“Ngay cả trong những giờ đen tối nhất của cuộc đời, Thiên Chúa vẫn ở gần.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ 26 về cầu nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư mùng 8 tháng 2 năm 2012 tại Đại Sảnh Phaolô VI. Lần này ĐTC suy niệm về Lời Cầu Nguyện của Chúa Giêsu trên Thánh Giá khi sinh thì.


* * * * *


Anh chị em thân mến,

Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy niệm về lời cầu nguyện của Chúa Giêsu khi giờ chết đã gần, bằng cách nói về những điều được kể trong Tin Mừng Thánh Marcô và Thánh Matthêu. Hai Thánh Sử diễn tả lời cầu nguyện của Chúa Giêsu lúc sinh thì trên Thánh Giá không chỉ bằng tiếng Hy Lạp, là ngôn ngữ các ngài dùng để viết câu chuyện, nhưng cũng vì tầm mức quan trọng của những lời cầu nguyện đó, nên chúng đã được viết bằng sự pha trộn giữa tiếng Do Thái và tiếng Aram. Các ngài cũng đã truyền lại cho chúng ta không những chỉ nội dung, mà cả âm thanh mà lời cầu nguyện này được thốt ra trên môi miệng Chúa Giêsu: chúng ta thực sự nghe những lời của Chúa Giêsu như Người đã thốt ra. Đồng thời, các ngài mô tả cho chúng ta thái độ của những người hiện diện lúc đóng đinh, là những người không hiểu hoặc không muốn hiểu lời cầu nguyện này.

Như chúng ta đã nghe, đây là điều mà Thánh Marcô viết: “Vào giờ thứ sáu [buổi trưa], tối tăm bao trùm khắp mặt đất đến giờ thứ chín [ba giờ chiều]. Và vào giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng lớn, “Eloi, Eloi, lama sabacthani!” Nghĩa là, “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con?” (15:34). Trong cấu trúc của tường thuật, lời cầu nguyện, tiếng kêu của Chúa Giêsu ở tột đỉnh của ba giờ đen tối này, từ trưa cho đến ba giờ chiều, là giờ mà tăm tối bao trùm khắp mặt đất. Ba giờ đen tối này là sự tiếp tục của một khoảng thời gian trước đó, cũng ba giờ, bắt đầu với việc đóng đinh Chúa Giêsu. Thực ra, Thánh Sử Marcô cho cho chúng ta biết rằng: “Khi đó là giờ thứ ba [chín giờ sáng], và chúng đóng đinh Người” (x. 15:25). Chung quy thì những dấu chỉ về thời gian của tường thuật cho thấy rằng sáu giờ của Chúa Giêsu trên thập giá được chia thành hai phần bằng nhau theo thứ tự thời gian.

Trong ba giờ đầu, từ chín giờ sáng đến trưa, chúng ta thấy sự chế nhạo của các nhóm người khác nhau, là những kẻ bày tỏ sự hoài nghi của họ và xác định rằng họ không tin. Thánh Marcô viết: “Những kẻ qua lại chế nhạo Người” (Mc 15:29), “Cũng vậy, các trưởng tế và luật sĩ đều chế giễu Người” (Mc 15:31), và “những tên cùng bị đóng đinh với Người cũng xỉ vả Người” (Mc 15:32). Trong ba giờ tiếp theo, từ trưa đến ba giờ chiều, Thánh Sử chỉ nói về bóng tối bao trùm khắp mặt đất: một mình bóng tối chiếm toàn cảnh mà không đề cập đến những chuyển động hay lời nói nào của các nhân vật. Khi Chúa Giêsu gần cái chết hơn bao giờ hết, chỉ có bóng tối đang bao trùm “ khắp mặt đất.” Ngay cả vũ trụ cũng tham gia vào biến cố này: bóng tối bao phủ người và sự vật, nhưng ngay cả trong giờ đem tối này Thiên Chúa vẫn hiện diện, Ngài không từ bỏ. Trong truyền thống Thánh Kinh, bóng tối có một nghĩa đôi: nó là dấu chỉ của sự hiện diện và hoạt động của thần dữ, mà cũng là một sự hiện diện mầu nhiệm và hoạt động của Thiên Chúa, là Đấng có thể thắng vượt tất cả mọi sự tối tăm. Thí dụ, trong Sách Xuất Hành, chúng ta đọc: “Chúa nói với ông Môsê: ‘Này, Ta đến với ngươi trong một đám mây đen’” (Xh 19:9); và nữa: “Dân chúng đứng tận đằng xa, còn ông Môsê đến gần đám mây đen là nơi Thiên Chúa ngự” (Xh 20:21). Và trong bài giảng của Đệ Nhị Luật, ông Môsê nói: “núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tối mây đen mù mịt” (Đnl 4:11), “vì anh em nghe tiếng từ giữa bóng tối, trong khi núi đang bốc lửa” (Đnl 5:23). Trong cảnh đóng đinh của Chúa Giêsu bóng tối bao phủ trái đất và là bóng tối của sự chết, mà Con Thiên Chúa đã lao mình vào trong đó để đem lại sự sống qua hành động yêu thương của Người.

Trở lại tường thuật của Thánh Marcô: trước các lời lăng nhục của những nhóm người khác nhau, trước bóng tối bao trùm tất cả mọi sự, vào lúc Người đang phải đối diện với cái chết, Chúa Giêsu, qua tiếng kêu của lời cầu nguyện của Người, cho thấy rằng, dưới gánh nặng của đau khổ và cái chết, mà khi đó có vẻ như Người bị Thiên Chúa bỏ rơi và vắng mặt, Ngươi xác tín về sự gần gũi của Chúa Cha, là Đấng chuẩn y hành động tình yêu tối cao này, việc hoàn toàn dâng hiến chính Mình, dù không được nghe tiếng nói từ trời cao như trong những lần khác. Khi đọc các sách Tin Mừng, chúng ta nhận thấy rằng trong những giây phút quan trọng khác của cuộc đời dương thế của Người, Chúa Giêsu đã thấy những dấu hiệu liên hệ đến sự hiện diện và chấp nhận của Chúa Cha về con đường tình yêu của Người. Thí dụ, trong câu chuyện ngay sau cảnh chịu phép rửa ở sông Giođăng, khi ấy các tầng trời mở ra, chúng ta đã nghe lời của Chúa Cha phán: “Con là Con Yêu Dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mc 1:11). Rồi, trong cuộc biến hình, một tiếng nói cũng phát ra từ đám mây: “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy lắng nghe lời Người” (Mc 9:7). Ngược lại, khi cái chết đến gần Đấng Chịu Đóng Đinh, thì im lặng phủ xuống và chẳng ai nghe thấy một lời, nhưng cái nhìn yêu thương của Chúa Cha vẫn còn dán vào món quà tình yêu của Chúa Con.

Nhưng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, là lời kêu lên cùng Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con?” có nghĩa gì, có phải là sự nghi ngờ về sứ mệnh của Người, hay về sự hiện diện của Chúa Cha chăng? Lời cầu nguyện này chẳng lẽ không hàm chứa ý thức bén nhạy rằng mình đang bị bỏ rơi sao? Những lời mà Chúa Giêsu thưa cùng Chúa Cha là những lời mở đầu của Thánh Vịnh 22, trong đó tác giả Thánh Vịnh đã trình bày cùng Thiên Chúa sự căng thẳng giữa việc cảm thấy bị bỏ rơi một mình và một ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện: “Ôi Thiên Chúa của con! con kêu cứu ban ngày, nhưng Ngài không đáp lại; còn ban đêm, con cũng chẳng được nghỉ yên. Còn Ngài, Ngài là Đấng Thánh, Ngài ngự giữa những lời chúc tụng của Israel” (cc. 3-4). Tác giả Thánh vịnh nói về một “tiếng kêu” để diễn tả tất cả nỗi đớn đau của lời cầu nguyện của mình trước mặt Thiên Chúa là Đấng dường như vắng mặt: trong gây phút sầu khổ tột cùng, lời cầu nguyện trở thành một tiếng kêu.

Và điều này cũng xảy ra trong mối liên hệ của chúng ta với Chúa: khi phải đối diện với những hoàn cảnh khó khăn và đau thương nhất, khi Thiên Chúa có vẻ không lắng nghe, chúng ta đừng sợ phó thác cho Ngài toàn thể gánh nặng mà chúng ta mang trong tâm hồn mình, đừng sợ kêu lên với Ngài trong sự đau khổ của mình; chúng ta phải vững tin rằng Thiên Chúa ở gần, mặc dù Ngài có vẻ lặng im.

Trong việc lặp lặp lại trên Thánh Giá những lời mở đầu của Thánh Vịnh, “Eloi, Eloi, lama sabachthani?” - “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con?” (Mt 27:46), trong việc kêu la bằng những lời của Thánh Vịnh, Chúa Giêsu cầu nguyện trong giờ phút bị mọi người từ bỏ lần cuối, trong giây phút bị bỏ rơi;. Tuy nhiên, Người cầu nguyện bằng bài Thánh Vịnh với ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa Cha, ngay cả trong giờ này khi Người cảm thấy thảm cảnh về cái chết của con người. Nhưng một câu hỏi phát ra trong trí chúng ta: làm sao mà một Thiên Chúa quyền năng như thế lại không can thiệp để tránh cho Con mình sự thử thách khủng khiếp này? Điều quan trọng là phải hiểu rằng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu không phải là tiếng kêu của một người gặp gỡ cái chết trong tuyệt vọng, cũng không phải là tiếng kêu của một người biết rằng mình đang bị bỏ rơi. Trong giây phút ấy, Chúa Giêsu đã áp dụng toàn bộ bài Thánh Vịnh 22 cho mình, Thánh Vịnh cao cả của dân Israel đau khổ, và như thế Người tự mình gánh lấy không những chỉ nỗi thống khổ của dân Người, mà còn của tất cả mọi người bị sự dữ áp đảo, và đồng thời, Người mang tất cả những điều này đến trước trái tim của Chính Thiên Chúa, trong khi tin chắc rằng tiếng kêu của Người sẽ được Ngài nghe trong biến cố Phục Sinh, “tiếng kêu của đau khổ tột cùng đồng thời vẫn là niềm tin chắc chắn về một câu trả lời từ Thiên Chúa, niềm tin chắc chắn về ơn cứu độ - không chỉ cho Chính Chúa Giêsu, nhưng còn cho ‘nhiều người’” (Chúa Giêsu Thành Nazareth II, 239-240). Lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu chứa đựng niềm tin tưởng và phó thác một cách tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, ngay cả khi Ngài dường như vắng mặt, ngay cả khi Ngài có vẻ tiếp tục lặng im, theo một kế hoạch mà chúng ta không tài nào hiểu nổi. Trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo chúng ta đọc như sau: “trong tình yêu cứu chuộc hằng liên kết Người với Chúa Cha, cho đến độ Người xem như bị tách lìa Thiên Chúa vì tội chúng ta, nên Người thay chúng ta mà thốt lên trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con” (số 603). Người chịu đau khổ trong sự hiệp thông với chúng ta và cho chúng ta, là điều phát sinh từ tình yêu và đã mang lại ơn cứu độ, là chiến thắng của tình yêu.

Những người có mặt dưới chân Thánh Giá của Chúa Giêsu không hiểu và nghĩ rằng tiếng kêu của Người là một lời cầu xin cùng ngôn sứ Êlia. Trong một cảnh bị kích động, họ đã cố gắng làm giảm cơn khát của Người để kéo dài cuộc sống của Người và xem ông Êlia có thực sự đến cứu Người không. Nhưng một tiếng kêu lớn kết thúc cuộc đời dương thế của Chúa Giêsu và sự mong muốn của họ. Trong giây phút cuối cùng, Chúa Giêsu để cho trái tim Người diễn tả nỗi đớn đau của nó; nhưng đồng thời, Người cho phép cảm giác về sự hiện diện của Chúa Cha xuất hiện cùng với sự ưng thuận của Người về kế hoạch cứu độ nhân loại của Ngài.

Chúng ta cũng thế, chúng ta không ngừng thấy mình phải đương đầu với “hôm nay” của đau khổ, của sự im lặng của Thiên Chúa - chúng ta thường diễn tả nó trong lời cầu nguyện của mình - nhưng chúng ta cũng đang thấy mình đối diện với “hôm nay” của Phục Sinh, của sự đáp trả của Thiên Chúa là Đấng đã lấy đi nỗi đau khổ của chúng ta, để Người cùng vác chúng với chúng ta, và cho chúng ta niềm hy vọng vững chắc rằng chúng sẽ được vượt qua (xem TĐ Spe Salvi, 35-40).

Các bạn thân mến, trong cầu nguyện, chúng ta hãy mang thập giá hàng ngày của mình đến dâng lên Thiên Chúa trong niềm xác tín rằng Ngài hiện diện và lắng nghe chúng ta. Tiếng kêu của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng trong cầu nguyện chúng ta phải vượt qua những chướng ngại của “cái tôi” và những vấn đề của mình, để mở lòng ra với nhu cầu và đau khổ của người khác. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu lúc sinh thì trên Thánh Giá dạy chúng ta cầu nguyện với tình yêu dành cho tất cả anh chị em của mình, là những người đang cảm thấy bị đè nặng bởi gánh nặng của cuộc sống hàng ngày, là những người đang sống những giây phút khó khăn, đau đớn, không có được một lời an ủi; chúng ta hãy mang tất cả những điều này đến dâng cho trái tim Thiên Chúa, để họ cũng có thể cảm thấy tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Xin cảm ơn anh chị em.

+ ĐTC Bênêđictô XVI