Chuyện Phiếm Đạo Đời: Suy tư Lời Chúa qua cuộc sống - Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay

“Năm xưa, khi tôi bước chân ra đi,”

Đôi ta cùng đứng bên hàng tường vi.

Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi,

Đừng nói tiếng phân ly.

(Hoàng Quý – Cô Láng Giềng)

(1Cr 6: 19)

Lại nói thêm một lần nữa, “Em” đây vẫn không là “Em” của tôi, khi em nói: “Em sẽ chờ”. Và tôi đây, cũng chẳng là đấng bầy “tôi” hôm nay, đâu đấy nhé! Bởi giờ đây, hôm nay, “tôi” đây cũng đã khác nhiều. Khác, là bởi vì: bây giờ tôi đã biết. Biết rằng:

“Tan mơ, trời xuân đôi môi thắm.

Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền.

Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn, dâng sóng.

Tan vỡ cuộc tình duyên.”

(Hoàng Quý – bđd)

Một lần nữa, lại thêm câu nói: đôi mắt của tôi đây, vẫn cứ “nhung đen mầu hạt huyền”, thật rất đúng. Thật hơn nữa, cả vào lúc: “tan mơ, trời xuân đôi môi thắm”. Cả vào khi “tan vỡ cuộc tình duyên.” Tình của tôi. Của em. Của mọi người, rày có vỡ tan/tan vỡ vì toàn thân tôi/thân em, nay cũng khác. Khác xưa, rất nhiều. Khác, cả một nỗi: người người vẫn nhìn tôi/nhìn em suốt nhiều hồi, cũng đâu nhận ra. Bởi, tôi và em, nay xem ra thế nào ấy. Bởi, toàn thân em/thân tôi bây giờ cứ lủng lẳng những khoen vàng vòng xanh trắng. Có “vân cẩu” vần vũ, với trăng sao. Bởi, mình tôi/mình em và mình người trẻ bây giờ, những đeo mang đủ mọi hình thù, khiến người nghệ sĩ khi xưa lại hát thêm:

“Hôm nay, trời xuân bao tuơi thắm,

Dừng gót, phiêu linh về thăm nhà.

Chân bước, trên đường đầy hoa đào rơi.

Tôi đã, hình dung nét ai đang cười.”

(Hoàng Quý – bđd)

Nét ai đang cười. Người có cười, đâu phải vì họ muốn hân hoan, chào đón một ai đó. Dù người đó, có là em. Mọi người cười, có thể vì vẫn nghĩ: tôi và em, nay như thể từ hành tinh nọ chợt bay đến. Mọi người cười, có thể vì hôm nay, vẫn nghe hát:

“Cô láng giềng ơi!

Nay mối duyên thơ đành đã lỡ rồi.

Chân bước xa xa dần, miền quê.

Ai biết cho bao giờ, tôi về...”

(Hoàng Quý – bđd)

Vâng. “Nét ai đang cười” mà tôi “hình dung (được)”, có thể là nét của em. Của, cô láng giềng ngày xưa ấy, cũng rất quen. Có thể là, của cộng đoàn buổi xa xưa thời tôi sống, nay mỗi người mỗi vẻ, vẫn cứ nhìn tôi/nhìn em bằng dáng vẻ xót xa. Cách biệt. Dị kỳ. Dị và kỳ, đến độ bạn bè gặp lại ai cũng hỏi. Cũng đưa ra một nhận định, như bạn Đạo nọ đã thẳng thắn phát biểu một cách công khai, như sau:

“Mấy năm gần đây, tôi thấy nhiều người lạ cũng như quen, dám cả gan vi phạm chốn “đền Chúa Thánh Thần”, rất trân trọng. Điều tôi muốn nói, là: ý chừng thiên hạ nay chẳng còn coi truyền thống đạo đức ra trò trống gì hết. Cái gì mà: trên mình họ, cứ “tòong teng” đủ mọi thứ. Nhìn thật kỹ, lại thấy có người còn vẽ đủ mọi hình thù xanh/đỏ, coi rất chướng. Vẽ thế rồi, lại còn phô trương khu vực kín đáo của thân mình có hình thù kỳ dị cho mọi người coi, thế có chết không. Hỏi ra mới biết, đó là nét “xâm mình” mà họ cho là tuyệt phẩm nghệ thuật, ở trên người. Thú thật, bản tôi cứ phải kêu lên: nghệ thuật đâu không biết, riêng tôi vẫn nghĩ là: các vị này vô hình chung đã đụng chạm vào truyền thống đạo đức nhân vị, của con người. Mà, một khi đụng chạm như thế, trước sau gì cũng sẽ bị Trời Phật quở mắng/trách phạt, cho coi. Vậy, ai có con có cháu vẫn đua đòi theo kiểu Tây/kiểu Mỹ, hãy coi chừng kẻo chúng sẽ xa rời lẽ Đạo.” (Phát biểu của một chị đạo đức rất Vêrônica trong buổi họp bàn chuyện nhân gian, sau giờ kinh tối lần hạt chung)

Là buổi họp mặt góp ý sau kinh tối, nên các vị nói ở đây có nhiều thứ để kể cho nhau nghe. Có vị nọ, có dáng dấp rất trí thức, đã xin mọi người quay về giòng lịch sử xưa cũ để xem xét những chuyện dễ có khunh hướng chạm vào truyền thống đạo đức của Đạo mình, ngõ hầu mọi người được yên tâm. Vị ấy bảo rằng:

“Tập tục vẽ hình trên thân thể, người xưa gọi là “xâm mình”, có từ thời cổ sử. Tôi nhớ, vào năm 1991 người dân ở nước Ý và Áo Quốc gì đó đã tìm ra một xác đông lạnh nằm trên núi tuyết có lịch sử lâu đời đến 3,300 năm trước Công nguyên. Trên thân xác người này, các nhà khảo cổ tìm thấy những hình xâm vân cẩu, rất lạ kỳ. Ở giữa hình, có cây thập tự với 6 đường cắt ngang. Có đường, dài tới 15cm.

Nhiều nhà khảo cổ khác cũng đã tìm ra ở Ai Cập, một số xác ướp có niên đại lên tới cả 2000 năm trước công nguyên, nữa. Ngay ở Ai Cập vào thời cổ sử, người ta cũng tìm ra xác của những người bị giam giữ có khắc tên của vị thần hoặc chữ Pha-ra-ô mà họ sùng bái.

Người Do thái cũng có một số tập tục liên quan đến chuyện sùng bái phụng thờ ngẫu thần của ngoại giáo. Cũng có tập tục rất lạ, không theo tập tục hoặc đạo đức của Do thái giáo. Vào thời Môsê, luật Do thái ngăn cấm chuyện vẽ hình lên thân xác con người nữa. Bản tôi có người bạn theo Tin Lành, một hôm, trong lúc đề cập đến chuyện này, anh ta nói với tôi là anh đọc sách Lêvi thấy có đoạn viết như sau: “Ngươi không được phép để những dấu cắt trên da thịt người chết hoặc có hình vẽ khó coi, trên thân xác của ngươi. Ta là Giavê Thiên Chúa nói với người điều đó.” (x. Lv 19: 28)

Chả là, câu chuyện bàn về những điều lạ trong thói quen giữ Đạo ngày hôm nay, nên bà con trong cuộc xem ra thấy quá hấp dẫn, bèn góp giọng cho vui, như sau:

“Theo tôi, con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Bởi thế, nên không ai được phép vẽ hình gì, dù chỉ một thánh giá nhỏ trên thân xác của mình hết. Nói cách khác, không chỉ mỗi hồn người được Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài thôi, mà cả thân xác mình nữa. Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì bọn mình lại càng phải tôn kính hình ảnh lành thánh ấy nữa chứ!”

Nghe chuyện, một nữ lưu ra chiều am hiểu nhiều truyện được viết trong Kinh thánh, đã tham gia ý kiến, như sau:

“Đọc Sách thánh, tôi nhớ một đoạn trong đó thánh Phaolô viết cho bổn đạo của ngài rằng: Anh em có biết rằng thân xác của anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự, hay không? Và anh em có được thân xác này, là do ân huệ Chúa ban không? Nếu vậy, anh em phải làm sáng danh Chúa bằng thân xác rất đáng kính trọng của mình chứ!”

Tham dự buổi đọc kinh tối hôm ấy, bần đạo chẳng dám đưa ra ý kiến nào hết, sợ mọi người cho rằng mình chẳng biết gì mà cũng thưa thốt, bởi thế nên hôm ấy thắng bé cứ là “dựa cột mà nghe”, thôi. Hẹn rằng, khi về nhà sẽ nghiên cứu thêm cho rõ, rồi sẽ hạ hồi tính lại. Nay nghiên cứu tuy chưa kỹ, bần đạo cũng đã biết, rằng: ở một số nước, tục lệ cắt da/xỏ thịt trên tai hoặc trên môi; hoặc tục vẽ lên thân người mình, là cách làm cho thân xác mình đẹp hơn lên. Có thể là, với nền văn hoá khác, những thứ ấy là để nói lên chức vụ/địa vị của người xâm/xỏ trong xã hội nhỏ của mình, mà thôi.

Đằng khác, nhiều nơi cũng có y hệt một tập tục giống như thế. Họ làm thế, là cốt ý chống đối chuyện gì đó vẫn có, trong phong tục/tập quán của dân tộc. Nhiều nơi, nhiều bộ tộc, vẫn giữ tục lệ cắt da/xỏ thịt, để chứng tỏ cho mọi người biết lòng can đảm của họ. Hoặc, người ấy chỉ muốn thề nguyền sẽ tuân thủ điều gì đó, trước mặt thần linh mà họ sùng bái. Có người làm vậy, là do tật bạo dâm/khổ dâm, thôi. Nói cách khác, đó cũng chỉ là thói tục rất khác người, và khác đời, ít khi thấy.

Có người còn duy trì phong tục/tập quán của bộ tộc, cứ thích vẽ lên người những hình thù quái đản, ghê rợn như hình quỷ hình ma, đầu lâu thần chết, hoặc cả đến hình thù Satan quỷ dữ, nữa. Nhất nhất, chỉ để chứng tỏ rằng họ không chịu thuần phục Thượng Đế hoặc vị thần dân tộc, mà bộ tộc cứ muốn du nhập vào xã hội.

Nhiều tập tục của Tây phương còn tiến bộ đến độ xâm/xỏ nhiều nơi trên mặt trên mũi, trên mí mắt/miệng lưỡi, thậm chí cả những nơi thầm kín trên thân xác mình nữa. Có người lại cho đó là cung cách để phô bày nét độc đáo, mới lạ của mình. Họ muốn những gì thật khác người, dù hình thù ấy có dị hợm lạ kỳ đi nữa, cũng chẳng sao! Có vị lại muốn tỏ ra là mình có tự do. Vẫn làm chủ thân xác mình. Như muốn bảo với mọi người rằng: tôi muốn làm gì thì tôi làm. Làm, trên thân tôi chứ có xâm phạm thân mình của ai khác đâu mà sao cứ thắc mắc. Ai không thích, xin đi chỗ khác chơi, nhờ bạn tí!

Đành rằng, mỗi người mỗi ý. Nhưng nói cho cùng, cũng nên quan tâm đến sức khoẻ của mình và của người chứ! Có loại xâm/xỏ trên mặt/mũi hoặc bộ phận nào khác trên thân xác, dễ gây nguy hiểm cho sức khoẻ. Đâu phải cứ xâm/xỏ cho thoả thích, để rồi khi nào chán sẽ bôi bỏ, cũng dễ thôi. Có trường hợp, chủ nhân muốn bôi bỏ hình thù xâm/xỏ đã chết dí trên thân mình, lúc đó có không thích nữa, cũng quá trễ. Bởi có bôi bỏ cách nào đi nữa, cũng sẽ để lại vết sẹo hoặc phản ứng phụ, rất khó coi.

Thật ra thì vấn đề này, cho đến nay, không thấy sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nhắc nhở gì đến chuyện ấy. Tuy nhiên, truyền thống trong Đạo, cũng tuỳ trường hợp, hoặc hoàn cảnh riêng biệt mà giải quyết. Thành thử, cuối cùng vấn đề vẫn là: chuyện mình làm, dù chỉ ảnh hưởng lên thân xác của riêng mình thôi, cũng liên quan đến người khác, trong nhóm hội cộng đoàn mình chung sống.

Để vấn đề không trở nên bi quan, phức tạp cũng nên đi vào truyện kể nhè nhẹ, sau đây:

“Truyện rằng:

Đệ tử nọ, một hôm cảm thấy đau khổ vì cha mẹ, bạn bè cứ chỉ tríchkhích bác những chuyện anh lỡ lầm vẽ vài hình trên thân xác của anh, lại coi đó như chuyện tày trời. Đổ sụp. Anh rất khổ, đến độ anh không bỏ được nỗi oán hờn, thù ghét cả bạn bè, lẫn người thân. Anh bèn tìm đến vị linh hướng lâu nay là người hiểu biết nhiều sự, vẫn giúp anh giải quyết chuyện riêng tư, theo cung cách dễ dàng. Nhẹ nhàng. Có tịnh tâm, suy nghĩ. Anh hỏi vị linh hướng một câu cũng nhẹ nhàng không kém:

-Thế, thày khuyên con phải làm gì bây giờ? Rũ bỏ nỗi ghen ghét, oán thù chăng?

Bậc thày linh hướng đáp:

-Anh hãy ngồi xuống mà tịnh tâm, và tha thứ cho những người ấy.

Ít hôm sau, đệ tử khổ đau tâm can, trở lại vấn kế một lần nữa. Anh thưa với thày:

-Dạ thưa thày, con đã thứ tha hết mọi người rồi. Kể như xong.

Nghe vậy, vị linh hướng lại nói tiếp:

-Như thế vẫn chưa xong đâu. Anh hãy về mà tịnh tâm. Mở lòng mình ra mà yêu thương hết mọi người. Cả những người đả kích/khích bác anh nữa.

-Thưa thày. Tha thứ thôi, đã là chuyện khó. Nay con phải thương yêu họ nữa sao? Thôi được, cứ để con cố gắng.

Tuần lễ sau, người đệ tử lại đến với bậc thày để vấn kế. Hôm ấy, anh tươi tỉnh khoe với thày mình là anh đã làm được việc thương yêu những người đối xử không phải phép với anh. Vị thày nghe vậy, bèn gật gù bảo:

-Như thế rất tốt. Giờ thì, anh hãy về cố gắng mà tịnh tâm, tri ân họ. Bởi, nếu họ không làm thế, thì anh đâu có cơ hội tiến bước trên con đường tâm linh với tâm tịnh.

Lần sau đó, người đệ tử trở lại với thày mình, lòng những tin rằng: lần này mình học được nhiều điều từ vị linh hướng rất biết điều, nên đã biết ơn mọi người, cả đến bạn bè người thân hoặc kẻ thù không ưa thích mình, và anh học được bài học tha thứ, lẫn yêu thương. Bậc thày linh hướng nghe anh kể, bỗng cười nhẹ nói:

-Vậy, anh hãy về mà tịnh tâm hơn nữa. Bởi, những người từng trách móc, chê bai hay ghét anh vì những việc anh làm, là họ đóng đúng vai trò của họ chứ có lầm lỗi gì đâu mà anh phải tha với thứ…”

Thôi thì, tha thứ hay bỏ qua những chỉ trích của mọi người về việc mình hành xử khi lầm lỡ hoặc xâm/xỏ có cố ý hay không, cũng cứ nên về với tâm tình của người nghệ sĩ trên mà ngâm nga ba câu cuối, để rồi sẽ nhớ đến mình, đến người. Dù, người đó là cô/là cậu láng giềng này khác, vẫn cứ hát:

“Cô láng giềng ơi!

Thôi thế không còn nhớ đến tôi.

Đến phút êm đềm ngày xưa kia.

Khi còn ngây thơ.

Cô láng giềng ơi!

Tuy cách xa phương trời tôi không hề,

Quên bóng ai bên bờ đường quê.

Đôi mắt đăm đăm tìm phương về.”

(Hoàng Quý – bđd)

Hát rồi, này bạn hãy cùng tôi, ta trở về với vị linh hướng/hướng linh hồn nào khác trong nhà Đạo, cũng nhẹ nhàng, trầm tĩnh, rất thiết tha, khi thánh nhân nói:

“Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em

là Đền Thờ của Thánh Thần sao?

Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em

là Thánh Thần chính Thiên Chúa ban cho anh em.

Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa,

vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.

Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.”

(1 Cr 6: 19-20)

Vậy thì, một lần nữa, hỡi tôi và hỡi bạn, ta cứ bình tâm mà suy nghĩ về những lời của thánh nhân hôm trước, để rồi sẽ nhẹ nhàng nghe theo lời khuyên của các đấng bậc linh hướng rất chí thân, và cũng rất hiền. Để rồi, mọi người sẽ đối xử với nhau cũng nhẹ nhàng tình thân như xưa. Dù, người này người nọ, có làm những chuyện khó coi, như xâm/xỏ. Rất lạ kỳ. Dị hợm.

Dù gì đi nữa. Tình thân thương của người anh/người chị trong cộng đoàn Nước Trời, ở trần thế, vẫn quan trọng hơn việc vẽ voi những hình thù dị hợm, của riêng ai. Nhận định như thế xong, bần đạo lại sẽ mời bạn mời tôi, ta hãy hát câu ca ý nhị của nghệ sĩ trên, hát rằng:

“Cô láng giềng ơi!

Tuy cách xa phương trời, tôi không hề.

Quên bóng ai bên bờ đường quê.

Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”

(Hoàng Quý – bđd)

Đúng thế. Hãy chờ tôi về. Dù, tôi mang hình thù thế nào đi nữa. Vẫn nhớ rằng:

“Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi.

Đừng nói đến phân ly.”

(Hoàng Quý – bđd)

Phân ly hay chia cách, vẫn không là ý hướng của người anh/người chị chúng ta, nơi nhà Đạo.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn xin mọi người

đừng nói tiếng phân ly,

cả vào khi tôi, khi bạn

đã lỡ lầm làm những chuyện xấu xa, lạ kỳ.

Rất dị hợm.

“Anh trở lại con đường lên núi biếc,

thương mây bay từ đó vẫn cô đơn.

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 4: 1-11

Đường lên núi biếc, dù mây bay từ đó vẫn cô đơn. Cô đơn, với nỗi niềm Chúa cảm nghiệm cảnh tình người phàm khi Ngài vật vã với băn khoăn, rất thử thách.

Trình thuật tuần đầu Mùa Chay hôm nay, kể cho ta nghe tâm tình của Chúa khi Ngài bị thử thách/cám dỗ, đến như thế. Thử thách/cám dỗ, là những thử và thách suốt 40 ngày đêm nơi hoang vu, sa mạc. 40 ngày đêm, nói lên chuỗi ngày dài một đời, Chúa từng trải nhiều thử thách/cám dỗ mãi đến ngày Ngài kết tận hành trình nơi đồi cao chốn vắng, rất Calvary.

Chốn vắng Calvary xưa, có thử thách/cám dỗ đưa Chúa vào với mê say để Ngài không thực hiện được ý định Cha đưa ra. Mê say, còn là thử thách/cám dỗ đặt ra với Chúa, rất nhiều lần.

Thử thách/cám dỗ đặt ra, qua cung cách Cha muốn Ngài thực hiện vai trò của Đấng Mêsia có quyền uy trên cả hoàng đế La Mã, như thánh Mátthêu từng ghi. Thử thách/cám dỗ là thách đố khả năng giải quyết khó khăn do đế quốc La Mã đem lại. Thử thách/cám dỗ, còn là thách thức chức năng Chúa nhận từ Cha, hầu giúp con dân loài người sống yên hàn, lành lặn. Thử thách/cám dỗ, còn là thách đố và thử xem Chúa có nhắm mắt làm ngơ nỗi đau của mọi người, để rồi sẽ trao cho Cha giải quyết mọi việc.

Thử thách/cám dỗ cướp tay trên quyền uy của đế quốc, để rồi Ngài cũng sẽ hành xử hệt như thế. Thử thách/cám dỗ đặt ra với Đức Giêsu, là thách Ngài giành lại quyền uy của hoàng đế La Mã, rồi cũng sẽ ăn trên ngồi chốc, bức bách dân con lớp người ở dưới. Bởi, một khi đã có quyền hành là có quyền để hành người khác, hệt như vậy. Bởi thế nên, Đức Giêsu chối bỏ mọi lợi lộc dành cho kẻ có quyền. Ngài chối bỏ quyền đối xử với mọi người theo cung cách ấy. Ngài đả kích không chỉ giới cầm quyền La Mã thôi, nhưng Ngài còn chỉ trích chính những uy và quyền ấy nữa. Ngài chọn đường lối không quyền lực, nhưng vẫn sống. Sống với người không quyền, trong “Vương Quốc” của Ngài.

Thử thách/cám dỗ thứ hai, là thách đố khả năng giải quyết tình trạng nghèo đói trên thế giới. Thời của Chúa, có đến 95% người dân Galilê ở dưới mức tối thiểu, để sống còn. Dân lành thời đó, không đủ cơm bánh và cá, mà qua ngày. Họ cứ lần lượt rơi vào vòng lao lý, tật bệnh hoặc chết yểu. Một số trường hợp, do Hêrôđê tạo ra. Ông lập chương trình xây cất nhiều toà nhà đồ sộ. Lại đánh thuế cao khiến dân đen chịu không nổi đến độ không còn gì để ăn. Để sống nữa.

Thử thách/cám dỗ cuối cùng đến với Đức Giêsu, là thách đố để xem Ngài có khả năng kích động dân đen, khiến họ căm phẫn quyết chống lại quyền uy của vua quan/lãnh chúa, thời ấy không? Thử thách/cám dỗ, là dỗ dành Chúa đòi lại cơm áo gạo tiền cho dân lành hèn hạ thấp cổ bé họng, ở bên dưới. Thử thách/cám dỗ đưa ra với Chúa, là xem Chúa có hành xử như vua quan mọi thời. Hoặc, Ngài sẽ còn đối xử tệ bạc hơn cả vua quan thời đó, khi có quyền. Nhưng, Đức Giêsu đã chối từ quan niệm coi mình như Đấng ban phát mọi thứ, hầu thoả mãn đòi hỏi của mọi người. Ngài chọn đường lối khác hẳn mọi vua quan/lãnh chúa, ngõ hầu trở nên Đấng Mêsia do Cha định đoạt. Ngài không chấp nhận đường lối của vua quan ở trần gian chỉ biết hưởng thụ, cho thoả thích.

Với Tin Mừng thánh Mátthêu, thử thách/cám dỗ lớn nhất đưa ra với Chúa, là chỉ lo chuyện lành thánh, cốt khuynh loát những điều do Cha định đoạt, mà chỉ theo ý mình. Khuynh loát, để Cha phải can thiệp mà giải quyết các khó khăn chốn gian trần. Và, buộc Cha Ngài phải làm thế, ngay tức thì. Thử thách/cám dỗ này nguy hiểm hơn thứ gì hết, vì đụng chạm đến đền đài thánh thiêng, lẫn nguyện đường, và cả cuộc sống ngoan hiền, ngõ hầu dẫn dụ Cha sửa đổi mọi chuyện để thuận theo ý Con, chứ không theo ý Cha.

Người đời thời của Chúa, vẫn muốn tuân theo đường lối giản đơn, rặt như thế. Họ là những người ở Qumran. Những kẻ từng dấn bước theo chân Gioan Tẩy Giả, cả vào lúc khó khăn, đầy bức bách. Và, thử thách/cám dỗ đây, là muốn chế ngự quyền uy thánh thiêng của Chúa. Là, kiểm soát lòng thương xót của Ngài. Thử thách/cám dỗ đây, là nghĩ rằng lòng đạo của mình còn lớn lao/cao cả hơn lòng xót thương của Cha. Và, Đức Giêsu nhận ra rằng: nếu thế thì Chúa Cha không là Thiên Chúa đích thực là Cha của Ngài. Ngài thực sự đã chọn đồng hành với Cha Ngài. Và kết cục, Ngài chọn thuận theo ý Cha, chứ không theo ý riêng của chính Ngài. Và, chọn lựa này mới thật là chọn lựa khác biệt.

Nếu Đức Giêsu không chọn quyền hành để đánh bạt đối thủ là đế quốc La Mã rất sừng xỏ, không chọn ban phát mọi sự hợp nhu cầu/đòi hỏi của mọi người, cũng chẳng cướp tay trên quyền uy có từ Cha, thì thử thách/cám dỗ đưa ra cho Ngài, là thách thức gì? Thử thách/cám dỗ ấy là sống đích thực đời người phàm. Đời, của những người con không có quyền cũng chẳng có uy. Những kẻ luôn thiếu thốn đủ mọi thứ. Chọn lựa của Ngài, là cùng chung số phận với những người nghèo hèn ấy. Ngài chọn lựa sống như họ, để rồi Ngài đi vào tương quan đích thực với dân đen, hèn kém, chẳng trông đợi vào ai.

Điều này, thoạt nghe chẳng có gì mới mẻ, hoặc hấp dẫn. Nhưng, mục tiêu Đức Giêsu nhắm đến là như thế. Là, thâu thập dân con mọi người vào với tình thương của Cha. Là, sẽ không một ai bị gạt ra ngoài nhóm hội/cộng đoàn thân thương để chung sống. Nhóm ấy, cộng đoàn ấy vẫn có Chúa, có Cha vào mọi lúc. Bởi, chính Cha đang ở ngay trong nhóm. Bởi, chính cộng đoàn là nhóm hội của Cha, đã có được tình thương yêu, hy vọng. Hy vọng, mọi người sẽ sống chung và sống cùng. Cùng sống. Cùng lướt vượt mọi khó khăn, rất đồng đều. Đó chính là đường lối Chúa chọn sống.

Ngài lướt vượt mọi thử thách/cám dỗ Ngài theo đường khác. Cám dỗ ấy, Ngài thấy rất rõ, suốt đường đời Ngài từng trải. Và, nay Ngài trở về với những gì là căn bản của chính con người. Trở về với con người đích thực, trước/sau mọi thử thách/cám dỗ. Ngài trở về, cả vào lúc những người khó nghèo/bần hàn kia đã quay lưng chống lại Ngài. Vì thế, đế quốc mới giết hại Ngài. Vì thế, Chúa Cha mới không kịp nghe tiếng Ngài kêu cầu, nơi vườn cây Dầu.

Và đâychính là thông điệp gửi đến với Hội thánh, hôm nay. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với thế gian, ngoài đời. Vẫn muốn đấu tranh tạo phần thắng, hầu lấy lại quyền uy chính trị, từng luột mất. Lấy lại quyền, để tạo uy hùng dũng mãnh, trên chúng dân. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với các tổ chức bác ái, quyết lấy lại uy tín bằng việc ban phát các phẩm vật cho dân đen nghèo hèn. Thông thường, Hội thánh từng tìm cách tỏ ra mình những muốn sống đời lành thánh để kéo Chúa về cùng phe, để Ngài sẽ đi theo con đường mình đang thực hiện. Quả là, Hội thánh nay cũng gặp thử thách/cám dỗ như Đức Giêsu, ở thời hôm trước.

Bản thân ta cũng thế. Ta vẫn muốn trở thành nhân vật quan trọng có khả năng giải quyết mọi vấn đề; để rồi, sẽ lôi kéo Chúa vào phe mình, mỗi khi cần. Thông thường, ta cũng muốn chối bỏ những thử thách/cám dỗ, rất tương tự. Bởi thế nên, hãy đề cao cảnh giác cả vào khi ta đã khá giả và trở nên mạnh mẽ, cũng nên biết mình chỉ là kẻ hèn mọn, vẫn phải sống với những khó khăn không dứt bỏ. Bằng không, nhiều lúc ta vẫn cứ nghĩ mình là kẻ sở hữu cả Đức Chúa. Chăm lo cho Chúa, rất nhiều điều. Vì nghĩ thế, nên ta cứ cho rằng mình đang theo Đức Giêsu và chính mình đang là Chúa, nữa không chừng?

Thật sự, hãy nhớ rằng mọi người cũng như ta, chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt trong đám đông quần chúng. Cũng chỉ là phận hèn loài người được Chúa đoái thương. Được Chúa ban phát đôi điều để có thể sống sót, sống còn với mọi người. Có thể những gì Chúa ban cho ta, không là bánh/là cá, như người Do thái khi xưa từng học biết. Nhưng, ta học biết để Chúa trở thành chính Chúa. Và, qua học hỏi, ta khám phá ra rằng ta được Chúa đi bước trước, là để Ngài vẫn thương ta. Vẫn muốn ta về với Ngài

Hãy cảm tạ Cha đã để Đức Giêsu lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ, được như thế. Hãy nguyện cầu, để Hội thánh của ta cũng được thế. Hãy chúc nhau có được cơ may lướt thắng được chính con người mình. Lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ vẫn xảy đến với mình, vào mọi lúc. Có thế, ta mới an tâm bước vào Mùa Chay thánh. Có thế, ta mới thấy vui được Chúa dẫn đưa ta ra khỏi mọi thử thách/cám dỗ, rất trần gian.

Trong hân hoan dấn bước như thế, ta hãy cùng dân con ở đời ngâm nga đôi lời thơ ý nhị, rằng:

“Anh trở lại, con đường lên núi biếc,

Thương mây bay, từ đó vẫn cô đơn.

Những bông hoa, còn có nửa linh hồn,

Những lá cỏ, nghiêng vai tìm mộng ảo.”

(Đinh Hùng – Cánh Chim Dĩ Vãng)

Rất chí lý. Bông hoa kia, có khi chỉ còn nửa linh hồn vẫn cứ “nghiêng vai tìm mộng ảo”, thì tôi và anh sẽ chẳng tìm lối đi không thử thách. Để, sẽ thấy Chúa, thấy Cha ở phía trước đang giơ tay đón chờ. Chờ tôi, chờ anh bấy lâu nay. Ở mọi thời.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch