Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Hiểu biết giáo lý của Chúa Kitô có nghĩa là nhận ra sự hiền từ của Thiên Chúa

Ai không nhận ra sự hiền từ của Thiên Chúa thì không biết đạo lý của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng mùng 6 tháng 12 tại nhà nguyện Santa Marta trong đó ngài tập trung những phân tích về ông Giuđa trong Tin Mừng.

Trong bài Tin Mừng, Thiên Chúa vui khôn tả khi tìm thấy con chiên lạc, và Ngài không bao giờ ngừng tìm kiếm mỗi người chúng ta. Thiên Chúa là một thẩm phán, một quan tòa, nhưng là vị thẩm phán đầy lòng từ nhân, vì Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài không kết tội nhưng là cứu vớt, vì Ngài kiếm tìm và yêu mến từng người chúng ta. Ngài không yêu thương theo kiểu chung chung, kiểu yêu mến một đám người. Ngài yêu mến từng người và gọi tên từng người. Ngài yêu mến trong cái hiện tại của người ấy, như chính người ấy là.

Con chiên bị lạc, không phải vì không biết đường. Con chiên ấy biết đường, nhưng anh ta lạc mất vì tâm hồn anh đen tối mù quáng bởi những xâu xé. Anh ta rời xa Thiên Chúa, đi vào bóng tối và sống lối sống hai mặt. Anh ta chạy khỏi ràn chiên để đi vào đêm tối. Chúa biết tất cả những điều ấy và Ngài kiếm tìm chiên lạc. Để giúp chúng ta hiểu được thái độ của Chúa đối với con chiên lạc, chúng ta hãy nhìn cách Chúa đối xử với ông Giuđa.

Giuđa luôn có cái gì đó cay đắng trong tâm hồn, luôn có cái gì đó để trách móc người khác. Ông không cảm nhận được sự dịu ngọt của lòng biết ơn khi sống với mọi người. Ông luôn không thỏa mãn và ông không hạnh phúc, không vui vẻ! Ông trốn chạy vì ông như kẻ trộm cắp… Ông muốn chạy trốn vì bóng tối bao trùm trái tim ông và tách ông ra khỏi đàn chiên. Ngay cả các Kitô hữu ngày nay, cũng có nhiều người sống kiểu hai mặt, và thật đau lòng để nói rằng, cũng có những linh mục, giám mục sống như thế. Ông Giuđa cũng là một giám mục, là giám mục đầu tiên sống kiểu ấy? Con chiên lạc. Cha Mazzolari có một bài giảng rất hay khi Cha gọi ông Giuđa là người anh em: “Này người anh em Giuđa, chuyện gì đang xảy ra trong tâm hồn của anh đó?” Chúng ta cần hiểu về con chiên lạc. Trong bản thân chúng ta, cũng luôn có một chút gì đó, một chút gì đó là chiên lạc.

Điều gì làm cho con chiên trở thành chiên lạc? Đó là sự yếu đuối của tâm hồn và ma quỷ lợi dụng điều ấy. Giuđa bị xâu xé trong nội tâm, trở thành chiên lạc, và vị mục tử vẫn kiếm tìm. Nhưng Giuđa không hiểu điều ấy và đã kết thúc cuộc đời của mình, khi ông nhìn về lối sống nước đôi của mình trong cộng đoàn, về những gì mà thần dữ gieo rắc trong nội tâm đen tối. Điều ấy làm cho ông chạy trốn, chạy mãi. Ông đi tìm ánh sáng, nhưng không phải là ánh sáng của Chúa mà là ánh sáng trang trí theo kiểu đèn Giáng Sinh, tức là thứ ánh sáng nhân tạo. Nhìn như thế, chúng ta sẽ tuyệt vọng.

Trong Kinh Thánh có nói: Thiên Chúa là Đấng tốt lành và Ngài không bao giờ ngừng tìm kiếm từng con chiên. Cũng trong Kinh Thánh có nói: Giuđa treo cổ tự vẫn và “hối hận”. Tôi không biết, có thể những lời ấy làm cho chúng ta bối rối. Lời ấy có nghĩa gì? Cho đến tận cùng, tình yêu mến của Thiên Chúa vẫn hoạt động nơi tâm hồn con người, ngay cả trong lúc thất vọng. Đây là thái độ của Chúa Giêsu. Đây là sứ điệp, là tin vui mở đường cho chúng ta đón Giáng Sinh và cũng gọi hỏi chúng ta về niềm vui chân thành để biến đổi tâm hồn. Điều ấy dẫn chúng ta tới niềm vui trong Chúa, chứ không phải kiểu an ủi của việc chạy trốn thực tại hoặc chạy trốn khỏi một tâm hồn bị dày vò.

Khi đi tìm chiên lạc, Chúa Giêsu không xúc phạm con chiên ấy cho dù những gì con chiên ấy đã làm là xấu xa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu gọi ông Giuđa là “người bạn”. Đó là sự quan tâm của Thiên Chúa.

Ai không nhận biết sự quan tâm chăm sóc của Thiên Chúa, thì không biết giáo lý của Chúa Kitô. Ai từ chối sự quan tâm của Thiên Chúa, thì là con chiên lạc! Đây là tin mừng, là niềm vui đích thực mà chúng ta ngày nay ước muốn. Đây là niềm vui, niềm an ủi mà chúng ta kiếm tìm: Thiên Chúa đến trong quyền năng của Ngài, Đấng quan tâm chăm sóc chúng ta, viếng thăm chúng ta, cứu chữa chúng ta, đi tìm chúng ta là chiên lạc, và đưa chúng ta trở về đàn chiên trong Hội Thánh của Người. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng ấy, để chúng ta mong chờ Giáng Sinh với tất cả những thương tích và tội lỗi của chúng ta, và chân thành nhìn nhận điều ấy, để chờ mong quyền năng của Chúa, Đấng sẽ đến để ủi an chúng ta. Ngài đến trong quyền năng của Ngài, nhưng quyền năng ấy chính là lòng từ nhân, là sự quan tâm phát xuất từ chính cõi lòng, từ trái tim nhân lành vô cùng của Ngài, đến nỗi Ngài trao tặng chính sự sống của Ngài cho chúng ta.

2. Câu chuyện: Cánh Tay Của Người Ganh Tị Và Tham Lam

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Ðộ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.

Ðể chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.

Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: “Tôi xin được chặt đứt một cánh tay...”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.

Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.

3. Sự cứng nhắc và tinh thần thế gian là thảm họa cho các linh mục

Các linh mục là những người làm trung gian cho tình yêu Thiên Chúa, chứ không làm trung gian cho những bận tâm của riêng mình. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 9 tháng 12 tại nhà nguyện Santa Marta trong đó, ngài tập trung vào những cám dỗ gây nguy hiểm cho đời phục vụ của các linh mục.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về những người luôn bất mãn. Ngày nay có những Kitô hữu cũng thế, họ không bao giờ thỏa mãn, không hiểu được những gì Chúa dạy, không hiểu được mặc khải của Tin Mừng. Cũng thế, có nhiều linh mục không bao giờ thỏa mãn, mà luôn đi tìm những dự án mới, vì lòng các vị ấy ở xa đường lối của Chúa Giêsu. Do đó, các vị than phiền và sống cách khổ sở.

Chúa Giêsu làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chúng ta phải đi theo con đường của Đấng trung gian là Chúa Giêsu. Trong đời thường, có những người làm trung gian, đó là họ làm một nghề và nhận lại thù lao cho nghề ấy. Nhưng ở đây, người trung gian có nghĩa hoàn toàn khác.

Vị trung gian cần hy sinh chính bản thân mình để có thể nối kết con người với Đấng ban sự sống. Cái giá phải trả chính là toàn cuộc sống, là cả mạng sống, với tất cả sự cực nhọc, với công việc phục vụ và rất nhiều thứ khác. Đây chính là trường hợp của các linh mục coi xứ. Các vị sống như thế, để có thể kết nối với đoàn chiên, kết nối với người dân, và để dẫn đưa họ đến với Chúa Giêsu. Khi làm Đấng trung gian, Chúa Giêsu hoàn toàn trút bỏ chính mình, hoàn toàn khiêm nhường đến độ trở ra như không. Thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Philipphê (2:7-8) nói rất rõ về điều này: “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang… Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Đây chính là con đường của Chúa, con đường của hy sinh và khiêm nhường đến tận cùng, của việc tự vét cạn chính mình, tự làm rỗng chính mình, tự hóa ra không.

Một linh mục đích thực, là người trung gian và rất gần gũi với dân chúng. Vị linh mục ấy không làm việc để rồi được nhận lại cái gì đó theo kiểu một quan chức.

Thế nhưng, có những vị trung gian thích đi dạo quanh để được người ta nhìn thấy và tán thưởng. Để làm cho mình trở thành quan trọng, vị linh mục ấy đi theo con đường của cứng nhắc và xa lánh người dân. Vị ấy không biết đến nỗi khổ của con người. Vị ấy đánh mất những gì đã được hấp thụ nơi gia đình, nơi cha mẹ, nơi ông bà và anh chị em… Khi cứng nhắc như thế, các vị ấy chất gánh nặng lên người dân mà trong khi mình chẳng làm gì. Các vị nói với dân Chúa rằng: không thể thế này, không thể thế kia… Có nhiều người dân muốn tìm một chút an ủi, một chút hiểu biết, thế mà bị gạt đi.

Khi xét mình, người linh mục có thể tự hỏi: Hôm nay tôi là một người trung gian của Chúa hay tôi chỉ là một quan chức? Tôi có sống phục vụ tha nhân không? Một vị linh mục tốt, thì có khả năng quan tâm, có khả năng vui chơi và mỉm cười với trẻ thơ… Vị ấy biết cách để gần gũi những gì là bé nhỏ, với những con người bé nhỏ. Có những vị luôn buồn rầu với vẻ mặt nghiêm trọng và sa sầm nét mặt, nhưng nếu là người trung gian của Chúa, vị linh mục tốt sẽ có những nụ cười, có sự thân thiện, sự thấu hiểu và lòng cảm thông.

Có ba vị thánh là mẫu gương cho đời linh mục. Thứ nhất, thánh Policarpo giữ vững ơn gọi và đi lên giàn để chịu thiêu sống. Khi lửa cháy lên, các tín hữu xung quanh ngửi thấy mùi bánh mì. Ngài đã kết thúc cuộc đời của người trung gian của Chúa và trở thành “bánh cho các tín hữu”. Thứ hai, thánh Phanxicô Xaviê chết đang khi tuổi còn trẻ. Ngài chết trên bãi biển trong khi vẫn hướng về Trung Hoa, nơi ngài ao ước đi tới. Thứ ba, thánh Phaolô Tre Fontane bị lính bắt và giải đi ngay từ sáng sớm. Ngài biết rằng có một số người trong cộng đoàn Kitô hữu đã phản bội. Ngài đã hiến dâng chính mạng sống mình như của lễ hy sinh lên Thiên Chúa. Đó là ba mẫu gương mà chúng ta tìm thấy về cuộc đời của một linh mục. Đó là cái kết của người linh mục, của vị trung gian của Thiên Chúa, cái kết trên thập giá.

4. Ba loại ngăn trở trong tâm hồn

Trong tâm hồn mỗi người đều có ơn thánh: chúng ta phải tìm thấy ơn ấy, nài xin Chúa nâng đỡ, để nhận ra chúng ta là những tội nhân. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng mùng 1 tháng 12 tại nhà nguyện Santa Marta.

Đức Thánh Cha nói về động lực ẩn sau những ngôn từ sáo rỗng, những lời tự biện minh, hoặc những càm ràm trách móc. Ngài cũng cảnh báo về loại tinh thần chỉ thay đổi hời hợt vẻ bề ngoài, của những người luôn nói rằng mọi thứ sẽ thay đổi mà thực chất chẳng đổi thay gì.

Ân sủng của Thiên Chúa thì lớn hơn những ngăn trở của tội lỗi. Đó là kinh nghiệm, là sức mạnh thúc đẩy đời sống người Kitô hữu. Có loại “ngăn trở mở - ngăn trở hiển hiện” phát sinh từ ý muốn ngay lành, ví như trường hợp của thánh Phaolô. Thánh nhân bước đầu đã chống lại ân sủng, đã ngăn trở Chúa vì ngài quá nhiệt thành với Lề Luật, nhưng rồi ngài bị thuyết phục và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh nói với Phaolô và Phaolô đã hoán cải. Ngăn trở theo kiểu của Phaolô là một loại ngăn trở mạnh mẽ và cởi mở, vì đã mở ra cho ân sủng để rồi hoán cải. Thế đó, tất cả chúng ta đều là người tội lỗi cần hoán cải.

Thế nhưng, có những “ngăn trở ẩn giấu” và rất nguy hiểm vì không ai nhìn thấy. Mọi người đều muốn che giấu những ngăn trở ấy, những cản trở ân sủng Chúa. Chúng ta phải tìm cách đưa chúng ra trước mặt Chúa, để Ngài có thể thanh tẩy chúng ta. Những ngăn trở ẩn giấu ấy ví như trường hợp của các Tiến sĩ Luật trong vụ kết án thánh Têphanô. Thánh nhân mạnh mẽ lên tiếng tố giác các Tiến sĩ Luật vì họ chống lại Chúa Thánh Thần nhưng lại làm như thể là họ đang tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa. Khi nói ra sự thật ấy, thánh nhân đã nhận lấy phúc tử đạo.

Có ba loại ngăn trở ẩn giấu. Thứ nhất là ngăn trở ẩn giấu dưới lời nói trống rỗng. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói, không phải tất cả những người nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là sẽ được vào Nước Trời. Trong dụ ngôn về hai người con được cha sai đi làm vườn nho cũng thế: một đứa nói không rồi sau đó có đi làm, một đứa nói có rồi sau đó lại không đi. Có kiểu nói vâng, luôn luôn là vâng, nhưng chỉ mang nghĩa xã giao mà thôi, vì thực sự lại có nghĩa là không. Thế nên, có người luôn miệng nói có và rằng chúng tôi sẽ thay đổi mọi thứ, nhưng thực ra thì chẳng làm gì. Đó là kiểu sáo rỗng.

Thứ hai là kiểu biện minh. Có người luôn luôn có lý do hợp lý để phản đối. Ở đó không có mùi thơm của Thiên Chúa, nhưng là mùi hôi của ma quỷ. Người Kitô hữu không cần biện minh cho bản thân. Vì khi tìm mọi cách biện minh cho vị thế của mình, chúng ta không còn đi theo điều Chúa mời gọi nữa.

Thứ ba là những lời trách móc. Khi bạn trách móc và xét đoán người khác, thì bạn quên nhìn lại bản thân và quên rằng chính bạn cũng cần sám hối, và như thế là chống lại ơn sủng, là giống như người Pharisêu trong dụ ngôn về người thu thuế và người Pharisêu cầu nguyện trong đền thờ.

Bạn đừng sợ nếu mỗi người trong chúng ta nhận thấy những ngăn trở trong cõi lòng mình. Vì những điều ấy hiển hiện trước mắt Chúa. “Lạy Chúa, xin hãy nhìn con đang cố che đậy, đang cố làm điều ấy và tránh lời Ngài.” Nói như thế thì có đẹp không? Không. “Lạy Chúa, với sức mạnh lớn lao, xin hãy giúp con. Ân sủng của Ngài sẽ chiến thắng ngăn trở của tội con. Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi, xin cứu giúp con!” Đó là cách cầu nguyện để chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa Giáng Sinh.

5. Chúa Giêsu đem đến sự đổi mới không theo kiểu trang điểm mà là đổi mới thực sự tâm hồn

Chúng ta hãy trở về với Chúa Giêsu, vì Người đã thực hiện cuộc sáng tạo mới, khi giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng mùng 5 tháng 12 tại nhà nguyện Santa Marta

Bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia nói: sa mạc sẽ nở hoa, người mù sẽ thấy, kẻ điếc nghe được. Tất cả những điều ấy nói với chúng ta về sự đổi mới. Tất cả đổi thay từ xấu xí sang xinh đẹp, từ xấu xa đến tốt lành. Có một sự thay đổi để trở nên tốt hơn. Đây là những gì mà người dân được báo trước về điều mà Đấng Cứu Thế mang tới.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành. Người thực thi con đường của những đổi thay cho dân chúng và đó là lý do người ta đi theo Chúa. Điều này rất đặc sắc. Người ta đi theo Chúa vì sứ điệp của Chúa đụng vào tâm hồn con người. Dân chúng chứng kiến Chúa chữa lành con người và thế là dân chúng đi theo.

Thế nhưng Chúa Giêsu không chỉ làm thay đổi từ xấu thành đẹp, từ ác thành thiện, mà Người làm nên một sự biến đổi. Không phải là biến đổi theo kiểu làm đẹp, kiểu trang điểm, mà là biến đổi tận căn từ nội tâm. Sự biến đổi sâu xa ấy là cuộc sáng tạo mới. Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới, con người sa ngã trong tội lỗi, và Chúa Giêsu thực hiện cuộc tái tạo, cuộc sáng tạo mới. Đây chính là sứ điệp của Tin Mừng. Bạn thấy điều ấy rất rõ: trước khi chữa lành cho người bất toại, Chúa đã tha tội cho anh. Khi ấy Chúa thực hiện cuộc sáng tạo mới nơi anh và Chúa thực hiện quyền năng sáng tạo. Khi làm như thế, Chúa làm cho một số người bị sốc, một số người cảm thấy chướng tai gai mắt. Các luật sĩ bắt đầu lý luận và thì thầm, vì họ không chấp nhận quyền năng của Chúa. Chúa Giêsu nói rằng, Người có thể làm cho chúng ta từ những kẻ tội lỗi trở thành những con người mới.

Chúa đến chữa lành tâm hồn và thực hiện cuộc sáng tạo mới nơi chúng ta. Hãy thay đổi! Vì đó là sức mạnh của ân sủng mà Chúa Giêsu đem đến. Chúng ta phải vượt thắng cám dỗ rằng “Con không thể làm như thế”. Thay vào đó, thì hãy “biến đổi”, hãy để Chúa Giêsu thực hiên cuộc sáng tạo mới nơi bạn. Chính Chúa đã nói: “Can đảm lên!”

Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng hãy nhìn vào gốc rễ của tội lỗi, và ở nơi đó, Chúa đã cúi xuống mà thực hiện cuộc tái tạo, Ngài thực thi công lý, và bạn sẽ là con người mới. Nhưng nếu chúng ta nói: “Vâng, vâng, con có tội, con đi xưng tội… với đôi lời, và rồi con lại tiếp tục như cũ…”, nếu cứ như thế, chúng ta sẽ chẳng được Chúa biến đổi. Không phải là chúng ta chỉ tin và thế là xong chuyện. Không! Tội lỗi của chúng ta có tên tuổi hẳn hoi, nào là con đã làm điều này điều kia và con cảm thấy xấu hổ trong lòng! Con mở tâm hồn ra với Chúa mà nài xin: “Lạy Chúa, xin cứu chữa con, xin cứu chữa con!” Và như thế chúng ta can đảm bước đi trong đức tin tinh tuyền.

Thường thì chúng ta cố tình che giấu sự nguy hiểm trầm trọng của tội lỗi, ví như khi chúng ta đầy lòng ghen tị. Khi che giấu như thế thì thật là tệ hại! Điều ấy giống như nọc độc của con rắn, và nó sẽ ra sức phá hủy. Hãy đi vào tận gốc rễ của tội lỗi chúng ta, hãy dâng những tội lỗi và nết xấu ấy cho Chúa, vì Người có cách giúp chúng ta gỡ bỏ những tội lỗi ấy, và trong đức tin Người sẽ dẫn chúng ta tiến về phía trước.

Có vị thánh nọ thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Ngài có vui không?” Chúa nói: “Không!” – “Nhưng thưa Chúa, con đã dâng tất cả cho Chúa rồi mà!” – “Không, có cái gì đó còn thiếu thiếu…” Người ấy tiếp tục kiên nhẫn cầu nguyện, cầu nguyện, và thưa lên: “Con xin dâng lên Chúa điều này? Lạy Chúa, có được không?” – “Không!” – “Vẫn còn thiếu điều gì đó…” – “Nhưng lạy Chúa, con đã quên điều gì?” – “Đó là tội của con! Hãy dâng tội của con cho Ta!” Đó là điều mà hôm nay Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy đến đây! Dâng tội lỗi của con cho Ta, và Ta sẽ làm cho con trở thành con người mới.” Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta đức tin để tin như thế.