớn, nếu họ xin, và vào lúc lâm tử.
« Họ cũng đặc biệt lo lắng cho các bệnh nhân, cứu giúp người hấp hối, chôn cất kể chết và xin giáo xứ cầu nguyện cho họ; như vậy, họ sẽ cố gắng gây lên lòng sùng kính các linh hồn nơi luyện tội mà tránh cho người ngoại đạo cái thiên kiến rằng chỉ có họ mới biết tôn kính tổ tiên.
« Họ dậy giáo lý và lòng đạo cho các trẻ em theo cách thức và thói quen đã được truyền dậy, với một lòng xác tín rằng công việc giáo dục giới trẻ là một trong những việc quan trọng nhất.
« Họ bảo trợ các trẻ mồ côi, các goá phụ công giáo và cả các góa phụ ngoại đạo.
« Chẳng bao giờ họ xen mình vào những cuộc kiện cáo giữa những giáo dân, để quyết định; nhưng họ gắng sức khôn ngoan giải hòa.
« Họ chứng kiến các cuộc cử hành hôn lễ, cùng với hai người làm chứng.
« Và để cho các việc thánh được coi là thánh, họ phải áp dụng những luật lệ rõ rệt cho lễ nghi rửa tội trẻ em và ngưới lớn, cho việc giúp đỡ kẻ hấp hối, tẩm liệm kẻ chết, việc ma chay, việc phó dâng linh hồn, việc rao hôn phối, việc cử hành hôn phối và tất cả những việc liên quan đến họ, theo như luật giáo hội đòi hỏi.
« Họ cần có một cuốn sổ ghi chép những lý do cho phép cử hành mỗi dịp lễ trong nhà thờ và những kinh nguyện đặc biệt cho những lễ này.
« Họ có một cuốn sách trình bày những điểm chính yếu về đạo kitô, về các tội trọng, về những lời khuyên phúc âm, về 4 mục đích tối hậu ( Sự chết, sự phán xét, thiên đàng, hỏa ngục)
« Họ có tại nhà họ cuốn lịch các ngày lễ do các thừa sai soạn.
« Họ coi sóc thứ tự các sổ rửa tội, thêm sức, qua đời, hôn phối và lưu trữ tại nhà họ hay nhà hàng xóm, nếu an toàn hơn.
« Nếu các trưởng giáo khu này không đủ sức làm hết những công việc đó, thì các thừa sai phải giúp họ. Như vậy, thứ nhất, để giúp giải quyết những vụ kiện tụng giữa các tín hữu, người ta có thể chỉ định vài ba người vị vọng để khởi sự nghe các người kiện trước khi trình lên quan tòa sự tranh chấp, hầu nghe theo sự phân xử phụ mẫu của họ, hầu nhân nhượng giao hòa với nhau. Nhưng để tránh bóng vía ngoại đạo, nhửng người trọng tài này phải tránh xuất hiện như là muốn tạo lập nên một loại tòa án mới.
« Thứ hai, cần phải đào tạo những thầy giáo kitô, để họ có thể cung cấp cho tuổi trẻ công giáo cũng như không công giáo những lời giảng dậy phù hợp với phong hóa của xứ sở; có thể chinh phục được thiện cảm của dân bản địa và có thể trải rộng khắp nơi hương thơm đạo thánh; như vậy họ có thể dậy bảo trẻ em kitô làm hết bổn phận đức ái.
« Cũng phải chọn những đàn bà công giáo đạo đức để làm công việc bà mụ, hầu họ không để một trẻ em nào chết mà không rửa tội, ngay cả khi chúng là những con của cha mẹ ngoại đạo.
« Sau cùng, các trưởng giáo khu này phải thường xuyên gởi các bản tường trình chi tiết về tình trạng tôn giáo trong những xứ mà họ được trao trách nhiệm coi sóc.(Trần văn Cảnh, Công Ðồng Thừa Sai Hải Ngoại đầu tiên Năm 1664 ở thủ đô AYUTHIA, nước Xiêm, http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=13&ia=644)
2. Những bước đầu đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, trong Công Đồng Phố Hiến 1670 và Công Đồng Hội An 1672
Những nguyên tắc tổng quát về việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, phác thảo trong Công Đồng Ayuthia 1664 đã được nhắc lại cho các thừa sai và giáo sỹ địa phương trong hai công đồng: Phố Hiến năm 1670 ở Đàng Ngoài và Công Đồng Hội An 1672 ở Đàng Trong.
21 Công đồng Phố Hiến 1670
Trong văn kiện Công Đồng Phố Hiến, địa phận Đàng Ngoài 1670, trên 34 khoản dự thảo, không kể các khoản đề cập đến việc đào tạo 11 khoản đã đề cập đến việc sồng đức tin của tín hữu, trong đó ba khoản 7, 8 và 21 đặc biệt lưu ý đến việc huấn luyện đội ngũ tông đồ giáo dân trong tất cả các công ciệc giúp đỡ các linh mục thực hiện công việc mục vụ trong hai sứ vụ chính: điều hành giáo xứ và truyền đạo cho lương dân.
Khoản 7: Ở mỗi nhà thờ có nhiều tín hữu, người ta sẽ đặt những tín hữu đạo đức nhất, lo việc kinh nguyện trong những ngày lễ buộc, cũng như lo cho những ngày khác.
Khoản 8: Những chức việc nêu trên sẽ báo cáo công việc của mình và của giáo dân cho các Thầy Giảng, và các Thầy cũng sẽ báo cáo như vậy về công việc mình làm, cũng như của các Chức Việc cho vị quản nhiệm (linh mục) của xứ mà họ thuộc thẩm quyền.
Khoản 21: Những (linh mục) quản nhiệm, thầy giảng chức việc, hãy thúc dục các tín hữu tuân giữ và bước theo con đường hẹp, thúc dục họ suy niệm, ít là vào những ngày lễ buộc, và trong những ngày ấy, suy gẫm đặc biệt về cuộc Tử Nạn và Thương Khó của Chúa chúng ta là Đức Kitô. (Ibidem, tr. 246, 249)
22. Công Đồng Hội An 1672
Về những quyết định của Công Đồng Hội An địa phận Đàng Trong, liên hệ đến việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, Đức Ông Mai Đức Vinh đã tóm tắt như sau; « Hai năm sau công nghị Bắc Kỳ, từ ngày 26-10 đến ngày 18-11-1672, công nghị Nam Kỳ được triệu tập tại thành phố Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng Nam khi đó trực thuộc miền truyền giáo Nam Kỳ. Công nghị này cũng do đức cha Lambert de la Motte, vị giám quản đầu tiên của giáo phận Nam Kỳ (1659-1679), chủ tọa. Công nghị đã chú trọng đến đời sống tín hữu, sự tổ chức những giáo sở và những họ đạo. Chính vì thế, bên cạnh những nghị quyết về hôn nhân, ban hành các bí tích, còn có những nghị quyết liên quan đến định chế của quí chức họ đạo, những nghị quyết về những bổn phận của quý chức. Chúng ta có thể lược tóm như sau:
* Cần thiết phải chọn lựa những quí chức cho những họ đạo tương đối đông đảo. Quí chức phải là những tín hữu đức hạnh và khôn ngoan.
* Nhiệm vụ của quí chức trong những khi vị linh mục và các thầy giảng vắng mặt là chăm lo trước tiên những buổi cầu nguyện, rao lịch những ngày kiêng thịt, dạy giáo lý, thăm viếng bệnh nhân, rửa tội cho trẻ em và người lớn, tuy nhiên chỉ rửa tội cho người lớn sau khi biết rõ tình trạng hôn phối của họ, quản lý sổ hôn phối và sổ tửù, giúp đỡ tín hữu sống Phúc Âm.
Như thế, vai trò và nhiệm vụ của quí chức đã được thừa nhận và qui định bởi giáo quyền. Họ không chỉ là những tín hữu đức hạnh, mà còn là những cộng tác viên của linh mục, những ông trùm của họ đạo. Trong thời buổi cấm cách, trong lúc thiếu vắng linh mục, họ là những người thay thế để củng cố và làm vươn tiến sinh hoạt họ đạo về mặt thiêng liêng, luân lý đạo đức cũng như về mặt vật chất ». (Mai Đức Vinh, Hội Đồng Quý Chức, Paris: GXVN Paris, 2008, tr. 73-74).
3. Những kết quả quan trọng do đội ngũ tông đồ giáo dân đã thực hiện, đặc biệt trong thời cấm đạo thế kỷ XIX
Những quyết định đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân quyết định ở hai Công Đồng địa phương đã được đem ra áp dụng, Kết quả là nhiều giáo dân có khả năng và đạo đức đã được đào tạo. Đến lượt họ, họ đi đào tạo giáo dân. Mà công việc đào tạo lớn vô giá mà họ đã thực hiện là nêu gương can đảm tuyên xưng đức tin, nhờ đó họ làm vững đức tin của các giáo dân khác.
31. Cha Deydier đã thành lập đội ngũ tông đồ giáo dân ngay từ năm 1668, 1680 ở Đàng Ngoài
Những điều mà Công Đồng Ayuthia 1664, Công Đồng Phố Hiến 1670 và Công Đồng Hội An 1672 đã nêu ra, liên hệ đến việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân, mà vào thời buổi đầu nhắm nhất vào những chức việc trong Hội Đồng Quý Chức, trong thực tế đã được thực hiện trên cánh đồng truyền giáo.
Sau đây là « trích thư của cha Deydier viết cho ban giám đốc chủng viện Thừa Sai Hải Ngoại ngày 28.7.1668, và một bản tường trình khác về tình hình truyền giáo năm 1680. Cả hai bản văn xác nhận rõ ràng: hàng ngũ quí chức được tổ chức một cách thực tế từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
«Từ khi tôi làm xong công việc sắp đặt mọi sự cho được tốt đẹp nhất, tôi đã có thể thiết dựng 5 ngôi thánh đường trong thành phố vương đô này, và đặt 6 vị (quí chức) nhiệt thành và học thức nhất trong các tín hữu tại mỗi thánh đường, vì tôi muốn đi khắp các làng để rao giảng Tin Mừng…».
«…Trong mỗi thánh đường, từ hàng ngũ giáo dân người ta chọn ra một người có đời sống gương mẫu và không mấy bị câu thúc bởi công kia việc nọ để giúp việc nhà thờ, hội họp giáo dân, xướng kinh hạt những ngày chủ nhật và ngày lễ, đọc sách thiêng liêng, giảng dạy, thông báo lịch hàng tuần những ngày lễ hay chay tịnh, thăm viếng bệnh nhân, sắp xếp cho vị linh mục đến ban bí tích xức dầu nếu là bệnh nặng, thu nhận tiền bạc dâng cúng của tín hữu để mua nhang đèn và những gì cần thiết cho nhà thờ...” (Mai Đức Vinh, Ibidem).
32. Đội ngũ tông đồ giáo dân đã nêu gương can đảm tuyên xưng đức tin
Nhưng kết quả lớn nhất mà đội ngũ tông đồ giáo dân đã làm cho các bậc chủ chăn cũng như giáo hội được thỏa mãn là gương can đảm tuyên xưng đức tin của họ trong những thời kỳ khó khăn nhất của lịch sử kitô giáo việt nam, những thời kỳ cấn đạo. Nhờ gương can đảm ấy người ta nhận ra sự cộng tác quảng đại và can đảm của quí chức vào thừa tác vụ của linh mục, hay đúng hơn, vào công cuộc truyền đạo và giữ đạo, vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Đức ông Mai Đức Vinh đã nêu ra những trường hợp tiêu biểu sau đây.
1) Bắt giam toàn bộ quí chức công giáo
Năm 1859: Vào khoảng trung tuần tháng 10.1859, chiếu theo các sắc lệnh của vua, quan triều tiến hành bắt giam những quí chức các họ đạo. Trên toàn quốc, những quí chức trên năm mươi tuổi bị lùng bắt. Nhà tù chẳng mấy chốc trở nên đầy ứ. Những tù nhân bất hạnh này không được vua cho cơm ăn, nên các thừa sai phải chu cấp cho họ. Những cuộc bắt giam hàng loạt này đã làm sụp đổ cơ cấu tổ chức và gây hoảng loạn trong các họ đạo. Người ta khiếp sợ nghĩ đến những hành quyết sắp ập xuống trên những tù nhân này. Tiếng đồn về một cuộc tàn sát tận tuyệt đã loan truyền khắp các tỉnh thành.
Năm 1861: Tiếp đó, vào năm 1861, quan triều thi hành sắc lệnh phát vãng toàn diện: Những quí chức bị bắt giam cầm từ hai năm nay và tất cả giáo dân trai tráng đều vắng bóng, trong các làng chỉ còn những người già cả, tàn tật, đàn bà, con nít và một vài người bần cùng, vì bị quên sót hay được ân huệ.
Lúc này, quan triều lùng bắt khắp nơi. Rút kinh nghiệm, họ bắt giam cả những tín hữu đã bỏ đạo, bởi vì, theo nhà vua: “Chúng không thành thực bỏ đạo và vẫn mê muội với giáo thuyết sai lạc của chúng”. Vào tháng 5.1860, đức cha Lefebvre viết về tình hình ở Sài Gòn: “Những cuộc bắt bớ tại khắp nơi gia tăng gấp đôi cường độ. Chưa từng bao giờ trong vòng một năm lại có nhiều người tuyên xưng đạo và nhiều người tử vì đạo đến như vậy. Hiện tại, tôi đang có 396 tín hữu bị rên xiết dưới gông cùm và xiềng xích ngục tù! Con số này còn gia tăng trong suốt các năm 1860 và 1861 với sự bắt giam những quí chức của các họ đạo thuộc giáo phận”
2) Một vài dẫn chứng đặc biệt
Vào năm 1647, tại tỉnh Quảng Bình, sáu tín hữu bị bắt giam, hai người trong số đó bị tử hình: Một người là Alexis, quan võ trong đạo quân triều đình. Người kia là ông trùm họ đạo, tên là Augustinô.
Ngày 9.1.1665, Chúa Hiền Vương cho quân lùng bắt giáo dân họ đạo Dinh Cát, trong số đó có ông trùm Têphanô và sáu người đàn anh trong họ bị lên án chặt đầu.
Ngày 9.12.1888, tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Cái Mơn bị một toán quân xâm nhập. Sau khi cướp phá, chúng tra gông cùm các ông trùm trưởng, nữ tu bề trên Matta Lành và nữ tu Elisabeth Ngộ, rồi dẫn điệu họ về Vĩnh Long. Đồng thời, chúng bắt giam 5 người trong số những quí chức của các họ đạo vùng Cái Môn. Một trong những quí chức, ông Gioan Hoan, là trùm của họ đạo và lý trưởng của làng, ông đã tuyên chứng một đức tin bất khuất.
Vào năm 1859: Vào đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 1.1859, họ đạo Dầu Nước, vùng phía Tây miền truyền giáo, bị một toán ít ra là ba trăm quân lính xâm nhập giữa đêm khuya. Họ đạo này bị tố lên quan triều tỉnh Châu Đốc về tội chứa chấp một giáo sĩ thừa sai Âu Châu, một linh mục Việt Nam, có một tu viện và một thánh đường xinh đẹp. Vị thừa sai nói đây không ai khác là cha M. Pernot, trở về làm giám đốc chủng viện ở Paris vào cuối năm 1860. Sự tận tâm của ông trùm Lý Phụng đã đưa cha M. Pernot vượt thoát. Nhưng khi trở về, ông Lý Phụng bị quân hầu bắt trói. Ngày 13.7.1859, ông Lý Phụng và cha Quy bị kết án tử hình. Ngày 13.2.1879, cả hai vị được đức giáo hoàng Léon XIII tuyên phong bậc Đáng Kính, đức giáo hoàng Piô X suy tôn bậc Chân Phước, ngày 02.05.1909 và đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong bậc Hiển Thánh ngày 19.06.1988. (Mai Đức Vinh, Ibid., tr. 74-76)
LỜI KẾT
Công việc đào tạo đội ngũ tông đồ giáo dân đã được các Giám mục Đại Diện Tông Tòa chỉ đạo thực hiện, song song với các công việc truyền giáo, đào tạo hàng giáo sỹ địa phương và quản trị giáo phận. Việc đào tạo này đã được thể hiện ngay từ buổi đầu, trong th ế k ỷ XVII, qua ba khía cạnh: hướng dẫn, gìn giữ và tham gia quản trị. Đội ngũ tông đồ giáo dân được đào tạo, trong suốt ba thế kỷ XVII, XVIII và XIX đều chính yếu chỉ xoay quanh các thành phần ban « Hội Đồng Quý Chức ».
Trong luận án tiến sỹ thần học mục vụ về « Hội Đồng Quý Chức » bảo vệ tại Đại Học Giáo Hoàng Thánh Thomas Aquinô tại Rôma năm 1977, Đức Ông Mai Đức Vinh, sau khi đã trình bày tỷ mỷ về lịch sử đại cương của Giáo Hội Việt Nam, Diễn tiến lịch sử công trình tổ chức Hội Đồng Quý Chức, khuôn mặt Họ Đạo Việt Nam, Tham gia vào Thừa tác vụ Thánh Hóa, Giảng Huấn và Quản Trị, Hội Đồng Quý Chức dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II, đã đi đến một kết luận như sau: « Vào năm 1533, Tin Mừng bắt đầu được truyền rao ở Việt Nam và « người trưởng nữ của Giáo Hội tại Viễn Đông » chào đời. Kể từ năm 1580, sự đàn áp đạo giáo nổ bùng và kéo dài cho đến năm 1580, tức là trong vòng 300 năm. Đồng thời, giặc giã và loạn lạc liên miên. Giáo Hội Việt Nam lớn lên trong những đàn áp và chiến tranh. Đó là một sự thật lịch sử ngoạn mục. Sau hồng ân của Thiên Chúa và hoạt động của Chúa Thánh Thần, một trong những nhân tố chính yếu đã củng cố và phát triển Giáo Hội Việt Nam trong những điều kiện như thế, đó là « Quý Chức Họ Đạo Tham Gia Vào Các Thừa Tác Vụ Của Linh Mục » (Mai Đức Vinh, O.c., tr. 338).
Trước Đức Ông Mai Đức Vinh, cha Cadière, một thừa sai lão luyện và một cha sở nổi tiếng của địa phận Huế, cũng đã có một kết luận tương tự: « Từ nhiều thế kỷ qua, tổ chức Hội Đồng Quý Chức đã cống hiến nhiều lợi ích to lớn. Nếu Giáo Hội Công Giáo được tồn tại giữa dân chúng Việt Nam thì một phần lớn là nhờ có tổ chức sáng suốt này trong các họ đạo. Chính nhờ vào hoạt động của các quý chức mà các tín hữu luôn trung thành gắn bó với đạo giáo của họ mặc dù phải trải qua những bách hại lâu dài và đẵm máu » (Ibidem).
Paris, ngày 15/04/2010
Ghi chú: Sau bài này, loạt bài « MỪNG NĂM THÁNH 2010, XEM LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM » sẽ tạm ngưng trong mấy tháng và sẽ tiếp tục lại vào sau hè 2010.