Tình Yêu là Vinh Quang Thật, Vinh Quang của Thiên Chúa
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ 24 về cầu nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư 25 tháng 1 năm 2012 tại Đại Sảnh Phaolô VI. Lần này ĐTC suy niệm về Lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Chúa Giêsu mà chúng ta thường gọi là “Kinh Nguyện Tư Tế” của Người.
* * *
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý hôm nay, chúng ta tập trung sự chú ý vào lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha trong “Giờ” được nâng lên và tôn vinh của Người (x. Ga 17:1-26). Như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo viết: “Truyền thống Kitô giáo gọi lời cầu nguyện này là “kinh nguyện tư tế” của Chúa Giêsu. Ðây là kinh nguyện của Vị Thượng Tế. Kinh nguyện không thể tách rời khỏi Hy Tế và cuộc Vượt Qua của Người, trong đó Người ‘tự hiến’ trọn vẹn cho Chúa Cha” (số 2747).
Kinh nguyện của Chúa Giêsu được hiểu trong toàn thể sự phong phú của nó, đặc biệt là nếu chúng ta đặt nó trong bối cảnh ngày lễ chuộc tội của người Do Thái, Yom Kippur. Trong ngày ấy, Vị Thượng Tế dâng lễ chuộc tội trước hết cho chính mình, sau đó cho hàng tư tế, và cuối cùng là cho toàn thể cộng đồng dân chúng. Mục đích là phục hồi dân Israel, sau một năm phạm tội, ý thức về việc hòa giải với Thiên Chúa, và ý thức mình là dân được tuyển chọn, “dân thánh” ở giữa các dân khác. Kinh nguyện của Chúa Giêsu trong chương 17 của Tin Mừng Thánh Gioan, dựa trên cấu trúc của lễ này. Chúa Giêsu thưa cùng Chúa Cha đêm ấy khi Người hiến dâng Chính Mình. Người, vừa là tư tế vừa là lễ vật hy sinh, cầu nguyện cho Chính Mình, cho các tông đồ và cho tất cả những ai tin vào Người, cho Hội Thánh của mọi thời đại (x. Ga 17:20).
Kinh nguyện mà Chúa Giêsu cầu cho Chính Mình là xin cho việc tôn vinh của Người, cho việc được “nâng lên” trong “Giờ” này của Người. Thực ra kinh nguyện này còn hơn là một lời cầu xin mà là một lời tuyên bố hoàn toàn sẵn sàng tự nguyện và quảng đại thi hành kế hoạch của Thiên Chúa Cha trong việc bị trao nộp và hoàn tất kế hoạch này trong cái chết và sự sống lại của Người. “Giờ” này khởi đầu bằng việc phản bội của Giuđa (x. Ga 13:31) và đạt đến cao điểm khi Chúa Giêsu Phục Sinh lên củng Chúa Cha (x. Ga 20:17). Khi Giuđa rời Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói những lời này: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được vinh hiển trong Người” (Ga 13:31). Không phải là ngẫu nhiên mà Người bắt đầu kinh nguyện tư tế bằng cách nói rằng: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tuyên dương Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha,” (Ga 17:1). Sự tôn vinh mà Chúa Giêsu cầu xin cho Mình như Vị Thượng Tế, là việc hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, một sự vâng phục dẫn đến tình trạng con thảo trọn vẹn nhất: “Vậy, giờ đây, lạy Cha, xin Cha tuyên dương Con trước mặt Cha, bằng vinh quang mà Con vẫn có cùng Cha trước khi tạo thành thế gian. Và bây giờ, Chúa Cha, tôn vinh sự hiện” (Ga 17:5). Chính sự sẵn sàng và lời cầu xin này là hành động đầu tiên của chức tư tế mới của Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn tự hiến trên Thánh Giá, và chính trên Thánh Giá - trong hành động yêu thương tối cao – mà Người được tôn vinh, bởi vì tình yêu là vinh quang thật, vinh quang của Thiên Chúa.
Phần thứ nhì của kinh nguyện này là lời cầu bầu của Chúa Giêsu cho các môn đệ là những kẻ ở với Người, họ là những người mà Chúa Giêsu có thể thưa cùng Chúa Cha: “Con đã tỏ lộ Danh Cha cho những người mà Cha đã lấy ra từ thế gian mà ban cho Con. Họ thuộc về Cha, mà Cha đã ban họ cho Con, và họ đã giữ lời Cha.” (Ga 17,6). “Tỏ lộ Danh Thiên Chúa cho con người” là thể hiện một sự hiện diện mới của Chúa Cha giữa dân chúng, giữa nhân loại. Sự “tỏ lộ” này không chỉ là một lời nói, nhưng là một thực thể trong Chúa Giêsu; Thiên Chúa ở cùng chúng ta, và do đó, Danh Ngài - sự hiện diện của Ngài với chúng ta, việc Ngài nên một với chúng ta – “được thể hiện .” Vì vậy, sự tỏ lộ này được thể hiện trong sự Nhập Thể của Ngôi Lời. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa nhập vào xác phàm của nhân loại, Ngài tự đến gần, bằng một cách mới mẻ và độc đáo. Và sự hiện diện này lên đến tột đỉnh trong lẽ hy sinh của Chúa Giêsu, trong Lễ Vượt Qua của Cái Chết, và sự Phục Sinh của Người.
Ở trung tâm của lời cầu nguyện bầu cử và chuộc tội cho các môn đệ này là lời cầu xin thánh hiến, Chúa Giêsu thưa cùng Chúa Cha: “Họ không thuộc về thế gian, cũng như chính Con không thuộc về thế gian. Xin Cha thánh hiến họ trong chân lý. Lời Cha là chân lý. Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, thì Con cũng sai họ vào thế gian. Và vì họ Con xin thánh hiến chính Con, để họ cũng được thánh hiến trong chân lý.”(Ga 17:16-19). Tôi hỏi: Thế nào là “thánh hiến” trong trường hợp này? Trước hết phải nói rằng những từ “được thánh hiến” và “thánh”, theo đúng nghĩa, chỉ áp dụng cho Thiên Chúa. Như thế thánh hiến có nghĩa là chuyển giao một thực tại - một người hay một vật - để thành tài sản của Thiên Chúa. Và điều này có hai khía cạnh bổ túc cho nhau: một đàng là lấy ra khỏi những gì là thông thường, tách ra, “để riêng ra” khỏi lãnh vực cuộc sống cá nhân của một người, để được hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa; và đàng khác, sự tách biệt này, sự chuyển giao vào lãnh vực của Thiên Chúa này, có nghĩa chính xác là 'việc sai đi', sứ vụ: nghĩa đó chính xác vì nó nghĩa là được hiến dâng cho Thiên Chúa, để người được thánh hiến sống “cho” những người khác, được ban cho tha nhân.
Hiến mình cho Thiên Chúa có nghĩa là không còn sống cho chính mình, mà cho tất cả mọi người. Và “người được thánh hiến, như Chúa Giêsu, được tách ra khỏi thế gian và được dành riêng cho Thiên Chúa để làm một nhiệm vụ, và đó chính là lý do tại sao người ấy hoàn toàn sẵn sàng phục vụ tất cả mọi người. Đối với các môn đệ, là những ngưởi sẽ có sứ vụ tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu, được hiến dâng cho Thiên Chúa là để sống trong sứ vụ phục vụ tất cả mọi người. Vào buổi tối lễ Phục Sinh, Đấng Phục Sinh, hiện ra với các môn đệ của Người và nói với họ, “Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.” (Ga 20:21).
Việc làm thứ ba của kinh nguyện tư tế này phóng đại cái nhìn đến tận thế. Giờ đây Chúa Giêsu hướng về Chúa Cha để cầu thay cho tất cả những người được dẫn đến đức tin qua việc truyền giáo được bắt đầu bởi các tông đồ, và tiếp tục trong lịch sử: “Con không những chỉ cầu nguyện cho một mình họ, mà cũng cho những người sẽ tin vào Con qua lời họ.” Chúa Giêsu cầu nguyện cho Hội Thánh của mọi thời đại và Người cũng cầu nguyện cho chúng ta (Ga 17:20). Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói: “Chúa Giêsu đã hoàn thành công trình của Chúa Cha; cũng như hiến tế, lời nguyện của Người trải rộng đến ngày tận thế. Kinh nguyện vào giờ của Người hoàn tất thời gian cuối cùng và đưa tới ngày viên mãn.” (số 2749).
Lời cầu xin chính cùa kinh nguyện tư tế của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ qua mọi thời đại, là cho sự hợp nhất trong tương lai của tất cả những ai tin vào Người. Sự hợp nhất này không phải là một kết quả của thế trần. Nó chĩ đến từ sự hiệp nhất của Thiên Chúa và đến với chúng ta từ Chúa Cha qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu khẩn xin một món quà đến từ trời cao, và tạo ra kết quả - thực sự và có thể cảm nhận được - trên thế gian. Người cầu nguyện, “để tất cả được nên một, lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17:21).
Một mặt, sự hiệp nhất của các Kitô hữu là một thực thể bí ẩn, hiện diện trong tâm hồn của các tín hữu. Nhưng đồng thời, nó phải trở nên hữu hình một cách thật rõ ràng trong lịch sử; nó phải hữu hình để thế gian có thể tin; nó có một mục đích rất thực tế và cụ thể -- nó phải trở nên hữu hình ngõ hầu tất cả mọi người biết rằng chúng ta thực sự là một. Sự hiệp nhất của các môn đệ tương lai, là sự hiệp nhất với Chúa Giêsu –là Đấng mà Chúa Cha đã sai xuống thế gian – cũng là nguồn mạch của hiệu lực của việc truyền giáo của Kitô giáo trên thế gian.
“Chúng ta có thể nói rằng kinh nguyện tư tế của Chúa Giêsu hoàn thành tổ chức của Hội Thánh.” Chính ở đây, trong hành động của Bữa Tiệc Ly, mà Chúa Giêsu đã thành lập Hội Thánh. “Thật vậy, vì Hội Thánh là gì, nếu không phải là cộng đồng các môn đệ, là những người nhận được sự hiệp nhất của mình qua đức tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô như Đấng đã được Chúa Cha sai đến, và được tham gia vào sứ mệnh của Chúa Giêsu để cứu thế gian bằng cách dẫn nó đến sự nhận biết Thiên Chúa sao?” Ở đây chúng ta thực sự tìm thấy một định nghĩa thật về Hội Thánh. Hội Thánh được sinh ra từ ‘kinh nguyện của Chúa Giêsu’. Nhưng kinh nguyện này không chỉ là lời nói, nhưng còn là hành động mà trong đó Người “tự thánh hiến” chính mình, nghĩa là “tự hiến” cho sự sống của thế gian” (x. Chúa Giêsu thành Nadareth, II, 117tt).
Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ của Người được nên một. Với sự hiệp nhất nnhư thế, được lãnh nhận và bảo vệ, Hội Thánh có thể tiến bước “trong thế gian” mà không “thuộc về thế gian” (x. Ga 17:16) và sống sứ vụ được Chúa trao phó ngõ hầu thế gian tin vào Chúa Con và tin vào Chúa Cha, là Đấng đã sai Người. Như thế Hội Thánh sẽ trở thành nơi mà sứ vụ của Đức Kitô được tiếp tục: để dẫn thế gian ra khỏi sự xa cách Thiên Chúa và chính mính, ra khỏi tội lỗi, để nó lại trở thành thế giới Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, chúng ta đã hiểu một số yếu tố về sự phong phú tuyệt vời của kinh nguyện tư tế của Chúa Giêsu, là điều tôi mời anh chị em đọc và suy niệm, để kinh nguyện này hướng dẫn chúng ta trong cuộc đàm đạo với Chúa, và dạy chúng ta cầu nguyện. Cho nên, chúng ta cũng vậy, trong kinh nguyện của mình, hãy cầu xin Thiên Chúa giúp chúng ta đi sâu hơn vào trong chương trính mà Ngài có cho mỗi người chúng ta; hãy xin Ngài giúp chúng ta “thánh hiến” cho Ngài, để càng ngày càng thuộc về Ngài nhiều hơn, để có thể luôn luôn yêu thương tha nhân nhiều hơn, kể cả những ngưởi gần chúng ta lẫn những ngưởi xa chúng ta. Chúng ta hãy xin Ngài ban cho chúng ta khả năng luôn luôn mở lời cầu nguyện của mình ra cho các chiều kích của thế gian, mà không chỉ đóng khung trong việc cầu xin Chúa giúp trong các vấn đề của mình, nhưng nhớ đến những người lân cận trước mặt Chúa và học vẻ đẹp của việc cầu nguyện cho người khác. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta hồng ân hiệp nhất hữu hình giữa tất cả các tín hữu trong Đức Kitô - chúng ta đã thành khẩn cầu xin điều này trong Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Sự Hiệp Nhấy Kitô Giáo – chúng ta hãy cầu nguyện để luôn luôn sẵn sàng trả lời bất cứ ai đòi hỏi chúng ta lý do của niềm hy vọng trong chúng ta (x. 1 Pr 3:15). Cảm ơn anh chị em.
+ĐTC Bênêđictô XVI
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ 24 về cầu nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư 25 tháng 1 năm 2012 tại Đại Sảnh Phaolô VI. Lần này ĐTC suy niệm về Lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Chúa Giêsu mà chúng ta thường gọi là “Kinh Nguyện Tư Tế” của Người.
Anh chị em thân mến,
Trong bài giáo lý hôm nay, chúng ta tập trung sự chú ý vào lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha trong “Giờ” được nâng lên và tôn vinh của Người (x. Ga 17:1-26). Như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo viết: “Truyền thống Kitô giáo gọi lời cầu nguyện này là “kinh nguyện tư tế” của Chúa Giêsu. Ðây là kinh nguyện của Vị Thượng Tế. Kinh nguyện không thể tách rời khỏi Hy Tế và cuộc Vượt Qua của Người, trong đó Người ‘tự hiến’ trọn vẹn cho Chúa Cha” (số 2747).
Kinh nguyện của Chúa Giêsu được hiểu trong toàn thể sự phong phú của nó, đặc biệt là nếu chúng ta đặt nó trong bối cảnh ngày lễ chuộc tội của người Do Thái, Yom Kippur. Trong ngày ấy, Vị Thượng Tế dâng lễ chuộc tội trước hết cho chính mình, sau đó cho hàng tư tế, và cuối cùng là cho toàn thể cộng đồng dân chúng. Mục đích là phục hồi dân Israel, sau một năm phạm tội, ý thức về việc hòa giải với Thiên Chúa, và ý thức mình là dân được tuyển chọn, “dân thánh” ở giữa các dân khác. Kinh nguyện của Chúa Giêsu trong chương 17 của Tin Mừng Thánh Gioan, dựa trên cấu trúc của lễ này. Chúa Giêsu thưa cùng Chúa Cha đêm ấy khi Người hiến dâng Chính Mình. Người, vừa là tư tế vừa là lễ vật hy sinh, cầu nguyện cho Chính Mình, cho các tông đồ và cho tất cả những ai tin vào Người, cho Hội Thánh của mọi thời đại (x. Ga 17:20).
Kinh nguyện mà Chúa Giêsu cầu cho Chính Mình là xin cho việc tôn vinh của Người, cho việc được “nâng lên” trong “Giờ” này của Người. Thực ra kinh nguyện này còn hơn là một lời cầu xin mà là một lời tuyên bố hoàn toàn sẵn sàng tự nguyện và quảng đại thi hành kế hoạch của Thiên Chúa Cha trong việc bị trao nộp và hoàn tất kế hoạch này trong cái chết và sự sống lại của Người. “Giờ” này khởi đầu bằng việc phản bội của Giuđa (x. Ga 13:31) và đạt đến cao điểm khi Chúa Giêsu Phục Sinh lên củng Chúa Cha (x. Ga 20:17). Khi Giuđa rời Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói những lời này: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được vinh hiển trong Người” (Ga 13:31). Không phải là ngẫu nhiên mà Người bắt đầu kinh nguyện tư tế bằng cách nói rằng: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tuyên dương Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha,” (Ga 17:1). Sự tôn vinh mà Chúa Giêsu cầu xin cho Mình như Vị Thượng Tế, là việc hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, một sự vâng phục dẫn đến tình trạng con thảo trọn vẹn nhất: “Vậy, giờ đây, lạy Cha, xin Cha tuyên dương Con trước mặt Cha, bằng vinh quang mà Con vẫn có cùng Cha trước khi tạo thành thế gian. Và bây giờ, Chúa Cha, tôn vinh sự hiện” (Ga 17:5). Chính sự sẵn sàng và lời cầu xin này là hành động đầu tiên của chức tư tế mới của Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn tự hiến trên Thánh Giá, và chính trên Thánh Giá - trong hành động yêu thương tối cao – mà Người được tôn vinh, bởi vì tình yêu là vinh quang thật, vinh quang của Thiên Chúa.
Phần thứ nhì của kinh nguyện này là lời cầu bầu của Chúa Giêsu cho các môn đệ là những kẻ ở với Người, họ là những người mà Chúa Giêsu có thể thưa cùng Chúa Cha: “Con đã tỏ lộ Danh Cha cho những người mà Cha đã lấy ra từ thế gian mà ban cho Con. Họ thuộc về Cha, mà Cha đã ban họ cho Con, và họ đã giữ lời Cha.” (Ga 17,6). “Tỏ lộ Danh Thiên Chúa cho con người” là thể hiện một sự hiện diện mới của Chúa Cha giữa dân chúng, giữa nhân loại. Sự “tỏ lộ” này không chỉ là một lời nói, nhưng là một thực thể trong Chúa Giêsu; Thiên Chúa ở cùng chúng ta, và do đó, Danh Ngài - sự hiện diện của Ngài với chúng ta, việc Ngài nên một với chúng ta – “được thể hiện .” Vì vậy, sự tỏ lộ này được thể hiện trong sự Nhập Thể của Ngôi Lời. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa nhập vào xác phàm của nhân loại, Ngài tự đến gần, bằng một cách mới mẻ và độc đáo. Và sự hiện diện này lên đến tột đỉnh trong lẽ hy sinh của Chúa Giêsu, trong Lễ Vượt Qua của Cái Chết, và sự Phục Sinh của Người.
Ở trung tâm của lời cầu nguyện bầu cử và chuộc tội cho các môn đệ này là lời cầu xin thánh hiến, Chúa Giêsu thưa cùng Chúa Cha: “Họ không thuộc về thế gian, cũng như chính Con không thuộc về thế gian. Xin Cha thánh hiến họ trong chân lý. Lời Cha là chân lý. Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, thì Con cũng sai họ vào thế gian. Và vì họ Con xin thánh hiến chính Con, để họ cũng được thánh hiến trong chân lý.”(Ga 17:16-19). Tôi hỏi: Thế nào là “thánh hiến” trong trường hợp này? Trước hết phải nói rằng những từ “được thánh hiến” và “thánh”, theo đúng nghĩa, chỉ áp dụng cho Thiên Chúa. Như thế thánh hiến có nghĩa là chuyển giao một thực tại - một người hay một vật - để thành tài sản của Thiên Chúa. Và điều này có hai khía cạnh bổ túc cho nhau: một đàng là lấy ra khỏi những gì là thông thường, tách ra, “để riêng ra” khỏi lãnh vực cuộc sống cá nhân của một người, để được hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa; và đàng khác, sự tách biệt này, sự chuyển giao vào lãnh vực của Thiên Chúa này, có nghĩa chính xác là 'việc sai đi', sứ vụ: nghĩa đó chính xác vì nó nghĩa là được hiến dâng cho Thiên Chúa, để người được thánh hiến sống “cho” những người khác, được ban cho tha nhân.
Hiến mình cho Thiên Chúa có nghĩa là không còn sống cho chính mình, mà cho tất cả mọi người. Và “người được thánh hiến, như Chúa Giêsu, được tách ra khỏi thế gian và được dành riêng cho Thiên Chúa để làm một nhiệm vụ, và đó chính là lý do tại sao người ấy hoàn toàn sẵn sàng phục vụ tất cả mọi người. Đối với các môn đệ, là những ngưởi sẽ có sứ vụ tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu, được hiến dâng cho Thiên Chúa là để sống trong sứ vụ phục vụ tất cả mọi người. Vào buổi tối lễ Phục Sinh, Đấng Phục Sinh, hiện ra với các môn đệ của Người và nói với họ, “Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.” (Ga 20:21).
Việc làm thứ ba của kinh nguyện tư tế này phóng đại cái nhìn đến tận thế. Giờ đây Chúa Giêsu hướng về Chúa Cha để cầu thay cho tất cả những người được dẫn đến đức tin qua việc truyền giáo được bắt đầu bởi các tông đồ, và tiếp tục trong lịch sử: “Con không những chỉ cầu nguyện cho một mình họ, mà cũng cho những người sẽ tin vào Con qua lời họ.” Chúa Giêsu cầu nguyện cho Hội Thánh của mọi thời đại và Người cũng cầu nguyện cho chúng ta (Ga 17:20). Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói: “Chúa Giêsu đã hoàn thành công trình của Chúa Cha; cũng như hiến tế, lời nguyện của Người trải rộng đến ngày tận thế. Kinh nguyện vào giờ của Người hoàn tất thời gian cuối cùng và đưa tới ngày viên mãn.” (số 2749).
Lời cầu xin chính cùa kinh nguyện tư tế của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ qua mọi thời đại, là cho sự hợp nhất trong tương lai của tất cả những ai tin vào Người. Sự hợp nhất này không phải là một kết quả của thế trần. Nó chĩ đến từ sự hiệp nhất của Thiên Chúa và đến với chúng ta từ Chúa Cha qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu khẩn xin một món quà đến từ trời cao, và tạo ra kết quả - thực sự và có thể cảm nhận được - trên thế gian. Người cầu nguyện, “để tất cả được nên một, lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong Chúng Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17:21).
Một mặt, sự hiệp nhất của các Kitô hữu là một thực thể bí ẩn, hiện diện trong tâm hồn của các tín hữu. Nhưng đồng thời, nó phải trở nên hữu hình một cách thật rõ ràng trong lịch sử; nó phải hữu hình để thế gian có thể tin; nó có một mục đích rất thực tế và cụ thể -- nó phải trở nên hữu hình ngõ hầu tất cả mọi người biết rằng chúng ta thực sự là một. Sự hiệp nhất của các môn đệ tương lai, là sự hiệp nhất với Chúa Giêsu –là Đấng mà Chúa Cha đã sai xuống thế gian – cũng là nguồn mạch của hiệu lực của việc truyền giáo của Kitô giáo trên thế gian.
“Chúng ta có thể nói rằng kinh nguyện tư tế của Chúa Giêsu hoàn thành tổ chức của Hội Thánh.” Chính ở đây, trong hành động của Bữa Tiệc Ly, mà Chúa Giêsu đã thành lập Hội Thánh. “Thật vậy, vì Hội Thánh là gì, nếu không phải là cộng đồng các môn đệ, là những người nhận được sự hiệp nhất của mình qua đức tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô như Đấng đã được Chúa Cha sai đến, và được tham gia vào sứ mệnh của Chúa Giêsu để cứu thế gian bằng cách dẫn nó đến sự nhận biết Thiên Chúa sao?” Ở đây chúng ta thực sự tìm thấy một định nghĩa thật về Hội Thánh. Hội Thánh được sinh ra từ ‘kinh nguyện của Chúa Giêsu’. Nhưng kinh nguyện này không chỉ là lời nói, nhưng còn là hành động mà trong đó Người “tự thánh hiến” chính mình, nghĩa là “tự hiến” cho sự sống của thế gian” (x. Chúa Giêsu thành Nadareth, II, 117tt).
Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ của Người được nên một. Với sự hiệp nhất nnhư thế, được lãnh nhận và bảo vệ, Hội Thánh có thể tiến bước “trong thế gian” mà không “thuộc về thế gian” (x. Ga 17:16) và sống sứ vụ được Chúa trao phó ngõ hầu thế gian tin vào Chúa Con và tin vào Chúa Cha, là Đấng đã sai Người. Như thế Hội Thánh sẽ trở thành nơi mà sứ vụ của Đức Kitô được tiếp tục: để dẫn thế gian ra khỏi sự xa cách Thiên Chúa và chính mính, ra khỏi tội lỗi, để nó lại trở thành thế giới Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, chúng ta đã hiểu một số yếu tố về sự phong phú tuyệt vời của kinh nguyện tư tế của Chúa Giêsu, là điều tôi mời anh chị em đọc và suy niệm, để kinh nguyện này hướng dẫn chúng ta trong cuộc đàm đạo với Chúa, và dạy chúng ta cầu nguyện. Cho nên, chúng ta cũng vậy, trong kinh nguyện của mình, hãy cầu xin Thiên Chúa giúp chúng ta đi sâu hơn vào trong chương trính mà Ngài có cho mỗi người chúng ta; hãy xin Ngài giúp chúng ta “thánh hiến” cho Ngài, để càng ngày càng thuộc về Ngài nhiều hơn, để có thể luôn luôn yêu thương tha nhân nhiều hơn, kể cả những ngưởi gần chúng ta lẫn những ngưởi xa chúng ta. Chúng ta hãy xin Ngài ban cho chúng ta khả năng luôn luôn mở lời cầu nguyện của mình ra cho các chiều kích của thế gian, mà không chỉ đóng khung trong việc cầu xin Chúa giúp trong các vấn đề của mình, nhưng nhớ đến những người lân cận trước mặt Chúa và học vẻ đẹp của việc cầu nguyện cho người khác. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta hồng ân hiệp nhất hữu hình giữa tất cả các tín hữu trong Đức Kitô - chúng ta đã thành khẩn cầu xin điều này trong Tuần Lễ Cầu Nguyện cho Sự Hiệp Nhấy Kitô Giáo – chúng ta hãy cầu nguyện để luôn luôn sẵn sàng trả lời bất cứ ai đòi hỏi chúng ta lý do của niềm hy vọng trong chúng ta (x. 1 Pr 3:15). Cảm ơn anh chị em.
+ĐTC Bênêđictô XVI