Suy Niệm Chúa Nhật XIV Thường Niên – Năm A

Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Với bản tình loài người, Ngài có đầy đủ mọi đức tính mà người đời cần học hỏi. Nhưng ít khi Ngài mời gọi con người học theo các đức tính của Ngài, có chăng cũng chỉ là gián tiếp thôi. Vậy mà, Tin mừng hôm nay lại cho chúng ta biết, Ngài trực tiếp mời gọi các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy học theo Ngài để sống hiền lành và khiêm nhường. Điều đó, chứng tỏ, đức tính hiền lành và khiêm nhường hết sức quan trọng trong đời sống chúng ta.

Vậy, Đức Giêsu sống hiền lành và khiêm nhường như thế nào?

Trước hết, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ mình xuống, làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Như thế, Đức Giêsu cũng chấp nhận mang nơi mình sự thấp hèn, yếu đuối, đau khổ của con người. Cụ thể, Tin mừng cho biết Đức Mẹ sinh Ngài trong hoàn cảnh thiếu thốn, rét mướt, bị người đời từ chối (x. Mt 2,7). Sau đó, Ngài sống với Thánh Giuse và Mẹ Maria trong tinh thần khiêm nhường vâng phục (x. Mt 2,51).

Khi ra giảng đạo, Ngài nêu cao tinh thần hiền lành và khiêm nhường. Ngài dạy các môn đệ hãy trở nên như trẻ nhỏ: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con không được vào nước trời.” (Mt 18,3). Trong bài giảng về hiến chương nước trời, Ngài tuyên bố: “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.” (Mt 5,4). Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người đã quý chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi lại giấu không cho kẻ khôn ngoan và thông thái biết những điều ấy (x. Mt 11,25). Rồi, Ngài mời gọi mọi người sống hiền lành và khiêm nhường như Ngài: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29). Khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua, Ngài khiêm nhường không đón nhận như họ tưởng mà trái lại, Ngài lánh lên núi cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha (x. Ga 6,15). Trong bữa tiệc ly, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã thể hiện sự khiêm nhường cách tột cùng khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đồng thời, Ngài dạy các môn đệ hãy rửa chân cho nhau (x. Ga 13,14). Trong ngày khải hoàn vào Thành Giê-ru-sa-lem, mặc dầu được dân chúng tung hô, nhưng Ngài vẫn khiêm nhường ngồi trên lưng lừa. Cử chỉ đó đã được tiên tri Isaia báo trước mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất: “Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ép-ra-im, và ngựa khỏi Giê-ru-sa-lem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc”(Dcr 9,9-10). Ngài hiền lành khi không kết án người phụ nhữ ngoại tình (x. Ga 8,2-11). Ngài hiền lành như người mục tử đi tìm con chiên lạc (x. Lc 15,3-7). Ngài hiền lành như người cha đợi chờ đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15,1-32). Ngài hiền lành khi để cho Giuđa, kẻ phản bội hôn lên má mình và để cho quân dữ bắt trói đem đi (x. Mc 14: 43 -50; Lc 22: 47 -53; Ga 18: 3-11 ). Ngài hiền lành khi không có một phản ứng gì trước cảnh dân chúng nhạo cười hay bị kết án bất công. Đặc biệt, Ngài chấp nhận những đòn roi, chịu đội mạo gai, chịu đóng đinh trên thập giá…tất cả đều thể hiện sự hiền lành và khiêm nhường của Ngài.

Chúng ta không chỉ thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Giêsu mà còn thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Maria và các Thánh.

Nơi Đức Maria: Khi được Thiên thần Gabriel chào “Bà đầy ơn phúc” và cho Mẹ biết Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã thưa với Thiên Thần rằng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”(Lc 1,38). Rồi Mẹ quy hướng tất cả những gì mình có được về cho Thiên Chúa bằng lời kinh Magnificat (x. Lc 1, 46-55). Từ đó, Mẹ sống một cuộc sống phó thác trọn vẹn trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa bằng việc khiêm nhường chấp nhận mọi đau khổ sẽ đến với mình: sinh con trong hang đá nghèo hèn; đem con trốn sang Ai-cập; lạc mất con trong đền thờ; thấy con vác thập giá và cuối cùng là chấp nhận đứng nhìn Con yêu dấu chết tất tưởi trên thập giá trước những kẻ nhạo báng Người.

Hầu hết các thánh cũng đã sống hiền lành và khiêm nhường. Xin được đơn cử một số các thánh sau đây:

Thánh Giuse: Khi biết Mẹ có thai, nhưng vì bản tính hiền lành và khiêm nhường nên Ngài không tố cáo Mẹ mà dự định âm thầm bỏ trốn. Ngài khiêm nhường vâng lời đón Đức Mẹ về nhà làm vợ mình, đưa Đức Giêsu trốn sang Ai-cập và lại đưa Mẹ con về cho dù lệnh truyền đó chỉ là lời của Thiên thần trong giấc mơ. Suốt cuộc đời của Thánh Giuse, Ngài đã sống hiền lành và khiêm nhường trong tinh thần phục vụ chương trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và Chúa Giêsu một cách âm thầm.

Thánh Gioan Tẩy Giả: Khi được dân chúng ca tụng vì tưởng Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng phải đến, thì Gioan đã khiêm nhường giải thích rằng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa… Đấng đến sau tôi cao trọng hơn tôi, tôi không xứng đáng để xách dép cho Người” (Lc 1,23-27). Vì biết sứ mạng của mình chỉ là người dọn đường, nên khi Đức Giêsu đến, Thánh Gioan đã âm thầm rút lui : “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).

Thánh Phêrô cũng đã sống rất khiêm nhường. Sự khiêm nhường đó được thể hiện qua những hành động sau đây: Khi Ngài vâng lời thả lưới và đánh bắt được rất nhiều cá (x. Lc 5, 1-11). Khi thấy “mẻ cá lạ lùng”, Phêrô đến sụp lạy dưới chân Chúa và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Khi lún xuống nước, ông kêu xin Chúa rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con” (Lc 14,30). Sau khi chối Thầy ba lần, ông đã ra ngoài ăn năn khóc lóc (x. Lc 22,62). Khi chịu chết tử đạo, ông xin được đóng đinh đầu lộn ngược xuống đất vì nghĩ mình không xứng đáng để nên giống Thầy mình. Như vậy, Phêrô là một vị thánh hết sức khiêm nhường.

Thực tế trong xã hội hôm nay, chúng ta thấy đâu đâu cũng có bạo lực xảy ra: nơi gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền, ngoài xã hội. Người ta vẫn cứ muốn giải quyết mọi thứ bằng bạo lực. Vì thế, đức tính hiền lành và khiêm nhường hầu như vắng bóng, không được chú trọng, không được để ý lưu tâm. Không những thế, nhiều khi người ta còn cho rằng: người sống hiền lành là người đần độn, hèn nhát; người sống khiêm nhường thì được được coi là tự ti, rụt rè, biếng nhác.

Nhưng xét về phương diện tu đức và dưới nhãn quan của Kitô giáo, thì hiền lành và khiêm nhường luôn là hai đức tính nền tảng cần thiết cho bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã hội. Vì khiêm nhường là mẹ của các nhân đức khác, là nền móng để xây dựng đời sống thiêng liêng. Người sống hiền lành thường để lại nhiều điều tốt cho hậu thế, như người ta nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Người hiền lành và khiêm nhường luôn biết sống hoà thuận với tất cả mọi người, coi trọng mọi người, không phân biệt sang hèn giàu nghèo. Người khiêm nhường và hiền lành thì không làm hại người khác. Người hiền lành và khiêm nhường luôn đem lại niềm vui và bình an cho mọi người. Không những thế, người hiền lành và khiêm nhường luôn được Chúa ban ơn (x. 1 Pr 5,5). Trong cuốn Nhật Ký về Lòng Thương Xót của Thánh Nữ Faustina Kowalska, Chúa Giêsu nói với Thánh Nữ về nhân đức hiền lành và khiêm nhường rằng: “Con hãy đem đến Ta các tâm hồn hiền hòa, khiêm tốn và những tâm hồn trẻ thơ. Hãy nhận chìm họ vào đại dương Thương Xót của Ta. Những tâm hồn này giống Trái Tim hơn hết. Họ tăng nghị lực cho Ta để Ta bước vào cơn hấp hối đau thương. Ta thấy họ như những Thiên Thần trần thế, chầu chực quanh các bàn thờ của Ta. Ta đổ tràn trên họ những dòng thác lũ ân sủng. Duy chỉ những tâm hồn khiêm nhường mới có khả năng đón nhận ân huệ của Ta. Ta đặc biệt tín nhiệm nơi những tâm hồn đó.”

Qua những trình bày trên đây chúng ta thấy Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh đã quý trọng đức hiền lành và khiêm nhường. Mặt khác, người hiền lành và khiêm nhường mang lại nhiều lợi ích cho gia đình, xã hội và được Chúa thương ban ơn. Vậy, chúng ta hãy cố gắng học tập đức tính hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh. Để được như vậy, trong những sinh hoạt thường ngày, qua các mối tương quan trong gia đình, ngoài xã hội chúng ta hãy dẹp bỏ tính nóng nảy để tập sống hiền lành và khiêm nhường.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết thực hiện lời dạy và gương sáng của Chúa để sống hiền lành và khiêm nhường, hầu mang lại sự bình an cho gia đình, Giáo Hội và xã hôi. Amen.

Lm. Anthony Trung Thành